Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2025

Lá Thư Trần Thế - Sáng Tác Hoài Linh - Tiếng Hát: Kim Phượng, Kim Oanh, Kim Trúc(Canada)


Sáng Tác Hoài Linh
Tiếng Hát: Kim Phượng, Kim Oanh, Kim Trúc(Canada)

Giáng Sinh Buồn



Bài Xướng:

Giáng Sinh Buồn

Về đêm lẻ bóng ngẫm thương mình
Lặng lẽ canh tàn vẳng tiếng kinh
Trẻ dập dìu vui ngày lễ thánh
Già hiu hắt chạnh thuở sân đình
Ta lầm lũi hóng chờ chuông điểm
Giữa buổi tưng bừng nguyện Chúa sinh
Thấu cảnh hoàng hôn chiều vỡ vụn
Càng khao khát thỏa mộng hương tình.

Thái Chung
***
Bài Họa:

Nhớ Mẹ

Ngóng buổi tàn đông chạnh nỗi mình...
Căn nhà vắng mẹ ngẫm mà kinh
Làn hơi những buổi tìm trong mộng
Nhịp trống từng canh điểm giữa đình
Tủi dạ không đành câu vĩnh quyết
Thương người chửa ấm cuộc bình sinh
Hằng đêm lặng lẽ nhìn di ảnh
Bỗng quặn lòng con... gửi chút tình.

Nguyễn Gia Khanh


Buông Xả


Không níu nữa thì buông
Thà buồn hơn đau khổ
Tay buông tâm vẫn giữ
Là vừa có vừa không

Dùng dằng không định hướng
Là nỗi khổ nhân đôi
Nỗi buồn không lối thoát
Phí mất nửa mảnh đời

Đã buông thì phải xã
Không nắm thì phải thả
Rỗng lặng như ban đầu
Khi còn chưa gì cả

Sẽ không bao giờ muộn
Buông xã hết thân tâm
Niềm vui không bám chấp
Nỗi buồn không phân vân

Ta là ta vĩnh cữu
Bụi bám lộng ta bà
Tâm tư không vẩn đục
Trong suốt chính trong ta

Trần Kim Đoàn
Thu 25

Hương Tình Xưa



Nắng hồng trên môi em
Nét duyên về dạm ngõ
Ngã lòng vào hương đêm
Chiêm bao về gõ cửa

Một nụ cười trên môi
Bước vào đời mộng nhỏ
Xôn xao vùng tóc xõa
Theo bốn mùa xuân trôi

Ngủ trên vùng tóc nhớ
Tay ấp hương tình xưa
Nghe trong tình yêu đó
Có gió lùa nghiêng vai

Nắng còn hồng môi nhỏ
Cho tròn vành câu thơ
Hay là nơi đâu đó
Tình nhớ men tình say

Bằng Bùi Nguyên


Những Vần Thơ


I. Những Giai Thoại Về Thơ
II. Những Truyện Cổ Tích Và Thần Thoại Tình Yêu
III. Định Nghĩa Thơ
IV. Thơ Ca Việt-Nam
V. 10 Vần Thơ Đẹp – 10 Nữ Thi Sĩ Montréal Gốc Việt
VI. Bàn Luận Về Thơ
VII. Thơ Và Tình Yêu
VIII. Nhận Xét Về Thơ Của 5 Thi Sĩ Canada Gốc Việt
IX. Kết Luận

 

I.                   NHỮNG GIAI THOẠI VỀ THƠ


ĐINH HÙNG – BÍCH LIÊN

     Một ngày cuối thu năm 1940, thi sĩ Ðinh Hùng (1920-1967) nhận được hung tin người yêu là nàng Bích Liên từ trần vì bạo bệnh khi tuổi đời còn quá trẻ đã khiến ông vô cùng đớn đau điên dại! Bên cạnh những mất mát đau thương trong gia đình và sự ra đi vĩnh viễn của người yêu vì sự nghiệt ngã của định mệnh, cùng với những gian nan của cuộc đời phiền não, đã làm cho nhà thơ đáng thương trải lòng ưu tư trên trang giấy qua những vần thơ trữ tình đầy cảm xúc bi thương…

     Cả hai yêu nhau tha thiết nhưng người con gái đã ra đi mãi mãi khiến cho nhà thơ đau khổ mà từ đó đã sáng tác những bài thơ cảm động tưởng niệm người yêu xinh đẹp Bích Liên sau khi nàng qua đời lúc tuổi chưa được 20! Trong nhiều bài thơ, tên Bích Liên được thay thế bằng những tên gọi khác nhau như Bạch Liên, Diệu Hương, Diệu Liên, Diệu Thư, Ý Liên…, và ông luôn luôn mang trong người tấm ảnh của nàng. (1)

 

Qua xứ ma sầu, ta mất trí
Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền
Trời ơi! Trời ơi! Làn tử khí
Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên!

