Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Áo Trắng Ngày Xưa - Sáng tác Nguyễn Đức Tri Tâm - Grace Văn ca


Nhạc và Lời: Nguyễn Đức Tri Tâm - Cựu Nam Sinh Trường Trung Học PleiKu
Tiếng Hát: Grace Văn - Cựu Nữ Sinh Trường Trung Học Pleime, Pleiku
Hình Ảnh: Thu ĐàoCựu Nữ Sinh Trường Trung Học Pleime, Pleiku
Thực Hiện: Kim OanhCựu Nữ Sinh Trường Trung Học Tống Phước Hiệp , Vĩnh Long



Đơn Phương Tình Cũ

 

Buổi họp mặt đêm về thao thức nhớ
Bao vấn vương lưu luyến tuổi học trò
Thuở yêu người vớ vẩn mấy vần thơ
Cái liếc mắt cũng vật vờ đêm không ngủ


Sợi tóc rối lén lượm về ấp ủ
Hơi hám người quen quá... hóa thành thương
Đêm mộng du ân ái tiếc lạ thường
Ngày đến lớp bài vở nào có nhớ

Sáu mươi mốt năm nặng gánh đời vấp ngã
Để một ngày bỡ ngỡ đón tìm nhau
Em kiêu sa vẫn đẹp tựa ngày nào
Ta xơ xác thân bướm già tơi tả... tơi tả


Phủ Hiền

Trải Lòng Tiết Vu Lan

 

      Theo lệ có lẽ lâu lắm rồi, tháng Bảy là tháng mưa Ngâu cũng là xá tội vong nhân theo mùa Vu Lan báo hiếu thân nhân quá vãng, trong tháng xá tội họ về với những gì họ tưởng đến, về với gia đình cùng con cháu về với bạn bè thân quen, được hưởng cúng phẩm của gia đình bằng vật chất và cũng hưởng luôn những thời kinh cầu siêu gọi vong với mong ước của người đang sống, thân nhân mình nhờ đó mà siêu sanh không còn mãi tưởng nhớ trầm luân trong hận thù oán trái, bứt dây trói buộc nhẹ nhàng thong dong tự tại.

    Thế nhưng những anh linh của tử sĩ, những chiến sĩ trận vong trên bin cũng như trên đất liền, từ trăm ngàn năm trước cho đến ngày nay. Chỉ đến khi Vu Lan mới được thí thực, thí pháp, vậy còn ngày thường trong mỗi ngày của chúng ta đang sinh sống thì sao lại quên họ nhỉ.
    Vì thương tưởng họ nên mỗi buổi cơm gia đình, tôi kính cẩn chấp tay mời họ dùng dù bữa ăn đạm bạc, trước khi gia đình tôi cùng cầm đ
ũa.
    Nhân mùa báo hiếu năm nay, tôi ghi lại cảm xúc của họ qua hình ảnh trăng tháng Bảy trong mây mù, như đôi mắt người xưa nhìn mình qua khóe lệ, như trách móc, như yêu thương vẫn mãi không bao giờ nguôi…..
 
Uổng tử cùng hồn oan
Kết thành mưa mù mịt
Không nhà chẳng thân thích
Phiêu bạt bất cần nơi
Mời chư vị ghé chơi
Tôi tặng kinh siêu độ
A Di Đa Bà Đa
Cầu nhất niệm nhất ngộ
Các vị mười phương chơi
Sụt sùi uổng tử
Trương Văn Phú
    *A Di Đa Bà Dạ - Câu khởi nguồn cho bài tụng chú vãng sanh, vãng sanh cho người khuất, cũng như vãng sanh cho người đang sống với tâm thiện lành-vãng sanh hiện tiền-
   Thiện- Đạo  nhân mùa Vu Lan báo hiếu



Từ Ngọt Ngào Hai Tiếng Chị Ơi





Anh cứ ngỡ rằng
em là cô bé ngày xưa
Hai tiếng …chị ơi
nghe thân thương đứt ruột

Khóc đi em
cho lệ trào khô nước mắt
Để quanh đây
không còn tiếng nấc bao giờ !

Anh gởi về em
chan chứa lời thơ
Khi gió ngẩn ngơ
mây buồn ngưng đọng

Hãy cười đi em
niềm vui là lẽ sống
Đêm cũng vô tình
làn sương mỏng vừa tan.

Dương Hồng Thủy
( 02/08/2013 )

Ngọt Ngào Hai Tiếng Chị Ơi





“ Chị ơi
chắc gì
thơ vô thanh
để đừng nghe tiếng nấc
Có cái gì
sóng sánh
trong đôi mắt
bao giờ “.

Hồ Việt Kim Chi




Bạn Có Làm Ngơ



Bạn có vô tình nghe tiếng nấc làm ngơ
Con tim ai đang réo rắc đợi từng giờ
Đang cố nén càng vươn cao đợt sóng
Rót đau thương ngọt lịm rớt vào thơ


Làn thu ba ngắm biển chiều sóng sánh
Trong tận cùng muốn gởi gió theo mây
Sợ âm vang trăng nép mình đứng lặng
Nói điều gì trong mắt biếc dâng đầy?

