tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Năm, 18 tháng 7, 2019
Trăm Đường Rộn Rã
(Hồi ký thơ 1952-2019)
"Áng công danh trăm đường rộn rã"
(Chinh Phụ Ngâm)
Quê quán
Hỏi quê: Rằng xứ đa tình
Liền anh liền chị hát liền thâu đêm
Nhịp cầu quan họ trao duyên
Thương nhau “Đến hẹn lại lên” em chờ.
Trường Đại học Y khoa Hà Nội: 1952-54
Chàng tuổi trẻ vốn đầy hoài bão
Theo nghề Y lòng náo nức vui
Mai sau giúp nước, cứu đời
Tình thương reo rắc mọi người, khắp nơi.
Trường Quân Y: 1952-57
Nước nhà gặp buổi nhiễu nhương
Nghề Lang đeo đuổi, lên đường trường chinh
Một tay se sợi chỉ tình
Một tay cầm súng giữ yên đông đoài.
Trường Võ bị Quốc gia Đà-Lạt: Hè 1954
Lên non học võ, tầm sư
Tin đâu sét đánh, sơn hà chia đôi
Múa gươm chỉ ngọn cờ bay
Thăng Long thầm hẹn một mai trở về.
Sài Gòn đêm đầu tiên, ngủ trường Gia Long: Hè 1954
Từng nghe Hòn ngọc Viễn Đông
Tới đây mới rõ tin đồn chẳng sai
Ngủ trường “ Áo tím” đêm nay
Quân trang tạm cởi, mộng đầy bướm hoa.
Tốt nghiệp Y khoa: Hè 1957
Mãn khóa, nàng Y sẻ ngọt bùi
Chiếc hôn âu yếm gắn trên môi
Cầm tay thủ thỉ: “Từ đây nhé
Ta sẽ cùng đi trọn cuộc đời.”
Trung đoàn 131, Long Xuyên: 1957-58
Miền Tây nhớ thuở hạ sơn
Cửu Long hai dải, tiền đồn một gươm
Tình người như lúa mênh mông
An Giang sóng vỗ, mộng vàng mơn man.
Tổng y viện Tripler, Honolulu, Hawaii:1958
Hawaii hòn đảo thanh bình
Cỏ xanh biếc mộng, mắt xanh biếc tình
Giấc Đào Nguyên khéo bất bình
Đang mơ...lệnh triệu về miền loạn ly.
Liên đoàn Nhảy Dù: 1958-1960
Khi xưa trốn học, nhảy dù
Giờ mê mũ đỏ lại vô lính dù
Quanh năm dãi nắng, dầm mưa
Rừng lan, đồi trúc, suối mơ dựng lều.
Trường Đại học Luật khoa: 1957-1960
Ôm một nàng Y đủ nhức đầu
Đèo bồng ả Luật tổ phờ râu
Nghĩ lại hai cồng nên chọn một
Đào cho thật kỹ, bới thật sâu.
Trại Nhập Ngũ số 1: 1960-1961
Bút nghiên người đổi đao cung
Nửa đêm nghe hịch lên đường tòng quân
Nhìn ai bịn rịn tiễn chân
Tay phê chữ “ Tốt”, bâng khuâng cõi lòng.
Giáo sư Trường Quốc gia Sư phạm và Gia Long: 1960-1964
Duyên đưa nối gót ông, cha
Gõ đầu trẻ vốn nghiệp nhà xưa nay
Nghề nào cũng được làm Thầy
Nghề Lang được phước, nghề Thầy được yêu.
Trường Đại học Văn khoa: 1962-1965
Học nhiều càng thấy tổ ngu
Uổng công gây dựng cơ đồ lăng nhăng
Nửa quan, nửa lính nhập nhằng
Văn dốt, vũ dát thêm bằng ích chi?
Fort Sam Houston, Texas: 1961
Thấy người bay nhẩy đó đây
Bốc đồng chợt muốn nếm mùi cow-boy
Tếch sang Texas thử thời
Chẳng bò để cưỡi, lên đồi nằm trơ.
Cán bộ Trường Quân Y: 1961-1965
Về Trường mới biết vận may
Cơ duyên tương ngộ bao người đồng môn
Nay dù lưu lạc tha hương
Mười phương vẫn gặp bạn vàng hàn huyên.
Quân Y Viện Trương Bá Hân, Sóc Trăng: 1965-1969
Làm thơ xưa tiễn đưa người
Suối vàng người đọc lại vời gọi ta
Người từng da ngựa bọc thây
Ta nay cố giữ danh người mãi thơm.