(Cầu Hồn – Mê Hồn Ca, 1954)

 

Ta hát bài kinh, thoảng dã hương

Từng đêm chiêu niệm bắt hồn nàng

Lời ra cửa biển tìm sao rụng

Rỏ xuống mộ em giọt lệ thương…

(Màu Sương Linh Giác – Mê Hồn Ca, 1954)

 

Người đẹp ngày xưa tên giống hoa
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ
Lén bước trang đài tới gặp ta.
(Liên Tưởng – Đường Vào Tình Sử, 1961)

 

Yểu điệu phương đông lướt dưới đèn

Ta nằm mộng đẹp đêm thần tiên

Dáng xuân nghiêng mặt cười không tiếng

Lửa hạ lên rồi…  Ôi Ý Liên!

(Liên Tưởng – Ðường Vào Tình Sử, 1961)

 

     Theo bài “Đinh Hùng: Mối Tình Hoa Sen Trắng”: “Sau khi người yêu qua đời, chịu cú sốc quá lớn, Đinh Hùng bỏ học và lang thang khắp xứ. Từ đó, những vần thơ tình tự, êm ái dần trở nên si dại. Đôi tay người nghệ sĩ từng kéo đàn vĩ cầm giờ đây chỉ vút lên được những âm thanh gay gắt, đau đớn đến tê tái.” (2)

 

 

ELIZABETH MOULTON-BARRETT – ROBERT BROWNING

      Một trăm năm trước đó, vào một ngày gần cuối xuân 1845, tại London, Anh-Quốc, nữ thi sĩ Elizabeth Moulton-Barrett (1806-1861) đã gặp gỡ người chồng tương lai là thi sĩ kiêm nhà biên kịch Robert Browning (1812-1889) mà một năm trước ông đã có dịp thưởng thức tập thơ của bà mang tựa đề Poems (Những Vần Thơ) xuất bản năm 1844 và tập thơ đã đưa tên tuổi của Elizabeth nổi tiếng khắp nơi.

     Sức truyền cảm mãnh liệt từ những vần thơ trữ tình của Elizabeth làm tăng sự ái mộ của Robert đối với bà nên ông gởi đến bà một lá thư làm quen: “Tôi yêu những vần thơ của cô bằng tất cả trái tim, cô Barrett thân mến,” ông ca ngợi “một nhạc điệu lạ lùng tươi tắn, ngôn từ dồi dào, thể văn cảm động thanh cao và một suy nghĩ can đảm mới mẻ thật sự!” (“I love your verses with all my heart, dear Miss Barrett,” “fresh strange music, the affluent language, the exquisite pathos and true new brave thought.”)

     Ban đầu là liên hệ tình bạn giữa hai người cùng yêu quý văn chương rồi sau đó trở thành tình yêu chân thành đưa đến việc lập gia đình với nhau năm 1846 và Elizabeth xinh đẹp trở thành Elizabeth Barrett Browning mà thời đó nữ văn sĩ Mary Russell Mitford (1787-1855) đã miêu tả Elizabeth là “một cô gái có dáng người thanh tú, mảnh mai, với một suối tóc đen tuyền xoăn dài xõa xuống hai bên khuôn mặt đầy biểu cảm nhất; đôi mắt to và dịu dàng được viền đầy đặn bởi hàng lông mi đen nhánh, và một nụ cười tươi như tia nắng.” (A slight, delicate figure, with a shower of dark curls falling on each side of a most expressive face; large, tender eyes, richly fringed by dark eyelashes, and a smile like a sunbeam.) (3)

     Bài thơ “Sonnet XLIII: How Do I Love Thee?” (Em Yêu Anh Như Thế Nào?) của Elizabeth là bài thơ mang số 43 trong số 44 bài thơ tình trong tập thơ “Sonnets from the Portuguese (Những bài thơ 14 câu từ tiếng Bồ-Ðào-Nha) (1845) (xuất bản năm 1850). Tựa đề là như vậy nhưng do bà sáng tác hoàn toàn bằng tiếng Anh, chứ không phải là dịch từ tiếng Bồ-Đào-Nha.

 

I love thee with a love I seemed to lose
With my lost saints. I love thee with the breath,
Smiles, tears, of all my life; and, if God choose,
I shall but love thee better after death.

(The last 4 lines of the poem “Sonnet XLIII: How do I love thee?” – 1845)

 

Em yêu anh một mối tình như đã mất

Cùng với những tiên thần đã khuất của em

Em yêu anh qua từng hơi thở

Qua tiếng cười, qua nước mắt, suốt đời em

Và nếu Chúa đã an bài chọn lựa

Em sẽ yêu anh biết bao sau khi vĩnh biệt thế gian này!

(Bản dịch – Trích 4 câu cuối của “Bài thơ 14 câu: Em Yêu Anh Như Thế Nào?”)

