Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2023

Feliz Navidad - Sáng Tác:José Feliciano - Trình Bày: Phạm Cao Tùng


Sáng Tác: José Feliciano 
Trình Bày:Phạm Cao Tùng

Giáng Sinh Trung Phần

Năm này nét giống những năm qua
Cả không gian lạnh nắng vàng pha
Trăng già lặng đỉnh đầu non Việt
Quê hương còn khổ miệt Trường Sơn

Nước dâng cao từng cơn sóng dữ
Mây đen trời sấm chớp chữ tang
Dìm dân Nam chôn giấc thiên đàng
Thoi thóp thở mơ màng Chúa chuộc

Giáng Sinh ơi! Vào cuộc cứu đời
Khua chuông mới động trời Nam cũ
Lũ lượt về hạnh phúc mang theo
Chút hơi Chúa lời xưa gieo mộng

Đêm nay mấy....lang thang trống vắng
Đợi Chúa về nghe đắng tâm can
Phương trời Tây chắc Chúa rộn ràng
Quên cứu chuộc dân Nam cùn khổ

Còn chỗ nào thay Giáng Sinh sau!

Lê Kim Hiệp
4-12-2010

Đêm Vô Cùng

  

Đêm Thánh Vô Cùng
Tôi bước theo em
Gió mùa se lạnh
Lòng thấy ấm êm
Cảm giác từ đâu?
Xuyên thấu tâm hồn
Bỗng dưng xao xuyến
Hạnh phúc nào hơn

Vẫn bước theo em
Ghập ghềnh nẻo đường
Đêm qua vũng nước
Ướt gót chân thương
Đêm nay lạnh giá
Chúa đang Giáng Trần
Nhìn em cầu nguyện
Tôi cũng thì thầm

Con người ngoại đạo
Tin Chúa ban ơn
Cho con lấy được
Người quỳ bên con
Thôi rồi Chúa ơi
Đâu ngờ em nghe
Nhìn con thương xót
Trách con đến sau !

Ánh nến lung linh
Tuyệt vời sắc hương
Mừng em Chúa tạo
Hoàn mỹ khác thường
Bóng Đêm Vô Cùng
Từng bước âm thầm
Cầu Chúa cho gặp
Dù chỉ một lần!

Mặc Khách

Mừng Chúa Giáng Sinh

 

Hai ngàn năm trước Chúa sinh
Dang tay đón nhận tội tình thế gian
Tâm hồn cao thượng chứa chan
Người mang thân phận nghèo nàn thường dân

Hai ngàn năm tiếng chuông ngân
Đêm đông tăm tối sáng ngần ánh sao
Vinh Danh Thiên Chúa Trời cao
Bình An Trần Thế dạt dào yêu thương.

Hai ngàn năm cõi vô thường
Ánh đèn rực rỡ cung đường đêm thâu
Thánh đường vang tiếng nguyện cầu
Cây thông lấp lánh đèn màu Giáng Sinh.

Lê Tuấn

Ngày Xưa Nguyễn Thị...


Sài Gòn bị đổi chủ khi tôi mới chín tuổi, chưa kịp biết mộng mơ với những bản nhạc tình trước năm 1975. May mắn thay, vài năm sau đó, khi phong trào “đốt sách trả thù” của chính quyền Cộng Sản lắng xuống, mấy anh chị lớn trong nhà còn giữ lại được một số tờ nhạc, băng nhạc cũ, đem ra nghe lén mỗi đêm khuya vắng. Các tờ nhạc đa số là nhạc Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, nghe mấy ông anh ôm đàn và hát, tôi thích lắm. Băng nhạc cassette thì chỉ có một hai băng của ca sĩ Thái Thanh, nghe đi nghe lại, nào Ngàn Thu Áo Tím, Nghìn Trùng Xa Cách, Kỷ Vật Cho Em…nhưng chả hiểu sao đọng lại trong tôi nhiều nhất, là Ngày Xưa Hoàng Thị, có lẽ vì câu chuyện tình lãng mạn của tuổi học trò làm tôi xao xuyến. Thuở ấy, không có báo chí để tra hỏi, nên tôi nào rành rẽ về bài thơ hay bài nhạc, chỉ biết yêu vô cùng lời nhạc, lời thơ, thế thôi.

Thế là tôi yêu tiếng hát Thái Thanh dù sau đó gia đình tôi có thêm các tiếng ca khác mà anh chị tôi thu thập từ bạn bè hoặc từ các tiệm sang băng lậu ngoài chợ trời Tạ Thu Thâu: Thanh Thuý, Nhật Trường, Thanh Lan, Phương Dung, Duy Quang, Elvis Phương… với nhiều bài hát mới.
Riêng bài Ngày Xưa Hoàng Thị sống lâu nhất trong trái tim tôi, vì một buổi trưa đầu hè năm lớp 12, tôi bước vào lớp, thấy trong hộc bàn một tờ giấy màu xanh lơ, có ép một cánh bướm làm từ hoa phượng và mấy câu thơ: “Em tan trường về- cuối đường mây đó- Anh tìm theo Ngọ-Dáng lau lách buồn-Tay nụ hoa thuôn-Vương bờ tóc suối-Tìm lời mở nói- Lòng sao ngập ngừng …”, chẳng có tên người gửi, cũng chẳng ghi tên người nhận. Lập tức, đám “thám tử” con gái lớp tôi chạy đi “điều tra lý lịch” tác giả lá thư. Được biết, người ngồi cùng chỗ đó của tôi (lớp buổi sáng) là chàng tuổi trẻ tên là Hồng Ân, nhỏ hơn tôi một tuổi ( học lớp 11), trắng trẻo, đẹp trai, con nhà giàu ngay ngã tư chợ Xóm Mới. Nhưng các “thám tử” không thể tìm ra, là lá thư ấy chàng trẻ tuổi cố ý gửi cho tôi, hay tính gửi cho… con bé nào khác mà để quên trong hộc bàn? Tôi chả quan tâm chuyện đấy, thư để trong hộc bàn của tôi, rất ngay ngắn gọn gàng, nghĩa là gửi cho tôi. (Ai cấm em trai tương tư…bà chị học trên lớp hở mấy nàng “thám tử” rách việc kia?). Cánh bướm đẹp quá, tờ thư xinh quá, và nhất là mấy câu thơ lần đầu tiên tôi được đọc. Dù chỉ có mấy câu, tôi cũng đoán cả bài Thơ sẽ còn hay hơn nhiều. Tôi bỏ lá thư trong cặp, mang về nhà, đọc đi đọc lại nhiều lần, và mong “người ta” gửi tiếp cho trọn…bài thơ!

Tôi cũng chẳng ngờ bài hát đó lại có duyên, theo tôi đến tận con đường vượt biển, qua trại tỵ nạn Thailand. Hôm ấy, tôi đang say giấc nồng trưa hè thiu thiu thì bỗng nghe bên nhà hàng xóm mở cassette (xài bằng bình acquy) bài Ngày Xưa Hoàng Thị qua giọng ca Thái Thanh. Tôi bỗng tỉnh ngủ, như chợt gặp lại “người xưa”, cầm theo giấy bút chạy qua để thưởng thức điệu nhạc quen thuộc và chép lời. Chị chủ nhà, cũng là người chung chuyến tàu với tôi, rất vui vẻ quay đi quay lại bài hát gần chục lần (sắp nhão cả tape) để tôi kịp ghi lại đầy đủ bài hát. Từ đó tôi cứ lẩm nhẩm bài này với bạn bè cùng lô nhà và cả khi chúng tôi tụ tập nhóm “đờn ca tài tử”.

Nhóm chúng tôi, những thanh niên thiếu nữ, trong đó Dzũng Lé là tay guitar cừ khôi, trước khi đi vượt biên, từng chơi cho các nhóm nhạc “Ca Khúc Chính Trị” tại Sài Gòn. Còn có Trung, chàng thư sinh Nhạc Viện, đi vượt biên ôm theo cây đàn Violin, khi tàu bị bão tố trên biển đông, hành lý phải quăng ra biển cho nhẹ con tàu, Trung vẫn cương quyết ôm cây đàn, che chở bảo vệ nó, mang nó vào trại tỵ nạn. Những buổi tối gió lạnh nhớ nhà, chúng tôi đề nghị Trung kéo đàn những bài tango nổi tiếng, như La Comparsita (mà nhạc sỹ Phạm Duy đặt lời Việt là Vũ Nữ Thân Gầy), La Paloma (Phạm Duy viết thành Cánh Buồm Xa Xưa), hay điệu Valse với nhạc phẩm trứ danh Blue Danube (Phạm Duy viết thành Giòng Sông Xanh). Giữa đêm đông se lạnh tha phương, tiếng đàn violin réo rắt, tha thiết, bay bổng đến lặng người. Rồi tiếng đàn chuyển qua những nhạc phẩm trữ tình khác, nào Dấu Tình Sầu, nào Niệm Khúc Cuối, Đêm Nay Ai Đưa Em Về…khiến mọi người rưng rưng thổn thức.

