Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

Nghe Mưa- Thơ: Tưởng Dung- Nhạc: Lekhuong59 - Hòa Âm: SUNO AI - Tiếng Hát: Tấn PhướcTấn Phước

 
 
Thơ: Tưởng Dung
Nhạc: Lekhuong59 
Hòa Âm: SUNO AI 
Tiếng Hát: Tấn Phước

Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ

 

Khi tôi về, rừng thu xưa chưa rụng lá
Vàng thu treo trong nắng buổi về chiều
Vùng kỷ niệm một thời ôm ước vọng
Đọng trong hồn...nỗi hoang vắng tịch liêu

Người đi thuở ấy trong giông bão
Không nói mà sao...nhớ thiết tha
Chưa dám cầm tay rưng nước mắt
Ngày vui tao ngộ phải chia xa!

Sóng tình chưa gợn trong dòng mực
Nét bút chưa quen để tỏ nhiều
Thoảng nhẹ hương thơm hoa nhớ bướm
Bâng khuâng vừa gợn...chút tin yêu ...

Người đi biền biệt không quay lại
Hằn dấu tim đau những sớm chiều
Từ ấy hồn thu thêm nặng trĩu
Rừng thu in dấu những đìu hiu!!!

Tôi về đánh thức mùa thu cũ
Gởi gió rừng xưa tuổi xế chiều
Chiếc bóng đơn côi ôm kỷ niệm
Người ơi...hoa vẫn mãi...cô liêu...

nguyễn phan ngọc an
Thu 2025

Mẹ Ta Dứt Nghiệp Về Không…

 

Ngày xưa…tiễn Mẹ ra đi
Ta còn ở lại làm gì cho nguôi
Đã hơn mười mấy năm rồi
Có đêm ướt gối, nhớ Người…Mẹ ơi!
Tuổi thơ dại dột rong chơi
Để lưng Mẹ hứng roi đời thay ta
Thương con Cha cố răn đe
Thương ta, Mẹ lại chở che thân hình
Lưng hằn roi, Mẹ lặng thinh
Để con đau, Mẹ biết mình đau hơn
Tuổi thơ quấy quả lụy người…
Bây giờ bạc tóc, nói lời mông lung
Mẹ ta dứt nghiệp về không
Ta còn nặng nợ, long đong ta bà!

ThanhSong ntkp (2004)

Chiếc Lá Thu Trong Mùa Lễ


(Chuyện thật, tên nhân vật đã đổi. Viết theo lời kể của một người mẹ có con gái bị hại)

Tôi quẹo xe vào tận cùng góc phải khu Almaden Safeway Center San Jose, CA, tìm được một chỗ đậu, và mở cửa bước ra ngoài. Ngọn gió cuối thu dịu dàng thổi qua những hàng cây trụi lá, mang theo chút hơi lạnh đầu đông, len vào từng góc khu shopping lớn của miền Bắc California. Bãi đậu xe của siêu thị Safeway chiều nay đông kín vì gần ngày Lễ Tạ Ơn, một trong những ngày lễ lớn của Hoa Kỳ. Dù chỉ mới đến Mỹ hơn ba năm, tôi cũng đã có khá nhiều kinh nghiệm về việc kiếm chỗ đậu xe ở cái shopping mall này khi đi mua sắm. Chọn đi xa một chút nơi cuối bãi thì dễ có chỗ trống và khỏi sợ ai đụng quẹt mình.

Thấy trời còn chút nắng chiều, tôi bước trở lại xe lấy cái mũ rộng vành chụp lên đầu và đeo vào cặp kính râm. Đi ngang qua chỗ cái thùng rác dưới gốc một cây xanh, tôi xém vấp vào một người quần áo nhem nhuốc đầu trùm mũ áo lạnh sùm sụp với cái bao nylon lớn đen thùi lùi đựng đầy chai lon nhôm nhựa nằm cạnh bên.

Tôi giật mình khựng lại, nói “Sorry” và bước tránh qua một bên rồi đi thẳng vô chợ Safeway.

Bên trong chợ, người ta hối hả chọn hàng, chen lấn gần đụng nhau vì là giờ chiều vừa tan sở, ai cũng vội vã mua sắm để về nhà còn nấu nướng.

Dãy tủ đông dài chất đầy những con gà tây mập ú, con to nhất vào cỡ ba chục cân Anh, và con nhỏ nhất cũng phải mười mấy cân. Đây là chỗ rộn ràng tấp nập nhất trong chợ, người thì hì hục cố lôi lên từ dưới để chọn con gà lớn nhất, kẻ lại xô dạt qua một bên con gà lớn để rinh về con nho nhỏ nấu cho vừa với gia đình. Tôi xách lên một con trung bình mười tám lbs và đẩy xe qua hàng khác.

Sau chỗ gà Tây, hàng thịt heo, sườn heo, ướp sẵn với lá rosemary xanh kìn kìn cũng được nhiều người chiếu cố. Trên xe đẩy ai nấy đều có bánh bí ngô, và mấy chai rượu vang đỏ ngời ngời, sóng sánh dưới ánh đèn điện sáng choang của shop.

Tôi đẩy xe đi chậm rãi luồn lách giữa những lối hàng hóa rực rỡ ánh đèn, bỗng nhiên thấy lòng mình chùng xuống. Vào mùa này trong ba năm qua, năm nào cũng thế, tôi lại nhớ quê nhà, nhớ những con đường đất đầy vũng nước mưa loang loáng mỗi lần chạy xe qua nước bắn lên tung toé. Tôi nhớ cả mùi khói bếp trong những buổi chiều mưa lụt, mẹ tôi làm món cá kho quẹt với ớt đỏ cay xè ăn cho ấm bụng.

Năm nay còn buồn nhiều hơn, vì quê nhà đang bị cơn lũ lụt lớn khủng khiếp tàn phá, giết hại đồng bào, phá hủy tài sản bà con khắp nơi. Đã hai ngày qua nước dâng lên gần đụng trần tầng một nhà tôi, mẹ và em tôi quay gửi những clip ngắn cho thấy nước tràn vô ào ạt, trước khi nhà mất điện. Nước đến nay vẫn chưa rút. Lũ lụt tàn phá từ Bình Định, Phú Yên, đến Nha Trang, Bình Thuận… và các tỉnh miền núi như Gia Rai, Đắk Lắk vẫn không tránh khỏi.

Và rồi, giữa dòng người tấp nập, khuôn mặt ai cũng rạng rỡ vui tươi, tim tôi bỗng khựng lại một nhịp, vì thấy mình như có lỗi, vì nhớ tới bà con quê nhà đang chịu thảm cảnh trong khi mình nhởn nhơ đi mua sắm.

Không còn hứng thú chọn hàng, tôi vơ vội thêm vài món linh tinh nữa rồi đẩy xe ra quầy tính tiền. Trong khi sắp hàng, tôi nhìn mấy cái tủ đồ uống xung quanh bỗng cảm thấy khát nước. Mở tủ lấy một lon nước 7up, trả tiền xong tôi khui ra vừa uống vừa đẩy xe đi. Ra tới cửa chợ, tôi tiện tay thảy cái lon không vào thùng rác bên cạnh cái trụ lớn. Tâm trạng không vui, tôi ném trật và cái lon văng ra ngoài. Tôi dừng xe vừa định cúi xuống nhặt bỏ vào thùng, thì một bàn tay nhem nhuốc từ đâu đã nhanh nhẹn chộp lấy.

Tôi vừa quay đi, đẩy xe quẹo ra phía parking, thì nghe tiếng va chạm mạnh và tiếng người hét lên.
“Á…”
Quay đầu lại nhìn, tôi thấy một chiếc xe lăn dừng lại bên thùng rác, và một người nằm dưới đất đang rên la oai oái.
Đó chính là cái người trùm mũ áo gió lem luốc màu cháo lòng mà tôi xém vấp phải ở ngoài bãi đậu xe khi nãy. Tò mò, tôi dừng lại nhìn. Anh ta vẫn nằm ườn ra đó và đang cãi nhau với ông Mỹ già ngồi trên xe lăn có cắm cây cờ Mỹ nhỏ. Thì ra anh ta đã bị chiếc xe lăn của ông già đụng phải khi cúi xuống lượm cái lon tôi vất.

Tôi cảm thấy có lỗi vì do tôi mà anh ta bị đụng, nên quay chiếc xe đẩy lại, định mở bóp cho chút tiền để anh ta khỏi “ăn vạ” ông già Mỹ tật nguyền.
Bước lại gần tôi nhìn vào anh ta, lúc này cái mũ trùm đã rớt ra, phơi bày nguyên mặt mũi dưới ánh trời chiều từ hướng Tây rọi vào hiên chợ. Đột nhiên một luồng khí lạnh sắc bén như dao đâm thẳng vào trái tim tôi buốt nhói.

Tôi đứng sững như bị trời trồng, hai tay rụng rời, bải hoải buông lơi, mặc cho chiếc xe đẩy từ từ chạy ra ngoài bãi đậu xe. Mắt mở to, tôi gỡ cặp kính ra, dụi mắt nhiều lần, và nhìn chằm chằm vào cái con người đang nằm lăn dưới đất, miệng cãi nhau ra rả bằng tiếng Anh với ông già Mỹ. Trên cổ anh ta gần bên vành tai trái, lộ rõ mồn một cái hình xăm hai trái tim đỏ như màu máu ghim vào nhau, cuối mũi tên là một bông hồng nhung đỏ thắm.

“Mũi tên em đã bắn trúng trái tim anh, từ nay đôi tim chúng ta sẽ cùng chung nhịp đập cho đến cuối đời”.
Câu nói như từ cõi địa ngục âm u nào bỗng vang lên trong tai tôi, kèm theo hình ảnh tôi âu yếm tựa đầu vào cái hình xăm ấy.
Trái tim tôi quặn thắt, và trong khi khuỵu xuống tôi còn nghe tiếng kêu thét của ai đó, “Nga! Nga ơi!” Và tôi không còn biết gì nữa…

***
Tôi mở mắt ra giữa bốn bức tường trắng phảng phất mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, trên người đầy dây nhợ chằng chịt, và những hình ảnh xuất hiện chớp tắt trong đầu. Cái lon rỗng, chiếc xe lăn có ông già Mỹ, và người nằm lăn dưới đất với hình xăm hai trái tim màu đỏ trên cổ. Tất cả như một cuốn phim cuồn cuộn trước mắt, làm cho tôi chóng mặt và đầu óc quay vèo vèo về quá khứ. Thời gian sáu năm tưởng đã xóa nhòa mọi ký ức, vậy mà chỉ một khoảnh khắc, tất cả lại ùa về - như cơn gió thổi tung cánh cửa đã khép lâu trong lòng, mọi thứ lần lượt tuôn ra...