Vùi tiếng nấc vào mênh mông thăm thẳm
Giữa biển đời im bặt tiếng sóng vang
Đêm lắng sâu qua tiếng gió bạt ngàn
Hòa vũ trụ với ta đồng nhất thể


Kim Quang
 

Chiếc Nhạn Trong Đêm




Nhạn tìm đến trời xa
Thân nương nhờ bến lạ
Vẫn luyến mảnh vườn xưa
Cánh mỏi nhớ quê nhà


Trăng nay chừng lạ lẫm
Cố hương ngoài vạn dậm
Nhạn thấy buồn da diết
Vang vọng tiếng than thầm


Giữa đêm trường im vắng
Cô đơn với ánh trăng
Mắt dõi về nơi cũ
Thăm thẳm buồn giăng giăng

Một bóng trong đêm lạnh
Mơ tưởng lại ngày xanh
Bao chuyện tình áo trắng
Những mộng ước mong manh


Lòng chơ vơ mấy nẻo
Mênh mang một chữ sầu
Trăng già thêm hiu quạnh
Hồn lặng lẽ về đâu...



Quên Đi

Lệ Đắng Bờ Môi


Bàn tay nhỏ giữ người không nổi
Để chiều hoang rong ruổi ra đi
Là từ khuất dấu chim di
Thương ai cả khoảng xuân thì khắc sâu

Rồi mấy độ thu sầu lá đổ
Bặt tin nhau tình ngỡ phôi pha
Thời gian có thể xoá nhòa
Cũng như thu đến rồi xa theo mùa

Chiều đưa lối chân qua phố cũ
Quán cóc xưa lá rũ bên đường
Là nơi hò hẹn thân thương
Khơi bao kỷ niệm bềnh bồng trong tôi

Nhìn cảnh cũ nhớ người xa vắng
Mắt nào cay lệ đắng đời nhau
Trải qua bao cuộc bể dâu
Thăng trầm vẫn mối tình đầu khó quên


Vĩnh Trinh

***
Tình Vụn Dại

 (Cảm xúc từ Lê Đắng Bờ Môi của Vĩnh Trinh)

Mối tình đầu không tên
Sao hoài ghi khắc dấu
Cuộc tình in sâu đậm
Nước mắt nhoà phai mau

Trái tim yêu loang máu
Nhuộm sắc màu tê tái
Người đi không ngoãnh lại
Hết thời ... buổi chiều nay

Mối tình đầu vụn dại
Không ước lượng phải sai
Hụt hẫng vuột tầm tay
Chôn kín ...chốn tuyền đài

Kim Oanh

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Quá Trình Hoạt Động Của Trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Trường Tộ Vĩnh long (1952-1975) Đặng

     Đủ hiểu biết và thẩm quyền để nói về quá trình hoạt động của Trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Trường Tộ Vĩnh long (1952-1975), có lẽ chỉ có 3 người:

- Cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang (1909-1990), vị sáng lập, Hiệu trưởng tiên khởi từ 1952.
- Thầy Trần văn Phong (1920-2011), Giám học, thừa lệnh Hiệu trưởng trực tiếp điều hành từ niên khóa đầu tiên.
- và Cô Đặng thị Nhan (1925-2004), Tổng Giám thị, đồng thời quản lý điều hành khi Thầy Trần Phong vắng mặt.

     Rất tiếc rằng, thầy Trần Văn Phong đã là người cuối cùng ra đi!
alt 

     Khi Cha Quang nhậm chức Giám mục Cần Thơ giữa năm 1965, chức danh Hiệu trưởng Trường THTT Nguyễn TrườngTộ (là một nhà trường Công Giáo) đương nhiên chuyn giao cho Linh mục Tổng Đại diện Giáo phận Vĩnh long kế nhiệm. Tuần tự là các vị:

- Cha Benoit Trương Thành Thắng (1912-1987).
- Cha Phaolô Trịnh Công Trọng (1922-2006).

- Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự (1928-2001).
- Cha Antôn Ngô văn Thuật ( 1930 - 1997).

      Các vị này (nguyên là Thầy học của tôi trong Tiểu Chủng viện VL), nay cũng không còn n
a.

     Tôi chỉ nhớ loáng thoáng rằng năm 1954, khi được Mẹ mang về Vĩnh Long để vào học lớp Năm (lớp 1 ngày nay) ở Trường Bà (trường Tiểu học của các Sơ dòng Thánh Phaolo) cuối đường Trưng Nữ Vương.  Mẹ tôi, Cô Bảy Nhan đã đi dạy ở Cầu Cái Cá hơn một năm trước đó rồi.
  
     Cơ sở đầu tiên của trường THTT Nguyễn Trường Tộ ở ngay dưới chân cầu Cái Cá, đường Nguyễn Trường Tộ, gồm một dãy lớp học hướng ra bờ Rạch Cái Cá, dãy nhà trệt này nghe nói được thuê của gia đình Ông Năm Gioan (?), là khối dinh thự cổ kính kề bên.

      Vài năm sau, Trường THTT Nguyễn Trường Tộ được nhận cơ sở chính thức là dãy nhà lợp ngói bên hông cánh phải Nhà thờ Chính toà lúc đó (nhìn ra sông Cổ Chiên, vị trí một phần quảng trường Vĩnh Long ngày nay), giáp lưng với Trường Bà. Tuy vậy, cơ sở cầu Cái Cá vẫn tiếp tục duy trì thêm vài niên khoá, dành cho cấp Đệ Thất.

