Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2025

Mỗi Độ Thu Về - Thơ: Dư Thị Diễm Buồn - Nhạc: Nguyên Bích - Hòa Âm: Nam Vĩnh - Ca Sĩ: Đan Phượng



Thơ: Dư Thị Diễm Buồn
Nhạc: Nguyên Bích
Hòa Âm: Nam Vĩnh
Ca Sĩ: Đan Phượng

Thuở Ấy & Bây Giờ

 

(Tặng Ngọc Thuỳ Giang
Nhớ những ngày xuôi ngược ở Long Thành (ĐN).)

Thuở ấy gặp nhau
Đời không vướng bận.
Như nước như mây,
Mặc tình bể dâu.

Anh tìm tôi những chiều bên Suối Cạn
Mái tranh xưa nghiêng bóng đổ hoàng hôn.
Những cung bậc dặm đời phiêu bạt,
Để lời thơ lãng đãng với sương hôm.

Đến giữa khuya trăng tà soi gác vắng
Khi giấc đời vừa tàn cuộc tiêu pha.
Gió hôn lạnh lên nỗi niềm sâu lắng,
Đốt cháy lòng đêm xao xác mấy canh gà.

Tôi tìm anh qua căn nhà xiêu vẹo
Vách phên thưa gió lọt lạnh từng đêm.
Vẫn đủ ấm khi đem vần thơ vá víu,
Bên chiếc võng trần lay lắc lời tim.

Rồi những lúc tiếng đàn khuya rơi tõm
Vào hồn trăng cho nát mấy cung sầu !
Anh hát, tôi nghe quanh đời bề bộn,
Cõi thơ tràn tơ phím nhập đêm sâu.

Bây giờ,
Tháng năm qua rồi xa lắc
Mỗi người mỗi cảnh nỗi lo toan.
Kiếp tằm trót nợ dâu xanh ấy,
Nhưng với vần thơ vẫn sắc son.

Nay võng xưa cuốn lại,
Gác tranh xưa bỏ rồi.
Chỉ có thơ còn mãi,
Theo vầng trăng lên khơi.



Long Thành (ĐN) 2001
Mặc Phương Tử

Phố Xưa

 

 

Đêm nghe sóng biển vỗ xa bờ
Âm vọng tình quê trong cõi mơ.
Nhớ em, nhớ phố đầy hoa mộng,
Là mấy vần tthơ thuở học trò.

Những lần em học về qua lối

Cùng bước bên nhau hồn chung dôi
Ngày xanh như cánh diều bay mất,
Em mộng về đâu, ta cuối trời!

Giọt mưa tí tách ngoài song cửa,

Ta nhớ nắng hồng chiều phố mưa
Chẳng biết con đường cây bóng mát,
Còn thắm tình xanh trên lối xưa?

Tháng giêng ta mơ trời kỷ niệm
Chỉ thấy trăng vàng bông tuyết bay
Đã lâu chưa về thăm phố cũ
Dòng đời trôi phai những nỗi niềm!

Đỗ Bình



Mùa Đông Thứ Hai

 

Thêm một mùa Đông ở chốn nầy
Trời chiều lạnh giá xám chân mây
Và lòng sương phụ càng hiu quạnh
Nỗi nhớ Quê hương lại ngút đầy
Vài chiếc lá vàng chưa chịu rụng
Hẳn còn tiết nuối một thời xuân?
Như ta vẫn trốn trong thơ, mộng
Nhớ nhung kỷ niệm sống bên chồng…
Xuân Hạ Thu Đông đều khổ cực
Nhọc nhằn cay đắng chẳng hề vơi
Nghiệp dày phước mỏng bao giờ dứt
Quê người xứ lạ có gì vui?
Chim bầy rời tổ tìm phương ấm
Còn ta lưu lạc tận trời Tây
Thương nhớ cháu con thêm héo hắt
Biết bao giờ mới gặp lại đây?…

ThanhSong ntkp
Killeen, TX.18/12/2008


Tương Khẩu Tống Hữu Nhân 湘口送友人 - Lý Tần (Vãn Đường)


Lý Tần 李頻 (818-876) tự Đức Tân 德新, người Thọ Xương 壽昌, Mục Châu 睦州, nay là trấn Lý Gia 李家, Kiến Đức 建德, tỉnh Chiết Giang, đỗ tiến sĩ năm 854, nhậm huyện lệnh huyện Vũ Công 武功 (nay thuộc thành phố Hàm Dương 咸陽, tỉnh Thiểm Tây), tính tình ngay thẳng, làm việc giỏi, được thăng Thị ngự sử 侍禦史, Đô quan viên ngoại lang 都官員外郎.

Năm 874 niên hiệu Can Phù 乾符, Lý Tần dâng biểu tự tiến cử xin nhậm chức Thứ sử Kiến Châu 建州刺史 (nay là Kiến Âu 建甌, Phúc Kiến) là vùng đất loạn vì ảnh hưởng của Hoàng Sào đang hoạt động mạnh tại Cù Châu 衢州, Chiết Giang. Ông bình định được Kiến Châu, giữ vững an ninh, phát triển kinh tế, được dân chúng thương mến quý trọng. Năm 876, ông chết tại nhiệm sở, được dân làm lễ tống táng rất lớn. Sau đó con cháu dời mộ định đem về cải táng tại quê nhà nhưng không được vì chiến loạn, phải chôn dọc đường.

Nguyên tác            Dịch âm

湘口送友人         Tương Khẩu Tống Hữu Nhân

中流欲暮見湘煙 Trung lưu dục mộ kiến Tương yên,
岸葦無窮接楚田 Vi ngạn vô cùng tiếp Sở điền.
去雁遠衝雲夢雪 Khứ nhạn viễn xung Vân Mộng tuyết,
離人獨上洞庭船 Ly nhân độc thượng Động Đình thuyền.
風波盡日依山轉 Phong ba tận nhật y sơn chuyển,
星漢通霄向水連 Tinh Hán thông tiêu hướng thuỷ liên.
零落梅花過殘臘 Linh lạc mai hoa quá tàn lạp,
故園歸醉及新年 Cố viên quy túy hựu tân niên.

Chú giải

岸葦 vi ngạn: cỏ lau mọc trên bờ (sông Tương).
* 楚田 Sở điền: ruộng Sở; ám chỉ ruộng của dân Hán (nước Sở thời Chiến Quốc rất lớn, chiếm gần 1/3 đất đai của nước Tàu nên dân Sở gần như đồng nghĩa với dân Tàu.
衝 xung: đi thẳng tới phía trước.
** 去雁遠衝雲夢雪 Khứ nhạn viễn xung Vân Mộng tuyết: Nhạn trốn lạnh bay trên đầm Vân Mộng phủ đầy tuyết. Câu này rất khó dịch thành thơ. Con Cò dịch thoát là: Lũ nhạn tếch** trên Vân Mộng tuyết,
雲夢 Vân mộng: Tên đầm ở gần hồ Động Đình. Vân Mộng tuyết: theo văn phạm Việt phải dịch là tuyết trên đầm Vân Mộng nhưng thơ không nhất thiết phải theo văn phạm của văn xuôi nên để nguyên cụm từ Vân Mộng tuyết không dịch.
洞庭船 Động đình thuyền: Thuyền trên hồ Động Đình, nay tại huyện Nhạc Dương, phía bắc tỉnh Hồ Nam. Cũng để nguyên cụm từ Động Đình thuyền không dịch, giống như cụm từ Vân Mộng tuyết.
通霄 thông tiêu: xuyên qua mây.
連 liên: nối liền. 水連 thủy liên: nước liền nhau, nước mênh mông. Dịch là nước êm (yên lặng).

Dịch nghĩa

Tiễn bạn tại bến sông Tương

Giữa dòng sông sắp tối thấy khói sông Tương bốc lên,
Bờ lau ngút ngàn tiếp liền với ruộng Sở.
Nhạn trốn lạnh bay trên đầm Vân Mộng phủ đầy tuyết,
Khách biệt ly một mình lên thuyền ở hồ Động Đình.
Sóng gió chuyển mạnh suốt ngày vỗ vào sườn núi,
Sao Hán xuyên mây chiếu xuống mặt nước mênh mông.
Hoa mai rụng đầy qua tháng chạp muộn,
Hẹn nhau năm mới về lại vườn xưa.

(Hồ khẩu là nơi cửa sông Tương nhập nước vào hồ Động Đình)

Dịch thơ

Tiễn bạn tại bến sông Tương

Trên sông chập tối khói Tương lên,
Lau lách bờ đê nối Sở điền*
Lũ nhạn tếch** trên Vân Mộng tuyết,
Biệt ly khách xuống Động Đình thuyền
Sóng xô suốt buổi vào sườn núi,
Sao Hán xuyên mây chiếu nước êm.
Mai rụng tràn đầy cuối năm trễ,
Hẹn nhau năm mới tại vườn đêm.