Tôi đã từng có thời gian sóng đôi với Andy Tuấn, một Việt Kiều về nước làm ăn trong bộ cánh trí thức, do người bà con phía mẹ tôi giới thiệu. Nhiều cảnh đẹp Sài Gòn về đêm như Phố Đi Bộ Nguyễn Huệ, Công Viên Cầu Ánh Sao, Chợ Đêm Bến Thành, Hồ Con Rùa, và nóc hầm Thủ Thiêm...là nơi chúng tôi từng ngồi tâm sự cùng nhau. Một tình yêu chớp nhoáng, nhưng là mối tình đầu trong sáng đầy thơ mộng của tôi, một sinh viên đại học Quốc Gia TPHCM. Nhà thờ Đức Bà là nơi chúng tôi thề nguyện bên nhau suốt đời trước ngày đám cưới. Anh đã hứa làm thủ tục bảo lãnh tôi qua Mỹ chung sống. Nhưng rồi đến khi tôi có thai và sinh ra bé Tâm, tôi vẫn chưa hề thấy một giấy tờ gì chứng tỏ là anh làm bảo lãnh. Như để trả lời cho sự hối thúc của mẹ tôi, một ngày kia Tuấn đưa đến nhà tôi một cô ca ve “mắt xanh mỏ đỏ”, ăn mặc rất hở hang. Họ bước xuống từ chiếc siêu xe “Koenigsegg Regeras” trị giá vài tỷ, giới thiệu đó là người yêu của anh ta, và rằng anh quen cô ta trước khi gặp tôi, nhưng vì áp lực của gia đình nên anh mới đồng ý quen và kết hôn với tôi. Anh xin tôi và gia đình hãy tha thứ cho anh ta, vì cái cô này nhất quyết không buông và còn hăm dọa sẽ phá nát việc làm ăn của anh ta tại Việt Nam. Và rồi anh ta biến mất luôn từ đó.

Tôi đã trải qua những tháng ngày đầy ác mộng, vì sự nhục nhã của gia đình và của chính mình. Có lần tôi đã tính chuyện quyên sinh, nhưng vì thương bé Tâm và thương người mẹ đau khổ nên tôi đành nuốt lệ sống tiếp. Khi bé Tâm được ba tuổi, cũng là lúc tôi tốt nghiệp đại học và xin được việc làm, tôi gặp và quen Pall một người Mỹ gốc Việt từng li dị. Anh là người đưa mẹ con tôi đến đất nước này. Biết ơn anh và nước Mỹ đã cho chúng tôi cuộc sống tự do, tôi cố gắng chăm chỉ học hành, và vô cùng hạnh phúc chờ đợi ngày tốt nghiệp đại học tại San Jose State University trong mùa hè năm 2026 tới.

Tôi đang miên man nhớ về chuyện cũ, thì cô y tá người Mỹ da màu bước vào. Cô bước nhanh lại gần tôi và reo lên với nụ cười đầy thân thiện:
“Ah, chị đã tỉnh!”
“Làm ơn cho tôi biết, ai đã đưa tôi vào đây ạ?” Tôi hỏi.
“Chị bị ngất xỉu khi đi mua sắm, và có người gọi xe cấp cứu đưa vào đây”.
“Người đó đâu rồi? Tôi cần nói lời cảm ơn”. Tôi nói với cô y tá.
“Hình như anh ta là một người ‘homeless’, nhưng nói tiếng Anh rất sỏi.” Giọng cô trả lời rất xởi lởi như thể đã từng quen biết tôi. “Anh ta có nhờ tôi chỉ nơi tắm rửa công cộng gần đây, và tỏ vẻ rất lo lắng cho chị. Anh ta còn nhờ tôi chăm sóc kỹ cho chị, và nói sẽ trở lại gặp chị, rồi đưa số điện thoại nhờ tôi gọi cho anh ta khi nào chị tỉnh lại ”. Và cô hỏi, “Chị có muốn tôi gọi cho anh ta bây giờ không?”
Tôi hoảng hốt xua tay:
“Oh No! No! Xin đừng! Tôi không muốn gặp anh ta! Làm ơn đừng gọi!”
Và tôi lật đật ngồi lên, nhờ cô y tá rút hết dây nhợ trên người, “Tôi cần xuất viện ngay bây giờ! Chồng con tôi đang chờ tôi ở nhà!”
“Vâng! Sức khỏe chị okay, không vấn đề gì, bác sĩ đã kiểm tra kỹ rồi, chị chỉ bị chấn động tâm lý về việc gì đó nhưng giờ đã không sao, chị có thể ra viện.”

Tôi cảm ơn cô y tá rồi chụp lấy chiếc xách tay cô để trên đầu giường bệnh và theo cô ra làm thủ tục. Đang chuẩn bị ký trang giấy cuối cùng để xuất viện, tôi nhìn ra phía trước chợt thấy một người đang hối hả vượt qua những người mặc áo đồng phục trắng đi về phía phòng bệnh tôi nằm. Lúc này anh ta trông khá sạch sẽ, dù bộ đồ trên người cũ mốc cũ meo. Anh ta làm sao mà lại ra nông nỗi nhỉ. Tôi thầm nghĩ, vừa vội cúi đầu nhìn về hướng khác cho anh ta khỏi nhận ra mình. Người y tá chưa kịp dặn dò, tôi đã vội chụp lấy tờ giấy và đi như chạy về phía các bậc thang, tránh đi thang máy sợ anh ta quay ra sẽ gặp.

Xuống tới bãi đậu xe, tôi gọi về cho Pall, tóm tắt sơ qua mọi chuyện cho chàng an tâm, rồi chọn chiếc Uber-X cho nhanh, vì tôi thấy xuất hiện trên app điện thoại chỉ cách đó 3 phút. Hiện tại trong lòng tôi bão tố đang dâng trào, tôi rất cần sự an ủi của Pall.
Khi chiếc Uber dừng lại trước mặt, tôi vừa mở cửa thì nghe tiếng gọi to và gấp gáp phía sau:
“Nga! Nga! Nga ơi! Chờ anh với! Tuấn đây nè!”
Tôi quay lại, bắt gặp ánh mắt van lơn đầy đau khổ trên khuôn mặt co rúm như chiếc lá thu khô, loang lổ đầy những dòng nước mắt của Tuấn.
“Xin lỗi! Ông nhầm người rồi! Tôi chưa từng quen biết ông!”
Tôi hét to, rồi bước nhanh vào ghế sau, dập mạnh cửa xe, và hối anh tài xế Uber chạy lẹ. Trên đường về nhà, nước mắt tôi rơi cùng lúc với những chiếc lá thu vàng rơi rơi trong gió, bay lượn chao đảo trước đầu xe…
“Em đã xử sự đúng lắm!” Pall nói và ôm tôi an ủi sau khi tôi kể thật anh nghe mọi chuyện. “Kể cũng tội nghiệp anh ta”, Pall chép miệng, “chắc là đã bị cô ca ve đó gạt sạch hết rồi nên mới ra nông nỗi như bây giờ”.

Phương Hoa
Thanksgiving 2025


Nghe Mưa

 

Mưa rơi! mưa rơi!
Đừng cho em khóc
Trong cơn muộn phiền
Đừng cho giông tố
Dâng cao triền miên!

Mưa rơi! mưa rơi!
Đừng cho em nhớ
Hương xưa nồng nàn
Tràn lan trên gối
Ôi hương thời gian!

Mưa rơi! mưa rơi!
Đường chưa quên lối
Sao nghe lạc loài
Nhịp chân bối rối
Theo mưa tìm ai?

Mưa rơi! mưa rơi!
Tiếng buồn vọng mãi
Như kinh chiều vang
Trong hầm mộ tối
Ru đời đa đoan.

Mưa rơi! mưa rơi!
Em ngồi trông ngóng
Bước ai còn qua
Tình như chiếc bóng
Đuổi hoài vẫn xa!

Mưa rơi! mưa rơi!
Người xưa đã khuất
Sao em vẫn chờ?
Mưa chiều hoang vắng
Sao em còn mơ?

Tưởng Dung

Cuối tháng Giêng, 2008


Biển Chiều Nay


Chiều nay anh về với biển
Lặng nghe tiếng sóng rì rào
Thoảng trong làn hương của biển
Có mùi tóc rối thân quen.

Mải mê chạy theo còng gió
Sóng vờn dan díu bước chân
Ríu ran lời chưa kịp ngỏ
Thả vào nỗi nhớ miên man

Biển ơi anh về với biển
Giữa ngàn tiếng sóng lao xao
Giữa ngàn con sóng cồn cào
Trập trùng sóng gọi ngàn khơi

Hà Nội, 13 tháng 10/2023
Đặng Xuân Xuyến

Thầy Giáo - Thái Lan Dịch Bài

 

1/- Thầy Giáo 
(Cảm ơn bạn N đã gởi cho L dịch)

Một chàng trai trẻ gặp một ông cụ và hỏi:
– Dạ thưa thầy, thầy còn nhớ em không?
Ông cụ đáp: - “Không, xin lỗi, tôi không nhớ.”
Chàng trai nói: -Dạ thưa thầy em từng là học trò của thầy.

Ông mỉm cười và hỏi:
– Thật vậy sao? Bây giờ anh làm nghề gì?
Chàng trai trả lời:
– Dạ thưa thầy em là giáo viên.
– Giáo viên? Giống tôi sao? – ông hỏi.
–Dạ thưa vâng. Và thực ra, em trở thành giáo viên là chính nhờ Thầy đã truyền nguồn cảm hứng và ý nghĩ đó cho em.

Ông tỏ vẻ ngạc nhiên và hỏi:
– Thật sao? Khoảnh khắc nào khiến cậu quyết định như vậy?
Thế rồi chàng thanh niên kể cho ông nghe câu chuyện như sau:

– Một hôm,có người bạn của em đến trường đeo một chiếc đồng hồ mới toanh trên tay.
Đồng hồ rất đẹp, và em muốn một chiếc như vậy , nên em lấy của cậu ấy và cất vào túi mình.
Một lúc sau, cậu bé nhận thấy mình đã mất đồng hồ; bạn ấy nói với thầy, và thầy đã bảo cả lớp im lang.
Thầy nói:
-Hôm nay có người lấy trộm đồng hồ cua một bạn. Người đó hãy mau trả lại cho bạn.

Em đã không trả lại vì không muốn thừa nhận mình đã lấy cắp.
Thế là, thầy đã đóng cửa lại và yêu cầu mọi người đứng lên. Rồi thầy nói sẽ lục túi quần tất cả học trò trong lớp cho đến khi tìm thấy đồng hồ—nhưng trước tiên, thầy yêu cầu mọi người nhắm mắt lại để không ai biết người đã lấy cắp.