Tôi không có giọng hát hay nhưng thuộc nhóm “hay hát”, nên sau phần độc tấu violin và phần solo của những giọng ca quyến rũ người nghe, cuối cùng cũng đến lượt tôi được… cầm giấy ca bài “tủ” của mình, rất hào hứng, say sưa: “Em tan trường về …”
Cứ ngỡ ca chơi trong nhóm cho vui, ai ngờ Dzũng Lé đã cho tôi một bất ngờ nhớ đời. Mùa Giáng Sinh 1992, trường Việt Ngữ và nhóm nhân viên ngoại quốc YWAM (Youth With A Mission) tổ chức buổi tiệc tiễn đưa cô hiệu trưởng Sue về Australia. Tôi là cựu giáo viên nên được mời và được yêu cầu mặc áo dài với các cô khác vì cô Sue cũng mặc áo dài. Tôi hớn hở đến dự, thảnh thơi ngồi ăn uống, xem văn nghệ có Dzũng Lé chơi đàn guitar trong ban nhạc. Đến giữa chương trình, Dũng Lé ghé tai người MC thì thầm gì đó, rồi anh MC ra giới thiệu:
- Kính thưa quý vị, sau đây là một giọng ca…bình thường, nhưng tâm hồn văn nghệ thì trên cả bình thường! Cô chưa bao giờ vắng mặt trong các nhóm văn nghệ bỏ túi trong các khu nhà trong trại. Xin mọi người cho một tràng pháo tay cho cô cựu nhân viên bưu điện và hiện nay là nhân viên Cao Uỷ Định Cư…

Tôi chưa kịp phản ứng gì, bà con vỗ tay rầm rộ và đẩy tôi lên sân khấu. Tôi nhăn mặt, liếc Dzũng Lé:
- Ca bài gì bây giờ?
- Thì cái bài Ngày Xưa Hoàng Thị bà hay ca đó.
- Nhưng tui không thuộc.
- Nhớ tới đâu ca tới đó, dễ mà.
- Nhưng chưa tập dợt với ban nhạc gì ráo.
- Bà khỏi lo, cứ tập trung vào chuyên môn…ca hát, tụi tui sẽ…đuổi theo bà!


Tôi đành bấm bụng làm ca sĩ. Ban nhạc đánh bài Ngày Xưa Hoàng Thị theo điệu valse hơi nhanh, nhưng tôi bị ảnh hưởng cách hát luyến láy, “điệu chảy nước” của cô Thái Thanh nên mở đầu câu hát thật dẻo, thật dịu dàng đong đưa, rồi lên cao vút, thành ra ban nhạc bị trật nhịp, nhạc chơi đường nhạc, tôi hát đường tôi, họ ra sức …rượt theo, vã mồ hôi hột. Đã vậy, lời bài hát cứ lập đi lập lại: “ Em tan trường về …Anh theo Ngọ về ….Em tan trường về …Mưa bay mờ mờ …”, tôi run quá, không nhớ lời kết, cứ đứng đó ca tới ca lui: “Em tan …Anh theo …Em tan …Anh theo …”, khán giả ở dưới cũng nhận ra điều ấy, càng vỗ tay lớn hơn theo nhịp để cổ vũ tôi đang mặt mũi xanh lè vì bối rối. Dù sao, Dzũng Lé cũng là tay guitar chuyên nghiệp, đã nhanh miệng làm “đạo diễn”, dẫn dắt ban nhạc xuống “tông”, và nhắc tôi từ từ bình tĩnh, có Dzũng hát kèm phía sau, dìu tôi vào câu “coda”, kết thúc rất ngoạn mục trong tiếng reo hò của cả hội trường.

Sáng hôm sau tôi ra bưu điện dò thư, mấy anh bưu điện nhìn tôi cười mỉm chi:
- Chào em…Ngọ, chiều qua hát bài hát không có… lối ra luôn hen!
Từ đó, họ gọi tôi là “ bé Ngọ”, và tôi cũng thích tên “ Nguyễn Thị… Ngọ” vì tôi “đường đường chính chính” sinh năm Bính Ngọ, chớ không có ý nhận vơ mình là “nàng thơ” trong bài hát, bởi tôi biết, khi thi sĩ Phạm Thiên Thư “chân anh nặng nề, lòng anh nức nở” thì tôi chưa được sinh ra hoặc còn đang bận rộn…tắm mưa ngoài đường!
Và cũng nhờ “tiếng tăm” của buổi làm “ca sĩ ” lan xa trong trại, mà chú nhà báo Hồ Ông (trước 1975 là cây viết châm biếm của tờ Con Ong, hiện đang định cư bên Úc) đem đến cho tôi tờ tạp chí Làng Văn viết về Phạm Thiên Thư có cả nguyên vẹn bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị”. Tôi mừng rỡ sung sướng chép lại trên cuốn sổ Thơ của mình, và còn giữ đến nay trong tủ sách gia đình.

Kỷ niệm về Ngày Xưa Hoàng Thị và Thái Thanh thì còn nhiều lắm. Đến giờ giới nghiêm, cả trại im lìm trong bóng đêm, tôi và chị bạn chui vào mùng mở máy cassette nho nhỏ chạy bằng “pin”, nghe Thái Thanh phải nghe đêm khuya mới thấm. Có lần chú Tám kế bên vách vọng sang thì thào:
- Cô Loan ơi, cô làm ơn mở volume lên chút xíu cho tôi nghe rõ giọng Thái Thanh, được không cô?
Tôi sung sướng:
- Ủa, chú cũng mê tiếng hát Thái Thanh sao? Hổm rày con đâu biết!
- Chả giấu gì cô, tui chỉ mê nhạc mùi của Tuấn Vũ, Chế Linh. Nhưng giọng cô Thái Thanh làm tôi …dễ ngủ, tôi vốn mắc chứng mất ngủ…
Dễ giựn không nà! Nhưng mà thôi, mục đích nào cũng tốt hết á. Chúng tôi bên này thả hồn theo từng điệu nhạc lời ca mượt mà điệu đà của Thái Thanh, còn bên kia chú Tám…ngủ ngon!

Thực ra, suốt một thời gian rất dài, tôi luôn ngại ngùng thú nhận mình là “fan” của Thái Thanh, vì nhiều lần bị bạn bè chọc ghẹo:
- Úi dào, Thái Thanh là tiếng ca dành cho …người già, thích loại nhạc …khó hiểu, cao vời! Sao không nghe bolero cho… dễ thở??
Mới đây tôi có nói với tụi bạn:
- Giờ tao đã là lứa tuổi trên 50, có thể công khai tuyên bố là “fan” của Thái Thanh là đủ tiêu chuẩn rồi nha, tụi bay chớ mà ý kiến ý cò!

Bất cứ lúc nào, hễ nghe ai nhắc Thái Thanh và Ngày Xưa Hoàng Thị thì trong tôi lại xốn xang những đoạn đời dấu yêu của “Ngày Xưa Nguyễn Thị…Tôi”, ùa về như thác đổ, lúc vui lúc buồn, có khi làm tôi thao thức mất ngủ cả đêm vì bồi hồi, nhớ nhung…
Ai mang bụi đỏ đi rồi?!

Tiếng Hát Muôn Đời

Thái Thanh đi rồi, “Nghìn Trùng Xa Cách”
“Ngày Xưa Hoàng Thị”, giờ biết tìm đâu?
Đêm nức nở nghe “Nửa Hồn Thương Đau”
Xót xa nhớ “Mùa Thu Không Trở Lại”

“Cơn Mê Chiều”, man mác sầu tê tái
Hương “Ngọc Lan” còn thoảng dấu ngất ngây
“Màu Kỷ Niệm” như quanh quẩn nơi đây
“Đường Chiều Lá Rụng”, “Cỏ Hồng” da diết

“Chiều Về Trên Sông” tình quê xao xuyến
“Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà” chưa quen
Còn lời nào thay “Kỷ Vật Cho Em”?
“Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng” ký ức

“Tình Cầm” ơi, “Ngày Trở Về”, đừng khóc
“Trả Lại Em Yêu” những tháng ngày buồn
Xa cố hương, “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn”
Vẫn vút cao lời ca “Thuyền Viễn Xứ”

“Tìm Nhau”-Tìm Nhau ấm hồn lữ thứ
“Tình Hoài Hương” xao xuyến mảnh tim côi
Nhớ nghẹn ngào “Người Đi Qua Đời Tôi
Và dĩ vãng “Còn Chút Gì Để Nhớ”

“Kiếp Nào Có Yêu Nhau” để “Tình Lỡ”
“Hẹn Hò” cố nhân “Nha Trang Ngày Về”
“Ngàn Thu Áo Tím” một thời say mê
“Ngày Em Hai Mươi Tuổi” đầy mộng ước

“54-75” nổi trôi theo mệnh nước
“Mẹ Việt Nam Ơi” quá đỗi ngọt ngào
“Tình Ca”, ôi tiếng nước tôi dạt dào
“Nước Mắt Rơi” thương “Quê Nghèo” xa cách

Xin chào tiếng ca muôn đời tha thiết
“Hội Trùng Dương” mang theo phút “Biệt Ly”
“Bài Hương Ca Vô Tận” tiễn người đi
“Đường Xưa Lối Cũ” –“Nghìn Thu”- yên nghỉ!