Lờn bàn: 

Con Cò dịch bài Tương Khẩu Tống Hữu Nhân toát mồ hôi hột mà vẫn chưa hoàn hảo bởi vì gặp nhiều cụm từ Hán rất khó nuốt (Sở điền, Tiêu Tương, khứ nhạn, ly nhân, Vân Mộng tuyết, Động Đình thuyền, thủy liên… xin xem trong chú giải ).

Nói thêm về cụm từ Sở điền và cụm từ Tiêu Tương:
- Phí Minh Tâm và Huỳnh Kim Giám đã viết rất nhiều về chữ Sở như sông Sở, núi Sở, nước Sở, gái Sở. y phục Sở… nhưng vẫn chưa giải hết nghĩa của chữ Sở, một chữ rất phổ thông trong thơ Hán. Thời Chiến Quốc, nước Sở lớn nhất, chiếm gần 1/3 dân số và đất đai của vùng Trung Nguyên nước Tàu. Con Cò chiếu theo lịch sử và địa dư của nước Tàu thời Chiến Quốc (như vừa nói ở trên) hiểu một cách giản dị rằng các thi sĩ thời Đường gần như đồng hóa Sở với Tàu. Vậy Sở điền, theo như ÔC hiểu, đơn giản là ruộng của nước Tàu. Sẽ để nguyên cụm từ Sở điền không dịch (cho hợp vận).

- Sông Tiêu Tương có 2 nhánh: nhánh phía đông (sông Tương) khi tới gần hồ Động Đình thì nhập với nhánh phía tây là sông Tiêu thành sông Tiêu-Tương trước khi chảy vào hồ này. Phong cảnh sông Tiêu-Tương rất hùng vĩ nhưng vô cùng thê lương (nơi mà các thi nhân thời Đường làm thơ tình rất thảm).

Con Cò
***
Tiễn Bạn Bên Sông Tương

Giữa dòng sắp tối khói Tương lên
Lau lách mênh mông ruộng Sở liền
Cánh nhạn bay cao Vân Mộng tuyết
Một thân ly khách Động Đình thuyền
Cả ngày sóng gió đầu non chuyển
Đêm suốt sao trời mặt nước chen
Rơi rụng hoa mai qua tháng chạp
Vườn xựa về khướt lúc tân niên!

Lộc Bắc
Dec24
***
Tiễn Bạn Bến Sông Tương

Chiều tàn khói nhả lượn sông Tương
Lau sậy giáp liên Sở ruộng vườn
Vân Mộng, nhạn bay lên tránh tuyết
Động Đình đưa tiễn bạn ly hương
Sóng to vỗ mạnh vào sườn núi
Sao sáng chiếu ngời nước đẫm sương
Tháng chạp hoa mai rơi lả tả
Vườn xưa năm mới hội Trùng Dương*

Thanh Vân
***
*Người Tàu có tục lệ ngày 9 tháng 9 âm lịch, gọi là ngày Trùng Cửu hay Trùng Dương (vì theo họ số 9 là số dương). Ngày này con cái trong nhà đến chúc thọ cho cha mẹ, rồi đưa cha mẹ lên núi để hưởng không khí trong lành trước khi mùa lạnh đến. Những người “lớn tuổi” thường tụ họp nhau vui vầy để uống rượu cúc, ngắm hoa cúc. Tết Trùng Cửu hay Trùng Dương là một ngày Lễ quan trọng trong đời sống của người dân Trung Quốc, DĐ LTCD 21 của Ông Cò đã nhiều lần đưa những bài thơ nói về ngày Lễ này

Tiễn Bạn Tại Bến Sông Tương.

Chiều tối sông Tương khói nhạt nhòa,
Bờ lau đất Sở nối bao la.
Đầm Vân Mộng tuyết bay chim vượt,
Bến Động Đình thuyền độ khách qua.
Sóng vỗ cả ngày bên vách đá,
Sao in đáy nước bóng Ngân Hà.
Hoa mai tháng chạp tơi bời rụng,
Hẹn Tết năm sau trở lại nhà.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Dec. 21/2024.
***
Nguyên tác: Phiên âm:

湖口送友人-李頻 Hồ Khẩu Tống Hữu Nhân – Lý Tần

中流欲暮見湘煙 Trung lưu dục mộ kiến Tương yên
葦岸無窮接楚田 Vi ngạn vô cùng tiếp Sở điền
去鴈逺衝雲夢澤 Khứ nhạn viễn xung Vân Mộng trạch
離人獨上洞庭船 Ly nhân độc thượng Động Đình thuyền
風波盡日依山轉 Phong ba tận nhật y sơn chuyển
星漢通宵向水連 Tinh Hán thông tiêu hướng thủy liên
零落梅花過殘臘 Linh lạc mai hoa quá tàn lạp
故園歸醉及新年 Cố viên quy túy cập tân niên

Dị bản:

Hán bản bên trên là nguyên tác chép từ sách của Lý Tần. Lý Tần có cho một số dị bản như bên dưới:

Câu 2: thiên天 thay vì điền田
Câu 3: tuyết雪 thay vì trạch澤
Câu 8: khứ去 thay vì quy歸
khứ hựu去又 thay vì túy cập醉及
Ngự Định Toàn Đường Thi của nhà Thanh còn cho một số dị bản khác.
Sách có mộc bản đăng bài thơ:

Lê Nhạc Tập - Đường - Lý Tần 黎嶽集-唐-李頻
Tài Điều Tập - Thục - Vi Hộc 才調集-蜀-韋縠
Đường Thi Kỉ Sự - Tống - Kế Hữu Công 唐詩紀事-宋-計有功
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

Hồ khẩu: danh từ chung chỉ cửa sông Tương chảy vào bờ nam hồ Động Đình ở bắc tỉnh Hồ Nam. Nhiều trang web chữ Hán viết là Tương湘 trong tựa bài thơ, có lẽ theo dị bản của đời Minh Thanh. Tuy nhiên trong lịch sử không thấy có địa danh Tương Khẩu/Hồ Khẩu trên sông Tương cũng như trên bờ hồ Động Đình. Bài trên Thiviện cũng viết chữ Tương湘 trong tựa bài thơ, lại có ghi chú giải thích hai chữ Hồ khẩu “Hồ khẩu là nơi cửa sông Tương nhập nước vào hồ Động Đình” dù hai chữ này không có được xài nơi nào trong bài thơ.

Ngạn vi: bờ sậy
Sở: lưu vực sông Tương là lãnh thổ của nước Sở ngày xưa
Khứ nhạn: ngỗng rừng bay về bắc
Vân Mộng: tên đầm nước ngọt khoảng 50km đông bắc Động Đình Hồ, nằm ở đồng bằng giữa sông Dương Tử và sông Hán của tỉnh Hồ Bắc, là một trong những hồ nước ngọt lớn nhất trong lịch sử Trung Hoa, suy ra là ngày xưa có diện tích rộng nhất là 40.000 km vuông, ngày nay hầu hết đã trở thành đất liền, chỉ để lại các vùng nước rải rác như Hồng Hồ 洪湖. Đứng ở hồ khẩu, bờ nam Đông Đình Hồ thấy nhạn bay về bắc qua Vân Mộng có hơi xa.
Tinh Hán: dải Ngân Hà
Lạp nguyệt: tháng mười hai âm lịch
Túy: say rượu

Dịch nghĩa:

Hồ Khẩu Tống Hữu Nhân Tiễn Bạn Ở Cửa Sông Tương

Trung lưu dục mộ kiến Tương yên
Hơi nước sông Tương phủ mờ dòng sông lúc trời sắp tối,
Vi ngạn vô cùng tiếp Sở điền
Hai bờ lau dài vô tận tiếp liền với đất Sở.
Khứ nhạn viễn xung Vân Mộng trạch
Nhạn ra đi bay xa qua đầm Vân Mộng,
Ly nhân độc thượng Động Đình thuyền
Người ly biệt một mình lên thuyền đậu trên hồ Động Đình.
Phong ba tận nhật y sơn chuyển
Sóng gió chuyển động suốt ngày vỗ mạnh vào núi,
Tinh Hán thông tiêu hướng thủy liên
Dải Ngân hà xuyên màn đêm liền với mặt nước mênh mông.
Linh lạc mai hoa quá tàn lạp
Hoa mai rụng đầy qua cuối tháng chạp,
Cố viên quy túy cập tân niên
Hẹn sẽ về lại quê hương kịp năm mới để uống cho say sưa.

Dịch thơ:

Tiễn Bạn Về Quê

Chiều xuống sông Tương khói phủ mờ,
Hai bờ lau sậy liền đồng trơ.
Nhạn bay cùng nhóm qua Vân Mộng,
Người biệt cô đơn thuyền tách bờ.
Sóng gió ngày đêm vỗ núi thẩm,
Ngân Hà tiếp nước như trong mơ.
Hoa mai rơi rụng tháng năm hết,
Về lại quê hương không đợi chờ.