Tất cả chúng em đều nhắm mắt lại. Thầy lục hết trong túi quần tất cả cac ban. Khi thầy lục túi em, thầy đã tìm thấy chiếc đồng hồ.
Nhưng thầy vẫn tiếp tục kiểm tra túi quần của mọi người. Sau đó thầy nói:
- Xong rồi, các em có thể mở mắt ra. Ta đã tìm được đồng hồ.

Thầy chưa bao giờ nói ai đã lấy. Thầy chưa bao giờ nhìn em một cách không bình thường.
Thầy không nói với ai cả. Thầy đã che chở tội của em.

Đó là khoảnh khắc xấu hổ nhất trong đời em, nhưng cũng là ngày thầy đã cứu em. Thầy đã cho em biết cách sửa sai như thế nào - đó là bằng lòng tốt chứ không phải cách khiến người phạm lỗi rơi vào tình trạng lúng túng-

Kể từ hôm đó, em muốn được như thầy.
Đó là lý do tại sao em trở thành một giáo viên.

–Thầy còn nhớ ngày hôm đó không?

Thầy giáo ngừng lại, rồi nói:
– Ta nhớ có chiếc đồng hồ bị mất cắp, và nhớ đã phải lục soát để tìm… nhưng ta không nhớ trò.
Bởi vì lúc đó ta cũng đã nhắm mắt lại.

Sưu tầm - (Cảm ơn bạn N đã gởi cho L dịch)
Thái Lan

2/- Một Bàn Tay

Truyện về Cô giáo sẽ làm cho lễ Tạ Ơn của bạn ấm hơn.
Đôi khi, có những bài học thật cảm động do học trò của bạn dạy.

Khi Cô giáo Klein bảo học trò lớp 1 của mình vẽ một bức hình để tỏ lòng biết ơn với việc / hoặc vật nào đó, cô nghĩ rằng các em bé nhỏ này, với môi trường sống nghèo nàn của gia đình các em, chắc thật sự không có gì to lớn để tạ ơn. Cô biết rằng phần đông các em sẽ vẽ hình gà tây hoặc những cỗ bàn mừng lễ Tạ Ơn đầy ắp thức ăn.

Chúng chỉ mơ ước đến những điều như vậy.

Bức tranh của Douglas đã làm cho cô thật ngạc nhiên. Douglas trông thật tội nghiệp, cậu bé thường đi theo cô vào giờ ra chơi. Bức vẽ chỉ đơn giản như thế này: Một bàn tay.
Một bàn tay ư, nhưng bàn tay của ai vậy? Cả lớp học đều nhao nháo khi nhìn thấy bức hình.
Một cậu bé nói: “Em nghĩ đó chắc là bàn tay của Thượng Đế, vì ngài đã ban thức ăn cho chúng ta.”
Một bạn khác lại góp ý: -“Bàn tay của người nông dân, vì họ nuôi những con gà tây đó”.

Lavinia là cô bé luôn nghiêm nghị thì nói
-“Theo em thì trông như bàn tay của chú cảnh sát, và chúng luôn bảo vệ chúng ta”- “ đó là tất cả những bàn tay đã giúp chúng ta, nhưng Douglas chỉ có thể vẽ một bàn tay thôi”.

Cô Klein hầu như quên hẳn Douglas khi cô rất vui thích vì cả lớp đều trở nên rất tích cực chú tâm như vậy. Rồi khi cô cho cả lớp làm một sinh hoạt khác, cô đến bàn của Douglas và hỏi bàn tay đó là của ai.

Douglas thì thầm: - “Thưa cô, đó là bàn tay của cô ạ”.

Lúc đó cô Klein mới nhớ ra là thỉnh thoảng cô nắm tay của Douglas, cũng như cô thường làm với các bạn của cậu. Nhưng điều ấy thật quan trọng đối với Douglas.

Cô nghĩ sắp đến Lễ Tạ Ơn, lễ của cô, và của mọi người - không phải là tất cả những của cải vật chất to lớn ta được ban tặng mới được trân quý, nhưng là những món quà rất nhỏ mà ta mang tặng một cách thật đơn giản đến người khác.

Theo Reader’s Digest– TL/ phannữlan dịch

====================

3/- Chiếc Quần Ướt - (Tài liệu: Moral) - TL/ phannữlan dịch


Bạn hãy cùng đến với tôi ở một lớp 3…
Có một cậu bé chín tuổi đang ngồi ở bạn học, và bỗng nhiên, kỳ lạ chưa, một vũng nước xuất hiện ở dưới chân cậu và phía trước quần thì bị ướt. Cậu ta nghĩ rằng tim mình sẽ ngừng đập mất thôi vì cậu không thể nghĩ ra tại sao lại có tình huống này. Trước đây chưa bao giờ xảy ra, và cậu biết rằng một khi bạn bè phát giác ra được thì chúng sẽ không ngừng nói về điều ấy. Rồi khi bọn con gái mà biết được, chúng sẽ mãi mãi không bao giờ chơi với cậu nữa.
Cậu bé nghĩ rằng tim mình sẽ ngừng đập; cậu cúi đầu và cầu nguyện: “Lạy Thượng Đế, đây là trường hợp khẩn cấp! Xin Ngài hãy cứu giúp con ngay bây giờ ạ! Chỉ trong vòng năm phút nữa thôi là con sẽ chết mất, thưa Ngài”

Cầu nguyện xong, cậu ta ngước nhìn lên và thấy cô giáo đến; ánh mắt của cô cho cậu biết là cô đã phát hiện ra điều ấy. Khi cô giáo bước về phía cậu, có một bạn nữ tên Susie cùng đi với cô và mang một chậu cá kiểng vàng, chậu đầy cả nước. Susie bỗng vấp ngay trước cô giáo và đổ ập chậu nước vào lòng cậu bé một cách khó hiểu.
Cậu bé làm bộ tức giận, nhưng trong khi nước đổ vào người, cậu thốt lên trong tâm “ Xin cám ơn Thượng Đế! Xin cám ơn Thượng Đế!”
Và bây giờ, bỗng nhiên thay vì là trọng tâm của sự chế giễu, cậu bé trở nên đối tượng của lòng thương cảm. Cô giáo vội đưa cậu xuống phòng thể dục và cho cậu mặc quần soóc trong khi chờ quần dài khô ráo. Tất cả bọn trẻ quỳ xuống và cùng lau dọn quanh bàn học của cậu bé. Sự cảm thông thật tuyệt vời. Nhưng một khi ta tìm thấy điều ấy trong suốt cuộc đời ta, thì sự chế giễu đáng lẽ cậu phải gánh chịu giờ đã chuyển sang người khác. -Susie.
Cô bé muốn đến giúp các bạn, nhưng chúng bảo cô bé không cần nhúng tay vào. Bạn đã gây đủ rắc rối rồi, cô bé vụng về ạ!
Và, chiều đến, giờ tan học, khi chúng đứng đợi xe buýt, cậu bé đến thì thầm với Susie “ Bạn đã cố ý làm như vậy, phải không?”
Susie cũng trả lời nhỏ nhẹ “Tớ cũng đã từng bị ướt quần một lần..”
Cầu xin Thượng Đế giúp ta thấy được những sự việc luôn xảy ra quanh ta đúng lúc để ta có thể hành động kịp thời.

***
ĐẠO LÝ: Trong suốt cuộc đời chúng ta, ai cũng trải qua những điều tốt và xấu. Ta phải luôn nhớ ta cảm thấy như thế nào trong cùng tình thế như họ và không nên nhạo báng người khác khi họ phải trải qua thời điểm/ hoàn cảnh như thế.
Phải luôn luôn cố gắng thông hiểu hoàn cảnh của họ như thể chính bạn đang phải gánh chịu điều ấy và giúp họ trong khả năng có thể, và cầu nguyện Thượng Đế rằng hôm nay bạn có điều kiện để giúp người đang có nhu cầu.

TL/ phannữlan chuyển ngữ.
(Tài liệu: Moral)

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

Ẩn Dật 2 - Thơ: Vinh Hồ


Thơ: Vinh Hồ
Thực Hiện: Troy Tran

Thuyền Con

 

Con như thuyền nhỏ giữa dòng,
Thấy bờ, thấy bến ngại ngùng lảng xa.
Mặc cho bão táp, phong ba,
Ra tay lều lái vượt qua ngỡ ngàng!

Cập bờ sợ phận chẳng an,
Cập bến lại sợ trái ngang lạc đường.
Tháng ngày trôi nổi tha hương,
Quên nguồn, quên cội, mặc lòng đẩy đưa.

Thuyền ơi, còn nhớ bến xưa,
Tuy hai mà một, đâu sai lời nguyền!
Hãy tìm bờ bến bình yên
Xóm làng phố thị triền miên hương nồng!

Trời cao, đất rộng mênh mông,
Dù nay xa lạ, tim lòng luyến thương!
Vơi đi đau khổ buồn phiền
Ngàn hoa đua nở tìm miền tự-do.

Sông ơi, uốn khúc quanh co
Cõi đời mà dám so đo với trời.
Đố ai đo được lòng người,
Thì ta khuyên nước đừng trôi theo dòng!


Tô Đình Đài

Lá Vàng

Năm lá vàng, triệu lá vàng
Em ơi ! Anh gọi mùa sang đây rồi
Về đâu thấy bớt chơi vơi
Để người ở lại khó rời chân đi .
Em nhớ về ngay hôm ni!

Phan Khâm

Không Có Lời Ru

 

Lên núi xem tình yêu
Cao hơn một cánh diều
Bay đi xa tít tắp
Em hốt hoảng chạy theo

Tình yêu dưới trời xanh
Như hồn em gởi anh
Tan trong ngày gió lộng
Anh bỏ, cũng không đành

Em ngó tới chân mây
Tình yêu vẫn còn đây
Nhưng mây làm vẩn mộng
Xa xót nỗi đau này

Trên đỉnh biếc mùa thu
Đã phủ hơi sương mù
Mong manh tình yêu vỡ
Không có một lời ru ...

Cao Mỵ Nhân

Tôi Và Portland, Oregon


Đây là bài số bảy trăm tám mươi chín (789) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB

Portland Oregon bây giờ đang vào mùa mưa. Mưa tí tách trên mái nhà, mưa rơi rơi trên đường phố. Bên ngoài trời lại lạnh vì bắt đầu vào mùa Đông. Nhiều người không thích ở Portland vì mưa nhiều khí lạnh nhưng riêng cá nhân tôi vẫn thích ở Portland vì có những tình cảm gia đình gắn bó nhau hơn 30 năm rồi. 
Cha mẹ chúng tôi khi sinh tiền vẫn muốn chị em chúng tôi sống quây quần bên nhau và chúng tôi đã tuân theo ý nguyện của ba má chúng tôi dù trước đây gia đình bên chồng tôi rủ rê vợ chồng chúng tôi dọn về tiểu bang Florida nắng ấm. Âu cũng là phúc duyên mỗi người mỗi khác

Mời xem youtube gia đình Nguyễn Hữu sum họp bên nhau mừng Xuân mới.