      Khoảng năm 1960, Trường được mở rộng thêm một dãy phía sau Nhà thờ. Lm.Hiệu trưởng, cũng là Cha Chánh sở Giáo xứ cho xử dụng sân bao quanh Nhà thờ làm sân trường, trong sân rợp bóng những gốc me cổ thụ. Nhà của Cha Chánh sở (nhà Xứ) toạ lạc bên cánh trái Nhà thờ, phía sau còn có sân vườn. Các dịp Khai giảng hay Bãi trường hàng năm được cử hành tại Tiền diện ngôi Giáo đường kiểu Romain cổ kính này.

alt

     Năm 1967, một Nhà thờ Chính toà Vĩnh Long mới được khánh thành trên địa điểm ngày nay (gần Ngã ba đi Cần Thơ), Nhà thờ cũ bỏ trống. Đức Cha Quang và Linh mục kế nhiệm là Cha B.Thắng cho phép dùng nội thất Nhà thờ cũ để làm phòng học tạm, mỗi khi thiếu ch sắp lớp. Không được lâu, chiến trận Tết Mậu Thân khiến Nhà thờ xưa bị hư hại nhiều, tháp chuông bị đổ sụp, trần mái thỉnh thoảng rơi xuống bất chợt. Cuối năm đó, công trình kiến trúc này phải bị phá dở hoàn toàn trong sự luyến tiếc của nhiều người, dành không gian trống cho sân trường đến tận sau năm 2000. Vài dãy lớp học mới được xây tiếp nơi sân phía sau Nhà xứ cũ.

      Theo tâm nguyện của Cha Nguyễn Ngọc Quang - một đời dành cho lý tưởng giáo dục thanh thiếu niên, Thầy Trần Văn Phong, với sự trợ giúp của Cô Đặng Thị Nhan trong nhiệm vụ Giám thị, và Cô Trần Thị Hạnh trong vai trò Thủ quỷ, đã một thời qui tụ được nhiều thầy cô ưu tú cùng góp công xây dựng một môi trường giáo dục trong sáng, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh nên người hữu ích cho gia đình và xã hội.

     Hàng ngũ giảng dạy tại trường THTT Nguyễn Trường Tộ, có cả sự góp mặt của các tu sĩ từ Đại Chủng Viện Xuân Bích VL (đang học để nhậm chức linh mục) cùng một số giáo sư đương nhiệm của trường công lập Tống Phước Hiệp. Không ít nhân vật nổi tiếng trong lảnh vực văn hoá, giáo dục đã nhiệt tâm đến trường thuyết ging cho học sinh theo lời thỉnh mời của Thầy Trần Văn Phong.  

***
alt
Cô Đặng thị Nhan (1925-2004)
     Sau chính biến 1963 ít lâu, Cô Bảy Nhan quyết định về Sài gòn tham gia việc kinh doanh của gia đình. Tuy nhiên, cuối năm 1964 Cô Nhan phải cấp tốc quay trở lại trường, theo yêu cầu của Lm.Hiệu trưởng, do Thầy Trần văn Phong buộc phải vắng mặt lâu dài vì thời cuộc.

      Được sự khuyến khích, hổ trợ của Đức Giám Mục Cần Thơ và Linh mục Hiệu trưởng, Cô Đặng Thị Nhan đã sát cánh cùng Hội đồng giáo sư, nối tiếp sự nghiệp của trường THTT Nguyễn Trường Tộ trong những thời gian vắng mặt thầy Phong.

      Đến tháng Sáu 1975, Giáo quyền chỉ định Cô Nhan tiến hành bàn giao cơ sở giáo dục này.
 
* * *  
      Tôi vào học Trường Nguyễn Trường Tộ từ năm Đệ Ngũ, niên khoá 1963-64. Cuối niên khoá 66-67 thi Tú tài 1 xong thì phải chuyn sang trường Tống Phước Hiệp để được học tiếp lớp Đệ Nhất.

      Nhớ lại những năm đó, sau giờ học, tôi thường được sư phụ là một ông Cai Nhà đèn (nhà máy điện của tỉnh VL) cho vác thang đi theo học việc. Để khuyến khích, ông giao cho tôi đãm nhiệm những mối khách hàng quen thân với tôi, trong đó có cả việc
sa cha điện cho trường Nguyễn Trường Tộ. Công việc lâu ngày khiến mọi người trong trường mặc nhiên xem tôi như một công nhân k thuật của cái trường mà tôi đang là học sinh và các Thầy Cô hay nhân viên ở đó đang là đồng nghiệp của Mẹ tôi!

      Bởi cái vị trí ngộ nghỉnh đó, tôi luôn được kêu gọi tham gia mọi sinh hoạt của học sinh cũng như nhiều công việc trong văn phòng nhà trường. Về sau, khi một số bạn cùng lứa đã được bước lên bục gi
ng của trường, tôi còn có dịp cùng vài bạn đồng hương quay lại hợp tác hướng dẫn cho các lớp đàn em.  
     Cũng như những bạn đồng song thời bước chân chập chững đến trường, sân chơi hàng ngày của chúng tôi thủa bé chính là sân Nhà thờ đó, là bến sông đó. Kéo dài sang những năm trung học và sau trung học, vừa học, vừa chơi, vừa giao tiếp, vừa làm việc. Vật đổi sao dời, khung cảnh của một thời đã xoá sạch hoàn toàn, những ngày xưa nay còn vài người bạn già lẩm cẩm, vài tấm hình hoen cũ ...

     Cũng hay, nhờ vậy mà những kỷ niệm vấn vương trong ký ức có thể vẫn giữ được nguyên dáng đẹp ngày xanh... Về một không gian không còn tồn tại.

   Hồi tưởng về Trường Trung học Tư thục Nguyễn Trường Tộ, Vĩnh Long
   đ kính nhớ Mẹ tôi, Thầy Phong, cùng những người thương mến.