Kim Loan
Tháng 3/2021
(Ghi chú hình: Tôi đang trình bày Ngày Xưa Hoàng Thị tại trại tỵ nạn Panatnikhom năm 1992)

Lịch Sử Cải Cách Của Kitô Giáo Và Tôn Giáo


1. Chúa Jesus 

 

* Hoàng đế Constantine

 

Hoàng đế Constantine I có mẹ, Helena, là người Kitô Giáo.  Trong trận chiến Milvian Bridge (312), ông ra lệnh cho quân sĩ dùng khiên (shields) có biểu tượng Kitô Giáo giống như ông nằm chiêm bao trong đêm trước.  Sau khi thắng trận, Hoàng đế Constantine I (Hoàng đế của Tây Đế quốc) cùng với Hoàng đế Licinius I (của Đông Đế quốc) ra Sắc lệnh Milan (Edict of Milan) vào năm 313, bảo đảm sự khoan dung cho những người Kitô Giáo.  Sự ngược đãi người Kitô Giáo hoàn toàn chấm dứt và theo Kitô Giáo là hợp pháp.  

Hoàng đế Constantine I giúp Kitô Giáo: xây nhà thờ, đặc cách (priviledge) cho tu sĩ và hàng giáo phẩm, dùng những người Kitô Giáo trong chính quyền, trả lại tài sản trước đã bị sung công...

Năm 324, Hoàng đế Constantine I đánh bại Hoàng đế Licinius I (trị vì: 308-324) và làm Hoàng đế cả Đông và Tây Đế quốc La Mã.

 

Mặc dù giúp đỡ Kitô giáo, Hoàng đế Constantine I chỉ chịu lễ Rửa tội (baptized) ngay trước khi qua đời vào năm 337.

 

* Công Đồng Nicaea và Arianism 

 

Năm 325 Constantine I triệu tập Công đồng Nicaea (Council of Nicacea), Công đồng Kitô giáo toàn cầu lần thứ nhất (1st ecumenial council): tôn trọng giáo lý, diệt tà giáo (heresy) và duy trì thống nhất thành một Giáo hội (ecclesiastical unity).

 

Công đồng Nicaea tạo ra Kinh Tin Kính Nicene (Nicene Creed) bắt đầu bằng câu "Tôi tin kính" (I believe) thay vì "Chúng tôi tin kính" (We believe) đã dùng từ trước.  Về sau Giáo hội Anh (Aglican Church) và đa số các Giáo phái Kháng Cách (Protestant) cũng bất đầu như vậy.

 

Công đồng Nicaea chấp nhận Trinitarianism và kết án Arianism là Tà giáo (Heresy).

Có 2 giáo thuyết trong Thần học về Đấng Kitô (Christology) lúc bấy giờ cũng đề cập tới trong Công đồng Nicaea: Trinitarianism (Homoousanism) và Arianism

Christology: lý thuyết về Bản thể của "Godhead" của Kitô Giáo, đó là bản thể của sự liên quan giữa Thiên Chúa (God) và Jesus.

Trinitarianism từ Giám mục Athanasius của Alexandria (Ai Cập) cho rằng: 

         Thiên Chúa, Đức Chúa Cha và Đấng Giê-su Kitô, Đức Chúa Con là một bản thể và cùng hằng sống vĩnh viễn (God, the Father and Jesus Christ, the Son as one of essence or co-substantial and co-eternal).  Có nghĩa là Thiên Chúa (Đức Chúa Cha) và Đấng Giê-su Kitô (Đức Chúa Con) có cùng một Thần tính (Divinity).

Arianism từ Arius, một giáo sĩ ở Alexandria (Ai Cập)

         từ chối Thần tính của Đấng Giê-su Kitô (Divinity of Jesus Christ).  Thần tính của Đức Chúa Cha ngự trên Đức Chúa Con (The Father's divinity over the Son).

 

Công đồng Nicaea (325) và sau nầy Công đồng Constantinople (381) kết tội Arianism là Tà giáo (heresy) nhưng vẫn có giáo sĩ và tín đồ Kitô Giáo theo Arianism cho đến thế kỷ thứ 5 và thứ 6.  Ulfilas, giám mục đầu tiên của người Goths theo Arianism.  Hoàng đế Constantine I được rửa tội (baptised) trước khi chết bởi một giám mục theo Arianism.

 

* Hoàng đế Theodosius I

 

Năm 380, Sắc lệnh Thessalonica (Edict of Thessalonica) từ Hoàng đế Theodosius I chính thức dùng Kitô Giáo (Christianity) với giáo lý Trinitarianism là tôn giáo của Đế quốc La Mã.  Không tin theo Trinity là Tà giáo (Heresy).

Năm 392, Hoàng đế Theodosius I chấp nhận Kitô Giáo là quốc giáo của Đế quốc La Mã và sự thờ phượng những vị thần Hy Lạp La Mã là bất hợp pháp.

 

* Nestorianism

 

Từ Trường phái Edessa: Hai bản thể (nature) của Jesus Christ, thần tính và nhân tính (divine and human), là 2 cá nhân khác nhau (distinct person).  Hậu quả là Mary không thể được gọi là Mẹ Thiên Chúa (Mother of God) mà chỉ được gọi là Mẹ của Đấng Kitô (Mother of Christ).  Người ủng hộ giáo thuyết nầy là Nestorius, Giám mục của Constantinople do đó giáo thuyết có tên là Nestorianism.  


Hoàng đế Theodosius II triệu tập Hội nghị Ephesus (Council of Ephesus) vào năm 431 bác bỏ Nestorianism và ngược đãi (persecuted) những người Kitô Giáo theo Nestorianism.  

Họ trốn sang Đế quốc Sasanium (Persia).  Lúc đó tôn giáo chánh của Persia là Hỏa giáo (Zoroastrianism) nhưng họ vẫn tồn tại tới ngày nay dưới Giáo hội của họ ở đây là Đông Giáo hội (Church of the East).

 

* Miaphysitism

 

Năm 451, Công đồng Chalcedon kết luận: Hai bản thể của Christ, thần tính và nhân tính (divine and human), chia ra hai phần của một thực thể (were separated both part of a single entity).


Những người Kitô Giáo bác bỏ giáo lý nầy tự gọi là những người Miaphysites.  Ly Giáo (Schism) từ những người nầy tạo ra Giáo hội Cộng đồng (Communion of Church) gồm có Armenia, Syria và Ai Cập gọi chung là Chính Thống giáo Miền Đông (Oriental Orthodoxy).

 

2. Thánh Lễ và Giáo Sĩ 

 


* Công Đồng Trent (1545-1563)

 

Giáo hoàng Paul III (đăng quang năm 1534) đã đề cử (vào năm 1536) một hội đồng cứu xét những vấn đề nêu lên bởi những nhà Cải cách Kháng cách (Protestant Reform).  Giáo hoàng cũng lập ra một ủy ban gồm các Hồng y để báo cáo những lạm dụng bên trong Giáo hội.  Các Hồng y tìm ra chứng cớ những lầm lỗi do Luther điềm chỉ, gồm có: huấn luyện giáo sĩ không đầy đủ, nhiều Giám mục không đủ tài đức, sự dễ dãi trong các tu viện và các dòng khất sĩ (mendicant orders) và tai tiếng của Giám mục giữ nhiều chức vụ.

 

Cuối cùng tới 9 năm sau Giáo hoàng Paul III tụ họp Công đồng của Giáo hội Công giáo ở Trent (1545).  Sở dĩ có sự chậm trễ nầy là vì một phần Hoàng đế Charles V của Đức muốn tổ chức trên lãnh thổ của mình và vua Francis I của Pháp thì không muốn Charles có ơn huệ đó.

Từ lúc đầu không tốt (chỉ có 3 sứ thần của Giáo hoàng và 31 Giám mục trong buổi họp đầu tiên), Hội đồng tăng trưởng dần trong vòng 18 năm.  Có những khoảng thời gian hội đồng không được triệu tập.  Hội đồng họp trong những năm 1545-47 dưới thời Giáo hoàng Paul III; 1551-52 dưởi thời Giáo hoàng Julius III và 1562-63 dưới thời Giáo hoàng Pius IX.

 

Nghị quyết của Giáo hội Công giáo ở Công đồng Trent.