Gia đình Nguyễn Hữu đi chùa lễ Phật Tết Ất Tỵ 2025



https://www.youtube.com/watch?v=ziP7SJlwM0w&list=PLCWHPuqIsqJNE4Tc86cskV9xbCxFZ2cfk&index=14

Một duyên may khác tôi có cô bạn hàng xóm Maria gốc người Romania, thường hay giúp đỡ và đem biếu thức ăn buổi tối cho vợ chồng chúng tôi mỗi khi con cháu hay bạn hữu của cô đến viếng thăm gia đình cô. Cô nấu ăn cho gia đình cô, vừa nấu xong cô bưng ngay 2 dĩa thức ăn còn nóng hổi đem qua cho chúng tôi ngay để tôi không mắc công nấu ăn buổi tối hôm đó. Trời lạnh đôi khi cô còn chạy qua nhà tôi kéo thùng rác ra vô giúp tôi nữa. Thật là tôi có phúc vô cùng khi được cô Maria giúp đỡ cả chục năm rồi trong quá khứ và trong hiện tại với lòng thương mến người cao niên chúng tôi. Thanks, Maria.

1- Mời xem Photos Maria hái hồng và quét lá mùa Thu giúp Sương Lam

https://photos.google.com/share/AF1QipPbKhekUpQQbk2iAQi_Lr-uL_mHm2CLh57EfJXQi1DFbgc4F2L9erdlsRgOmruRRA?key=czJtRDhWLTFFQklNTm50UkpvMDVPQzl5NHVGZzZR

2-Mời xem Photos Maria and Sương Lam together


https://photos.google.com/share/AF1QipP3y13-yBstBonKYBkAFy5cWyxpvNLumFWyRyQRZfU9-TOfcNAKMdn41ORL2y2cjA?key=SjV0amlLM3h5d0dEdWJ4emZsRHowQTcwMXBpRFlB

Cả chim sóc cũng đem tình cảm ấm áp đến với gia đình chúng tôi.
Mời bạn xem những youtube dưới đây cho vui nhé.
1-Youtube Chim sóc đến ăn hồng vườn nhà Sương Lam 2:38
https://www.youtube.com/watch?v=Sm82DXZQOLY
https://www.pinterest.com/pin/801640802464487956/

2-Youtube Sóc đến chơi vườn nhà Sương Lam 11-30-25

https://www.youtube.com/watch?v=8PB6dodG5K8
https://www.pinterest.com/pin/801640802465289547/

Portland đúng là nơi "đất lạnh tình nồng", phải không bạn nhỉ"

Tôi xin mời bạn viếng thăm Portland, quê hương thứ hai của tôi và hy vọng bạn cũng sẽ "để quên con tim” ở đây, nếu bạn đã một lần đến viếng Portland, Oregon của tôi

Portland, Oregon

“…Portland là một thành phố nằm nơi giao tiếp của hai con sông Willamette và Columbia trong tiểu bang Oregon. Với dân số 562.690 nó là thành phố đông dân nhất Oregon và hạng ba vùng Tây Bắc Thái Bình Dương sau Seattle, Washington và Vancouver, British Columbia. Khoảng 2 triệu người sinh sống trong ở Portland, sắp hạng 23 trong danh sách các Vùng đô thị Hoa Kỳ.

Portland được thành lập vào 1851 và là quận lỵ của Quận Multnomah; nó lấn ranh một chút vào hai quận Washington và Clackamas.

Portland nằm trong vùng khí hậu duyên hải miền Tây, ấm vào mùa hè và có mưa nhưng mùa đông thì ôn hòa. Thời tiết lý tưởng cho trồng hoa hồng và hơn một thế kỷ qua Portland được mệnh danh là Thành phố Hoa hồng vì có rất nhiều vườn hoa hồng - đặc biệt nổi tiếng là Vườn Thí Nghiệm Hoa Hồng Quốc tế. Portland cũng được biết đến là nơi có nhiều hãng nấu rượu bia nhỏ và cũng là nhà của đội bóng rổ Trail Blazers.

Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2000, số người Mỹ gốc Việt ở Portland là 10.641 người, chiếm 2.0% dân số toàn thành phố.

Lịch Sử

Năm 1843, William Overton nhận thấy vùng đất này có tiềm năng thương mải rất lớn nhưng ông thiếu vốn cần thiết để làm đơn xin chủ quyền sử dụng đất. Ông đồng ý hợp tác với một người khác là Asa Lovejoy từ Boston, Massachusetts: với 25¢, Overton được chia phần chủ quyền trên một diện tích đất rộng 640 mẫu Anh (2,6 km²). Overton sau đó bán lại phân nửa cho Francis W. Pettygrove từ Portland, Maine. Cả Pettygrove và Lovejoy đều muốn đặt tên cho thành phố mới này với tên thành phố ở quê hương của mình. Cuối cùng họ quyết định dùng đồng tiền sấp ngửa để định đoạt tên thành phố. Pettygrove thắng cuộc nên thành phố được đặt tên theo thành phố quê hương ông là Portland.

Cho đến ngày thành lập ngày 8 tháng 2 năm 1851 Portland chỉ có khoảng trên 800 cư dân,một trại cưa chạy hơi nước, một khách sạn bằng gỗ và một tờ báo tên là Tuần báo Người Oregon. Vào năm 1879, dân số tăng lên 17.500 người.

Vị trí của Portland rất thuận tiện cho lưu thông cả đường thủy và bộ ra Thái bình Dương: từ sông Willamette và sông Columbia và từ đại thung lũng nông nghiệp Tualatin qua con đường bằng phẳng vĩ đại "Great Plank Road" xuyên qua một thung lũng nằm trong dãy núi phía tây (hiện nay là Quốc lộ 26) đã mang lại cho Portland một lợi thế hơn so với các cảng lân cận và giúp nó phát triển nhanh hơn. Nó vẩn là cảng chính tại vùng Tây Bắc Thái Bình Dương suốt hết thế kỷ 19 cho đến khi cảng nước sâu của Seattle nối được với các nơi còn lại của địa lục Hoa Kỳ bằng tàu hỏa, mở ra tuyến đường thông bộ mà không phải đi qua sông Columbia đầy tai ương.

Lần đầu tiên Portland được gọi tên (Thành phố Hoa hồng) là vào năm 1888 bởi những du khách đến dự một hội nghị của Giáo hội Tân giáo(Episcopal Church). Biệt danh đó nhanh chóng trở thành quen thuộc sau cuộc triển lãm mừng sinh nhật 100 năm Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark năm 1905. Cũng trong ngày đó Thị trưởng Harry Lane đề nghị thành phố cần một ngày Lễ hội Hoa hồng Lễ hội Hoa hồng Portland lần đầu được tổ chức hai năm sau đó và là tiếp tục là ngày lễ hội chính hàng năm cho đến bây giờ.
(Nguồn: Trích trong https://en.wikipedia.org/wiki/Portland,_Oregon)


Mời bạn xem youtube dưới đây thay cho lời kết luận tâm tình của tôi hôm nay nhé.
Youtube Portland trong trái tim tôi
https://www.youtube.com/watch?v=yUgVZoKRXGA

Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Nguồn: tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi-MCTN 789- ORTB 1230-12-2-25)
 

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

THÁNG GIÊNG

 

 



Rồi tết qua đi, sầu ở lại
Quê nhà xa huốt một đường bay
Rượu xuân ai ướp mùi quan ải
Mà thấm xa thêm những dặm dài!

Bốn câu hai mươi tám chữ, cụt ngủn. Lỡ có muốn thêm cũng chẳng biết thêm gì. Mà có thiếu gì không, mấy câu gọi là thơ, buổi chiều mùng-ba năm đầu tiên ăn-tết ở xứ người.

Một năm trước đó, ngay bửa ba-mươi-tết, tôi bồng đứa con gái đầu lòng lên năm, đeo xe đò từ một tỉnh ở phía cực tây, về thăm cha mẹ ở một làng quê giữa hai nhánh sông Tiền và sông Hậu. Luôn thể để báo tin một chuyến đi xa. Xa lắm, không biết có tới nơi tới chốn. Mà cũng chẳng biết ... rồi sẽ có một ngày về.

Gia đình đông con, bốn trai năm gái. Nhưng lần ấy, ba anh em trai còn đâu đó trong các trại tù heo hút mấy miệt rừng núi Lào Kai, Yên Bái ... Mấy chị em gái cũng bận đi nuôi chồng trong các trại lán lẩn lút giữa một miền Nam thân quen bỗng sớm chiều trở thành lạ lẫm.
Chỉ còn tôi và đứa cháu gái ngu ngơ hớn hở vì được về thăm nội dù từ khi lọt lòng chưa một lần được nội ẳm bồng.

Đêm ba mươi. Ba tôi thắp ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ tổ tiên cho tôi lạy từ biệt đất nước ông bà. Ngôi nhà gạch xinh xắn có giàn bông giấy tím ở tỉnh bị cướp trên tay, đổi thành căn nhà lá vách tre đứng chênh vênh trên doi đất vói ra vàm kinh Bình Phụng. Đêm cuối năm, trăng sao trốn biệt. Đêm trừ tịch, gió rền rĩ lẫy hờn. Đêm sinh ly, sóng vổ bờ như vổ vào chính lòng tôi, từng điệu oán.

Lễ xong, tôi xoay qua, mếu máo quỳ lạy sống ba má tôi, lần đầu mà nghĩ là lần cuối. Con gái thấy lạ cười ngặt nghẽo trên tay bà nội.

Sáng hôm sau, bồng con quày trở lại nơi mai mốt sẽ khởi đầu cho chuyến đi vô định.

Mùng chín tết năm đó, tôi rời Việt Nam.

Một năm sau, tôi ăn tết ở một nơi không có bàn thờ ông bà, không cha không mẹ, không anh chị em, không hoa mai cũng chẳng mứt gừng mứt bí... Chung quanh tôi, tuyết trắng, trắng đến mênh mông như một cõi lòng đã lạnh. Trái đất quay, quay theo chiều quay nghiệt ngã. Xuân ở quê nhà, quê người đã quá nửa chừng đông.

Giữa đêm, trời đổ tuyết. Từng nhúm tuyết mịn bân mà nhẹ hửng như bông gòn thổi bay xối xả, nhuộm trắng cả đêm đen. Gió réo, tuyết loay hoay xoay chiều, lắm khi luống cuống như lạc nẻo, quẩy đập vào nhau vật vã như tiếng kêu khổ của mùa. Đêm gượng sáng mà có ngó ra thử tìm hướng cố hương cũng chỉ thấy mù thêm hai con mắt vốn đã thất lạc, từ khi. Nhìn tuyết trắng trời mà cảm thán tới muốn sửa thơ Nguyễn Bính tiếc Huyền Trân. Giờ đây chín vạn bông trời nở / Riêng có lòng ta khép lại thôi. Ông ta tả hoa lá mùa xuân rực rỡ ở đâu không biết. Chớ ở đây, cõi tôi gá thân chỉ có trắng một trời bông tuyết nở ! Lòng người xa xứ, có khép lại, cũng đành.
................................
............................