Đặng AnhTuấn, Nov.2011

PS: Chỉ là hồi ức nên một vài chi tiết có thể chưa chính xác, xin miễn th


Thơ Tranh:Bên Mạ




Thơ: Suối Dâu
Thơ Tranh: Kim Oanh

Thuyền Trăng Và Tịch Lặng




Em chèo thuyền qua
Bỏ trăng ở lại
Tôi đứng ngây dại
Cùng ánh trăng tan
Trăng trôi xuống ngàn
Thuyền đâu trở lại
Con sông ngây dại
Ngóng mãi trăng về
Trăng đâu hẹn thề
Sông chìm sương trắng

 
(Ảnh chụp của chính tác giả)
Trương Văn Phú

Bến Trăng Thưa


(Vần thơ nối tiếp Thuyền, Trăng Và Tịch Lặng của Trương Văn Phú)

Em chèo thuyền qua dòng sông Vĩnh
Bỏ trăng ở lại trong tịch lặng
Tôi đứng ngây dại chẳng nên lời
Cùng ánh trăng tan lòng vời vợi
Trăng trôi xuống ngàn thuyền có đợi

Thuyền đâu trở lại bến sông xưa
Con sông ngây dại soi bóng dừa
Ngóng mãi trăng về dăm ba bữa
Trăng đâu hẹn thề thuyền có đợi
Sông chìm sương trắng bến trăng thưa

Kim Oanh 

Nửa Bài Thơ



Đã xa rồi... qua rồi... đâu rồi ?
Chiều một mình trên phố
Hồn bây giờ ngẩn ngơ
Khắp đâu đâu điểm hẹn
Chốn nơi nao tình cờ
Tóc ngắn dài một mớ
Đan kết nửa bài thơ
  
Hoàng Lam 

(Tặng nui cho một mối tình ''đan kết'' nhưng không ''đoạn kết'')

 

Nhớ Mẹ Hiền

Đã bao năm miệt mài nơi xứ lạ
Chốn quê nhà tóc Mẹ ngã màu bông
Mà con mãi mang thân đời viễn xứ
Mẹ hiền ơi! nghe đau nhói trong lòng .

Thân của Mẹ héo gầy theo năm tháng
Bởi ưu tư phiền muộn nặng vai còng
Nước mắt Mẹ đã khô đi dòng lệ
Khóc tang chồng thương phận trẻ long đong .

Ngày con nhỏ Mẹ mua tần bán tảo
Nuôi đám con mong lớn được nên người
Binh lửa đến mỗi thằng đi một xứ
Tàn cuộc rồi mắt Mẹ lại đầy vơi .

Mẹ đưa tiễn những đứa con xuống mộ
Khóc cho thằng xác lạnh gởi rừng hoang
Mắt Mẹ mờ sau bao lần đưa tiễn
Tre khóc măng đời Mẹ lắm gian nan .

Vai trĩu nặng những gánh đồ nuôi trẻ
Gói cơm khô vài ba lát bánh mì
Mẹ chiu chắt nuôi những thằng ngục tối
Chuyến xe đời Mẹ tần tảo ngược xuôi

Tuổi xuân xanh Mẹ đâu vui đời thục nữ
Chỉ chăm lo bổn phận với chồng con .
Thương cho Mẹ suốt một đời lận đận
Bóng ngã chiều lòng Mẹ vẫn héo hon

Nơi quê nhà giờ Mẹ thân một bóng
Chỉ vui vầy bên đám cháu mồ côi .
Mấy thằng còn lại thì đời viễn xứ
Xuôi theo dòng những thân phận nỗi trôi .

Chiều hôm nay con lòng buồn nhớ Mẹ
Nhớ bờ tre nhớ hàng bưởi vườn sau
Nhớ dáng Mẹ xưa bờ ao giặt áo
Nhớ đêm hè trắng rụng những hoa cau .

Con ước được như ngày xưa còn bé
Còn sum vầy bên Mẹ buổi cơm chiều
Còn được Mẹ dán cho từng con diều giấy
Còn bị la rầy khi con lỡ lầm sai .

Con gục mặt cúi đầu trong thổn thức
Nước mắt con bất chợt lại tràn đầy
Con của Mẹ tóc nay giờ cũng bạc
Mà lòng còn như đứa trẻ thơ ngây
 



Vĩnh Trinh

Thơ Tranh:Gió - Kim Thành


Thơ: Lê Kim Thành
Thơ Tranh: Kim Oanh


Vu Lan Bên Mồ Mẹ

 








Một nén nhang, mồ mẹ chưa xanh cỏ
Một nỗi lòng như đáy huyệt thật sâu
Trong khói bay ánh mắt mẹ hôm nào
Lời trìu mến hơn vạn lần ngôn ngữ

Con của mẹ cũng chẳng nhiều được chữ
Muốn lời yêu nhưng chẳng ráp thành câu
Lòng của con là cả đất trời cao
Không đủ chứa tình con cho thân mẫu

Rằm tháng bảy. Bây giờ con mới thấu
Đoá hoa sầu thấm thía tỏa nhụy đau
Như từng cánh thương nhớ rụng dạt dào
Trong chất đắng sinh ly và tử biệt

Ôi! Mẹ ơi con một đời keo kiệt
Môi lưỡi này không ráp chữ yêu thương
Giờ mẹ đã không nghe tiếng của con
Thì yêu mến cũng đã thành vô nghĩa