(Bồ-Đào-Nha thập tứ hàng thi, 1845, xuất bản 1850)


GUILLAUME APOLLINAIRE – ANNIE MARIA PLAYDEN

     Một ngày đầu mùa hè năm 1901, nhà thơ Pháp Guillaume Apollinaire (1880-1918) được mời làm giáo sư dạy tiếng Pháp cho cô bé Gabrielle 8 tuổi, con của bà Elinor Hölterhoff, Nữ Tử Tước miền Milhau (Millau), vùng Occitanie, phía nam nước Pháp. Bà Elinor là góa phụ của Tử Tước Gaëtan de Milhau. Tại đây Apollinaire phải lòng cô gái người Anh xinh đẹp 21 tuổi tên Annie Maria Playden (1880-1967), quản gia của gia đình bà Tử Tước gốc Đức này. Một thời gian ngắn sau đó, Nữ Tử Tước quyết định đưa gia đình về Đức-Quốc sống lâu dài tại thị trấn Bad Honnef và sau đó cư ngụ tại một biệt thự mang tên Neu-Glück (Hạnh Phúc Mới) trong ngôi làng nhỏ bé Bennerscheid, gần cố đô Bonn.

     Cả gia đình bà Elinor với Annie và Apollinaire qua Đức ở, và một mối tình lãng mạn bắt đầu giữa hai người trẻ cùng sinh năm 1880. Tháng 08-1902, Apollinaire hết hạn hợp đồng dạy học một năm và trở về Paris. Sau đó, Annie cũng trở về Anh-Quốc. Vào tháng 11-1903, ông đến London, nơi ông ở chung với người bạn và cố gắng lập lại liên lạc với Annie vì biết cô đang ở thành phố này và xin cầu hôn nhưng cô từ chối. Tháng 05-1904, Apollinaire trở lại London sương mù trong nỗ lực cuối cùng để chiếm lấy trái tim người đẹp và lần nữa lại bị cô gái trẻ từ chối lời cầu hôn. Năm 1905, Annie Playden xinh đẹp với mái tóc vàng và đôi mắt quyến rũ rời Anh-Quốc, sang định cư tại California, Hoa-Kỳ, sau này lập gia đình và trở thành bà Annie Postings.

     Apollinaire thất tình đã gửi gắm tâm tư vào những vần thơ sầu muộn qua các bài thơ Annie, L’Émigrant de Landor Road (Người di cư trên đường Landor), La Chanson du mal-aimé (Bài hát của người không được yêu), Le Pont Mirabeau (Chiếc cầu Mirabeau), Nuit rhénane (Đêm trên sông Rhin), v.v. đăng trong tập thơ Alcools (Rượu) xuất bản năm 1913. Landor Road là tên con đường nơi Annie về ở với cha mẹ cô tại số 75 Landor Road, London.

     Nhiều bài thơ của Apollinaire chủ yếu đề cập đến những cố gắng để hồi sinh cuộc sống của ông sau mối tình bất hạnh này. Apollinaire mất năm 1918 tại Paris. Annie mất năm 1967 tại New York mà suốt 50 năm cô không bao giờ biết rằng đã có một nhà thơ vĩ đại người Pháp đã sáng tác những vần thơ trữ tình kể chuyện về mối tình lãng mạn giữa hai người!

 

Annie

 

Sur la côte du Texas
Entre Mobile et Galveston il y a
Un grand jardin tout plein de roses
Il contient aussi une villa
Qui est une grande rose

Une femme se promène souvent
Dans le jardin toute seule…

(Extrait du poème “Annie” du recueil de poésie “Alcools,”

1913 par Guillaume Apollinaire)

 

Annie

 

Trên bờ biển của miền Texas

Giữa Mobile và Galveston

Có một vườn hồng to lớn đầy hoa

Và ngôi biệt thự là đóa hồng vĩ đại

Có người phụ nữ hay đi dạo

Trong khu vườn lặng lẽ một mình…

(Bản dịch – Trích đoạn bài thơ tựa đề “Annie”

của Guillaume Apollinaire trong tập thơ “Alcools” [Rượu], 1913)


THÔI HỘ – TỬ KHƯƠNG NƯƠNG


     Ngược dòng lịch sử Á-Đông, dưới thời Vua Đường Đức Tông (Tang Dezong) (742-805) tại Trung-Hoa, có một chuyện tình lãng mạn và lâm ly, nhưng kết cuộc lại hạnh phúc viên mãn giữa hai người trẻ Thôi Hộ (Cui Hu) và Tử Khương Nương (Zi Jiang Niang).

     Danh sĩ Thôi Hộ (772-846) một hôm đi dạo chơi nhân dịp tiết Thanh Minh ở phía nam kinh đô Trường-An, ngang qua một gia trang nọ có vườn hoa đào nở rất đẹp nên chàng trẻ tuổi ghé vào thăm và xin nước uống; một thiếu nữ xinh đẹp khoảng 16, 17 tuổi mở cổng và sau đó đưa nước cho chàng. Nhìn thấy cô gái, nhà thơ thẫn thờ và suốt một năm vẫn chưa xóa mờ bóng hình người đẹp hoa đào.