Vậy mà rồi hơn bốn mươi năm. Bốn mươi năm biệt xứ, không về lại một lần. Tang cha, tang mẹ, trắng xé lòng, mỗi lượt. Ở xa, tôi không đi chùa đi miểu. Mỗi lượt, tôi, mình tôi, chẳng đạo chúa, trốn vô ngôi nhà thờ nhỏ ở góc phố vắng. Trưa im im, lặng ngắt, đèn thờ không sáng nổi mặt tượng. Không gian nhốt kín, cả đến gió thu cũng bị chận lại bên ngoài. Mình tôi, riêng lẻ mình tôi, thu mình trong một góc khuất, nhìn cái trống không giữa những vòm cong thánh đường. Tôi ngồi ở đó, bất động. Rồi thấy lại tôi chín mười tuổi chạy nhảy thênh thang giữa tấm lòng trải rộng đến mênh mông của cha mẹ. Thấy lại tôi trưởng thành vẫn y nguyên một nỗi cưu mang như khi còn đòi bồng ẵm. Thấy lại tôi với lời tự hứa báo hiếu ngày mới ra trường. Thấy lại tôi bỏ cha bỏ mẹ ngay đúng lúc tuổi già xế bóng ... Thấy lại tôi với tội nghiệt tôi ...
Tôi ngồi ở đó, khóc, lặng lẽ mãi đến khi chiều xuống.
Rồi ra về với huyệt mộ chôn kín trong lòng.

Hôm sau, đã ba chân bốn cẳng chạy theo miếng ăn, giữa xứ người rộn rã mà quạnh quẽ tiếng hỏi câu chào.

Mươi năm sau, nghe người về, rủ rê. Sao lòng tôi lạnh tanh. Tôi không yêu quê tôi sao. Không ! Tôi yêu quê tôi lắm chớ. Ở đó còn mồ mã ông bà dù đã lạn. Còn bao nhiêu mồ mã vô danh khác dù đã tan thành cát bụi để tựu hình mảnh đất hình chữ S nằm nghênh ngang một cõi bờ Đông Hải, gần suốt hai mươi thế kỷ. Còn riêng trong một góc nhỏ, hai nấm mộ lạnh tanh. Nơi đó, tôi đã lớn lên, ngoài sự chăm lo đùm bọc của mẹ cha, còn nguyên cả một chiếc nôi đồ sộ mà tổ tiên tôi ... đã chụm tay kết thành bằng mồ hôi, máu, nước mắt và cả một tinh thần nhân bản tuyệt vời. Quê hương tôi đã nuôi tôi lớn lên bằng cơm gạo, cá mắm, thịt thà ... kết tụ từ đất đai sông nước mà người trước tôi đã gầy dựng, giữ gìn. Quê hương tôi đã dạy tôi sự nhẫn nại cùng cực của một dân tộc đã bị đày đọa gần suốt hai ngàn năm dưới sự thống trị của đám giặc phương bắc mà vẫn còn nguyên lành bản chất như nhánh tre già, qua bao nhiêu bão dữ vẫn dẻo dai vươn mình. Quê hương tôi đã cho tôi cả một kho ca dao mà từng câu lục bát ngọt ngào đến độ mẹ ru con thành tiếng ầu ơ. Quê hương tôi đã cho tôi nghìn trùng lời hay ý đẹp trong mỗi câu mỗi chữ mà ngôn từ cấu tứ đẹp như gấm như hoa, của ba ngàn hai trăm năm mươi bốn câu lục bát kể chuyện đoạn trường Thúy Kiều, ba trăm năm mươi sáu câu song thất lục bát than thở nỗi buồn Cung Oán, bốn trăm lẻ tám câu kể lể nỗi chờ mong Chinh Phụ ... Những bài hát nói mà âm tiết nghe reo vui như tiếng cười khúc khích khi đời chưa dâu bể. Những câu thơ 7 chữ 8 chữ ... của những người làm Thơ Mới mà chữ nghĩa được nhã luyện đến thành văn vẻ, được chuốc lọc để trở nên óng ánh như trăng sao ... Quê hương tôi đã dạy tôi ăn ở lễ nghĩa trong gia đình, ân cần ngoài xả hội như chính tấm lòng của kẻ sĩ Nguyễn Trải, ngay khi ở phương tây người ta còn thiêu sống nhau vì ba cái trò ngụy tín. Còn bao nhiêu nữa làm sao kể hết. Làm sao tôi quên. Làm sao tôi không nhớ.

Vậy rồi tới khi bỏ xứ mà đi, coi như phủi sạch nợ nần. Làm sao lòng không lấn cấn.
Xứ người, lạ từng cọng cỏ ngọn cây. Lạ tới tiếng hỏi câu chào. Lắm khi buồn ngẩn buồn ngơ. Dẫu có an thân sao vẫn cứ thấy mình tạm bợ.

Mà biểu về, chẳng lẻ lại cúi gập mặt mà về để khỏi nhìn thấy những thay đổi não lòng. Ở đó, những thằng trọc phú quyền thế ! Ở đó những người nghèo mạt hạng không chút đỡ đần ! Và cả một tinh thần nhân nghĩa từ ngàn đời bị dày đạp chẳng làm xao xuyến được một cái nhíu mày !
..........................
..............................
Rồi tết qua đi, sầu ở lại!

... Lại thêm một cái tết quê người. Mươi năm đầu, còn nguyên một hy vọng, kềm lòng giữ chí như ngày ra đi. Vẫn mơ một ngày về lại cố hương, thắp nén nhang, quỳ xin tội với vong linh người khuất mặt. Rồi dấn mình vào cuộc trùng hưng. Nhưng rồi, từng năm qua, từng cơn mơ bị giựt dậy phũ phàng ...

Tôi đã làm gì đời tôi. Ngoài miếng ăn, từng bữa ... Và quê hương vẫn rền rĩ giọng hờn !
Vậy rồi bốn mươi năm đã qua. Qua ngọt xớt như mới hôm qua hôm kia.
Thời gian lẳng lặng thoát đi như sao xẹt.
Tôi còn ở đây, bên này biển lớn, giữa bãi bờ trắng toát ...

Mấy ngày qua, chiếc độc bình cũ được cắm thêm nhánh mai giả, phủi hoài mà bụi vẫn thâm đen. Săm soi rồi thấy mũi lòng. Hoa giả vô tình mà cũng tàn tạ. Nói gì tới người ...
Năm này sang năm khác, thói thường rồi phải quen. Quen với sự dư thừa cũng như sự thiếu thốn.

Bốn mươi năm rồi. Đủ để quen bao nhiêu thứ lạ mà sao vẫn không quen với cái thói lãng quên. Quen với ngọn thông xanh sừng sững sao không quen với cái trống trải vì vắng bóng bụi tre già. Đã nhẳn mặ̣t với đường lộ phẳng phiu sao còn thắt thỏm hoài lối về làng trầy trật, ngang qua bến nước với chiếc cầu tre lắt lẻo .......................
.........................
Bốn mươi năm rồi, sao còn lấn cấn với ba cái chuyện phải quên. Làm như quá khứ giành giựt hoài với hiện tại, bốn mươi năm rồi vẫn không chịu buông tay ! Cái thói quen hay tục lệ mà mỗi năm tết đến là ai nấy dù bôn ba đâu đó cũng lo thu xếp về quê, mừng tuổi mẹ cha, vung đắp mồ mã, cúng vái ông bà ... làm như nhiểm trong máu huyết hay sao. Vậy mà rồi, bỗng dưng, bít hết mọi đường về !

Bốn mươi cái tết xa quê. Lẽ ra đâu còn lạ cái lạnh cóng người của mùa xuân vọng tưởng. Lẽ ra mọi ấm ức phải dìm sâu, chôn kín dưới mấy tầng huyệt thời gian. Vậy mà cứ mỗi lần nghe nhắc tết, lòng sao lại băng hăng bó hó như lỡ thiếu sót một điều gì. Chút lễ vật, trái cây, nhang đèn ... đã có đó, tàm tạm. Làm sao đòi hỏi hơn nữa, chỗ đất trời lạ lẫm.

Mà dẫu có thiếu rồi cũng có làm sao. Kiểu ăn nhờ ở đậu. Được chừng một hai bữa. Rồi tết nhứt cũng qua. Ai nấy trở lại với nhịp sống mới đã thành nếp. Sao riêng mình, cứ mãi chút băn khoăn ...

Tết tha hương rồi thoáng qua như bóng mây váng vất ...
Còn lại không là chút khói hương lẫn lẫn trong gian nhà kín cửa. Chút khói hương quến lại như chút quà tết ai đó bỏ quên. Khổ nỗi, của bỏ quên mà sao gợi đầy mùi nhớ. Những thề nguyền !

Có phải vẫn mãi là nỗi ân hận của một kẻ trốn chạy, bỏ cuộc ... giữa chừng !
Có phải vẫn mãi là nỗi chua cay của một kẻ bị giựt dậy giữa cơn trường mộng !
Có phải vẫn mãi là sự hổ thẹn của một kẻ đã thất hứa dẫu thệ nguyền chưa bao giờ được khắc đá đề tên!

Trong giờ khắc linh thiêng của một năm, sao lại nhớ, nhớ như mới hôm qua hôm kia, nhớ như từng chữ từng lời đã đục đẽo vào tim ...

Tết qua rồi, nhang đèn đã lạnh. Sao lời thư năm nào, tháng nào, ngày nào đó ... vẫn lắt lay trong trí nảo đã gần như mòn nhẵn
“ Ở xa, con ăn tết ra sao ? Tết nhứt ba không chờ quà cáp. Ba chờ tụi con gởi về tin vui chung cho hết thảy mọi người ’’

Mấy dòng chữ mực xanh, nét sắc như dao khắc ... vẫn còn như từng mũi nhọn.
Vậy đó tưởng quên mà vẫn nhớ. Mười năm một giấc mộng không thành. Người chờ cho hết đời cô quạnh. Ta đứng bên trời, lệ chảy nhanh.

Rồi tết qua đi, sầu ở lại !

Cao Vị Khanh

Buồn Nào Như Lá Bay - Sáng Tác: Hoàng Khai Nhan - Trình Bày: Minh Châu


Sáng Tác: Hoàng Khai Nhan
Trình Bày: Minh Châu

Mùa Thu Nào Ở Lại



Thương môi nào đã lỡ
người như luôn quanh đây
nụ hôn vừa hôm trước
chỉ còn in dấu tay!