Con đứng đây nắng xói vào nghĩa địa
Như xói từng hối hận của lòng con

Hoài Tử
 

Sương Mù Dốc Núi



 

Anh cuốn đời em
Mình em bơi trong bão lũ cuộc đời
Tìm bàn tay anh
để nắm chặt để bám víu sẻ chia
Hồn chợt ấm nén nhang tàn ai thắp
Em che bên nầy bên kia cho khỏi tắt
Bởi hạnh phúc đời em hiu hắt sương mù
Và người thương là núi non rừng rậm là ngựa hoang bất trắc
Ngày hôm qua nồng nàn đã mất
Bóng hoàng hôn rũ xuống đời nhau
Núi vẫn còn đây sao trăng nước lao đao
Em thành góa phụ trong lòng anh hóa đá

Sương Mù
Viết cho núi 2006



Mùa Thu



Anh nhớ không mùa thu
Sáng mắt trong cánh gió chẳng sương mù
Tung tăng quyển vở bay tà áo
Ta mỉm chào nắng xôn xao

Anh bảo cùng em ghét mùa nào
Hè về phượng đỏ nhớ nhung trao
Mắt buồn ươn ướt nâng tà áo
Cúi mặt xa dần đã vắng nhau

Tím thẫm đường xưa khuất lối vào
Hè ơi! Ve gọi hãy đi mau
Mùa thu trở lại lòng thôi nhớ
Ta đón nhau về...rộn vườn thơ


Hoàng Lam 

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Tuyết Trổ Hoa


alt

Suốt một mùa đông tuyết trổ hoa
Hàng thông bạch lá uống trăng ngà
Ai ngồi bó gối tim tan vỡ
Tóc bám bạc màu tuyết trắng pha

Sương chít khăn tang ủ trăng tàn
Mộng thời trinh nữ bỗng dở dang
Khêu lửa lòng xua tan băng tuyết
Đông qua rồi ... đông mới lại sang!

Giọt lệ sông buồn đong thành đá
Vật vã đời, lạnh giá bờ môi
Nén hương yêu che giấu bồi hồi
Lời thú tội tinh khôi áo trắng!


Kim Oanh

7- 4 - 2010


Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Hương Xưa Sống Lại



Anh đến Pleiku chuỗi ngày dài
Lắng nghe trong gió bày tâm sự
Sa mạc buồn từ lúc vắng anh
Đầu canh vò võ đau hừng sáng

Hiểu cho anh!
Nửa đời đau đeo hoài năm tháng
Tro tàn âm ỉ dáng em xưa
Tội em tôi! Ôm lạnh chiều mưa
Cô đơn đợi anh về khơi lửa
Sợ chi em !

Núi Hàm Rồng vẫn còn đưa lối
Dẫn anh về dẫu tối mù sương
Hương em tỏa anh dường ngây ngất
Từ đất sâu tím mật tràn tim

Hoa nguyên trinh im lìm bên suối
Cạnh đồi thông lầm lũi chờ ai
Mãnh mai sương vóc hạc trang đài
Mơ màng khép mi Xuân sống lại

Anh về đây ! Đâu mãi rừng hoang
Nâng niu chăm chút cánh hoa tàn
Yêu thương ủ xua tan mầm chết
Ươm hạt tình dành hết cho em

Xin cảm ơn! Tình em đã tặng
Biển Hồ sâu lặng ngắm hoàng hôn
Ôn bao kỷ niệm thời son trẻ
Cuộc đời người tranh vẽ nào hơn

Cám ơn đời! Vẫn đẹp dẫu nhiều mất mác!

Pleiku 6-8-2010
Lê Kim Hiệp


Áo Trắng Lay




Gió nhẹ lay bay ... vạt áo ai dài
Vạt áo dài quyên gió vướng chân ai
Đường chậm bước ai chân mòn lặng lẽ
Bỏ lại đâu đây vạt áo ai dài

Đường muôn dặm xa dặm dặm xa
Điểm hạt sương mai tóc muối da mồi
Nắng nổi gió lên chân mòn lặng lẽ
Thoáng đâu đây bóng vạt ai lay


CHS Nguyễn Trường Tộ
NK 1968-1975


Niềm Vui Lớn

 
alt
 
2000
xa trường bỏ lớp cũng khá lâu
mỗi đứa mỗi nơi đến bạc đầu
gặp gỡ mến thương tình tri kỷ
sáu mươi còn lại mấy thằng đâu?

2010
xuân nầy đến nữa bao xuân nữa
bạn cũ còn không có đủ không?
bằng hữu vắng dần sau mỗi tết
chúc nhau năm tới vẫn còn đông

2011
mỗi năm mỗi cánh hoa tàn rụng
đời người còn mất chỉ thời gian
toan tính nghĩ chi sang với khó
rót hết tình thâm chén rượu tàn

2051
rồi thêm xuân nữa, mười xuân nữa
bách tuế nhân sinh chẳng mấy người
mỏi mắt nhớ mong chờ tri kỷ
tiệc tàn rượu lạt chỉ mình thôi *

2013
Bạn hỡi còn nhau xin góp lại
Chút tình vẹn nghĩa với Trường Xưa



Phủ Hiền

Lời Tác Giả:

(* )Mình viết tặng bạn bè nhân sau ngày họp mặt,mình chọc các bạn là "mình sống đến năm 2051[100 tuổi] lúc đó bạn bè chết hết chỉ còn một mình, nên ,tiệc tàn cũng chỉ có một mình thôi" cheeky

Bạn bè ai cũng cười bảo "mầy ham sống dai,lúc đó bò mà nấu cơm"


Phượng Hồng


Hình như còn một tiếng ve!
Ẩn trong lá biếc trưa hè râm ran
Phượng hồng rực sắc huy hoàng
Phơi mình uống nắng tơ vàng rơi mau
Yêu người tỏ với trăng sao
Chôn tình câm lặng nhốt vào lời thơ
Ừ! Cứ xem đấy là mơ
Phải người tri kỷ, đợi chờ thiên thu. 