     Hội tiết Thanh Minh năm sau, chàng lại du xuân và lần nữa đến Đào Hoa Trang, nhưng cảnh cũ còn mà người xưa không thấy! Thôi Hộ thẩn thơ và luyến tiếc chuyện xưa nên thảo ra một bài thơ ghi trên cửa nhà của giai nhân, đó là bài

 

Đề Tích Sở Kiến Xứ

 

Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong. 
(4)

 

Đề Đô Thành Nam Trang

(Đề Thơ Ở Phía Nam Đô Thành)

 

Năm xưa cửa ấy ngày này,
Hoa đào đua nở cho ai thêm hồng!
Nay đào đã quyến gió đông,
Mà sao người đẹp bềnh bồng nơi nao?

(Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)

 

     Chiều tối hôm đó, gia đình người đẹp trở về nhà, Khương Nương nhìn thấy 4 câu thơ trên cửa, thấu hiểu nỗi lòng của chàng khách trẻ năm xưa và hối tiếc cho mối duyên tình không gặp lại. Hy vọng một ngày người xưa trở lại, nhưng không thấy suốt một năm, khiến nàng buồn bã rồi sinh bệnh tương tư nên tâm sự cho mẹ cha biết chuyện tình buồn của nàng.

     Một hôm người cha đau khổ ra khỏi nhà thì gặp một thư sinh tuấn tú và anh chàng này hỏi ông vì lý do gì mà mặt mày đẩm lệ. Ông giải bày cho chàng nghe chuyện của người con gái yêu quý của ông. Nghe xong chàng trai bật khóc và nói: “Con là Thôi Hộ; con là người đã ghi bài thơ trên cửa nhà…” Ông cụ mừng rỡ rồi kéo chàng vào nhà, đến bên giường Khương Nương, nhưng nàng vừa trút hơi thở cuối cùng!

     Quá xúc động và đau khổ tận cùng, chàng quỳ bên cạnh giường, cầm lấy tay nàng, úp mặt vào mặt nàng và khóc nức nở. Nhưng thật bất ngờ, nước mắt của chàng nhỏ xuống mặt nàng làm cho đôi mắt nàng bỗng từ từ mở ra, đăm đắm nhìn chàng và đôi môi nở nụ cười tươi thắm. Tử Khương Nương đã sống lại! Cả nhà nàng cùng Thôi Hộ đều vui mừng không tả xiết và sau đó hai người nên duyên chồng vợ.

     --- Trước Thôi Hộ (Cui Hu), có Thôi Hiệu (Cui Hao) (704-754), một nhà thơ nổi tiếng cũng ở thời nhà Đường và tác giả của bài thơ nổi tiếng Hoàng Hạc Lâu (Lầu Hoàng Hạc) (Lầu Hạc Vàng).

 

JOHN KEATS – FRANCES “FANNY” BRAWNE LINDON


     Về lại Âu-Châu, một ngày cuối thu 1818, tại xứ sở sương mù Anh-Quốc, thi sĩ John Keats (1795-1821) gặp gỡ một cô gái 18 tuổi tên Frances “Fanny” Brawne Lindon (1800-1865) khi cô này đến thăm một gia đình người thân tại Wentworth Place, Hampstead, phía bắc London, và cũng là nơi sau này cô sẽ đến sinh sống. Từ dạo đó và cũng từ nơi đó đã nẩy sinh ra một mối tình êm dịu giữa hai người, nhưng lại là một mối tình hôn ước ngắn ngủi đầy cảm động và bi thương 3 năm sau.

     Dưới đây là một đoạn trong bài thơ dài, với tựa đề nửa tiếng Pháp, nửa tiếng Anh, được viết trong lúc ông đang dành tình yêu say đắm cho người yêu Fanny Brawne, vị hôn thê xinh đẹp có đôi mắt xanh da trời và mái tóc nâu dài thướt tha.

 

I met a lady in the meads,

Full beautiful—a faery’s child,

Her hair was long, her foot was light,

And her eyes were wild.

“La Belle Dame sans Merci: A Ballad” by John Keats (1819)

 

Tôi đã gặp một quý nương trên đồng cỏ

Nàng đẹp như tiên giáng thế trần ai

Tóc dài, lướt nhẹ gót hài,

Mắt nàng là cả chuỗi ngày hoang sơ.

(Bản dịch – Trích dẫn 1 trong 12 đoạn của bài thơ

Người Ðẹp Không Thương Xót: Một Dao Khúc” của John Keats (1819)

 

     Trong một lá thư gởi Fanny năm 1820, John đã viết những dòng chữ yêu đương đầy xúc động, minh chứng cho tình yêu mãnh liệt của một người yêu dành cho một người yêu: (5)

 

Wentworth Place, March 1820.