Về vấn đề những lạm dụng bên trong Giáo hội, Công đồng công nhận giá trị của những chỉ trích (như Giám mục và linh mục thối nát, bán đặc quyền và những lạm dụng khác về tài chánh) và đặt ra những phương cách sửa đổi: 

         những Chủng viện (seminars) để giáo dục giáo sĩ tốt hơn, 

         luật chặc chẽ cho giám mục ở giáo khu của mình, 

         cải cách trong những dòng tu viện.

Với những bước thực hành trên được áp dụng, Hội nghị từ chối không nhượng bộ trong những vấn đề về giáo lý (doctrine), về Dòng tu và về phép Bí tích: 

         vẫn giữ 7 phép Bí Tích (Sacraments) và vẫn giữ "Hóa thể" (Transubtantiation): bánh và rượu thánh là thân thể và máu của Đấng Kitô (Christ).

         chối bỏ  (reject) sự kết hôn của linh mục 

         chấp nhận (endorse) cả 2 biện minh bằng việc làm và đức tin (justification by works or faith).  Tín điều Cứu rổi (dogma of salvation) thích đáng từ Đấng Kitô (Christ) bằng cách sống theo đức tin và việc làm (works) 

         tái xác định sự hiệu nghiệm (efficacy) của đồ nhà thờ (relics) và đặc quyền (indulgences) có nghĩa là không bãi bỏ việc bán đặc quyền bằng đồ nhà thờ của Giáo hội. 

         tái xác định sự sùng bái thờ phượng (cult) trinh nữ Mary và chư thánh, và hành hương.

Hội nghị cũng cải thiện (improve) kỹ luật và quản trị của Giáo hội trong giáo khu và tu viện.

         Không khoan dung việc bổ nhiệm Giám mục vì lý do chính trị.  

         Bãi bỏ sự khiếm diện của Giám mục trong giáo phận (diocese) của mình (Absenteeism).  (Lúc trước, có Giám mục thường ở Rome hay ở bất động sản riêng).  

         Giám mục có quyền lực nhiều hơn giám sát tất cả mọi phương diện thuộc về tôn giáo.  Có Giám mục đi tới các giáo khu (parish) xa xôi để nâng cao tiêu chuẩn.  

         Trong Giáo khu, tăng lữ trong suốt thế kỷ thứ 17 đều hoàn toàn tuân giữ luật độc thân của Giáo hội. 

 

Tuy Công đồng Trent không chính thức bãi bỏ việc "Bán đặc quyền" nhưng sau đó vào năm 1567, Giáo hoàng Clement VIII bãi bỏ tất cả những Trợ cấp (grant) từ đặc quyền gồm tất cả lệ phí và những khoảng tiền chuyển giao bằng những cách khác.  

 

* Pháp lễ Bí Tích

 

Số lượng và bản thể của pháp lễ Bí Tích (Sacraments) của Kitô giáo là 1 trong những vấn đề tranh cãi trong phong trào Cải cách.  

Trong 1000 năm đầu của Kitô giáo Bí Tích dần dần được chấp nhận trong cả 2: Chính Thống giáo Hy Lạp (Greek Orthodoxy) và Công giáo La Mã (Roman Catholicism) là có 7 phép Bí Tích (có nghĩa là những Lễ trong đó có hiện diện của sự tha thứ của Thiên Chúa).

7 phép Bí Tích (Sacraments): 


         Lễ Rửa Tội (Baptism), 

         Lễ làm Phép Thêm Sức (Confirmation), 

         Lễ nhận Thánh thể (the Eucharist), 

         Lễ Giải Tội (Penance), 

         Lễ xức dầu thánh cho người sắp chết (Extreme Unction of the dying), 

         Lễ phong Chức Linh mục (Ordination of Priests), 

         Lễ Hôn phối (Matrimony)

 

Trong phong trào Cải Cách (Reformation), với các nhà Kháng Cách tự giới hạn chân lý chỉ được tìm thấy trong Kinh Thánh, thì rõ ràng chỉ có 2 trong 7 phép Bí Tích được Jesus nhận là pháp Lễ (rituals):

         Lễ Rửa Tội (baptism): Jesus nhận từ John the Baptist, và 

         Lễ nhận Thánh thể (the Eucharist): Jesus ra lệnh (enjoin) trên các môn đồ trong Bữa tiệc cuối cùng (the Last Supper).

Các Giáo hội Protestant (Kháng Cách) giảm Bí Tích còn 2 lễ nầy mà thôi, rồi không đồng ý về căn bản (nature) của chúng.  Trong những năm đầu, Zwingli gây chiến với các người Cấp Tiến ở Zurich về Lễ Rửa Tội cho trẻ con và người lớn và không đồng ý với Luther, ở Marburg, về Lễ nhận Thánh thể (the Eucharist) có phải là ẩn dụ hay thể hiện bề ngoài thân thể và máu của Đấng Kitô (Christ). 

 

3. Truyền Giáo toàn Thế Giới trong thời Cận Đại

 

* Lan tràn của Công giáo

 

Nhờ Thời đại Khám phá (Age of Discovery) rồi từ thế kỷ thứ 17, các Đế quốc Công Giáo như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mở rộng thuộc địa, Giáo hội Công giáo lập những phái đoàn truyền giáo (missions) đi khắp nơi trên thế giới: Bắc và Nam Mỹ châu; Á châu kể cả vùng Viễn Đông; và Phi châu.  Các đoàn truyền giáo thuộc những dòng Jesuits, Franciscans (có Francisco Xavier), Dominicans và Augustinians.  Họ thu phục được nhiều người bản xứ theo đạo: người Aztecs (Bắc Mỹ), người Incas (Nam Mỹ), người Phi Luật Tân (Á châu)...

Phong trào truyền giáo của Giáo hội Công giáo La Mã tiếp tục cho tới đầu thế kỷ 20

 

* Truyền giáo ở Phi châu

 

Vì truyền giáo Công giáo nên Ethiopia ở Phi châu có nội chiến.  Năm 1622, vua Susenyos theo đạo.  Nội chiến bùng nổ năm 1626, vua phải thoái vị.  Người con và kế nghiệp là Facilides đuổi Tổng Giám mục Afonso Mendes và dòng Jesuits ra khỏi nước (năm 1633).  Năm 1665, chính quyền Ethiopia đốt tất cả kinh sách Công giáo trong nước.

Cho đến cuối thế kỷ 19, nhờ kỹ thuật và vũ khí tân thời, quyền lực của Âu châu mới kiểm soát được nội địa Phi châu.  Các nhà lãnh đạo mới giới thiệu nền kinh tế dủng tiền mặt nên cần người Phi châu phải biết đọc và biết viết, như vậy cần có trường học.  Chuyện đó chỉ có thể thực hiện nhờ các nhà truyền giáo của Công giáo.  Các nhà truyền giáo theo chánh quyền thuộc địa vào Phi châu và xây trường học, tu viện và nhà thờ.

 

* Truyền giáo ở Trung Quốc

 

Truyền giáo ở Trung Quốc không có trở ngại ngay từ đầu.  Nhà thờ Công giáo đầu tiên lập ở Bắc Kinh (1650).  Hoàng đế và triều đình Trung Quốc không hề cấm đạo.  Lãnh tụ truyền giáo ở Trung Quốc là Matteo Ricci cho phép người Công giáo Trung Quốc được thờ người chết như theo truyền thống (veneration of the dead).  

 

Giáo hội La Mã không đồng ý việc làm thích nghi nầy và ra lệnh cấm 2 lần (1692 và 1742).  Đó là "Sự bàn cãi về lễ nghi" (Rites controversy).

Ở Trung Quốc, Giáo hoàng Benedict XIV ra sắc lệnh "Ex Quo Singulari" (1742) lập lại ngôn từ của sắc lệnh cũ của Giáo hoàng Clement XI (1692) và nhấn mạnh sự trong sạch trong giáo điều và truyền thống Kitô giáo, phải được tuân giữ chống lại Tà giáo.  Nhà truyền giáo bị cấm không được tham gia vào thờ kính tổ tiên, vào Nho giáo và Hoàng đế Trung Quốc.  Sắc lệnh (Bull) nầy tiêu diệt mục tiêu truyền giáo của dòng Jesuits vào tầng lớp thượng lưu ở Trung Quốc.  Chính sách của Tòa Thánh là bản tử hình của việc truyền giáo ở Trung Quốc.  

Sau đó việc "Sự bàn cãi về Lễ nghi" (Rite Controversy) đưa tới Hoàng đế Khang Hi nên Hoàng đế ra lệnh việc truyền giáo là phạm luật.  Hoàng đế cảm thấy bị lừa (duped) và từ chối cho phép những thay đổi trong việc thực hành Kitô giáo vào lúc đó.