Kim Phượng

Tùy Bút Về Trường Xưa

      Hôm trước đi viếng thầy Trần Phong cùng các bạn, những học trò cũ của thầy, lơ thơ vài móng còn lại ở Vĩnh Long: chị Trân, Tuấn, Hiền, cùng tui, gặp một số bạn khác lớp, khác niên khóa mà mình không được biết.

       Về nhà chợt nhớ mình còn mớ ảnh do Cương chụp ngày xưa, nay mang ra chụp lại, gởi lên Picasa. Nếu còn có bạn nào tình cờ ghé vào xem, vài hình ảnh mù mờ ngày xưa dù xa xôi, tưỡng đã quên, nay nhìn lại thì cũng thú vị, dẫu rằng bên mình, bạn bè bốn năm chục năm trước có còn ai nữa đâu.

        À mà có đó chớ, Tuấn nó gọi cho tôi từ Saigon, hình hay quá, bảo tôi vào trang viết về trường, Tuấn giới thiệu khá rõ nét, nó bảo tôi tham dự cho thêm phần chen lấn. Tui nhờ chị Trân giúp thêm mớ hình gởi vào Picasa, ôi những tấm hình không thể tưởng là còn trên đời, vậy mà lại gặp, có lẽ thầy cô cũ biểu chị đưa ra (nếu không đưa cho thằng Phú thì giựt giò hổng cho ngủ).

        Nhớ lại năm đệ thất - niên khóa 61-62, trường gồm dãy lớp bên dưới cầu Cái Cá, cửa lớp nhìn ra rạch Cái Cá, rẽ nhánh từ sông cái (nhánh sông Tiền) chảy qua cầu Lộ, vòng vèo vào sông Hậu. Phía đầu dãy bên trái lớp là văn phòng, nơi thầy cô nghĩ chờ thay lớp, rồi đóng học phí nè, rồi mục đặc biệt là (concil) dành cho các cu cậu khỉ khọt, không thuộc bài v,v...

         Lớp tôi học, cô Nhan dạy pháp văn, thầy Thạch dạy kim văn, cổ văn, thầy Huệ dạy toán, còn thầy dạy công dân đức dục tôi quên mất rồi, bạn nào có nhớ vào nhắc giùm, còn nếu nhớ mà làm hiểm không chịu nói (tui kêu bằng thằng ráng chịu).

          Kể ra cũng lạ, nếu trong lớp có chọc ghẹo nhau lại chỉ méc thầy Huệ mà thôi. Còn nhớ trong lớp có Định lai Ấn và một đứa nữa tên Nô lai Tây trắng, Định ngó Nô búng tay, miệng kêu chooc ..chooc: ”Nô..Nô..”, tên này tức lắm nên buổi chiều vào học, gặp Định vừa đưa cặp vào bàn liền la lớn lên, chưởi búa xua. Khi thầy Huệ vào, hai cu cậu tha hồ đứng đấu khẩu kịch liệt, thầy bèn mời hai ông con đứng khoanh tay cho hạ nhiệt.

          Thầy Thạch thì thương nhất là bạn Dung, bên trai thì thương bạn Bạch (tay nầy da trắng, tóc vàng, mắt nâu, mà không phải là con lai, ba mẹ đều là Việt rặc. Nghe nói khi sanh ra anh của Bạch, ông già ghen quá trời gia đình bất hòa nặng, đến sau hai ba bốn đứa trai gái như nhau, vào bệnh viện bác sĩ hỏi rồi giải thích do lần tai nạn mất máu nặng, phải vào máu trúng máu Tây nên như vậy, đích thực con của ông đấy).

           Năm học đệ lục, rời lớp mé sông Cái Cá, rời luôn trạng huống đi vệ sinh bị rớt dép xuống sông, nhìn dép cao su nặng trịch made in cholon chìm tà tà, ôi quê quá trời: áo bỏ trong quần mà đi chân trần. Bạn học cũ năm đệ thất giảm một nữa vì sang trường khác, dẫu sao lớp nhỏ nên tình cảm ít gắn bó. Năm nầy lên trường lớn, các lớp lập chung quanh nhà thờ, gồm từ đệ lục đến đệ nhị, dãy bên phải gồm văn phòng trường, đệ lục, đệ ngũ. Lớp Anh văn và Pháp văn học riêng nhau. Vì là lớp học trò còn nhỏ tuổi nên ồn ào giởn hớt ghê lắm, nghịch phá cũng nhiều, bận lòng không ít thầy cô cùng ban Giám hiệu.