See Off a Friend at the Xiang River Estuary on Dong Ting Lake by Li Pin

Water vapor darkens the middle flow of the Xiang river at dusk,
Reeds on the river sides run infinitely to join the Chu lands.
The leaving wild geese flew across the Cloud Dream pond in the distance,
The going away person lonely boarded the boat on the Dong Ting lake.
Wind and waves beat the mountain sides all day long,
The Milky Way pierced the dark night to join the immense water surface.
Plum flowers fell sparsely through the late twelfth month,
Will go home by year end the get drunk in the New Year.

Phí Minh Tâm
***
Góp Ý Cho BàiTương Khẩu Tống Hữu Nhân Của Lý Tần.

Đây là lần đầu tiên BS đọc bài thơ này; Đọc xong thì toát mồ hôi và rớt nước mắt, vì thấy nó trúc trắc, rất khó dịch, và khó diễn tả được ý của tác giả. ÔC đã giải thích rõ ràng, nghe cũng xuôi tai. Đọc bài của Đạo Mò và anh Tâm thì BS hoa mắt thêm. Mấy tấm hình Đạo Mò đưa ra nhỏ quá, BS coi xong mà không nắm vững được địa hình. Bèn tra lấy và ghi tóm tắt ra đây để ACE coi cho biết.

Hồ Động Đình là 1 trong 4 hồ lớn của Tàu, 3 hồ kia là Bà Dương, Thái Hồ và Tây Hồ. Hồ Động Đình xưa là lớn nhất, nhưng sau nhỏ lại vì dân lấp đất để cày ruộng, bây giờ diện tích là 2820 km2. Nếu so với ngũ đại hồ ở Bắc Mỹ, hồ nhỏ nhất là Ontario cũng rộng tới 19500 km2, thì hồ Động Đình không thấm vào đâu.

Có 4 con sông đổ vào hồ: sông Tư, Nguyên giang, Lễ thủy, và sông Tương. Sông Tiêu nhập vào sông Tương trước khi sông này chảy vào hồ nên vùng đó được gọi là Tiêu Tương. Chỗ sông đổ vào hồ chính là Hồ Khẩu hay Tương Khẩu.

Hồ nổi tiếng đến nỗi người Tàu đã dùng nó làm trọng tâm để đặt tên 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam.

Đầm Vân Mộng ở trong địa phận tỉnh Hồ Bắc, theo bản đồ thì khá xa Hồ Khẩu. Nhạn là loài chim thiên di, thường về miền nam trốn lạnh, sao lúc Lý làm thơ là mùa đông mà còn nhạn ở đó?
Các chữ khó, ÔC đã giải thích rồi, BS xin bổ túc thêm:
* Xung là con đường cái lơn, hướng về, xông vào, đụng vào, dựng thẳng lên ( tráng sĩ phát xung quan )
* Tận là hết, chấm dứt, hết sức như tận hoan.
* Chuyển là vận chuyển, dời chỗ, tránh né… y sơn chuyển hơi khó hiểu, có lẽ tác giả muốn nói: cả ngày phong ba, bão táp, nên “áo” tức vẻ ngoài của núi bị thay đổi. Và BS dịch theo cách hiểu của mình.
*Linh lạc, từ kép, là rơi rụng, tan tác, tàn lụi (như dương hoa linh lạc ủy thương đài trong Chinh Phụ Ngâm)

Nếu so sánh bài thơ ÔC đăng, và bài thơ trong Thi Viện thì câu chót khác nhau:
- ÔC: Cố viên quy khứ hựu tân niên. (tân niên là sẽ trở lại cố hương)
- Thi Viện: Cố viên quy túy cập tân niên. (say sưa trở lại cố hương đúng tân niên)

Chắc anh Tâm sẽ cho coi dị bản.
Câu này ÔC giải thích là: hẹn nhau năm mới trở lại vườn xưa. BS đâu thấy gì là hẹn nhau.
Và cũng thắc mắc là ai sẽ trở lại cố viên?

Tiễn Bạn Bến SôngTương.

Sông Tương trời tối, khói la đà,
Bờ lau liền ruộng Sở bao la,
Nhạn bay vượt tuyết đầm Vân Mộng,
Ly khách lên thuyền chỉ bác a,
Gió bão cả ngày non cũng đổi,
Sao Hán xuyên mù chiếu nước xa,
Tơi tả hoa mai rơi cuối chạp,
Tân niên là sẽ trở lại nhà.

Nếu dịch theo Thi Viện, thì câu này sẽ là:
Tân niên say khướt trở lại nhà.

Bát Sách.
(Ngày 25/12/2024)
***
Góp ý:

葦=vĩ là từ tắt cho 蘆葦=lô vĩ. cây sậy/reed/roseau. Lau sậy trong thi ca là hình ảnh tượng trưng cho cảnh tiêu điều, hoang vắng.

星漢=tinh hán là một tên cổ của Ngân Hà (银河/Milky Way/Galaxie), ngoài các tên 天河=thiên hà, 星河=tinh hà, 天漢=thiên hán, và 銀漢=ngân hán.

Chữ 臘 có hai lối đọc i) tịch với nghĩa thịt hay cá khô; và ii) lạp với nghĩa lễ tế cuối năm. Lối phát âm lạp cho ta nghĩa tháng chạp.

Vân Mộng, toàn tên là Vân Mộng đại trạch (雲夢大澤) là một địa danh trong lịch sử để chỉ một đầm nước ngọt rộng đến 40,000 km² (tùy mùa nước). Theo Tả Truyện và Quốc Ngữ, các vua Sở ngày xưa có một vùng săn bắn tên Vân Mộng ở hướng đông Vũ Hán bây giờ. Từ thời tiền Tần, đầm Vân Mộng đã dần thu nhỏ lại, biến thành một số hồ nhỏ vì bị lấp dần bởi phù sa từ các sông Hán Thủy và Trường Giang, và bởi hiện tượng "sông kia rày đã nên cồn" rồi thành ruộng đồng nên bây giờ tên Vân Mộng chỉ còn là một địa danh trong lịch sử hay tên của một cái huyện hướng tây của Vũ Hán. Các bạn nào tò mò tìm thử thì có thể thấy một cái hồ vuông tên Vân Mộng bên lề tây Vũ Hán, mỗi bề chừng 200 m.


Trong bản đồ địa thế bên trên đầm Vân Mộng (ngày xưa) là vùng đồng bằng hình tam giác ngược thuộc lưu vực Trường Giang từ Kinh Môn (Jingmen/荆門) qua Hoàng Cương (Huanggang/黄岡) ở hướng bắc xuống đến Nghi Xương (Yiyang/宜昌) ở cực nam. Hồ Động Đình nằm ngang phía trên Nghi Xương. Vũ Hán (Wuhan/武漢) nằm ở phia tây của Hoàng Cương và thế có nghĩa rằng thành phố Vũ Hán - nguồn gốc của nạn dịch covid-19 - được thành hình trên một vùng đầm lầy nước đọng và vì thế người Tàu bảo Vũ Hán là “thành phố nổi trên nước” (武汉一座漂 浮在水上=Vũ Hán nhất tọa phiêu phù tại thủy thượng).

Sông Tương là nhánh hữu ngạn đổ vào hồ Động Đình. 湘口=Tương Khẩu bây giờ là tên một thành phố nhỏ trên bờ Trường Giang, 30km tây-nam Vũ Hán nhưng Tương khẩu trong bài thơ có thể là nơi sông Tương đổ vào bờ nam của hồ Động Đình, cách Vũ Hán chừng 150 km. Cụm từ 湖口=hồ khẩu rất có thể không phải là tên riêng của một địa danh mà chỉ có nghĩa là cửa sông đổ vào hồ, tương đường với cụm từ Tương khẩu. Cái tên hồ khẩu này, nếu có, thì đã biến mất trong lịch sử rồi (trừ tên một thành phố ở Đài Loan) và trang 洞庭湖大桥 này cho ta thấy địa điểm của Tương khẩu ngày nay là cây cầu bắc ngang qua nơi sông Tương đổ vào hồ Động Đình ở Nhạc Dương (Yueyang/岳阳).

岳阳洞庭湖大桥是岳阳市跨越洞庭湖口的一座特大型桥梁. Nhạc Dương Động Đình hồ đại kiều thị Nhạc Dương thị khóa việt Động Đình hồ khẩu đích nhất tọa đặc đại hình kiều lương.