Vấn đề nầy kéo dài hàng trăm năm cho mãi tới năm 1939, Giáo hoàng Pius XII ra sắc lệnh cho phép người Công giáo được thờ cúng và sùng bái người chết (như tổ tiên của mình)

 

* Truyền giáo ở Mỹ châu

 

Vào thế kỷ 18, Dòng Jesuits ủng hộ người bản xứ ở Nam Mỹ chống lại quyền lực thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.  Tuy nhiên Giáo hoàng Clement XIII vẫn cố duy trì dòng Jesuits mặc cho áp lực chính trị ở Âu châu.  Năm 1713, các nhà lãnh đạo ở Âu châu hợp lại và chính thức bắt buộc Giáo hoàng đóng Dòng Jesuits.  Từ đó Dòng phần lớn ngưng hoạt động ở Âu châu.  

Năm 1814, Giáo hoàng Pius VII ra sắc lệnh Sollicituddo Omnium Ecclesiamrum phục hồi dòng Jesuits. 

 

Ở Nam Mỹ và Mexico, các nhà truyền đạo tiếp tục dưới quyền của chính phủ thuộc địa (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) cho tới thế kỷ thứ 19.  Junipero Serra (1713-1784), giáo sĩ dòng Franciscans người Tây Ban Nha lập ra hàng loạt những hội truyền giáo mà sau nầy trở thành những cơ quan quan trọng về kinh tế, chính trị và tôn giáo.  Đó là những hội truyền giáo ở Baja California và Alta California (ngày nay từ San Diego tới San Francisco).

 

Trong thế kỷ 19, ở các thuộc địa của mình ở Mỹ châu, chính quyền của 2 nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lạm dụng quyền lực của mình không những đối với dân bản xứ mà còn đối với các hội truyền giáo (thường đứng cùng phe với người bản xứ).  

Ở Nam Mỹ, Dòng Jesuits bảo vệ dân bản xứ không bị buôn bán như nô lệ bằng cách lập ra những chỗ định cư bán độc lập gọi là "Reductions".  Giáo hoàng Gregory XVI tranh đấu với quyền lãnh đạo của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha bằng cách bổ nhiệm Giám mục của mình, kết tội chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ trong năm 1839 (papal bull In supremo apostalatus), và chấp nhận thụ phong người bản xứ vào Tăng lữ mặc cho sự kỳ thị của chính quyền thuộc địa. 

Chỉ có sau khi chế độ thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha bị đổ bể (vào giữa thế kỷ 19), Giáo hội Công giáo LaMã mới lãnh đạo hoàn toàn hoạt động truyền giáo qua tổ chức truyền giáo "Propaganda Fide" của Giáo hội.

 

4. Đức Mẹ Mary


 

* Sùng bái Mary (Devotion to Mary)

 

Giáo hoàng Paul V (năm 1617) và Giáo hoàng Gregory XV (năm 1622) công bố: Tình trạng " Mary đã thụ thai không tinh khiết (non-immaculate)" là vô giá trị (invalid).  Có nghĩa là Sự thụ thai của Mary (sinh ra Jesus) là tinh khiết (Immaculate Conception).

Giáo hoàng Alexander VII tuyên bố (năm 1661) là Linh hồn của Mary không phạm tội từ nguyên thủy (free of original sin). 

Lòng thành kính Mary trong dân chúng tăng lên qua hành hương, sùng bái, kịch nghệ, thánh ca (hym), đám rước (procession) và giáo đoàn (fraternity).

 

* Tôn sùng Mary (Veneration of Mary)

 

Các Giáo hoàng từ xưa luôn muốn làm sáng tỏ sợi dây nối liền bên trong giữa Trinh nử Mary như là Mẹ của Thiên Chúa (Mother of God) và sự chấp nhận hoàn toàn của Giê-su Kitô (Jesus Christ) như là Con của Thiên Chúa (Son of God). 

Từ thế kỷ thứ 19, có môn học về Maria (Mariology) mở mang ra để giải thích sự tôn sùng Mary không những trong lãnh vực Đức tin vào Mary mà còn việc tôn thờ và sùng bái.  Giáo hoàng bắt đầu dùng sắc lệnh của mình (encyclicals) thường hơn.

         Giáo hoàng Leo XIII (the Rosary Pope), ra tất cả 11 sắc lệnh về Mary.

         Sùng bái "Đức Mẹ đồng trinh đầy ơn phước" (Blessed Virgin Mary) với 2 tín điều: Pius IX với Sự Thụ thai tinh khiết (Immaculate Conception) (1854) và Pius XII với Lễ Thăng thiên của Thánh mẫu đồng trinh Mary (Assumption of Mary).

         Các Giáo hoàng Pius IX, Pius XI và Pius XII chấp thuận sự sùng bái Mary hiện ra ở trần gian như ở Lourdes và Fatima.

Hội đồng Vatican lần thứ nhì làm sáng tỏ sự quan trọng của sùng bái Mary trong sắc lệnh Lumen gentium.  Trong khi Hội đồng nhóm họp, Giáo hoàng Paul VI công bố Mary là Mẹ của Giáo hội (Mother of the Church).

 

Như vậy trước Hội đồng Vatican thứ nhất, Giáo hoàng Pius IX được đại đa số các Giám mục ủng hộ, công bố tín điều của sự Thụ thai Tinh khiết (Immaculate Conception).

 

5. Giáo Hoàng


 

* Công  Đồng Vatican thứ nhất (1st Vatican Council)

 

Ngày 7-2-1862, Giáo hoàng Pius IX ra Hiến pháp của Giáo hoàng (Papal Constitution = Ad Universalis Ecclesiae) liên quan tới điều kiện gia nhập những Dòng Công giáo của giáo dân trong đó có viết ra nghi thức "Khấn Hứa Trang Nghiêm" (Solemn Vows).

 

Giáo lý về quyền Giáo trưởng của Giáo hoàng (papal primacy) mở mang thêm vào năm 1870 trong Hội Đồng Vatican, tuyên bố rằng "Trong sự xếp đặt của Thiên Chúa, Tòa Thánh La Mã giữ sự hoàn toàn siêu việt (preeminence) của quyền lực thông thường trên tất cả những Giáo hội khác".

Cộng đồng cũng xác nhận giáo lý tín điều (dogma) 

         của Đặc quyền tối cao của Giáo hoàng (papal infallibility).  Tuyên bố rằng Đặc quyền tối cao của cộng đồng Kitô giáo trải rộng tới chính Giáo hoàng, khi Giáo hoàng diễn nghĩa giáo lý về Đức tin hay Đạo đức (faith or Morals) cần phải tuân giữ trong toàn Giáo hội).

         của Quyền lực tối cao của Giáo hoàng).  Thẩm quyền (jurisdiction) tối cao (supreme), đầy đủ (full), ngay tức khắc (immediate) và phổ thông toàn thế giới (universal) của Giáo hoàng.

 

Hội Đồng định nghĩa "lưỡng quyền" giáo trưởng của Giáo hoàng: một là đặc quyền tối cao trong giảng dạy về đức tin và đạo đức và hai là thẩm quyền giáo trưởng liên quan tới chính quyền và kỹ luật của Giáo hội.  Sự phục tùng (submission) cho cả "lưỡng quyền" là cần thiết cho đức tin và sự cứu rỗi của Công giáo. (faith and salvation).  Nó chối bỏ ý tưởng là lệnh của Giáo hoàng không có "giá trị sức mạnh trừ khi được xác nhận bởi lệnh của một quyền lực thế tục" và ý tưởng là quyết định của Giáo hoàng có thể được kháng cáo (appealed) lên một hội đồng toàn thế giới (ecumenical) "như là quyền cao hơn Giáo hoàng ở La Mã (Roman pontiff)".

 

6. Vatican City 

 

* Vấn Đề của Rome (1870-1929)

 

Năm 1870, một vương quốc mới được thành lập ở toàn bán đảo Ý và đóng đô ở Rome, đó là vương quốc Ý (kingdom of Italy).  Giáo hoàng Pius IX từ chối không tùy thuộc dưới quyền của chính phủ quân chủ và ở Vatican City (trong thành phố Rome) như một tù nhân.  Người Công giáo bị kỳ thị ở Ý như không được đi bầu chính quyền quốc gia (chỉ được bầu chính quyền địa phương)...

Tiếp theo, Giáo hoàng Leo XIII phải bảo vệ tự do tín ngưỡng của Giáo hội Công giáo chống lại sự ngược đãi và tấn công trong lãnh vực giáo dục, trưng dụng và sung công (expropriation) và xâm phạm những  nhà thờ Công giáo, những âm mưu luật pháp chống lại Giáo hội và những tấn công dã man cuối cùng dẫn đến những nhóm chống lại giáo sĩ toan tính liệng thi thể của Giáo hoàng Pius IX xuống sông Tiber (7/13/1881).

Giáo hoàng Leo XIII tính dời Tòa Thánh từ Rome về Trieste hay Salzburg nhưng bị Hoàng đế Áo-Hung từ chối khéo léo.