           Năm đệ ngũ, có thêm ba bạn từ Tiểu Chủng Viện sang học: Võ Thành Nhơn, Đỗ Đình Tiến, Đặng Anh Tuấn, ba tên nầy giỏi Pháp văn. Mục Pháp văn có mấy chuyện trục trặc: Năm này thầy Phong phụ trách dạy lớp tụi tui, ngồi cạnh nhau ở khoảng những bàn giữa lớp, lại hợp tánh, gồm Phú, Tiến, Tuấn, Thật, Hiền, Đô… Tuấn học nghiêm trang lắm, còn thì có hơi thì thào chút đỉnh. Thằng Tuấn là con cô Nhan, còn Tiến gọi thầy Phong bằng cậu. Thầy đang giảng bài, có lẽ thấy Tiến lo ra sao đó, thầy gọi Tiến đứng lên trả bài, trong bài trả thầy có từ pâtisserie, cu Tiến đọc “patis xệ”, chắc là còn âm hưởng (tám), thầy trừng mắt, Tiến đứng vẹo ne, (trừng mắt yêu chớ bộ). Năm này có thầy Lê Văn Gồng bạn thầy Phong từ Pháp về, thầy mời thầy Gồng phụ trách dạy pháp văn cho tụi chúng tôi, thầy Gồng dáng thấp đậm người, da ngăm, cận. Còn nhớ mãi thầy dạy bài ‘Cueillir le lotus’ là bài thơ ngắn nhưng rất hay. Được một thời gian, thầy Gồng về Pháp, thầy Ẩn đảm nhiệm tiếng Pháp. Còn nhớ thầy đọc lecture, học trò viết dictée, bắt học thuộc lòng trả bài, ôi thôi quần hùng khốn đốn mong cho thời gian mau qua, tui cũng được lên bảng phong thần chớ bộ. Trong lớp có hai bạn nữ người Hoa, nên giỏi viết tiếng Hán. Bởi năm này có thêm tiết mục Hán văn do thầy Sản phụ trách. Ôi thôi! giờ Hán văn khi thầy gọi lên bảng, anh chị nào cũng thi nhau vẽ cua còng bò ngỗn ngang, đến phiên hai chị Trân - Huê thì chữ viết vuông gọn thẳng hàng trông phát khiếp.

         Cũng trong năm này, trường có mời nhà văn Nguyễn Ngu Í đến nói chuyện cùng học sinh toàn trường. Ông Í nói thuở nhỏ ông rất hâm mộ nhà văn Lê Văn Trương, và nói ông này viết rất nhanh rất nhiều. Hai tác phẩm mà ông Í giới thiệu là: Trường đời - Trận đời. Sau khi diễn giảng về văn chương cũng như phương pháp viết, ông hỏi lại chúng tôi có thắc mắc gì không? Đâu đó có anh học lớp trên hỏi “Thưa bác tại sao bác lấy bút hiệu là Nguyễn Ngu Í vậy”, ông trả lời tếu như sau: thuở còn thanh niên, có năm anh em rủ nhau hoạt động chống Pháp, cùng đồng ý nhau là không lấy vợ, và ông nói chính ông đề xướng ý tưởng trên. Bẳng một thời gian dài anh em gặp lại nhau, hỏi thăm gia cảnh thì bốn anh kia vẫn còn độc thân, riêng ông Í thì vợ con lê thê, anh em xúm nhau bảo “Í Ngu”, do vậy mà lấy bút hiệu Nguyễn Ngu Í để kỷ niệm thời thanh niên. Sau khi ông ra về , là chiếu phim khoa học.

         Năm đệ tứ, thấy Bích dạy Việt văn, thầy Ẩn dạy toán Lý Hóa. Thầy Bích nhà ở Sa Đéc, phương tiện đi lại là chiếc xe gắn máy hiệu Sachs với vòng bánh to, thầy phân trần giải thích là bánh to chạy nhanh hơn và cũng ít hao xăng. Thầy dáng người ốm, lưng hơi còm về trước. Thầy hút thuốc lá vấn, dù vừa xong tiết dạy tay còn phấn dính đầy, vào văn phòng là vấn thuốc hút ngay. Năm đó đến nhà Thầy Bích, bọn tôi gồm: Phú, Đô, Xuân, chị Trân và vài bạn học nữ nữa mà tôi không còn nhớ ra, nhà thầy đơn giản, gọn, con thầy thuở ấy còn nhỏ, các chị cùng gia đình thầy tổ chức đãi đám học trò của mình, bọn con trai chúng tôi lang thang dạo quanh, khi xong thầy gọi vào, ôi dùng thật tình, dĩa chén trống trơn luôn! Thầy Ẩn thì nhà cũng không khá mấy vì con nhỏ mà hơi bị nhiều, Cô phải nuôi thêm heo nái để phụ chồng. Thầy bị bệnh gan kinh niên, thỉnh thoảng đôi tay cùng chung quanh miệng bầm tím, tức là bệnh đang hành mà thầy vẫn đi dạy. Đôi khi thấy thầy trên đường đến trường tay cầm theo ổ bánh mì nhỏ kẹp thịt…..

         Còn cô Tỏ tôi không rành vì cô dạy Nữ công gia chánh, thêu thùa, bọn nam chúng tôi chẳng dám léo hánh đến vùng cấm đó.

          Quên kể chuyện trong năm đệ ngũ, còn có cô Hương cô mới về dạy Lý Hóa, dáng cô thon thả thanh nhã, còn độc thân và sống với cha mẹ, chị Trân thích cô lắm nên thường xuyên ghé thăm cô. Trong trường, thầy Thạch cũng chưa vợ, chị cũng thăm thầy, rồi mời thầy thăm cô, thăm tới thăm lui thăm qua rồi thăm lại,.. thầy cô góp gạo nấu ăn chung, dạy cùng trường, rồi chị Trân cũng mất sở thăm luôn! Quả tình chị Trân này mát tay, tài tình hết số luôn.