Chỉ hiểu thế mới hình dung được cảnh thi nhân tiễn bạn đang một mình lên thuyền ở hồ Động Đình và thấy hơi nước trên sông Tương. Vùng đất dọc tả ngạn Trường Giang trên hồ Động Đình là đồng bằng nên nhà thơ có thể hình dung cảnh nhạn/ngỗng bay về vùng Vân Mộng nhưng người ni không hiểu tại sao ngỗng lại bay ngược về vùng Vân Mộng đầy tuyết (去雁=khứ nhạn trong bài thơ) ở hướng bắc những ngày cuối năm.

Vì đầm Vân Mộng đã biến mất từ thế kỷ VI, từ Vân Mộng trong bài thơ này không chỉ cái đầm nào cả mà chỉ nhắc người đọc đến một địa danh trong lịch sử. Người ni không đồng ý với Con Cò về ý nghĩa của từ Sở trong cổ thi. Thời Xuân Thu-Chiến Quốc, Sở là một quốc gia độc lập và nguồn gốc của người Sở cũng mù mờ không kém gì tổ tiên người Việt. Nước Sở bị Hán diệt và người Sở bị Hán hóa. Đã đành rằng bây giờ phần đất cũ của Sở đã thành Hán, hay Trung Quốc, các thi/văn sĩ ngày thời Đường vẫn có khuynh hướng hoài cổ và các địa danh Sở, Vân Mộng, Tiêu Tương luôn luôn là những biểu tượng hay điển cố để nói đến chuyện vật đổi sao dời, chiến chinh, xâm lăng và tiêu diệt hay các chuyện biếm truất, đày ải, tha phương cầu thực.

Bài thơ này mượn cảnh tiễn bạn ở vùng Tiêu Tương để nói lên tâm tư hoài cổ của Lý Tần thời Đường mạt.

Huỳnh Kim Giám

@ Phí Minh Tâm bổ sung:

Cám ơn anh Giám! Các địa danh Tương Khẩu trên Trường Giang, Ngô Giang…chắc chắn không phải là địa điểm tiễn biệt nói trong bài thơ. Đúng ra nguyên tác của Lý Tần không có nói đến Tương Khẩu 湘口, mà là Hồ Khẩu 湖口, chỗ sông Tương chảy vào hồ Động Đình.
Tựa bài thơ trong các sách Đường, Thục, Tống… là 湖口送友人 Hồ Khẩu Tống Hữu Nhân.

Phí Minh Tâm

Vĩnh Biệt Juliet!


William! Shakespeare (1564–1616) là một diễn viên, nhà soạn kịch và nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học Anh cũng như văn học thế giới.
Shakespeare sinh ra tại Stratford-upon-Avon, một thị trấn nhỏ ở Anh, vào ngày 23 tháng 4 năm 1564. Ông qua đời vào ngày 23 tháng 4 năm 1616, đúng vào ngày sinh nhật của mình, và được chôn cất tại nhà thờ Holy Trinity ở Stratford-upon-Avon.
Shakespeare là một thành viên của nhóm kịch "Lord Chamberlain's Men", sau này đổi tên thành "King's Men" khi được Vua James I bảo trợ. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã viết khoảng 39 vở kịch, 154 bài thơ sonnet, và nhiều tác phẩm khác. Các vở kịch của ông được chia thành ba thể loại chính: bi kịch (như *Romeo và Juliet*, *Hamlet*, *Macbeth*), hài kịch (như *Twelfth Night*, *A Midsummer Night’s Dream*), và sử thi lịch sử (như *Henry V*, *Richard III*).
Ngoài tài năng viết kịch, Shakespeare còn có ảnh hưởng sâu rộng đến ngôn ngữ Anh. Nhiều câu nói và cụm từ trong các tác phẩm của ông đã trở thành một phần của tiếng Anh hiện đại, và ông được cho là đã tạo ra hàng trăm từ ngữ mới.
Romeo và Juliet là một vở bi kịch nổi tiếng của William Shakespeare, kể về mối tình oan trái giữa Romeo và Juliet, hai người trẻ tuổi thuộc hai gia đình thù địch nhau ở thành Verona, Ý.
Cốt truyện: Romeo Montague và Juliet Capulet gặp nhau tại một buổi tiệc và yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tuy nhiên, do mối thù giữa hai gia đình, tình yêu của họ gặp nhiều trắc trở. Họ bí mật kết hôn nhưng không thể sống hạnh phúc bên nhau. Cuối cùng, cả hai đều chọn cái chết để được ở bên nhau mãi mãi.
 
Nhân vật chính:

- **Romeo Montague**: Con trai của gia đình Montague, yêu Juliet.
- **Juliet Capulet**: Con gái của gia đình Capulet, yêu Romeo.
- **Friar Laurence**: Thầy tu giúp đỡ Romeo và Juliet.
- **Mercutio**: Bạn thân của Romeo.
- **Tybalt**: Anh họ của Juliet, người gây ra nhiều xung đột.
Vở kịch này đã được chuyển thể thành nhiều bộ phim, vở nhạc kịch và tác phẩm nghệ thuật khác nhau, nổi bật nhất là phiên bản phim năm 1968 của đạo diễn Franco Zeffirelli.
Và phiên bản hiện đại năm 1996 của đạo diễn Baz Luhrmann. Phiên bản 1996, dù được hiện đại hóa, vẫn giữ nguyên ngôn ngữ gốc của Shakespeare.
- **Đạo diễn**: Baz Luhrmann
- **Diễn viên chính**: Leonardo DiCaprio (Romeo), Claire Danes (Juliet)
Claire Danes và Leonardo DiCaprio được đánh giá là rất ăn ý, tạo nên một cặp đôi Romeo và Juliet đầy sức sống và cảm xúc. Claire Danes đã giành giải Blockbuster Entertainment Award cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong phim lãng mạn.
Leonard Whiting** là một diễn viên và ca sĩ người Anh, nổi tiếng nhất với vai Romeo trong bộ phim *Romeo và Juliet* năm 1968 của đạo diễn Franco Zeffirelli.
- **Ngày sinh**: 30 tháng 6 năm 1950
- **Nơi sinh**: Wood Green, Middlesex, Anh
- **Gia đình**: Là con trai duy nhất của Arthur Leonard Whiting và Peggy Joyce O'Sullivan, có hai em gái.
- **Khởi đầu**: Leonard bắt đầu sự nghiệp diễn xuất từ khi còn nhỏ, tham gia các vở kịch tại trường học và nhà thờ địa phương. Ông từng đóng vai Artful Dodger trong vở nhạc kịch *Oliver!* tại London.
- **Đột phá**: Vai diễn Romeo trong *Romeo và Juliet* đã mang lại cho ông giải Quả cầu vàng cho Ngôi sao mới của năm vào năm 1969.
- **Các vai diễn khác**: Leonard còn tham gia nhiều bộ phim và chương trình truyền hình khác như *Say Hello to Yesterday* (1971), *Frankenstein: The True Story* (1973), và *The Dreamstone* (1990–1995).
**Đời sống cá nhân**: Leonard đã kết hôn hai lần và có hai con.
Olivia Hussey Eisley** là nữ diễn viên nổi tiếng người Anh, đặc biệt được biết đến với vai Juliet trong bộ phim chuyển thể từ tác phẩm *Romeo và Juliet* của William Shakespeare vào năm 1968.
- **Tên đầy đủ**: Olivia Osuna (sau khi kết hôn là Olivia Hussey Eisley).
- **Ngày sinh**: 17 tháng 4, 1951
- **Nơi sinh**: Buenos Aires, Argentina
- **Quốc tịch**: Anh (mặc dù sinh ở Argentina, cô có quốc tịch Anh).


Olivia Hussey bắt đầu sự nghiệp diễn xuất từ khi còn rất trẻ và trở thành một trong những ngôi sao điện ảnh nổi bật nhất vào thập niên 1960. Cô được biết đến rộng rãi nhất qua vai Juliet trong bộ phim *Romeo và Juliet* (1968), bộ phim chuyển thể từ tác phẩm nổi tiếng của Shakespeare do đạo diễn Franco Zeffirelli thực hiện. Ở tuổi 16, Olivia Hussey đã hóa thân xuất sắc vào vai Juliet, người yêu trẻ tuổi, ngây thơ nhưng mạnh mẽ.
“Romeo và Juliet” là bước đột phá lớn của nữ diễn viên người Anh gốc Argentina, giúp Olivia Hussey giành được Quả cầu vàng cho vai diễn Juliet. Sau thành công vang dội của *Romeo và Juliet*, Olivia tiếp tục tham gia vào nhiều bộ phim khác như *The Story of the Trapp Family Singers* (1970), *Airport 1975* (1974), *Black Christmas* (1974) và *Jesus of Nazareth* (1977). Tuy nhiên, không có vai diễn nào nổi bật hơn Juliet trong *Romeo và Juliet*.
Olivia Hussey Eisley vừa qua đời vào ngày 27 tháng 12, 2024. Trong một tuyên bố trên Instagram, gia đình cô cho biết: “Olivia đã ra đi thanh thản tại nhà, được bao bọc bởi những người thân yêu. Olivia đã sống một cuộc đời đầy đam mê, tình yêu và sự cống hiến cho nghệ thuật. Cô để lại một gia đình yêu thương— các con của cô, Alex, Max và India, cùng người chồng 35 năm của cô, David Glen Eisley, và cháu trai, Greyson. Di sản tình yêu của cô sẽ mãi mãi được trân trọng trong trái tim chúng tôi.”
Vĩnh biệt Juliet! Vĩnh biệt Olivia Hussey. Vĩnh biệt một thời tuổi trẻ của chúng ta!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2025