 

Sweetest Fanny,

You fear, sometimes, I do not love you so much as you wish? My dear Girl I love you ever and ever and without reserve. The more I have known you the more have I lov’d. In every way – even my jealousies have been agonies of Love, in the hottest fit I ever had I would have died for you…

 

Bản dịch:

Wentworth Place, Tháng 03, 1820.

 

Fanny cưng nhất của anh,

Đôi khi em sợ rằng anh không yêu em nhiều như em muốn phải không? Cô Bé yêu quý của anh Anh yêu em mãi mãi và mãi mãi yêu em hết lòng. Càng hiểu biết em, anh càng yêu em nhiều hơn. Dầu sao đi nữa, ngay cả những cơn ghen tuông của anh chỉ là những cơn thống khổ của Tình Yêu, trong lúc nóng giận nhất mà anh từng có, anh đã muốn chết vì em…

 

PHẠM THÁI (PHẠM ÐAN PHƯỢNG) – TRƯƠNG QUỲNH NHƯ


     Trở lại quê nhà nước Việt mến yêu, hơn 200 năm về trước đã có một chuyện tình bi ai giữa hai nhà thơ trẻ Phạm Thái và Trương Quỳnh Như, và đó là một trong những chuyện tình buồn nhất Việt-Nam!

     Phạm Thái (hay Phạm Ðan Phượng) (1777-1813) là danh sĩ thời Nhà Hậu Lê. Ông là bạn thân của Trương Đăng Thụ, con của Kiến Xuyên Hầu Trương Đăng Quỹ. Trong những ngày lưu lại ở gia trang của họ Trương, Phạm Thái đã gặp gỡ Trương Quỳnh Như, em gái của Trương Đăng Thụ. Quỳnh Như khi đó là một cô gái tuổi vừa đôi tám, vừa xinh đẹp lại giỏi thơ văn, có tâm hồn lãng mạn và thích ngao du sơn thủy. Phạm Thái và Quỳnh Như làm thơ xướng họa với nhau trong mối duyên văn tự thanh cao, rồi nảy sinh tình cảm.

     Phạm Thái đã bộc bạch tâm sự bằng hai bài thơ. Để đáp lại Quỳnh Như cũng trao cho chàng tập thơ mà nàng đã sáng tác đặt tên là “Thơ Vịnh 12 Giờ.” Tập thơ từ “Giờ Tý” đến “Giờ Dậu” là ngưng. Phạm Thái hỏi: Còn hai giờ nữa sao chưa thấy? Quỳnh Như đáp: Khó quá? Hay là anh viết tiếp cho... Phạm Thái bèn cầm bút thảo ngay hai bài “Giờ Tuất” và “Giờ Hợi.” Đây là một mối tình tuyệt đẹp giữa đôi trai gái tài sắc vẹn toàn.

     Cụ Trương nhận thấy Phạm Thái là người tài đức và biết được tình cảm của hai người, nên ông rất ủng hộ. Nhưng Cụ bà lại ngăn cấm, vì cho rằng Phạm Thái chưa có công danh sự nghiệp gì nên không muốn gả Quỳnh Như. Để thỏa chí trai, Phạm Thái từ biệt Quỳnh Như, vào Thanh-Hóa mưu đồ đại sự. Khi từ biệt, nàng thơ Quỳnh Như gửi chàng một bài tiễn hành.

 

Tiễn Phạm Thái

 

Sắt đá lòng này có biết chăng?
Xe duyên mong mượn gió cung Đằng.
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín,
Dặm liễu ai xui én cách chừng?
Vàng ngọc ví không cùng một ước,
Nước non thề đã có hai vầng.
Ai sang cậy hỏi tri âm với,
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng!

 

      Nhưng điều đáng tiếc xảy ra, mẹ nàng Quỳnh Như lại không đồng ý cho con gái kết duyên với Phạm Thái mà muốn gả nàng cho người khác, khiến nàng đau khổ vô cùng, trở nên quẫn trí và đi tìm cái chết trước ngày đám cưới.

     Phạm Thái nghe tin dữ, đau đớn biết bao nhưng không thể làm gì được! Sau đó chàng về thăm mộ người yêu, nghẹn ngào khóc, thắp hương và đọc bài ai điếu:

     “... Ôi, chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyên suồng sã. Những như thân giá ấy, tình cảnh ấy, ngược xuôi kia cũng ngậm ngùi cho. Huống chi ta cùng nương tử, tuy chẳng thân kia thích nọ, nhưng tình duyên ấy cũng là một chút cương thường, dẫu rằng kẻ ấy lạ người đây, song ân ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự.

     Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi thời nên nấn ná nhân duyên. Mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh. Cho nên nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm. Đau xót bởi vì đâu, não nuột bởi vì đâu...” (6)

     Đọc xong mà nỗi lòng thương nhớ Quỳnh Như dạt dào không dứt nên chàng làm một bài thơ nối tiếp để chiêu niệm nàng. Từ đó Phạm Thái sinh ra chán đời, chỉ uống rượu ngâm thơ cho qua ngày để ngậm ngùi mãi về mối tình duyên lỡ dở…

Khóc cô Trương Quỳnh Như

 

Trời xanh cao thẳm mấy tầng khơi,

Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi!
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói,
Sầu châm chén ngọc rượu không hơi.
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng,
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời.
Một mối chung tình tan mấy mảnh,
Suối vàng, ai nhắn hộ đôi lời!

 

     Những dẫn chứng về các chuyện tình trên đây trong số rất nhiều chuyện tình cảm động, đầy thi vị và hạnh phúc cũng như bi thương chứng minh rằng trước và sau Elizabeth–Robert, Ðinh Hùng–Bích Liên, và Apollinaire–Annie, Thôi Hộ–Khương Nương, Đan Phượng–Quỳnh Như hoặc John–Fanny, đã có biết bao cuộc tình chân ái và lãng mạn nẩy sinh mà văn học nghệ thuật là gạch nối với thơ ca là phương tiện chủ yếu và tiên phong để đưa những tâm hồn đa cảm gần gũi với nhau trong tình cảm nhân sinh và đến với nhau trong tình yêu trân quý.

     Qua những giai thoại về các mối tình duyên trên, kết cuộc của chuyện tình thời nhà Ðường (742-805) giữa Thôi Hộ và Tử Khương Nương mang đậm sắc thái tâm linh lãng mạn như trong truyện tình thời Ðông Tấn (317-420) giữa Lương Sơn Bá và Chúc Anh Ðài, hay trong truyện cổ tích Việt-Nam Trương Chi và Mỵ Nương (khoảng đầu thế kỷ 18) hoặc Người Đẹp Ngủ Trong Rừng (La Belle au bois dormant – The Sleeping Beauty, năm 1340) của truyện thần tiên nước Pháp. Chính chiều kích tâm linh góp phần làm gia tăng tính chất lãng mạn và huyền bí và cũng chứng minh quyền lực của tình yêu giúp cho con người hy vọng, tin tưởng, chịu đựng và vượt qua những thử thách cùng nghịch cảnh!



II.  NHỮNG TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ THẦN THOẠI TÌNH YÊU


     Những câu chuyện tình cảm cổ tích và thần thoại thế giới từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, trải dài từ khi lập sử với các thời cổ đại, đến thời trung cổ, thời phục hưng, khám phá, kỹ nghệ, rồi thời cận đại cho đến đương thời, tình yêu luôn luôn là một trong những chủ đề hấp dẫn nhất và tuyệt diệu nhất vì tính chất thu hút mãnh liệt và sự gắn bó tình cảm nồng nàn giữa con người với nhau, và đó cũng chính là định đề của đời sống con người.

     Sau đây là phần sơ lược một số truyện cổ tích và thần thoại liên quan đến tình yêu trong lịch sử văn học thế giới mà phần lớn các truyện này được sáng tác bằng thơ:

     Việt-Nam có các sự tích diễm tình:

-        Chử Ðồng Tử – Tiên Dung (Thế kỷ thứ 4–3, khoảng năm 300 tr. Tây Lịch, thời Hùng Duệ Vương, Hùng Vương thứ 18): Tình yêu đẹp không giai cấp với kết cuộc vui.

-        Trọng Thủy – Mỵ Châu (208 tr. TL đến 179 tr. TL): Tình thủy chung trong thời chiến. Kết cuộc buồn.

-        Từ Thức – Giáng Hương (Truyện Truyền Kỳ Mạn Lục của Tác giả Nguyễn Dữ, khoảng năm 1547, thế kỷ 16): Tình vượt không gian và cả thời gian. Kết cuộc buồn.

-        Trương Chi – Mỵ Nương (Thế kỷ 18): Tình tuyệt vọng, nỗi tương tư. Kết cuộc buồn.

-        Phan Tất Chánh – Trần Kiều Liên (Truyện Phan Trần) (giữa thế kỷ 18): Yêu trong thời loạn nhưng kết cuộc vui.

-        Thạch Sanh – Quỳnh Nga (cuối thế kỷ 18): Tình yêu thử thách nhưng kết cuộc vui.

-        Trần Minh – Quỳnh Nga (khuyết danh và không rõ thời gian): Mối tình tươi đẹp thủy chung với kết cuộc vui.

-        Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga (1851) (Truyện Lục Vân Tiên của Tác giả Nguyễn Ðình Chiểu) (1822-1888): Tình chung thủy vượt qua nghịch cảnh với kết cuộc vui.