Thương cây màu lá cũ
rơi theo tháng năm dài
có tình nào không cạn
có mây nào không bay?

Em về đâu? Giờ đây
một góc đời bé nhỏ
môi chắc mòn vết đau
tay tình cờ chạm phải

Mùa thu nào ở lại
khi lá đổ sang mùa
thương ai từng nỗi nhớ
vàng ngập phấn hương xưa..!

North Carolina, thu 2025
Nguyễn Vĩnh Long
 

Hò Miền Trung

 

 Bài Xướng: 

Hò Miền Trung

Thê thiết trời ơi, giọng Huế hò!
Thảm thời chi thảm bão mò vô
Cửa nhà tốc hết, thành bình địa!
Nước lũ tràn qua, hóa biển hồ!
Nội giúp mau nào dù bạc lẻ
Ngoại phò sớm nhé dẫu tiền đô
Tấm lòng bác ái cần xoa dịu,
Thê thiết trời ơi, giọng Huế hò!

Thái Huy 
11/07/25
***
Bài Họa:

Lũ Thảm Truông Hồ, Phá Huế

Cung mưa thảm thiết giọng ai hò

Vẫn ngập nguồn cao đổ nước vô
Cả một trùng dương xô đất Huế
Phải riêng đại hải vượt truông Hồ
Bao năm rồi sống theo thiên đế
Bấy thủa nay trào lụt cố đô
Đò nát trôi trên làn sóng đỏ
Tràn dâng bão lũ át kêu hò …

Los Angeles 8 - 11 - 2025
Cao Mỵ Nhân 
***
Huế Đau Tương

(Trong cơn bão số 13)

Tâm trạng đâu mà hát với hò
Khắp nơi cuồn cuộn nước ùa vô
Ruộng vườn chìm ngập trong sông biển
Phố xá loi ngoi giữa vũng hồ
Tan nát trầu cau mùa lễ cưới
Điêu tàn phong cảnh chốn kinh đô
Đau thương, uất nghẹn tràn đây đó
Tâm trạng đâu mà hát với hò!

Sông Thu
(08/11/2025)



Thiền Trong Kinh Điển Pali

Vào ngày 9/11/2025, tại Tu Viện Huyền Không, San Jose, tôi đã tham dự  buổi ra mắt rất đồ sộ của Dự Án Phật Học Tinh Hoa Thế Giới do thầy Thích Pháp Cẩn trụ trì Chùa Phổ Giác (Marina, California) giới thiệu. Nhân dịp này thầy đã ký tặng tôi cuốn Thiền Trong Kinh Điển Pali do một nhóm dịch thuật.  

Đây là cuốn sách do Ni Sư Tiến Sĩ Sarah Shaw hiện đang giảng dạy tại Đại Học Oxford (Anh Quốc) trước tác từ nghiên cứu kinh tạng Pali và được giới thiệu như là, “Đây là cuốn sách tổng hợp đầu tiên giới thiệu cho người đọc về sự đa dạng của giáo huấn về Thiền trong kinh điển Pali. Điều đó chứng tỏ rằng truyền thống Thiền của Đức Phật vẫn mở ra một con đường hành Thiền bí ẩn, nhưng đầy cảm hứng nhưng vẫn dễ tiếp cận như bản chất Thiền vốn có từ nhiều thế kỷ trước đây và thu hút sự quan tâm từ các thiền sinh, học giả, và cả những người tu hành theo đạo Phật.”

Sách dày 435 trang ấn loát rất mỹ thuật do Tri Thức trong nước xuất bản, bao gồm 12 chương và phần mở đầu, kết luận. Các dịch giả đều đã tốt nghiệp Cử Nhân Phật Học ở trong nước, một số đang theo học ban Cao Học (Thạc Sĩ) hay Tiến Sĩ ở ngoại quốc.

Phần Mở Đầu (bản dịch của Cô Minh Châu)

Trong phần mở đầu, tác giả (Sarah Shaw) nói rằng, “Một số người thực hành Thiền Phật Giáo Theravada ở phương Tây rất ngạc nhiên khi thấy có rất ít tài liệu để đọc về đề tài này…” Và tác giả nói, giống hệt như các tổ thiền sư Trung Hoa đã nói, “ Hơn bốn mười năm hoằng pháp độ sanh, với lòng từ bi rộng lớn, Ngài đã đưa ra pháp hành trực chỉ, thực tiễn và từ bi để hướng dẫn cho những người hữu duyên. Đôi khi việc ứng dụng hành trì này đã bị lãng quên trong các nghiên cứu khi tách ra, chỉ tập trung vào các tư tưởng chính yếu trong việc bàn luận về triết học và trao đổi học thuật”.

Đúng vậy! Như chư Tổ đã nói, vái lạy Phật, ca ngợi Phật thì ngàn đời vẫn là chúng sinh. Biết kinh điển rồi thì dẹp bỏ nó đi và hãy “Trực chỉ nhân tâm kiến tánh để thành Phật”. Bàn luận, phân tích cũng tốt nhưng không thể thành Phật, mà phải hành trì (làm theo và giữ gìn).

***
Chương 1 (bản dịch của Sư Cô Vỹ Nghiêm)

Chương có các đề mục:

1. Thiền là gì?

Trong mục này, tác giả nói rằng không có gì nói hơn được về Thiền là hình ảnh  một Đức Phật ngồi kiết già tĩnh tọa trong tư thế hoa sen. Theo tác giả,”Trọng tâm của giáo lý Thiền, sau này được hình thành trong nguyên lý Trung Đạo nằm ở một giả định rất thông thường: Chính tâm trí thoải mái và bình an thì sẽ dễ dàng đạt được trí tuệ hơn là một tâm trí căng thẳng…” Chữ Thiền mà Tây Phương dịch là ” meditation” nhưng trong tiếng Pali không có  từ đối nghĩa rõ ràng. Và, “Đức Phật dạy Thiền không khuyến khích mọi người lãng quên cuộc sống thế tục hoặc tự cô lập chính mình như chúng ta thường nghĩ mà là sự thực tập chánh niệm liên tục, ý thức và đem chánh niệm vào trong mọi sinh hoạt hằng ngày nhiều hơn.”

2. Về hai bộ luận Thanh Tịnh Đạo và Giải Thoát Đạo

Trong mục này tác giả nói về Ngài Phật Âm (Buddaghosa) - một đại luận sư về Thiền (Thế Kỷ Thứ Năm Tây Lịch), là một học giả, nhà văn vĩ đại sống ở Tích Lan đã để lại bộ chú giải Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) là phương tiện chính mà các giáo lý Thiền từ thời Đức Phật được phổ biến một cách thực tiễn và có thể tiếp cận (thực hành) được. Mặc dù những chú giải này không nằm trong kinh Phật nhưng chúng đã xuất hiện trong truyền thống như một sản phẩm của nhiều năm thực hành và trải nghiệm Thiền.

Một tác phẩm về Thiền rất quan trọng nữa đó là bộ luận Giải Thoát Đạo (Vimuttimagga)  của ngài Ưu-ba-đế-sa (Upatissa) - một nhân vật bí ẩn, không biết ngài sống ở đâu, thời gian nào và cũng không biết đã viết bằng ngôn ngữ nào và được biết tới qua các bản dịch sang tiếng Trung Hoa và Pali mà Tây Phương gọi là The Path of Freedom.

3. Phân Loại Các Đối Tượng Thiền

Theo tác giả, “…danh sách các đề mục Thiền được dùng cho đến ngày nay ở tất cả các quốc gia Phật Giáo Nam Truyền gồm có: Mười Biến Xứ, Mười Pháp Môn Quán Bất Tịnh, Mười Pháp Tùy Niệm, Bốn Phạm Trú, Bốn Tâm Vô Lượng, Bốn Thiền Vô Sắc, Quán Vật Thực Bất Tịnh, Quán Tứ Đại (có một bài kinh nói Năm Đại chứ không phải Tứ Đại).

4. Những Căn Tánh Khác Nhau

Qua lời dạy của Đức Phật thì, “Con người được chia thành các căn tánh khác nhau…một số phương pháp thực hành Thiền phù hợp với một số hành giả này, đôi khi không phù hợp với một số  người khác.

5. Thân cận với minh sư hoặc thiện tri thức

Ngài Upatissa nói rằng, một người đi đường mà không có người hướng dẫn giống như người đi một mình trên hành trình vạn lý. Đức Phật cũng thường đến thăm những hành giả đang gặp khó khăn như giúp Ngài Mục Kiền Liên nhiều phương pháp khác nhau để vượt qua chứng hôn trầm thụy miên (buồn ngủ). Tác giả cũng nhắc lại kinh luật chống lại việc lạm dụng vị trí của thầy, cấm bất kỳ nhà sư nào lấy tiền cho bất cứ hành động nào.

6. Cư Sĩ Và Sự Thực Hành Thiền

Lời đầu tiên cần phải nói là Đức Phật đã xem đời sống xuất gia là cách tốt nhất để thực hành Thiền, trong các kinh văn, hành giả là một tu sĩ. Sự thực hành của đời sống cư sĩ, theo truyền thống phải liên quan đến việc giữ giới luật, bố thí, quan tâm chăm sóc gia đình và bạn bè và tìm thấy chánh niệm, vui thích trong công việc kinh doanh hằng ngày.”

Chương 2 (bản dịch của Sư Cô Vỹ Nghiêm)

Chương này nói về Những Bài Kinh Giới Thiệu Về Thiền gồm có các thi kệ của trưởng lão Citttaka, trưởng lão Sirivaddha, rồi tuyển tập Itvuttaka gồm 112 bài kinh ngắn của Đức Phật sưu tập bởi bà Khujjuttara - hoàng hậu của Vua Udena sau khi gặp Đức Phật đã trở thành một vị thánh nhập lưu, rồi Kinh Độc Cư, rồi 423 bài kệ trong Kinh Pháp Cú, rồi những bài kệ trong Phẩm Tỳ Kheo với những câu như sau:

Tỳ kheo hãy tu Thiền.
Chớ buông lung phóng dật.
Không trí tuệ không Thiền.
Không Thiền không trí tuệ.