Đón Tân Niên - Thơ: Ý Nga - Nhạc: LMST- Hoà Âm Và Hát: Hồng Ân


Thơ: Ý Nga
Nhạc: LMST
Hoà Âm Và Hát: Hồng Ân


2025

 

Năm mới hai nhăm, mừng sức khỏe
bình an gia đạo khắp mọi nhà
cháu nhỏ hồn nhiên dung dăng dẻ
bé lớn mĩm cười, nét trẻ xinh

Năm mới hai nhăm, sum vầy lại
bếp hồng sưởi ấm mái gia đình
gởi đến cho nhau mùa hoa trái
cành mai khoe dáng những vàng thương

Năm mới hai nhăm, lời quý kính
theo gió trời mây đến bên người
bước chân Như Ý về vạn nẻo
đằm thắm bên nhau, đóa hoa cười

Năm mới hai nhăm, vui rộn rã
vỗ bến tình xuân, phúc hạnh đời
bôn ba ngày cũ xin chào tiễn
gõ cửa bình minh, đón ước mơ

Năm mới hai nhăm, nhiều cảm mến
yên ắng nhìn nhau, tay nắm tay
dẫu vàng chiếc lá thời gian mỏng
vẫn dìu dịu ấm trên bờ vai

Năm mới hai nhăm, may mắn đến
chất chứa vào lòng một gánh thương
để đời ân nghĩa còn nhớ mãi
người người trăm tuổi, đẹp vấn vương


Trường Đinh
UK, sương mù già 2025

Ngày Mới Đầu Năm

 

Thức dậy, kéo rèm, đón cái hên!
Vợ còn say ngủ, cuộn ôm mền.
Êm êm hơi thở đều kề cạnh
Dịu dịu mùi hương thoảng kế bên.
Sương muối ngoài vườn đang đọng lá
Bài thơ trong trí đã thành tên...
Nhâm nhi thưởng thức cà-phê sáng
Ngày Mới Đầu Năm, nắng đã lên!


Duy Anh
1/1/2025

Năm 2025 Thật Hay

 

Năm mới dương lịch ngày thứ tư
Và giáng sinh đã vào thứ tư
Ngẫu nhiên trùng hợp thế mà thôi
Nhưng làm chúng ta thật dễ nhớ

Rằng Tết Nguyên đán cũng thứ tư
Rồi ngày đưa ông Táo về trời
Cũng lại rơi vào ngày thứ tư
Ôi xuân thứ tư xuân quê hương

Mỉm cười ta vui lòng chấp nhận
Hai Không hai năm của thứ tư
Chúc mọi người tiền bạc thặng dư
Chờ Tết trở về ngày thứ tư


Hồng Vân

Contemplating…

 
 
Sitting down on the rocks 
Looking at the sky
The sky is blue
And the clouds are white and fly
“Why” ?
The wind reply:
The water creates
And I blow them over there
Over the mountains, the seas, every where…
“Water! How can you makes such wonderful clouds?”

Oh, not only me,
The sun, the wind are too, proud…

It’s black now:
It’s raining from the cloud
The water makes the rocks smoothly
and comes back to the sea….

It’s the same for me
Also for ever, every where
 
Sao Khuê
Dec 18th 2024b

Họp Mừng Giáng Sinh

 

( QYV Trương bá Hân Sóc-trăng )

Mừng Giáng sinh, bạn bè tụ họp,
Phòng hội-trường sáng rực cả lên.
Lê bước chân, nặng trĩu buồn tênh,
Cảnh Bệnh-viện, sầu vươn vai áo!

Cha ơi, sao lòng con buồn ảo não,
Như lạc loài hoa dại mờ sương!
Khung buồn, lá vàng ngập khắp nẻo đường,
Cảnh Bệnh-viện choàng lên màu tím!

Người lính trẻ, mắt buồn thăm thẳm,
Lê thân mình trên chiếc nạn ngập ngừng!
Nhìn vợ hiền khóe mắt rưng rưng,
Gió lướt nhẹ, ống quần phất phới!

Ngước nhìn con, dáng buồn bối rối,
Miệng gượng chào, vội vã quay lưng.
Màu xanh xanh ngập các nẻo đường,
Cả thế hệ mỏi mòn tàn tật!!

Bước vào phòng, trang hoàng thân mật,
Con thẫn thờ lạc giữa đồi hoang!
Lòng đớn đau, ngấn lệ tuôn tràn,
Thương dân VIỆT hãi hùng gánh chịu!

Con rùng mình, thấy lòng nặng trĩu
Gây bàng hoàng buổi họp mặt mừng Cha
Ngọn gió chiều nhè nhẹ lướt qua,
Như lời ve vuốt phôi pha nỗi buồn!

Tô Đình Đài
Mùa Hè đỏ lửa 1972 VC tấn công Tỉnh Phước long !! )
(Tôi được chuyển về QYV Trương bá Hân Tỉnh Sóc-Trăng 1972...


Tiếng Việt Trong Sáng

Tiếng Việt là một sinh ngữ, nó có đời sống của nó, có những yếu tố tạo thành (các từ loại), có những đặc tính riêng biệt, có những qui luật sử dụng lúc nói hay khi viết (văn phạm). Trải bao thăng trầm của lịch sử nước Việt, nó cũng bị ảnh hưởng, lúc suy lúc thịnh. Làm sao bắt mạch được sự sống của nó để hiểu những nguyên nhân làm nó suy yếu, những yếu tố làm nó lớn mạnh hầu thanh lọc hóa và trong sáng hóa tiếng Việt?


Trước hết, chúng ta thử định nghĩa vài chữ tiếng Việt để cùng nhau có chung một hiểu biết không nhầm lẫn với nhau:


  • Âm vị (phonème) (âm là âm thanh, vị là đơn vị) : thành phần nhỏ nhất của một ngôn ngữ về phương diện âm thanh. Có thể dùng để đánh vần.

Tiếng Việt có 37 âm vị chia ra làm :

* 12 nguyên âm : a, ă, â, e, ê, i, y, o, ô, ơ, u, ư;

* 25 phụ âm: b, c, ch, d, đ, g (gh), gi, h, k, kh, l, m, n, ng (ngh), nh, p, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.


  • Âm vận: nói chung đó là đặc điểm về phương diện âm hưởng (tiếng vang, tiếng vọng) của một ngôn ngữ, bao gồm cả: âm, thinh, vần, là điều cần thiết để làm thơ và nhạc, cho đúng qui luật của thơ phú. Ví dụ:

* Đại, ngại: thuộc vần ‘ai’,

* Tao, lão: thuộc vần ‘ao’.

12 nguyên âm có thể kể là vần đơn, nhưng ta có thể tạo nhiều âm vận (hay vần khác) bằng cách:

  1. Ghép hai hay ba nguyên âm lại thành 1 vần khác: ai, ay, ao, an, âu, eo, iu, ưu, uôi, uây...

  2. Ghép một, hai nguyên âm với một hoặc hai phụ âm thành :

Ác, am, an, ang, anh, im, in, ich, inh, iêng, uông, ương...

Do, đó, ta có thể nói tiếng Việt có nhiều thinh âm.


- Âm giai: Trong Việt ngữ, các giọng lên cao, xuống thấp, có thể được chia làm hai loại âm giai :

* Phù (= bổng, thanh): không dấu, hỏi, sắc, sắc nhập (sắc nhập là những tiếng dấu sắc có ở cuối c, ch, p, t. Ví dụ: các, cách, cáp, cát) ;

* Trầm (= trọc): huyền, ngã, nặng, nặng nhập (nặng nhập là những tiếng dấu nặng có ở cuối c, ch, p, t. Ví dụ: bạc, bạch, lạp, bạt)


- Thinh: Như vậy tiếng Việt có 8 thinh: 4 phù, 4 trầm.

Nhờ tính cách giàu  thinh ấy mà tiếng Việt có khả năng diễn tả tình cảm rất dồi dào, cộng thêm ngữ khí (sức mạnh, tinh thần biểu lộ nặng nhẹ, êm dịu...) diễn tả qua lời văn và giọng nói có thể đánh động, thu hút tâm hồn người nghe. Ví dụ: 

* Bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trải có ngữ khí hào hùng.