-        Phạm Công – Cúc Hoa (1888) (theo điển tích Trung-Hoa của Tác giả Dương Minh Đức Thị): Tình vượt không gian tìm lại người yêu đã mất. Kết cuộc vui. (7)

-        Lan – Điệp (1933) (Tiểu thuyết Tắt Lửa Lòng của Nhà văn Nguyễn Công Hoan

(1903-1977): Định mệnh buồn ngăn chia đôi ngã một cuộc tình với kết cuộc buồn.

     Nhật-Bản có một chuyện tình tương tự chuyện Từ Thức – Giáng Hương:

-        Urashima Taro – Hase (Phổ-Đảo Thái-Lang – Ất-Cơ) (Thế kỷ 8): Tình yêu vượt không gian và cả thời gian nhưng rồi đưa đến một kết cuộc buồn.

     Trung-Hoa với những chuyện tình tràn đầy buồn vui xen kẽ:

-        Hậu Nghệ – Hằng Nga (Hou Yi – Hange) (Nhà Chu 1046-256 tr. TL): Vì vô tình mà hai người yêu xa cách muôn trùng. Kết cuộc buồn.

-        Ngưu Lang – Chức Nữ (Niulang – Zhinu) (Nhà Hán 206-202 tr. TL): Bị cách chia nhau, nhưng tình vẫn thắm thiết dẫu mỗi năm chỉ gặp nhau một lần. Chuyện tình buồn.

-        Lương Sơn Bá – Chúc Anh Ðài (Liang Shanbo – Zhu Yingtai) (Thời nhà Đông Tấn

(317–420): Không làm người nhưng làm đôi bướm trắng trong một kết cuộc vui.

Ấn-Độ có những truyện cổ tích tình yêu cảm động:

-        Satyavan – Savitri: Tình yêu chiến thắng cái chết với một kết cuộc vui.

-        Shah Jahan – Mumtaz Mahal: Biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu. Kết cuộc buồn. (8)

Thời Cổ Hy-Lạp với các truyện thần thoại trữ tình và huyền bí:

-        Odyssey (Ulysse) – Penelope (Tác giả Homer) (Thế kỷ 8–7 tr. TL): Tình chung thủy qua biết bao thử thách đưa đến kết cuộc vui.

-        Orpheus (Orphée)  Eurydice (Thế kỷ 7 tr. TL): Tình chung thủy vượt không gian và qua thử thách để tìm lại vợ nhưng kết cuộc lại buồn.

Thời Cổ La-Mã có nhiều truyện thần thoại trữ tình hạnh phúc cũng như lâm ly như truyện:

-        Cupid – Psyche (Cupidon – Psyché) (Thần Tình Yêu và Tâm Hồn) truyện của

Nhà văn La-Mã Lucius Apuleius Platonicus (kh. 124-kh. 180, thế kỷ thứ 2): Một tình yêu nồng cháy và đầy trắc trở giữa thần tiên và người trần thế với kết cuộc hạnh phúc.

      Quần đảo Anh và Ái-Nhĩ-Lan có các truyện trữ tình buồn vui lẫn lộn:

-        Tristan – Iseult (Tristan – Isolde) (Thế kỷ 12): Vì định mệnh, cả hai yêu nhau và chết bên nhau. Kết cuộc buồn.

-        Robin Hood – Maid Marian (Thế kỷ 13-14): Tình yêu lãng mạn trong rừng thẳm

sương mù nước Anh với kết cuộc vui.

-        Romeo – Juliet (1591–1595) (Tác giả William Shakespeare) (1564-1616): Mối tình

lãng mạn, yêu vượt hận thù gia tộc, nhưng kết cuộc buồn.

Pháp có nhiều truyện cổ tích thần tiên mà tiểu thuyết Perceforest năm 1340 với cặp đôi:

-        Troylus – Zellandine: Tình nhiều trắc trở lẫn hiểm nguy, nhưng kết cuộc vui tươi.

Zellandine chính là Người Đẹp Ngủ Trong Rừng (La Belle au bois dormant – Sleeping Beauty). (9)

-        Giai Nhân – Quái Thú (Giai Nhân – Ác Quỷ) (1740) truyện cổ tích Pháp mang tên La Belle et La Bête của Tiểu thuyết gia Gabrielle-Suzanne Barbot de Villeneuve (1685-1755). Tình yêu đích thực đã mang lại hạnh phúc cho cô nàng Belle xinh đẹp và chàng Adam, vương tử bị đọa làm quái thú, được trở thành người. (Tiếng AnhBeauty and the Beast).

     Bỉ với nhiều truyện cổ tích mà đây một chuyện tình buồn đẩm lệ:

-        Pelléas – Mélisande (1893) (Tác giả Maurice Maeterlinck) (1862-1949): Tình éo le và huynh đệ tương tàn đưa đến một kết cuộc đau thương.

Tây-Ban-Nha cũng có nhiều chuyện tình buồn vui nổi tiếng, riêng miền Cádiz có truyện sau đây trong tập truyện thần tiên Las barbas de plata (Râu Bạc):

-        Juanillo – Mariquilla: Cô gái xinh đẹp Mariquilla vượt qua hết những thử thách của hoàng gia và kẻ ác để cuối cùng sum họp hạnh phúc với chồng Juanillo và hai con sinh đôi.