Chương này còn nói về năm điều kiện để bắt đầu bước vào Thiền mà Đức Phật quy định là phải chín muồi, cái gì là chưa chín muồi, phát tâm trưởng thành, một người bạn tốt và giữ gìn giới luật. Rồi tác giả còn trích dẫn các Kinh Meghiya rất dài, Kinh Thiện Tri Thức, Ví Dụ Mặt Trời, bài kệ Mahanaga, Bảy Phẩm Chất Của Một Người Bạn Tốt, Tâm Thức - trong đó điều cốt yếu của Phật Giáo Theravada là hiểu biết bản chất trong sáng của tâm, Phẩm Búng Ngón Tay, Sự Nhu Nhuyễn Của Thân Và Tâm, Sáu Sự Tương Ứng, Căn Cơ Khác Nhau cho thấy sự đa dạng của các phương thức tu tập trong truyền thống Phật Giáo (được chư Tổ mô tả như có tám vạn, bốn ngàn pháp môn), rồi Kinh Thiền Hành Lên Xuống, Hai Vị Chúa Tể Voi, Kinh Cơn Bão Của Dạ Xoa,  

Chương 3 (bản dịch của Tỳ Kheo Hải Tạng)

Chương này nói về Năm Chướng Ngại Khi Hành Thiền (Ngũ Triền Cái) gồm có: Tham ái, sân hận, hôn trầm, trạo cử- hối quá và hoài nghi.

Chương 4 (bản dịch của Sư Cô Liên Phát)

Chương này trích một đoạn trong Trường Bộ Kinh, đưa vào đây coi như toàn diện nhất về chủ đề Thiền Định, đó là Kinh Sa Môn Quả. Trong chương này có các mục:

1. Duyên Khởi nói về giai thoại vua A Xà Thế (Ajatasattu) nghe lời Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) giết cha là vua Tần Bà Sa La (Bimibisara) để cướp ngôi…đã tới bệ kiến Phật như thế nào. Phần tiếp theo của bài kinh là những bác bỏ của Phật đối với sáu học thuyết đại diện cho tư tưởng đương thời như không có nghiệp báo, không có công đức nào từ việc bày tỏ lòng kính trọng đối với bậc đạo sư, hoặc thực hiện một nghi lễ nào đó sẽ mang lại giác ngộ.

2.Trong Quả Vị Sa Môn, Đức Phật khẳng định rằng “Vương quốc của sa môn là một thứ bậc cao hơn (vua). “ Tác giả dẫn chứng, vua Thái Lan khi tới viếng một ngôi chùa, phải cởi bỏ vương phục, mặc áo trắng như các cư sĩ khác để bày tỏ lòng kính trọng đối với các tỳ kheo.

3. Chướng Ngại Khi Hành Thiền: Như bị nợ nần, đau ốm, bị giam cầm, làm nô lệ  và bị lạc trong một vùng hoang vu.

4. Các Tầng Thiền: Tầng thiền thứ nhất ví như tòa thành tích chứa cỏ, củi và nước. Tầng thiền thứ hai ví như tòa thành tích chứa nhiều lúa và ngô. Tầng thiền thứ ba ví như tòa thành được tích chứa nhiều đậu mè và ngũ cốc. Tầng thiền thứ tư ví như tòa thành được tích chứa nhiều mật ong, dầu, đường và muối.

Tại tầng thiền thứ tư, ở đây hành giả từ bỏ lạc và khổ, đi vào trạng thái niệm và xả, không khổ cũng không lạc.

5. Thần Thông: Trong mục này tác giả nói rằng Đức Phật không khuyến khích việc dùng năng lực thần thông để phô trương, việc tu tập chỉ là một phương tiện giáo hóa.

6. Kinh Sa Môn Quả: Trong mục này, tác giả trích dẫn một đoạn kinh mà Đức Phật dạy các tỳ kheo như sau, “Một vị tỳ kheo hành động với chánh niệm, tỉnh thức khi đi lui và đi tới, khi nhìn về phía trước hoặc phía sau, khi co và khi duỗi, khi mặc thượng y và hạ y, mang bát, khi ăn và uống, nhai và nuốt, đại tiện, tiểu tiện, lúc ngủ, lúc thức, khi nói chuyện và giữ im lặng. Như vậy là một vị tỳ kheo  có chánh niệm tỉnh thức.”

Chương 5: Kinh Trường Bộ (bản dịch của Sư Cô Nguyên Hiền)

Khởi đầu chương này tác giả nói rằng “Chánh niệm là phẩm chất của tâm trí minh mẫn, tỉnh giác và không còn vô minh. Khi áp dụng đúng cách, nó trở thành một chi phần của thánh đạo.” Đối với các hành giả, tác phẩm Trái Tim Thiền Định (The Hearth of Buddhist Meditation) của trưởng lão Nyanaponika là một tác phẩm kinh điển nhấn mạnh vào phương pháp Thiền Quán thông qua Tứ Niệm Xứ của Phật tử Miến Điện.

1. Kinh Tứ Niệm Xứ: Tại kinh đô của xứ Kuru (Câu Lâu), Đức Phật đã dạy các tỳ kheo rằng, “Đây là con đường trực tiếp đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua sầu bi, diệt trừ khổ não, thành tựu thánh đạo, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Kinh Tứ Niệm Xứ.” bao gồm Quán Thân, Quán Thọ, Quán Tâm và Quán Pháp.

Chương 6: Mười Đề Mục Thiền Định Kasina (bản dịch của Sư Cô Nguyên Hiền)

Tám  kasina biến xứ đầu tiên là bốn đại bao gồm đất, nước, gió lửa và bốn màu xanh, vàng, trắng, đỏ. Hai biến xứ cuối cùng là hư không và sắc. Theo ngài Buddhaghosa (Phật Âm) thì “ Hai biến xứ không vô biến xứ và thức vô biên xứ phủ hợp hơn với hai tầng Thiền Vô Sắc đầu tiên.”

1. Pháp Hành Được Đề Cập Trong Kinh Điển:

Trong mục này tác giả dẫn lời của ngài Phật Âm nói rằng, “Tướng thanh tịnh được phát triển bởi pháp hành (thực hành) kasina, được coi là đẹp , tịnh tướng.”

2. Đối Tượng Ưa Thích: Trong mục này tác giả nói về cái nhìn tổng quát của Phật Giáo về vẻ đẹp thiên nhiên bao gồm phong cảnh đẹp và sắc đẹp của con người.

3. Kinh Mahasakuluday: Kinh này Đức Phật nói cho Sakuludayi- một thành viên của nhóm du sĩ luôn hành trì đời sống chánh nghiệp, chánh ngữ và chánh mạng phù hợp với quan điểm của Phật Giáo ở một mức độ nhất định tức Bát Chánh Đạo.

4. Tám Giải Thoát: Giải thoát ở đây là an lạc với đề mục thường là sắc đẹp của hình tướng (kasina).

5. Tám Thắng Xứ, Thực Hành Biến Xứ,

6. Trích từ Kinh Mahasakuludayi: Kinh này giúp hành giả vượt qua mọi sắc tướng.

7. Năm Sự Thuần Thục (Vasiyo): Bao gồm sự Thuần Thục Về Hướng Tâm, Thuần Thục Về Nhập Định, Thuần Thục Về Quyết Định, Thuần Thục Về Xuất Thiền và Thuần Thục Về Quán Chiếu Lại.

Chương 7: Mười Đề Mục Của Bất Tịnh (bản dịch của Sư Cô Hạnh Tâm)

Để bắt đầu thực hành thiền định được mô tả trong kinh điển, chúng ta cần tìm một thi thể đang ở trong giai đoạn phân hủy để hành giả không còn ôm ấp, chau chuốt cho xác thân này nhiều quá. Trong chương này có các mục như sau:

1.Tính nhiễm ô

2. Điền chủ Kulla nhìn thấy xác của một phụ nữ vị vứt bỏ trong rừng, thân thể bị côn trùng bám đầy.

3. Bất Trắc: Trong mục này nói về phương pháp thực hành thiền không thích hợp khi không có một người thầy hướng dẫn. Và việc quán chiếu hơi thở chánh niệm là phương thức giải độc hiệu quả.

4. Thành Vesali; Tại đây Đức Phật đã nói với các tỳ kheo về chủ đề bất tịnh.

Chương 8: Sáu Pháp Tùy Niệm  (bản dịch của Sư Cô Diệu Vy)

Tùy niệm tiếng Phạn là Amussati là sự tưởng nhớ hay hồi ức mà bốn niệm đầu tiên bao gồm: Niệm hơi  thở, niệm chết, niệm thân, niệm an tịnh. Chương này có các mục như sau:

1. Mười Tùy Niệm: Bao gồm thêm niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên,
2. Tam Bảo:  Đối với một số người, quy y tam bảo giúp ổn định tâm trí trước khi thực hành Thiền.
3. Tụng Kinh: Mặc dù cách tụng kinh khác nhau nhưng các quốc gia Đông Nam Á, tụng kinh coi như là hoạt động của đời sống tâm linh của đệ tử Phật.
4. Iti pi sô: Bài tụng này được coi là có tác động đặc biệt sống động và tỉnh thức trong truyền thống Phật Giáo.
5.Niệm Ân Đức Tam Bảo: Việc niệm ân đức Phật-Pháp-Tăng vẫn được xem là phương tiện để hành giả đạt được chánh niệm, tỉnh giác.
6. Niệm Ân Đức Phật
7. Hành Trì Của Trưởng Lão: Vị trưởng lão này đã viết lên một bài kệ sùng kính phẩm chất cao quý của Đức Phật khi ông đã 120 tuổi. Ông đã chứng quả vị A La Hán trước khi ông mất.
8. Niêm Pháp: Pháp (dhamma) có nghĩa là sự thật, bản chất của thực tại, dẫn dắt hành giả nhìn thấy mọi thứ như thế nào.

9. Tránh Xa Niềm Tin Mù Quáng: Đức Thế Tôn dạy rằng, một người ở gần ta mà tâm ô nhiễm, bất thiện…thi vị ấy xa ta ngàn dặm. Còn vị nào ở xa ta ngàn dặm nhưng không chạy theo tham dục, không ô nhiễm, tâm thiện lành…thì người ấy đang ở cạnh ta và ta gần người ấy. Lời dạy này nghĩa giống hệt như lời dạy ngài Tu Bồ Đề trong Kinh Kim Cang, “Người nào dùng âm thanh, cầu ta, dùng sắc cầu ta… người ấy hành tà đạo và không thể thấy Như Lai.”

10. Phẩm Rừng Núi: Một vị Trời đọc bài kệ trước mặt Thế Tôn như sau:

Không than việc đã qua.
Không mong việc sắp tới.
Sống ngay với hiện tại.
Do vậy sắc thù thắng.
Do mong việc sắp tới.
Do than việc đã qua.
Nên kẻ ngu héo mòn.
Như lau xanh rời cành.

11. Niệm Giới: Có một câu khiến mọi người phải suy nghĩ : “Thực tế trong thế giới này, không có trang sức nào lớn hơn giới hạnh thanh tịnh…”

12. Cõi Trời: Nếu một người nào đó được phú cho hai thứ giới hạnh và chánh kiến thì khi chết đi sẽ được tái sinh lên cõi Trời.