* Giọng của Thanh Nga trong vở tuồng “Tiếng Trống Mê Linh” thật thấm thiết làm sao.


- Ngữ tố: Một tiếng đơn vận phối hợp với một hoặc nhiều tiếng đơn vận khác để tạo nên một tiếng có từ - loại nhất định. Ví dụ:

* danh từ ‘anh hùng’ : do sự phối hợp của 2 ngữ tố ‘anh’ + ‘hùng’

* danh từ ‘người thợ bạc’ : do sự phối hợp của 3 ngữ tố ‘người’ + ‘thợ’ + ‘bạc’.

Ngữ tố chỉ định những thành phần của các tiếng phức vận (nhiều âm) và tiếng ghép.


- Tự ngữ: Một tiếng đơn vận hoặc một tiếng ghép gồm nhiều ngữ tố hợp lại thành một từ loại nhất định. Tự ngữ chỉ chung những tiếng đơn , tiếng ghép và tiếng phức vận. Ví dụ :

* anh, anh hùng, chị hàng rong, đi tới, đi lui (3 chữ đầu là danh từ, 2 chữ sau là động từ).


- Từ ngữ: Nhiều tự ngữ đứng chung với nhau làm một bộ phận trong một mệnh đề. Các tự ngữ có thể cùng thuộc một từ loại hoặc thuộc nhiều từ loại khác nhau. Ví dụ:


* Bồi dưỡng tiếng mẹ là một bổn phận công dân.

  ┗━━━━━┛  ┗━━━┛               ┗━━━━┛┗━━━━┛

    động từ     danh từ              danh từ    danh từ

        ┗━━━━━━━━━┛                     ┗━━━━━━━━━┛

          từ ngữ                                từ ngữ


- Tiếng: 1-ngôn ngữ (tiếng Việt)     2-ngữ tố     3-tự ngữ (=chữ).

- Âm điệu: 1- nhịp điệu (rythme) nhanh, chậm,

2- giọng (intonation) cao, thấp, trong, trong âm nhạc và thi phú.

- Âm hiệu: nốt nhạc.

- Âm hưởng : Tiếng vang, tiếng vọng lại (sonorité, écho).


- Âm sắc (timbre): tính chất khác nhau giữa hai âm cùng độ cao và độ to của hai nhạc cụ hoặc hai ca sĩ, làm ta có thể phân biệt được hai nhạc cụ hoặc hai ca sĩ khác nhau.

- Âm tiết (syllabe): 1- đơn vị phát âm nhỏ nhất của một tự ngữ đơn vận hoặc đa vận.

Ví dụ : chữ ‘thanh thản’có hai âm tiết (ngữ tố, âm tố).

- Giọng (accent): Giọng Bắc, Giọng Trung, Giọng Nam.


BÂY GIỜ TA THỬ TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG VIỆT:


1/- Mỗi lần tiếp xúc với một nền văn hóa mới, tiếng Việt lại có dịp thâu đạt một số ngôn từ của nền văn hóa này.


Đầu tiên, nước Việt Nam tiếp xúc với nền văn hóa Ấn Độ qua sự truyền bá của Phật Giáo. Phật Giáo truyền vào nước ta trực tiếp bằng đường biển : các nhà sư theo các thương-nhân (con buôn) đến nước ta vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch. Sự kiện này được minh chứng bằng các dữ kiện sau đây :


- Vào khoảng 300 năm trước Tây Lịch, hoàng đế A Dục của Ấn Độ có gởi nhiều phái đoàn truyền giáo ra khắp các nước. Phái đoàn, do hai vị thánh tăng Sona và Uttora, đã tới vùng đất vàng (Suvannabhūmi), tức là vùng Đông Nam Á : Thái Lan, Cam Bốt, Ai Lao, Việt Nam. Ở Thái Lan có tháp thờ hai ngài, chứng tỏ hai ngài có tới đây.


- Theo sử liệu Trung Hoa, di tích một bảo tháp A Dục được xây dựng ở Giao Châu, tại thành Nê Lê (ngày nay ở Đồ Sơn, cách Hải Phòng 12 cây số).


- Sử tích công chúa Tiên Dung, con vua Hùng Vương thứ 3, kết duyên với anh chài lưới nghèo Chử Đồng Tử, được ghi lại trong sách “Lĩnh Nam Trích Quái”. Không được vua Hùng Vương chấp nhận, hai vợ chồng phải cố làm lụng buôn bán với các thương nhân nước ngoài, rồi trở nên giàu có. Sau Chử Đồng Tử gặp được nhà sư Phật Quang, người Ấn Độ, truyền Pháp cho tại núi Quỳnh Viên nằm ở cửa Nam Giới hay cửa Sót. Hai vợ chồng bỏ việc buôn bán, theo nhà sư để tu học và trở thành người thiện nam và tín nữ, Phật Tử đầu tiên của dân Việt.


Thiên niên kỳ thứ III trước Công Nguyên ứng với giai đoạn đầu thời đại Đồ Đồng. Trong giai đoạn lịch sử này, tiếng Việt chuyển biến nhiều chữ Pāli thành chữ thuần Việt, như :

- Áp: ý nghĩa ‘áp sát 2 bề mặt’, Pāli: Api,

- Ba láp: tầm phào, không đứng đắn, Pāli: Palāpa,

- Bát: đồ dùng để đựng cơm, canh, nước, Pāli: Patta,

- Bồ: bạn thân, Pāli : Bho,

- Búp: nụ hoa sắp hé nở, Pāli : Puppha,

- Bụt (theo cách gọi dân gian) : Phật, Pāli: Buddha,

- Cạp: cắn dần từ ngoài vào, gặm, Pāli: Cappeti,

- Cha: gian nhỏ lợp một mái tiếp vào nhà chính, Pāli: Chada,

- Đong: Đo thể tích chất lỏng hoặc chất rời, Pāli: Dono,

- Già: có tuổi, Pāli: Jarā,

- Kham: chịu đựng, Pāli: Khamā,

- Đanh đá: lời nói chua ngoa, Pāli: Dandha,

- Đau khổ: Ưu sầu, khổ sở, Pāli: Dukkha.


Chữ khoa đẩu là chữ tiếng Việt xưa có thể chịu ảnh hưởng của chữ Pāli, cũng như chữ của người Chàm, là loại chữ khoa đẩu, vì Chàm cũng chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Phật Giáo.


Chữ khoa đẩu, hình giống con nòng nọc, được tìm thấy trên những phiến đá ở thung lũng Sapa, trên binh khí đồng thanh hóa, trên lưỡi cày Đông Sơn, trên trống đồng Lũng Cú ở Hà Tuyên. Sử sách Trung Hoa cũng có ghi chép những thứ chữ khoa đẩu của người phương Nam, cho ta nghĩ tới giả thuyết về sự tồn tại của một văn tự phương Nam “trước Hán và khác Hán”.


Nhà Thục (An Dương Vương) làm vua được 50 năm, đã đổi tên nước Văn Lang của Hùng Vương thứ 18 thành Âu Lạc, đã xây Cổ Loa Thành để chống cự với Tần Thủy Hoàng nước Tàu, nhờ đó đã tồn tại được đến năm 207 TCN mới bị một viên tướng của Tần Thủy Hoàng là Triệu Đà tiêu diệt. Nước ta bị lệ thuộc lần thứ nhứt từ 207 đến 111 TCN. Sau đó bị lệ thuộc 3 lần nữa, tất cả hơn một ngàn năm.


Trong thời lệ thuộc, nước (xâm lăng) thực dân đã áp đặt văn hóa và ngôn ngữ của họ, nên chữ khoa đẩu đã biến mất và xuất hiện một thứ chữ mới là chữ Hán hay chữ Nho. Nhưng nhờ thông minh và tài trí, ông bà ta đã chuyển biến chữ Hán thành chữ Hán Việt để tránh sự nô lệ văn hóa hoàn toàn và vẫn giữ được tiếng Việt trong sự giao tiếp giữa người Việt với nhau, khiến người Tàu không hiểu chúng ta nói cái gì.


Theo học giả Lê Ngọc Trụ: “Ta đọc chữ Hán ra giọng Hán Việt theo cách phiên thiết của tự điển Trung Hoa. Lối phiên thiết (phiên: trở trái lại / thiết : cắt) là lối nói lái có hệ thống. Chữ Hán là lối chữ biểu ý, không thể căn cứ vào mặt chữ mà phát âm. Người ta mới dùng lối '‘nói lái'’ mượn hai chữ để chuyển biến : lấy phần âm khởi đầu của tiếng thứ nhất ráp với phần vận của tiếng thứ nhì hoặc “nói lái” hai tiếng ấy”. Ví dụ : Ha với Cam thành Ham.