Sự mất quyền thế tục của Giáo hoàng đem trở lại uy tín (prestige) cho Giáo hoàng.  Các nhà quân chủ của các nước Công giáo ở Âu châu phục hồi vào thế kỷ thử 19 xem Giáo hoàng như đồng minh hơn là đối đầu về quản trị.  Sau đó nhưng chính phủ lập hiến không có ràng buộc giáo sĩ vào chính sách của hoàng gia, người Công giáo được tự do theo quyền lãnh đạo tâm linh của Giáo hoàng.  Giáo hoàng của thế kỷ 19 và 20 xử dụng quyền tâm linh với lòng sốt sắng và trong mọi phương diện của đời sống tôn giáo.  Thí dụ như từ thời Giáo hoàng Pius IX (1846-1878) Tòa Thánh lần đầu tiên trong lịch sử kiểm soát hoạt động truyền giáo khắp toàn thế giới.

 

* Thành hình của Vatican (1929)

 

Điều đình về "Vấn đề Rome" bắt đầu từ 1926.  Năm 1929, 3 Hiệp ước Lanteran (Lanteran pacts) ký giữa Thủ tướng Benito Mussolini đại diện cho vua Victor Emanuel III và Hồng y Bộ trưởng Nội vụ Pietro Gaspani đại diện cho Giáo hoàng tại lâu đài Lanteran.

         Tạo ra Vatican City là một quốc gia được bảo đảm hoàn toàn quyền độc lập với quyền tối cao của Tòa Thánh.

         Công Giáo (Catholicism) là tôn giáo của nước Ý

         Giáo hoàng được yêu cầu giữ trung lập trong các liên hệ quốc tế (neutrality in international relations).

         Hiệp ước (agreement) về tài chánh được chấp nhận như là giải pháp cho yêu cầu của Tòa Thánh đối với nước Ý khởi từ việc mất quyền thế tục vào năm 1870.

 

* Đệ Nhị thế chiến (1939-1945)

 

Vatican giữ trung lập trong suốt Đệ nhị Thế chiến.  Năm 1944, Hitler đem quân Đức chiếm nước Ý và Rome nhưng chừa Vatican.  Vì Tòa Thánh bí mật cứu giúp quân nhày dù Đồng Minh bị bắn rơi nên Hitler gần muốn đánh Vatican.  May mắn là Rome được chiếm lại trước khi sự kiện nầy xảy ra.

Giáo hoàng Pius XII giúp 15 triệu người bị mất chỗ ở và tỵ nạn, mở rộng Hội đồng Hồng y (College of Cardinal), không còn đa số là người Ý nữa.

 

Sau 1945, người Công Giáo bị ngược đãi ở Liên Xô và các nước Cộng sản: 60 triệu người Công giáo ở Liên Xô với 10 ngàn giáo sĩ và tín đồ bị giết, và hàng triệu bị tù đày vào trong những Gulags ở Liên Xô (và Trung Cộng).  Chế độ Cộng sản ở Albania, Bulgaria, Romania và Trung Quốc thực hành tiêu diệt Giáo hội Công giáo trong nước.  

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết này là trích đoạn từ 2 bài đăng trong phanthuonghai.com

         1) Lịch Sử Kitô Giáo Thời Cổ Đại (Bs Phan Thượng Hải)

         2) Lịch Sử Công Giáo Thời Cận Đại (Bs Phan Thượng Hải)


Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2023

Nguyện Cầu Giáng Sinh 2023 - Thơ: Lê Tuấn - Nhạc: Phạm Mạnh Đạt


Thơ: Lê Tuấn
Nhạc: Phạm Mạnh Đạt

 

Chúa Giáng Sinh

Mùa đông băng giá
Tuyết rơi tuyết rơi
Và trong hang đá
Chúa sinh ra đời

Nằm trong máng cỏ
Chúa tôi Chúa tôi
Hào quang chiếu tỏa
Vinh danh ngôi lời
.
Trời cao vang tiếng
Hát vang hát vang
Tình yêu dâng hiến
Trái tim đá vàng

Còn bao thông thái
Lễ vật kính dâng
Mừng vua bác ái
Ngôi hai giáng trần

Quỳ quanh chiêm bái
Mục tử tung hô
Hồng ân Thiên Chúa
Xóa đi tội đồ

Mùa đông băng giá
Tuyết rơi tuyết rơi
Tình yêu hỉ xả
Tắm ơn Chúa trời.

Bằng Bùi Nguyên


Đi Lễ Nửa Đêm

 

Rằng em chưa hết yêu đâu
Chênh vênh anh đứng trên cầu nhân sinh
Chúa không ruồng bỏ chúng mình
Anh không từ tạ cuộc tình hồn nhiên

Merry Christmas bình yên
Đưa em đi lễ nửa đêm đón Người
Thiêng liêng ngự trị đời đời
Ba ngôi hiệp nhất khắp trời hoa đăng

Em thưa: Lòng Chúa mênh mang
Trái tim Thiên Chúa rỡ ràng bao la
Yêu từ trái đắng nở hoa
Thơ em phong tặng tình ca kiếp này

Lặng thầm dấu thánh in đầy
Merry Christmas đắm say nẻo về
Thiên đường lộng lẫy đam mê
Hồi chuông thức tỉnh hồn si tuyệt vời ...

Cao Mỵ Nhân

Tràn Đầy Ân Phúc Trên Cao!



(Bài Hát Nói cảm ơn và đáp lễ Nữ Sĩ Kim Oanh đã chuyển đến những tác phẩm đặc sắc trong Mùa Giáng Sinh 2023. Xin phép Nữ Sĩ Kim Oanh dùng lời chúc và hai câu thơ của Nữ Sĩ làm Tựa Đề và Mưỡu Tiền của bài Hát Nói này.)

“Nến hồng thắp sáng rạng ngời”
“Giải tội, lặng ngẫm những lời nhẹ buông”!


Có tiếng nào hay bằng tiếng chuông vang động?
Có tim nào đẹp bằng tim Đức Chúa Trời rộng vạn biển khơi?
Có mùa nào vui bằng Mùa Giáng Sinh rực rỡ muôn đời?
Có cuộc đời nào vĩ đại bằng cuộc đời của Chúa Giê Su cứu rỗi toàn nhân loại?

Bác ái cho đi đâu nhận lại!
Hy sinh hiến cả chẳng phàn nàn!
Bỗng sực thấy quyền năng của Ơn Trên những lúc nguy biến, gian nan!
Chắp tay cầu nguyện bằng cả tâm hồn chứa chan ngưỡng vọng!

Chúa đã dùng Phép Lạ chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền, điếc ngọng!
Chúa sinh ra đời trong máng lừa, không võng, lọng, ngựa, xe!
Cái gì của Xê Za hãy trả lại cho Xê Za! Có kẻ không hiểu, không nghe?
Chúa vẫn tha thứ! Hãy dọn mình để về nước Chúa!

Sống vì ích lợi cho mọi người, không lụa là diêm dúa!
Làm tất cả những gì để xoa dịu khổ đau của nhân loại vẫn chết chóc, lầm than!
Lo buồn, tai họa sẽ tan!

Đức Hùng
Sydney, Úc Châu, 20/12/2023


Viết Ở Denver


Trong nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những chuyến layover tại một trong những phi trường lớn nhất nước Mỹ, đó là Denver International Airport. Tuy chưa bao giờ đi vào trong thành phố, mà chỉ nhìn qua cửa kiếng sân bay, qua những chuyến xe bus, xe lửa đổi terminals, tôi vẫn phóng tầm mắt nhìn xa hơn, cộng với trí tưởng tượng bay bổng của mình, để tìm một bóng dáng thân quen, để thấy một Denver mến thương …từ thuở nào! Chuyện là thế này:

Khi tôi vượt biên, mới vào trại tị nạn Panatnikhom, Thailand, liền viết thư cho ông anh bên Mỹ về tình hình trại tị nạn đã bị Cao Uỷ đóng cửa từ ngày 14/3/1989, nên ai đến trại sau ngày này sẽ phải chịu thanh lọc rất khắt khe. Nghe tin đó, anh vội vàng nghĩ suy mọi cách để cứu tôi, chứ dứt khoát không cho tôi quay trở về Việt Nam.
Rồi một hôm tôi nhận được hơn hai mươi lá thư từ Mỹ, chỉ có một cái thư của anh tôi, còn lại là những cái tên Mỹ lạ hoắc.

Ôm một đống thư về nhà, tôi đọc thư anh tôi trước. Anh giải thích rằng đã tự ý giúp tôi bằng cách đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ với ước mong tôi sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ…tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc đáng ghét. Anh cũng nói, tôi đừng sợ hãi, cứ chọn lọc trong các lá thư, tìm ra người nào có vẻ tin cậy thì hồi âm, dù sao cũng là cách giết thời gian và học thêm English, làm bạn bè cũng tốt.