13. Niệm Bố Thí: Được coi như điểm khởi đầu của Thiền Định.

14. Bài Kinh Bố Thí Và Hồi Hướng:

Họ bố thí cho những bậc thánh nhân, bố thí đúng thời.
Nơi đây những gì được bố thí đều mang kết quả to lớn.
Khi họ rời bỏ địa vị làm con người ở đây, những người bố thí sẽ sanh lên cõi Trời.

15. Niệm Thiên: Theo vũ trụ quan Phật Giáo, cõi người thuộc 31 một trong 31 cõi, nơi có thể tồn tại các loại khác nhau và có thể tái sinh ở các cõi khác nhau sau khi chết. Cõi Phạm Thiên là thế giới tinh khiết hơn cõi dục giới.

16. Chư Thiên: “Này các tỳ kheo. Khi một vị thánh đệ tử thành tựu bốn điều này,  chư thiên rất hoan hỉ, nói chuyện với vị ấy như bạn hữu.”

17. Nhóm Tu Tập; Cận Sự Nữ: Nói về Bà Visakkha đã tận hưởng một cuộc sống được coi là mẫu mực cho cư sĩ về sự sung túc, hạnh phúc và giàu có. Bà cúng dường cho 500 tu sĩ thực phẩm tại nhà hằng ngày và buổi chiều tới thăm Đức Phật để nghe thuyết pháp. Bà thọ 110 tuổi.

18. Uposatha Của Các Bậc Thánh: Ở đây Visakkha nhờ niệm Pháp mà tẩy rửa được tâm ô uế.

19. Thực Hành Nhóm:Ở Trong Nha Với Trẻ Em. Trong mục này tác giả nói rằng Đức Phật điều chỉnh các đối tượng Thiền một cách linh hoạt chứ không cứng nhắc.

20. Đại Đức Mahanama: Trong mục này tác giả nói về Đức Phật tại Vườn Lộc Uyển đã giảng dạy cho ông Mahanama, “Ông nên tùy niệm Pháp trong khi đi đứng nằm ngồi và khi ông chú tâm vào công việc. Ông nên tu tập điều này trong khi ông đang sống như một gia chủ trong một nơi có đầy trẻ em xung quanh.”

Chương 9: Bốn Phép Niệm (bản dịch của Sư Cô Nguyên Hiền)

Bốn phép niệm gồm có:

1. Niệm Về Sự Chết

2. Niệm Thân

3. Niệm Hơi Thở trong đó có trích dẫn lời nói của Ajahn Lee- một bậc thầy hiện đại nổi tiếng, “Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng con đường hữu ích nhất, ngắn nhất, dễ chịu nhất và dễ dàng nhất- con đường ít có khả năng khiến bạn lạc lối nhất - là phép niệm hơi thở.” (Kinh Viên Giác gọi là phép Quán Sổ Tức). Trong mục này còn giảng giải thêm về Nhóm Hơi Thở Đầu, Nhóm Hơi Thở Thứ Hai, Nhóm Hơi Thở Thứ Ba và Nhóm Hơi Thở Thứ Tư.

4. Kinh Quán Niệm Hơi Thở: Đức Phật nói kinh này tại Thành Xá Vệ (Savatthi) trong đó có nhiều vị trưởng lão ưu tú, “ Khi vị ấy thở vô chánh niệm, vị ấy thở ra. Khi thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài. Hoặc khi thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài. Khi thở vô ngắn, vị ấy biết tôi thở vô ngắn. Hoặc khi thở ra ngắn, vị ấy biết tôi thở ra ngắn. Vi ấy tập an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô. Vị ấy tập an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra.

5. Tôn Giả Mahakappina: Được Đức Phật khen ngợi vì khả năng giảng dạy, thần thông và hào quang sáng chói của tôn giả.

6. Niệm An Tịnh: Tác giả nói rằng, “Ý thức về giá trị của sự an tịnh bàng bạc trong kinh điển. Nó thường gắn liền với Niết Bàn, giác ngô, đời sống của một tu sĩ và như một trạng thái có thể hiện diện bất cứ khi nào có ý thức về thánh đạo ngay cả khi chưa đạt được.

7. Vô Vi: Bài kinh được thuyết cho các người Bà La Môn cho rằng Niết Bàn chỉ là nói suông do bản chất của nó không thể khám phá và cũng không có khả năng hoàn toàn diệt trừ phiền não.

8. Kinh Tuvataka: Đại ý bài kinh này dạy không nên chấp thủ và phân biệt.

Chương 10: Tứ Vô Lượng Tâm (bản dịch của Sư Cô Thiền Phương)

Tứ Vô Lượng Tâm bao gồm: Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỷ và Tâm Xả

1. Năm Phương Pháp Để Giải Tỏa Lòng Nóng Giận bằng cách dùng Tứ Vô Lượng Tâm.

2. Cái Giáo: Bài kinh này Phật nói tại Thành Xá Vệ lấy ẩn dụ một người không thể dùng sức để bẻ cong một ngọn giáo cứng thì…một vị tu sĩ nào đã thực hành sung mãn từ tâm thì không một phi nhân nào có thể đánh ngã vị ấy.

Chương 11 : Thiền Vô Sắc Giới (bản dịch của Tỳ Kheo Pháp Cẩn)

Trong chương này bao gồm các tầng Thiền vô cùng phức tạp mà hành giả nào đã trải qua mới có thể hiểu:

1.Diệt Thọ Tưởng Định
2. Không Vô Biên Xứ
3. Thức Vô Biên Xứ
4. Vô Sở Hữu Xứ
5. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
6. Tám Tầng Định và Diệt Thọ Tưởng Định
7. Gã Khờ Và Chú Bò Khôn Ngoan
8. Hai Hạnh Phúc (Khi đạt được sắc trần và hạnh phúc của đạt được vô sắc.)
9. An Lạc: Đây là truyền thuyết nói bởi Đức Phật, “Đối với những bậc A La Hán, những cõi vô sắc, thưa quý vị xuất gia, thì an lạc hơn cõi sắc. Và diệt tận định thì an lạc hơn cõi vô sắc.”

Chương 12: Tưởng Uẩn và Khái Niệm (bản dịch của Tỳ Kheo Pháp Cẩn)

Trong chương này có những mục như sau:

1.Tưởng Về Nhàm Chán Thức Ăn.

Tôi xin trích dẫn một đoạn như sau, ”Thức ăn có thể là một trong những lãnh vực khó khăn nhất của người hành Thiền, đặc biệt là khi nhập thất. Không kể đến các vấn đề về lỏng tham, thiền sinh thường cảm thấy nhờm gớm đối với thức ăn. Có những lúc khi thiền sinh cảm thấy hỷ lạc. Sự hỷ lạc này trở thành chất dinh dưỡng cho tâm trí họ đến nỗi họ họ mất cảm giác thèm ăn. Cả hai loại thiền sinh này nên cố gắng vượt qua những phản ứng ban đầu của họ và nỗ lực phối hợp ăn uống đầy đủ để duy trì năng lượng . Khi cơ thể bị thiếu dinh dưỡng thể chất, nó sẽ mất đi sức mạnh và khả năng chịu đựng và cuối cùng làm suy yếu việc hành thiền.

2.Bảy Tưởng
3. Định Nghĩa Tứ Đại
4. Tứ Đại
5. Thực Hành Như Thế Nào?
6. Đại Kinh Giáo Giới La Hầu La

Phần Kết Luận

Kết thúc,  tác giả nói rằng, “Đây là những điểm khác nhau về cách Đức Phật dạy Thiền. Con người bao gồm năm uẩn như họ vốn có, thể hiện nhiều căn tánh, nhu cầu và sự không hoàn hảo khác nhau. Lòng Tư Bi của Đức Phật được thể hiện qua sự chăm sóc tỉ mỉ mà ngài dạy các khía cạnh khác nhau của Bát Chánh Đạo tùy theo nhu cầu được tìm thấy. Dường như Đức Phật muốn Thiền được truyền dạy như một truyền thống sống động, được truyền từ người này sang người khác. Như một số văn bản hiện đại được trích dẫn trong tuyển tập đã cho thấy, ngày nay Thiền được dạy trên nhiều nguyên tắc giống như cách đây hơn hai nghìn năm. Khả năng ứng dụng, tính toàn vẹn, tính linh hoạt, tình bạn và sự nhấn mạnh vào thời điểm hiện tại là thời điểm tốt nhất và duy nhất để nhận thức. Đây là những kết luận tuy nhỏ nhưng rất có ý nghĩa rút ra từ lời dạy của Đức Phật về Thiền.

Nhận Xét

Đây là cuốn sách biên khảo rất công phu, sâu sắc về Thiền, qua đó chúng ta cũng có thể thấy một cách khái lược toàn bộ kinh tạng Pali. Chủ yếu Đức Phật chứng quả không để chỉ dạy về Thiền mà ngài dạy làm sao thoát khổ để tiến tới an vui, cao nhất là Niết Bàn. Phương tiện để tiến tới sự tỉnh thức, an vui chính là Thiền. Nhiều học giả khi nghiên cứu Phật Giáo đã nói rằng, nếu không có Thiền thì Phật Giáo mất tính sống động, tín đồ chỉ tụng kinh, niệm Phật, ù lì…chờ cứu rỗi. Cho nên khi Thiền - gốc từ quê hương của Phật, qua tới Phương Đông thì các Tổ của chúng ta mừng quá và chụp ngay lấy Thiền. Chư Tổ dám đưa ra quan điểm “tu Phật để trở thành Phật” qua câu nói, “Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật” của Tổ Bồ-đề Đạt-ma. Chính vì thế mà trong cuốn Thiền Luận, Đại Sư Suzuki nói rằng Thiền giúp các thiền sư nhảy vào chỗ chứng đắc của chư Phật. Dĩ nhiên vì căn cơ, truyền thống, văn hóa, đời sống khác nhau như tác giả dẫn lời Phật nói nhiều lần ở trên - cách hành Thiền, dạy Thiền của Nam Tông và Bắc Tông có khác nhau…nhưng kết quả và mục đích chỉ là một.

Sau hết, tôi xin chân thành cảm ơn tác giả đã soạn thảo cuốn sách quý báu để tôi có dịp tìm hiểu thêm về Phật Giáo Nam Tông khi kiến thức về kinh tạng Pali của tôi rất kém cỏi. Tôi cũng xin bày tỏ lòng ngưỡng mộ của tôi tới công việc mà  Ni Sư đang làm mà thế gian thường nghĩ đó là chuyên môn của các tỳ kheo hay các Thiền gia nam giới. Tôi cũng xin cám ơn nhóm dịch thuật đã tìm kiếm được một cuốn sách có giá trị, phiên dịch qua Việt Ngữ để nhiều người có thể hiểu thêm về sự đa dạng của Thiền - một nét độc đáo của Phật Giáo.

Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 7/12/20