Do đó, tiếng Việt trở nên phong phú vô cùng với kho dự trữ chữ Hán sau lưng, bao gồm dạng chữ ghép sau đây: Việt-Việt, Việt-Hán, Hán-Việt, Hán-Hán (dĩ nhiên là loại Hán đã chuyển biến) :

-Chữ Việt-Việt: lời thề, khuyên dỗ, đừng khui, lộn xộn ;

-Chữ Hán-Việt: học hỏi, phòng ngừa, tội lỗi, cao thấp, đầu đuôi, trầm bổng ;

-Chữ Việt-Hán: chia ly, khen thưởng, kiện tụng, rèn luyện ;

-Chữ Hán-Hán : an bài, ẩm thực, bình an, sơn thủy, y phục.


Trên đây, ta thấy những chữ Hán chuyển biến này đã trở thành chữ Việt gần như thuần túy.


2/- Tiếng Việt rất giàu thinh âm


Ta có thể nói tiếng Việt có hầu hết tất cả những thinh âm của ngôn ngữ loài người ; người Việt-Nam có thể đi khắp thế giới để học nói ngôn ngữ các nước khác một cách dễ dàng. Tiếng Việt có khả năng vô vàng để sáng tạo những tiếng tượng thanh. Như trên, ta đã thấy tiếng Việt có 8 thinh chia ra làm 2 loại âm giai 4 phù và 4 trầm:

-Phù: Ma, mả, má, mác (hoặc: mách, máp, mát),

-Trầm: Mà, mã, mạ, mạc (hoặc: mạch, mạp, mạt)...


Nhờ những thinh âm trầm, bổng, tiếng Việt có năng lực diễn tả tình cảm trong thi văn rất dồi dào. Ví dụ:

- Phù: hoan hỷ, phấn khởi, nắc nẻ, hăng hái, bức xúc,

- Trầm: quạnh quẽ, đìu hiu, buồn rầu, rũ rượi, ...



3/- Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm (monosyllabe) và phối vận:


- Đơn âm: Mỗi chữ có một âm hiệu (nốt) mang một ý nghĩa riêng biệt, có một phận sự ngữ pháp nhất định (Lê Văn Lý).


- Phối vận: Theo giáo sư Bùi Đức Tịnh (trang 195) : “Ngôn ngữ phối vận là ngôn ngữ trong đó mỗi tự ngữ gồm một ngữ tố chính chỉ ý nghĩa tổng quát, phối hợp với những ngữ tố phụ bổ túc cho ý nghĩa ấy bằng một đặc tính đặc biệt, hoặc chỉ mối quan hệ giữa tự ngữ và ý nghĩa của câu”


Tiến sỹ Lê Văn Lý và nhiều nhà ngữ học khác đều cho rằng tiếng Việt là đơn âm, riêng GS Bùi Đức Tịnh chủ trương tiếng Việt là phối vận. Tôi thấy 2 ý kiến này không đối chọi nhau một cách tuyệt đối hay triệt tiêu nhau, nên tôi vẫn giữ ý kiến này : bên nào cũng có lý.


Nhờ là đơn âm nên tiếng Việt có khả năng cấu tạo và sáng chế từ ngữ rất tài tình.


a/Ta có thể kết hợp chữ này với một chữ khác, tạo thành một chữ thứ ba. Ví dụ : thợ may, nông nghiệp, cấy lúa.

b/ Đôi khi một chữ có nhiều ngữ tố : 1 chính và nhiều phụ để diễn tả một sự vật hay 1 ý niệm. Ví dụ : ký sinh trùng (‘trùng’ là ngữ tố chính), nhân sinh quan (‘nhân sinh’ là 2 ngữ tố phụ).

c/ Ta có thể thay thế chữ này bằng chữ khác, hoặc hoán chuyển vị trí 1 chữ trong 1 câu, nên việc sáng tác văn, thi, nhạc, rất phong phú.

d/ Ta có thể thay thế cách trình bày những bản nhạc Việt-Nam theo thể điệu Jazz để làm phong phú hóa nền âm nhạc nước nhà và hội nhập vào nền âm nhạc thế giới. Gần đây, có nhạc sỹ Nguyên Lê, con của giáo sư sử học Lê Thành Khôi, đã khai thác lối nhạc này và đã nổi tiếng hoàn cầu. Có ca sỹ Bích Chiêu cũng hát nhạc Việt-Nam theo thể Jazz, được người ngoại quốc rất ngưỡng mộ, nhưng phong trào vẫn còn phôi thai lắm.

e/ Ta có thể nói trại, nói ríu (hay là thúc vận). Ví dụ : ông ấy ổng, bà ấy bả, bên ấy bển, ngoài ấy ngoải, đằng ấy đẳng, hồi nãy + đến giờ nãy giờ.



4/- Ngữ pháp tiếng Việt đặt qui tắc xuôi chiều trong tương quan giữa thành phần được chỉ định và thành phần chỉ định


Thành phần có thể là 1 tự ngữ, 1 từ ngữ, 1 mệnh đề hay 1 câu, khác với chữ Tàu. Ví dụ:

- Cây lúa, tiếng hò (là 1 tự ngữ) : ‘cây’ ‘tiếng’ là cái được chỉ định đứng trước, ‘lúa’ ‘hò’ là cái chỉ định đứng sau.

- Chiếc lá vàng (là 1 từ ngữ) : ‘chiếc lá’ là danh từ được chỉ định đứng trước, ‘vàng’ là tỉnh từ chỉ định đứng sau.

- Mẹ ăn cơm (là 1 mệnh đề) : ‘mẹ’ là chủ từ được chỉ định đứng trước, ‘ăn cơm’ là phần chỉ định đứng sau.

- Khi tôi đọc xong, tôi sẽ hỏi anh (là 1 câu có 2 mệnh đề):


* ‘Khi tôi đọc xong’ là mệnh đề được chỉ định đứng trước,

* ‘tôi sẽ hỏi anh’ là mệnh đề chỉ định đứng sau.


Tiếng Tàu luôn luôn theo ngữ pháp đặt ngược lại trong tự ngữ, từ ngữ. Điều này giúp ta nhận diện những tiếng Hán Việt. Do đó, muốn giữ bản sắc riêng biệt của tiếng Việt khi mượn tiếng Tàu, ta nên cẩn thận. Trừ phi các thi sỹ muốn nhấn mạnh một ý nghĩa hoặc một âm vận, họ có thể đảo ngược. Ví dụ : 

- Xanh râu là Chúa, bạc đầu là Tôi.

- Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.


5/- Tiếng Việt nhờ có đơn âm nên cấu trúc có tính cách uyển chuyển, linh động


  1. Nhà ngữ học Lê Văn Lý nêu ra một câu 5 chữ có khả năng tạo ra 39 câu có ý nghĩa khác nhau, bằng cách hoán chuyển vị trí các chữ trong câu :

  • Sao nó bảo không đến?

  • Sao bảo nó không đến?

  • Sao không bảo nó đến?

  • Sao không đến bảo nó?...

Sự linh động này tạo ra một khó khăn cho người viết hoặc nói : là phải chọn lựa vị trí của các chữ trong câu để diễn tả đúng ý nghĩ họ mong muốn.


b)Nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu tìm được một loại thơ có thể đọc xuôi từ trên xuống, hay đọc ngược từ dưới lên, hoặc bỏ bớt những chữ đầu hay những chữ cuối mà vẫn giữ được hồn thơ.


- Bài thơ gốc, tác giã vô danh:


‘Ta mến canh xuân ánh sáng ngời

Thú vui thơ rượu chén đầy vơi

Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc

Lá quện hương xuân sắc thắm tươi

Qua lại khách chờ sông lặng sóng

Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người

Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng

Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười’.


- Đọc ngược bài gốc từ dưới lên :

‘Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha

Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa

Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược

Sóng lặng sông chờ khách lại qua

Tươi thắm sắc xuân hương quện lá

Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa

Vơi đầy chén rượu thơ vui thú

Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta’.


- Lần lượt:


* bỏ hai chữ đầu mỗi câu trong bài gốc

* bỏ hai chữ cuối mỗi câu trong bài gốc

* bỏ ba chữ đầu mỗi câu trong bài gốc

* bỏ ba chữ cuối mỗi câu trong bài gốc

* bỏ bốn chữ đầu mỗi câu trong bài gốc

* bỏ bốn chữ cuối mỗi câu trong bài gốc.


c) Thi sỹ Hàn Mặc Tử cũng có một bài thơ thuận nghịch khá độc đáo:


Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương

Lạ cánh buồn thêm nợ vấn vương

Tha thiết liễu in hồ gợn sóng

Hững hờ mai thoảng gió đưa hương

Xa người nhớ cảnh hồ lai láng

Vắng bạn ngâm thơ rượu bẻ bàng

Qua lại yến ngân dân ủ lá

Hoa dàn sẵn có dế bên tường.


Cũng bải thơ này, đọc ngược lại, bỏ 2 chữ cuối,

Rồi đọc ngược lại ; rồi bỏ 2 chữ đầu câu ; rồi đọc ngược lại.