        Cũng trong năm đệ ngũ, cô Hạnh dạy Toán, Đại số, cô thương học trò lắm. Ở nhà cô có mở tiệm cầm đồ. Một tên trong lớp không biết đứa nào, mới sáng, vào tiệm cô cầm cây bút Pilot, xui cho nó, cô bước ra để đi dạy, gặp ngay ông tướng là học trò của mình, cô rầy rồi cho tiền bảo đi học sau khi khuyên giải ân cần. Vào lớp cô thông báo sự việc đại khái rồi tiếp: “Trời ơi, học hành mà đi cầm cây viết thì làm sao mà học được”.

        Tới chuyện của tui. Số là lớp tôi học, cửa nhìn xéo ra con sông cái (sông Tiền) mặt nước trôi lững lờ, lục bình theo đó lác đác xuôi dòng, nắng phản chiếu ánh sáng trên sóng lăn tăn. Tôi ngồi trong lớp, lổ tai nghe cô giảng toán đều đều như ru, mắt thì mê mãi dõi theo sóng nước. Bỗng tiếng cô kêu lớn “em kia đứng lên!”, tui giật mình quay sang thấy ngón tay xỉa (một chỉ) ngay mình, đứng lên nhanh lắm. Cô phán: “em lập lại bài giảng của cô, lên bảng chứng minh lại coi”, tui trả lời và chứng minh trơn tru. Cô bước ra đóng cửa lớp cho tôi phải nhìn vào bảng học cho đàng hoàng. Khổ nổi, phía trên cửa lại là song cửa, nên con sông cứ nhấp nháy bên hàng cây me gốc xù xì lôi kéo mắt tôi trở về nơi trước đó tạm tạm gián đoạn… Cũng lại tôi nữa, trong tiết mục kiểm tra toán làm bài tại lớp, viết công thức đại số “Sx”. Tôi làm bài xong, tôi biết bài làm tốt tuy chữ viết có hơi cẩu thả, chữ xấu (tật này tôi sửa mãi mà chẳng được, thành tật xấu cho đến giờ) song tôi thấy có gì kỳ kỳ mà không biết là gì, nộp bài xong rồi cũng quên đi. Vài hôm đến giờ toán phát bài đã chấm diểm cho học sinh xong, bỗng cô Hạnh đi qua lại trên bục rồi bực bội nói “à à... có em nào đây viết chữ ngược... Trời ơi! học đến giờ này mà còn viết ngược, em nào đây..”, hơi nghi ngờ mình, tôi mở giấy kiểm toán. Ông ơi! đích thị tui rồi, cô vạch vòng tròn vào chữ S viết ngược của tôi, đính kèm trừ 1 điểm. Vào thuở cô dạy chúng tôi, cô bị cao huyết áp, đang dạy mặt cô đỏ phừng, phải ngưng về nhà uống thuốc, rồi vào dạy tiếp.

     Trong năm đệ tứ, trường có mời Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn, những người cùng thời ông gọi ông là “Nhơn lội”, đến trường thuyết giảng về biển cùng kỹ thuật bơi lặn biển, ông kể rất hấp dẫn về nhứng con vật lạ rất to mà ông săn bắt làm ông suýt nằm luôn dưới biển. Ít lâu sau trường tổ chức trình diễn thể thao để khuyến khích học sinh toàn trường gồm: Thể dục thể hình thẩm mỹ (biểu diễn lực sĩ đẹp), đoàn này do Giáo sư Nhơn lãnh đạo cùng đoàn võ thuật gồm Nhu đạo, Teakendo, Karatedo, và biểu diễn song kiếm, đơn kiếm, đoàn này do Võ sư Hồ Cẩm Ngạc hướng dẫn

Sau buổi biểu diễn, cũng trong năm nầy, ông Hồ Cẩm Ngạc đang đi trên lề đường ở Saigon, gặp một em bé bất cẩn băng qua đường sắp bị chiếc xe chạy cán qua người, ông vội lao ra, dùng nhu đạo quăng em bé vào lề đường, còn ông thay em bé nằm dưới bánh xe. Ông gồng cứng người chờ bánh xe qua, song xe lại chết máy nên bánh xe vẫn còn nằm trên mình ông (người đi đường thuật lại rằng sau hồi lâu trong người ông nghe cái bụp), và ông qua đời thế mạng cho em bé. Ông để lại vợ và hai con còn nhỏ. Ông mất đã lâu lắm rồi song xem lại ảnh, ông như còn hiện diện trong chúng tôi ở buổi biểu diễn đó.

      Cha Quang - Thầy Phong - Cô Nhan - Cô Hạnh, cùng nhiều thầy cô khác mà tôi không biết, có lẽ đã đi xa mà chúng tôi không rõ, bởi bọn học trò ngày xưa, rất nhiều đứa đã ngồi cao chiểm chệ giữa nhà, hoặc tiêu xác đâu đó trên mảnh đất thân yêu này, chúng tôi hiện cũng tròm trèm tiến đến ngưỡng “U70” cùng nhiều bệnh tật đang lưu trú trong người


Dự lễ tang của Thầy Phong cùng các bạn, đồng thắp hương:

CHÚNG CON NHỮNG HỌC TRÒ CŨ, NGUYỆN TẤT CẢ THẦY CÔ THÂN YÊU CỦA CHÚNG CON, CÙNG BẠN HỮU ĐÃ QUÁ VÃNG ĐƯỢC VÀO CÕI AN LẠC VĨNH HẰNG.

Vĩnh long, tháng mười một 2011

Trương Văn Phú