Tình hình trại tỵ nạn lúc ấy quá căng thẳng, không còn chọn lựa nào khác, nên theo lời khuyên của ông anh, tôi mở các lá thư Mỹ ra đọc. Đầu tiên, tôi loại bỏ những thư không có hình kèm theo, tiếp theo là loại những người…viết chữ xấu, cẩu thả, (bệnh nghề nghiệp cô giáo!), rồi loại tiếp những lá thư có hình nhưng nhìn… hổng đẹp trai, và loại luôn những người viết thư …vô duyên (dù trình độ Tiếng Anh của tôi lúc ấy chả có là bao!). Cuối cùng tôi chọn được một lá thư với nét chữ đều đặn, mềm mại, giọng văn chân tình nghiêm túc, nghề nghiệp vững vàng (giáo viên dạy English ở một trường Trung Học ở Denver, Colorado), và tấm hình của một chàng trai Mỹ trắng có nét hiền hoà, dễ mến, tên họ đầy đủ là Don Garner.
Với tất cả vốn liếng English có được, tôi viết thư hồi âm, giới thiệu bản thân, cám ơn Don đã vui lòng kết bạn. Cứ hai tuần một lần, Don gửi một lá thư, kèm thêm tái bút những đoạn dạy tôi grammar mà thư trước tôi đã viết sai, và luôn luôn có những tấm hình phong cảnh Colorado, vì nhiếp ảnh là niềm say mê của Don sau giờ đi dạy. Qua ống kính của Don, tôi đã yêu Denver, yêu Colorado và có lúc đã nằm mơ được đến giữa thành phố và vùng núi đồi nên thơ ấy.


Mùa Giáng Sinh, Don gửi cho tôi một gói bưu phẩm, trong đó có một máy cassette nhỏ xài bằng batteries cho tôi học English, có cả đồ charge, mấy cuốn country music tapes, vài đồ lặt vặt, một hộp bánh cookies và tấm thiệp chúc Noel bên trong có 4 cây candy canes, loại kẹo hình cán dù dùng để trang trí cây thông Giáng Sinh. Nhưng lúc đó, tôi và mấy cô bạn ở chung, chưa bao giờ nhìn thấy candy canes, nên cứ ngỡ đó là một cái gì đó, chắc là để trong thiệp làm vật trang trí theo truyền thống Phương Tây, nên quăng chúng vào một góc nhà. Vài ngày sau, một đứa vô tình làm bể một cây, lấy tay sờ và nếm thì thấy ngọt, lúc đó cả đám mừng húm vì biết đó là…kẹo, cả đám xúm lại ăn liền một mạch hết sạch trong vòng năm phút.

Qua mùa Giáng Sinh, thư từ của Don bắt đầu thưa thớt, và sau đó là lá thư thật dài, Don nói về bệnh skin cancer vừa mới phát hiện vài ngày trước lễ Giáng Sinh. Bác sỹ nói bệnh trong giai đoạn sớm nên chữa trị không khó khăn, có nhiều hy vọng, nhưng sẽ mất nhiều thời gian, nên Don xin nghỉ việc, điều trị và về an dưỡng nơi nông trại lúa mì của cha mẹ vùng ngoại ô Denver.

Đó cũng là lá thư cuối cùng của Don, dù tôi tiếp tục gửi vài lá thư thăm hỏi bệnh tình, về địa chỉ của Don hay nơi trang trại, đều không thấy hồi âm. Tôi tin rằng mình chẳng làm điều gì phật lòng người bạn phương xa, nhưng thực sự không tìm được câu giải đáp của sự im lặng này.

Cuối cùng, tôi tạm thời đưa ra hai giả thuyết. Một là, bệnh của Don đã chuyển biến xấu nên anh ấy không còn thời gian và tâm trí dành cho tôi. Hai là, Don cảm thấy mệt mỏi vì mối quan hệ với cô gái Việt Nam nơi trại tỵ nạn tương lai còn quá xa vời, nên nhân dịp này, Don ngưng liên lạc, để sau này bắt đầu mối quan hệ mới, có khả năng tiến xa hơn trong tầm tay?
Tôi vẫn mong giả thuyết thứ hai là đúng, tôi sẽ không bao giờ buồn phiền hay trách móc một lời, và xin chân thành cám ơn anh đã đến với tôi như một người bạn, hỡi Don thân mến!

Đó là câu chuyện thật, còn sau đây là …chuyện bịa, được viết tại phi trường Denver trong một lần chờ chuyến bay và nhớ về ...Don:

Lạc Nhau Ở Denver

Máy bay vừa hạ cánh
Denver, lạ mà quen
Phi trường mênh mông quá
Sao chưa thấy anh lên?

Người người lướt qua nhau
Terminal kiếm tìm
Hành lý có mang nặng
Vơi đầy, nỗi niềm riêng?

Tôi đứng đó, ngơ ngẩn
Giữa đám đông đợi chờ
Anh sẽ từ đâu đến?
Đừng để tôi bơ vơ

Hẹn chuyến bay nối tiếp
Gặp gỡ tại Denver
Quán café Starbucks
Mình nhắc lại chuyện xưa

Anh mặc áo màu gì?
Xung quanh tôi xa lạ
Những bước chân vội vã
Vẫn thiếu vắng một người

Lẽ nào anh không nhớ!
Hay anh trễ chuyến bay?
Phi đạo trong nắng gió
Vừa đón người về đây?

Tôi phải boarding thôi
Qua gate mà ngập ngừng
Tôi đây và anh đó
Chẳng được phút tương phùng

Máy bay tung đôi cánh
Chơi vơi trong mây trời
Denver bỗng nhỏ bé
Và anh, cũng xa vời!!

Edmonton, Tháng 11/2021
Kim Loan

Bữa Tiệc Giáng Sinh Nhiệm Màu


Chị Bông đã chuẩn bị sẵn hai chậu hoa Trạng Nguyên và ổ bánh Giáng Sinh đặt ở tiệm để mang đến nhà sui gia tương lai Brown. Họ trân trọng mời anh chị Bông tới dự bữa tiệc Christmas Eve dinner. Chị Bông ngắm hai chậu hoa tươi đẹp kể với chồng:
- Khiếp, chợ búa cái gì cũng lên giá, bó hành lá vớ vẩn cũng 1 đồng, bó sà lách 4 đồng. Mấy chậu hoa này cũng lên giá đắt hơn năm ngoái. Nhưng đời em thà nhịn ăn không thể thiếu hoa, em đã mua 4 chậu hoa, nhà mình hai còn hai chốc nữa đem tới sui gia. Sang năm chúng nó cưới nhau con gái mình sẽ là con dâu người ta, em hào hứng đi dự tiệc vì chỗ tình thân chứ em chả ăn nổi mấy món đồ Mỹ của họ đâu.

Anh Bông băn khoăn:
- Anh lo quá, em không thích ăn đồ Mỹ lại được người Mỹ mời ăn, không biết sẽ ra sao?
Chị Bông chớp chớp mắt cảm động:
- Anh lo em đói bụng hả? Em thủ sẵn món tôm rim ba rọi ở nhà lát về ăn cơm rồi.
- Anh không rảnh lo cho emđâu nhé, mà lo mất lòng anh chị Brown kìa nếu họ thấy em hững hờ với món ăn của họ.
Chị Bông cụt hứng, anh Bông cẩn thận dặn dò:
- Em phải lịch sự ăn tất cả những món chủ nhà chiêu đãi, đừng có ỏng eo cố chấp như ở nhà chê món ăn của Mỹ. Mà lạ thật cái gì em cũng thích made in USA, ngày thi đậu quốc tịch Mỹ em mừng húm, con gái lấy chồng Mỹ em ủng hộ nhiệt tình nhưng đồ ăn Mỹ em lại chê. Em chỉ ăn mấy cái hot dog, mấy hamburger, mấy đùi gà tẩm bột chiên, chưa biết gì nhiều về ẩm thực người Mỹ mặc dù anh và con gái từng rủ em đi ăn những nhà hàng Mỹ nổi tiếng để em khám phá có gì ngon nhưng em vẫn không thay đổi. Một là em khó tính hai là em thành kiến ba là khẩu vị em…bất bình thường.