Ta mới thấy ngôn ngữ Việt thật tuyệt vời và thi sỹ thật tài tình.


d) Trong quyển sách “Thú Chơi Chữ” của tác giả Hồ Lê và Lê Trung Hoa, ta thấy tiếng Việt có thể được sử dụng để chơi chữ theo 14 cách : nói lái, đảo từ, đảo cú, dùng đồng âm, đồng nghĩa, chiết tự...



6/- Mọi từ-loại (như danh từ, động từ, tĩnh từ, đại danh từ, một con số, một phụ từ...) đều có thể làm thuật từ


Ta hãy nghe linh mục Lê Văn Lý định nghĩa thuật từ “là một tự ngữ hay một thành tự (nhóm chữ) chỉ một tình trạng hay một biến cố mà người nói muốn làm cho người khác chú ý đến. Yếu tố quan trọng nhất của một câu nói là thuật từ. Chỉ nguyên thuật từ đã đủ để làm thành câu nói” (trong nhiều trường hợp, thuật từ tương đương với một động từ). Ví dụ theo sơ thảo ngữ pháp Việt-Nam của linh mục Lê Văn Lý (trang 164) :


- Sáng ngày bồ dục muối chanh
Trưa gỏi cá chép, tối canh cá chày
(bồ dục, gỏi, canh: 3 danh từ làm thuật từ).
- Muốn biết đậu, trượt, phải đi hỏi xem
(biết, đi hỏi: 2 động từ làm thuật từ).
- Nó viết thư (viết: 1 động từ làm thuật từ).
- Thật tài giỏi (tài giỏi: 1 tĩnh từ làm thuật từ).
- Hay quá (hay: 1 tĩnh từ làm thuật từ).
- Ai đó? Tôi đây mà (ai: danh từ, tôi: đại danh từ làm thuật từ).
- Hai với ba là năm (năm: 1 số tự làm thuật từ).
- Dù sao chăng nữa, cũng tại chúng mày cả
(sao, tạ : 2 phụ từ làm thuật từ).

SAU KHI ĐÃ ĐIỂM QUA NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA TIẾNG VIỆT, TA THỬ ĐỀ NGHỊ VÀI TIÊU CHUẨN CỦA TIÉNG VIỆT TRONG SÁNG:


1) Từ ngữ sử dụng phải được chọn lựa một cách chính xác để diễn tả đúng ý nghĩ mính muốn nói, chữ đó phải có trong tự điển tiếng Việt, chữ đó có thể được dịch bằng một chữ ngoại quốc đồng nghĩa (nhưng cũng có thể không có 1 chữ ngoại quốc tương đương). Nhưng từ điển là tiêu chuẩn đánh giá sự chính xác của tự ngữ. Ví dụ : chữ HOÀNH TRÁNG tự điển ghi lớn rộng, to và sâu, như nhà lớn rộng và sâu, hay ‘ngắm cảnh non sông hoành tráng’. Như vậy, khi nói ‘bữa tiệc thật hoành tráng’là sai rồi. Có vài tác giả, khi viết, sử dụng những chữ không có trong từ điển nào cả, như vậy có nghĩa ông đã sáng chế ra những chữ này làm cho lời văn không trong sáng chút nào; rất tiếc ông cũng không viết chú thích làm cho người đọc thật bỡ ngỡ.

2)Lời nói phải đúng văn phạm Việt ngữ, chẳng hạn : tĩnh từ phải đặt sau tiếng nó bổ nghĩa, trừ phi trong thi thơ.

3)Mục đích của ngôn ngữ là để diễn tả cho người khác hiểu, chớ không phải để cho chính mình thưởng ngoạn. Nếu nói hay viết ra mà ngời khác không hiểu là có vấn đề trong sáng trong tiếng Việt.

4)Không sử dụng quá nhiều những chữ Hán hay chêm quá nhiều tiếng ngoại quốc (Pháp, Mỹ...). Có người sử dụng vì muốn khoe chữ nghĩa ; người khác thì không cố gắng tìm những chữ Việt giản dị để diễn tả vì thói quen như thế, hoặc vì đầu óc đã trở thành người ngoại quốc, không muốn thành tâm gìn giữ và lưu truyền lại cho con cháu ; kể như tiếng Việt, nước Việt đã không còn trong tâm trí họ.

5)Vấn đề phát âm, tiếng Việt có 3 cách phát âm theo 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Mỗi miền có những cách phát âm “ngọng” (hay sai) khác nhau :

-Miền Bắc: thường phát âm sai giữa chữ N và L, giữa chữ CH và TR. Ví dụ:


No thay vì Lo; con CHâu thay vì con TRâu.

-Miền Trung: thường phát âm sai giữa E và Ă. Ví dụ:


En thay vì Ăn , (thẺn bEn thay vì thẲng băng),

Ép thay vì Ắp: (bÉp thay vì bẮp),

Ét thay vì ắt: (cứng ngHÉt thay vì cứng ngẮt).

-Miền Nam: 

*thường phát âm sai giữa G và R, D và V. Ví dụ:

Bắt con cá Gô (cá Rô) bỏ dô gổ (bỏ Vô Rổ) ; Nó nhảy Gột Gột (Rột Rột).

*thường lẫn lộn giữa DẤU HỎI và DẤU NGÃ...


Muốn giải quyết vấn đề phát âm, cha mẹ và thầy cô ở tiểu học phải quan tâm chỉnh sửa cho con cháu và khuyến khích con trẻ tập hát. Dùng âm nhạc để chỉnh sửa cách phát âm, vì mỗi âm tố (hay ngữ tố) đều có một nốt nhạc tương ứng. Mỗi ca sỹ, mỗi khi hát đúng âm điệu, thì không còn phân biệt được là Bắc, Trung, Nam, trừ phi người đó muốn giữ âm sắc đặt biệt của mình và cũng tùy theo ngữ cảnh của bài hát. Chỉ có như thế mới giữ được sự trong sáng của tiếng Việt.

Khi nghe hai người Việt trò chuyện với nhau, người ngoại quốc thường nói“như 2 con chim ríu rít”.

Thật vậy, khi nghe tiếng Việt, ta có cảm tưởng như nghe một âm thanh réo rắt, lảnh lót, dìu dặt, tíu tít, mời gọi. Tiếng Việt thật tuyệt vời, tế nhị. Nhưng điều này có hệ quả không tốt của nó : nó làm cho tâm hồn người Việt-Nam rắc rối, đến nỗi tác giả Falazzoli đã viết trong tác phẩm của ông ‘Le Vietnam entre deux mythes’ : “một sự tinh tế cố tình chẻ sợi tóc làm tư”. Người Việt Nam dễ vọng đọng, không đủ định tâm để hướng dẫn tư tưởng của mình đến chỗ tận cùng của nó, đến nỗi người Việt-Nam không hiểu cả chính mình. Có thể vì thế mà Nước ta có ít triết gia chăng ?

Một lời nói hay hành động phát xuất từ một ý tưởng, một ý tưởng được hình thành trong tâm thức. Nếu chúng ta thành tâm, thật lòng, thì giữa tư tưởng, lời nói và hành động có sự nhất quán. Nhưng nếu chúng ta không thành thật thì lời nói của chúng ta không chính xác, làm cho người khác hiểu lầm, thì lời nói ấy cũng kể như nói láo, nói khoát. Bởi thế, chúng ta cần phải chăm sóc để cho tiếng Việt được trong sáng, nếu không thì cả Nước sẽ nói khoát, nói ngọng:


Người khôn ăn nói nửa chừng

        Để cho người dại nửa mừng, nửa lo.


Nguy
ễn Tối Thiện
22/12/2024
---------------------------

Tài liệu tham khảo:


- Văn phạm Việt-Nam / Bùi Đức Tịnh / NXB Xuân Thu, 1966
- Sơ thảo ngữ pháp Việt-Nam / Lê Văn Lý / Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục, 1972
- Dẫn nhập nghiên cứu Tiếng Việt và Chữ Quốc Ngử / Võ Long Tê (Trung tâm Nguyễn Trường Tộ) Định hướng Tùng Thư, 1997
- Hoạt động của Từ Tiếng Việt / Đái Xuân Ninh / NXB Khoa Học Xã Hội, 1978
- Sử Dụng Từ ngữ trong Tiếng Việt / PGS Hồ Lê, TS Lê Trung Hoa / NXB Khoa Học Xã Hội, 2002
- Tìm hiểu Từ Ngữ tiếng Hán / Trần Ngọc Dụng / www.tinhhoavietnam.net
- Vài cứ liệu về nguồn gốc Pāli trong kho tàng tiếng Việt / www.thuvienhoasen.org
- Truyền thống văn hóa và con người Việt-Nam / Nguyễn Tối Thiện / www.thuvienhoasen.org