Tổng Y Viện Duy Tân, Đà Nẵng: 1969-1971
Bị đầy ra ải địa đầu
Lạ thay, lòng thấy ít sầu, nhiều vui
Thì ra nhẹ gánh trên vai
Sớm chiều bù khú, vui vầy vợ con.
Bệnh viện Cà Mau: 1971-1975
Chọn nơi khỉ gáy, cò ho
Bốn năm xây dựng cơ đồ cũng nên
Đầm Dơi, Rạch Sấu, U Minh
Dễ thương khác hẳn cái tên khiếp hồn.
Ra khơi: Tháng 4.1975
Ra khơi mới thấm tình yêu nước
Bờ mỗi lùi xa mỗi vấn vương
Trời cao, đất rộng mênh mông thế
Chẳng lẽ ta không chỗ tựa nương?
Tỵ nạn tại Toronto: 1975-1976
Bao năm xây dựng cơ đồ
Một ngày sạch bách còn ngờ trong mơ
Một đàn năm đứa con thơ
Vợ chồng tay trắng, ngẩn ngơ quê người
Y sĩ Thường trú tại Quebec City: 1976-1978
Tưởng rằng phải bỏ nghề Thầy
Rửa dao, gác kéo một thời gác- dan
Ngờ đâu trời vẫn đoái thương
Lại choàng áo trắng, vấn vương tình người.
Y sĩ Thường trú năm thứ ba tại London, Ontario: 1978-1979
Đổi đi thường trú London
Môn Vi Sinh Học những toan theo cùng
Pasteur: lòng muốn noi gương
Vợ con nheo nhóc bỏ ngang cũng đành.
Hành nghề tại Thousand Islands, Ontario: 1979-1980
Ôi! Đây Ngàn Đảo thần tiên
Bước chân du tử lạc miền Bồng Lai
Mới hay muôn sự tại trời
Qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai.
Mở phòng mạch tại Toronto: 1980-2011
Lưu lạc giang hồ xứ tuyết băng
London, Quebec tới Kingston
Đàn chim mỏi cánh bay tìm tổ
Mới chọn thành Tô, đậu đất lành.
Tham dự các Đại hội Y Nha Dược sĩ
Ra trường mỗi kẻ một phương
Một đàn chim Việt tình bằng buộc chân
Nghe tin họp bạn mỗi lần
Đường xa, núi cách, sông ngăn cũng tìm.
Tái ngộ bạn xưa
Gặp nhau tâm sự hàn huyên
Niềm kia nỗi nọ thêm tình nước non
Tay chia, lòng mãi tần ngần
Mỗi kỳ tái ngộ, vắng dần bạn xưa.
65 tuổi vẫn còn hành nghề
Sổ đời: Tuổi đã ngả vàng
Sổ nghề: Cũng bốn chục năm có thừa
Chưa đành rũ áo, rửa tay
Lòng còn lưu luyến nụ cười Nàng Y.
Về hưu năm 80 tuổi: Tháng 7.2011
50 năm lẻ giang hồ
Chữ “ Nhàn” mơ ước đền bù hôm nay
Thảnh thơi gác kiếm, rửa tay
Nàng Thơ đón đợi, vui vầy điền viên.
Sinh nhật 88 tuổi: Tháng 7.2019
Nhân sinh thất thập cổ lai hi
88 mà ta vẫn ở lỳ
Vẫn bám cuộc đời như điả đói
Vẫn còn tình tự với Nàng Thi...
Hoàng Xuân Thảo
Toronto tháng 7.2019
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Xin phép trưởng bối Hoàng Xuân Thảo được dùng tên vào bài thơ ngẫu hứng này và xìn đại huynh nhuận sắc cho
Trả lờiXóaTrân trọng
LTĐQB
SỸ KHẢ BÁCH VI
Xuân Thảo Thầy này Khả Bách Vi !
Trường văn ,trận bút hiếm người bì :
Khác THIÊN (3) giỏi sử năng thờ ĐẾ (1)
Giống KIỆT (4) hay thơ quyết tố Ly (2)
Trí tốt biên toa dùng thánh dược
Tài cao khám bệnh tựa thần y
Câm ,Kỳ, Thi Họa hay trăm truyện
Thọ mệnh trời ban kỷ nữa đi !
(1) Đế Vũ
(2) Hồ Ly Tinh HCM
(3)Tư Mã Thiên
(4) Lý Thường Kiệt tác giả của Bài thơ
Nam quốc Sơn Hà Nam Đế Cư