Chị Bông phân bày:
- Anh ạ, món ăn mà nêm mùi vị lạ là em không ăn được rồi. Thí dụ họ nêm mấy cọng Parsley thì em nhớ…cọng ngò rí của mình. Mấy món anh vừa kể cũng đủ “tiêu biểu” cho đồ ăn Mỹ dở ẹc rồi, cũng như bát bún riêu, cái bánh xèo bình dân rẻ tiền của người Việt cũng đủ “đại diện” cho cái ngon món Việt rồi. Thiếu gì người Việt sống ở hải ngoại mà vẫn không ăn nổi đồ bản xứ chỉ ăn món quê mình.
Chị Bông chứng minh:
- Có hai vợ chồng nhà kia từ Canada bay về Việt nam, khi kiểm tra hành lý chó nghiệp vụ phát giác ra “mùi lạ” nên an ninh phải xem lại hành lý trước khi máy bay cất cánh, thì ra bà vợ đã mang theo cả chục ổ bánh mì thịt để lên máy bay…ăn dần. Trong phi trường và trên máy bay thiếu gì món ăn nhưng bà Việt Nam chỉ muốn ăn món Việt Nam nên mới ra nông nỗi. Vì bà chuyến bay phải cất cánh trễ nửa tiếng.
Anh Bông lẩm bẩm:
- Mùi nước tương xịt vào bánh mì bốc ra ai mà chịu nổi, bà này dở hơi…giống như em.
Chị Bông kể tiếp:
- Năm trước một chị kể trên diễn đàn chuyến du lịch Châu Âu của nhóm bạn bè chị ấy, họ không thích ăn những món của tây nên mang theo một nồi cơm điện nhỏ, ít gạo và thức ăn khô như thịt heo chà bông, tôm khô chà bông, xì dầu dưa leo thì mua tại chợ Việt ở Pháp. Ngay giữa thủ đô Paris hoa lệ các bà nấu cơm và …lén lút ăn trong phòng khách sạn, vừa được ăn món ta ngon lành vừa tiết kiệm khối tiền. Nhưng chụp hình thì quần áo đẹp lịch lãm xách bóp hàng hiệu on sale đứng bên cạnh các cửa hàng sang trọng đình đám cứ làm như các bà mới shopping từ trong cửa hàng ấy ra.
Anh Bông kêu lên:
- Ở Pháp, ở Châu Âu có món bánh mì baguette và pate người Việt đều thích, sao các bà ấy không ăn mà phải vác cả nồi đi nấu cơm hở trời?
- Nhưng không lẽ ngày nào cũng ăn bánh mì pate?. Trong khi cơm gạo Việt ngày hai bữa không bao giờ ngán. Thế mới kỳ.

Anh Bông cũng chứng minh:
- Con gái mình sinh ra ở Mỹ dù em đã cho nó ăn đồ Việt Nam từ nhỏ nhưng lớn lên nó vẫn thích đồ ăn Mỹ, đề huề cả hai thứ Việt Mỹ thế mới tuyệt vời, ai như em cứ khư khư món ăn Việt ngon nhất thế giới. Nói chuyện với người Mỹ nào em cũng tự hào khoe nào chả giò chiên giòn, phở bò tái nạm gầu gân sách, gỏi cuốn tôm thjt.
Nhắc đến con gái anh Bông nhớ ra kể tiếp:
- Em cố nhồi nhét các món ăn Việt Nam để dụ dỗ con kẻo mất gốc, món ăn Việt là linh hồn dân tộc Việt, đến nỗi mấy lần con gái đòi ra ở riêng vì ở với mẹ nó lên cân vù vù và cứ phải ăn hoài các món Việt của mẹ…phát ngán. Tổng thống Obama dạo đến thăm Việt Nam cũng ăn bún chả Hà Nội đấy. Em hãy theo gương ông ấy ăn đồ Mỹ đáp lễ đi.
- Ôi, đoàn tùy tùng Mỹ Việt đưa tổng thống Mỹ đi ăn một món ăn truyền thống của người Việt xã giao cho phải phép. May lắm ông Obama ăn mấy miếng thịt nướng chứ làm gì có chuyện ông ấy ăn cả đĩa bún chả và xì xụp húp nước mắm như người Việt Nam chúng ta. Em sống ở Mỹ mấy chục năm mà không thể nào ăn điểm tâm nổi với món cereal chế sữa tươi đây nè..
Chị Bông vui vẻ và tự tin:
- Nhưng mai mốt em sẽ huấn luyện cho con rể Mỹ này, cho cháu ngoại này và biết đâu cả anh chị sui gia Brown này sẽ ăn và thích mê đồ Việt Nam luôn. Anh chờ xem.


Bàn tiệc nhà Brown bày ra thật lộng lẫy, nhưng nhìn con gà tây quay vàng giữa bàn chị Bông ngao ngán ao ước phải chi là con gà ta hấp muối hay gà xối mỡ. Nhìn món thịt bò nướng lò trải nấm bày trên mặt, chị Bông ước gì nó biến thành tô bò kho hay tô bún bò Huế. Nhìn dĩa salad to trộn đủ loại rau củ gì đó chị Bông tiếc thầm và ước gì đó là đĩa gỏi ngó sen tôm thịt rắc rau răm đậu phộng rang lên trên thì ngon biết mấy. Liếc nhìn trên quầy chai rượu Whisky để sẵn lát nữa chủ nhà sẽ pha chế cocktail chị Bông cũng chẳng màng, lại dấu tiếng thở dài và ao ước phải chi đó là ly chè sương sa hột lựu hay ly chè bà ba bánh lọt cho đã thèm.

Vợ chồng chị Bông ngồi đối diện vợ chồng Brown, con gái và con rể tương lai của nhà chị ngồi bên nhau. Bữa tiệc Giáng Sinh gọn nhỏ ấm cúng không khí gia đình.
Chủ nhà phục vụ khách tận tình, chị Brown cắt lát gà tây vào đĩa cho chị Bông. Món gà tây nướng chị ăn nhiều lần mỗi dịp lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh chẳng ngon lành gì nên cố dấu nỗi ơ hờ ăn miếng gà tây nướng tỏi sốt bơ này, nhưng đến món thịt bò nướng lò thì bất ngờ với chị Bông, rất ngon, thịt bò chín mềm vẫn giữ vị ngọt đậm đà của thịt và thơm mùi hạt tiêu cay. Củ khoai tây nướng đi kèm theo món bò đút lò tưởng “vô dụng” với chị Bông thế mà khi chị Bông mở lớp giấy bạc ra, múc thìa khoai nóng ăn thử cũng phải khen thầm làm cách gì mà khoai ngon đến thế. May quá chị Brown hãnh diện nói về món khoai tây nướng của chị:
- Khoai tây Idaho nướng rất ngon, chúng tôi nhét vào củ khoai vừa nướng xong một chút bơ và bacon băm nhuyễn nên khoai mặn mà thơm béo ngất ngây.

Món baby salad trộn với pecan, cherries khô và cheese, tưới nước gia vị dầu giấm gì đó thì chị Bông chịu thua chỉ ăn lấy lệ cho chị Brown vừa lòng. Khi cầm ly cocktail trên tay chị Bông không dám coi thường nữa, nãy giờ chị đã …choáng váng vì thịt bò nướng, khoai tây nướng rồi nên chị trân trọng nếm chút thơm mát, chút vị ngọt cay nồng của Whisky với syrup và cảm thấy một chút lâng lâng dễ chịu vô cùng.
Tới món popcornopolis tráng miệng, chị Bông nghĩ thầm người Mỹ lạ thật món “bắp rang” trẻ con cũng hiện diện trên bàn tiệc Giáng Sinh, chị nhón một hai hột bắp ăn cho phải phép, thấy ngon ngon, những hột bắp rang thấm caramel và chocolate vừa mềm vừa giòn thật tuyệt vời.
Ồ, thì ra có những món Mỹ ngon mà hôm nay vì cả nể chủ nhà là sui gia tương lai chị Bông mới ăn và biết đến. Những món này chẳng cao sang đắt đỏ gì chỉ tại chị không quan tâm đến chúng mà thôi. Hôm nào chị sẽ xin chị Brown recipe làm món thịt bò nướng lò xem sao.
Dân tộc nào cũng có nhiều món ăn, ngon dở là tùy ý thích mỗi người, chị Bông yêu thích món Việt nhưng cũng có nhiều món Việt thuần túy chị không ăn nổi như tiết canh, thịt chó, mắm tôm, mắm cá. Nhìn chậu mắm tôm, chậu mắm cá bày ngoài chợ chị đều né tránh xa, chưa một lần nếm thử trong đời.

Trong khi chị Brown chăm sóc và nói chuyện với chị Bông thì câu chuyện giữa anh Bông và anh Brown, giữa đôi trẻ vẫn rộn ràng bữa tiệc. Thỉnh thoảng chồng và con gái lại quay qua chị Bông nói chuyện đôi câu và mỉm cười hài lòng. Họ tin rằng từ hôm nay chị Bông sẽ không thành kiến món ăn Mỹ nữa. Những món Việt vẫn ngon nhưng bên cạnh đó cũng có những món ngon của các dân tộc khác mà chúng ta chưa quen ăn hay chưa có dịp dùng đến mà thôi.

Một bữa tiệc Giáng Sinh thật vui với mọi người và thật nhiệm màu đối với chị Bông.

Nguyễn Thị Thanh Dương
( Dec. 1, 2023)