     Trên đây chỉ là liệt kê một số truyện tình nổi tiếng vì còn nữa tại nhiều nơi trên thế giới.

     Tình yêu luôn luôn là một trong những đề tài tinh thần quan trọng nhất của tình cảm và liên hệ con người vì tính chất cao quý và trang trọng, riêng tư mà cũng phổ thông, hạnh phúc mà cũng có khổ đau, và chân thành cũng như phụ bạc… Dù sao đi nữa, tình yêu mãi mãi là một trong những điều tốt đẹp nhất như Nhà thơ và Tiểu thuyết gia người Áo Rainer-Maria Rilke (1875-1926) viết trong “Thư cho một thi sĩ trẻ” (1903 & 1908): “Yêu đương cũng là điều tốt lành vì tình yêu thì khó khăn. Tình yêu của một người đối với một người có lẽ là thử thách khó khăn nhất đối với mỗi người chúng ta, đó là bằng chứng cao nhất, công việc tối cao mà những công việc khác chỉ là những chuẩn bị.

     (Il est bon aussi d’aimer; car l’amour est difficile. L’amour d’un être humain pour un autre, c’est peut-être l’épreuve la plus difficile pour chacun de nous, c’est le plus haut témoignage de nous-mêmes; l’œuvre suprême dont toutes les autres ne sont que les préparations. – Rainer-Maria Rilke – Lettres à un jeune poète.) (10)

     (It is also good to love: because love is difficult. For one human being to love another human being: that is perhaps the most difficult task that has been entrusted to us, the ultimate task, the final test and proof, the work for which all other work is merely preparation. – Rainer Maria Rilke, Letters to a Young Poet.) (11)

     Và khi cả hai yêu nhau và sống bên nhau thì cũng rất quan trọng. Rilke viết:

     “Cả hai phái nam và nữ có lẽ thân thiết nhau hơn là người ta tưởng; và sự canh tân vĩ đại của thế giới chắc chắn bắt nguồn từ điều này: người đàn ông và người đàn bà sau khi giải thoát khỏi mọi sai lầm và mọi khó khăn của họ, họ không còn xem nhau như những đối thể, mà xem nhau như là anh em, như là thân quyến. Cả hai sẽ kết hợp con người của họ để chung sức gánh vác, một cách trang trọng và kiên nhẫn, cái gánh nặng của xác thịt khó khăn mà họ được phó thác.”

     (Les sexes sont peut-être plus parents qu’on ne le croit; et le grand renouvellement du monde tiendra sans doute en ceci: l’homme et la femme, libérés de toutes leurs erreurs, de toutes leurs difficultés, ne se rechercheront plus comme des contraires, mais comme des frères et sœurs, comme des proches. Ils uniront leurs humanités pour supporter ensemble, gravement, patiemment, le poids de la chaire difficile qui leur a été donnée.) (12)

     (And perhaps the sexes are more related than we think, and the great renewal of the world will perhaps consist in this, that man and maid, freed of all false feelings and reluctances, will seek each other not as opposites, but as brother and sister, as neighbours, and will come together as human beings, in order simply, seriously and patiently to bear in common the difficult sex that has been laid upon them.) (13)

     Trong tác phẩm nổi tiếng Notre-Dame de Paris (1831), Nhà văn-thơ Pháp Victor Hugo (1802-1885) tuyên bố: Tình yêu giống như một cái cây: nó tự lớn lên, bén rễ sâu trong người chúng ta, và thường tiếp tục phát triển xanh tươi trên một trái tim tan nát. Và điều không thể giải thích được là niềm đam mê này càng mù quáng thì nó càng trở nên ngoan cố. Nó không bao giờ vững chắc hơn nếu nó không có lý do gì đó!”

     (C'est que l'amour est comme un arbre, il pousse de lui-même, jette profondément ses racines dans tout notre être, et continue souvent de verdoyer sur un cœur en ruine. Et ce qu'il y a d'inexplicable, c'est que plus cette passion est aveugle, plus elle est tenace. Elle n'est jamais plus solide que lorsqu'elle n'a pas de raison en elle.) (14)

     (Love is like a tree: it grows by itself, roots itself deeply in our being and continues to flourish over a heart in ruin. The inexplicable fact is that the blinder it is, the more tenacious it is. It is never stronger than when it is completely unreasonable.) (15)

     Tu sĩ và Nhà thần học Pháp Jean-Baptiste Henri-Dominique Lacordaire (Henri Lacordaire) (1802-1861) viết: “Nếu cần lập một bàn thờ nào đó cho nhân loại, tôi thích tôn sùng tro bụi của trái tim hơn là tro bụi của một thiên tài.”

     (S’il fallait dresser des autels à quelque chose d’humain, j’aimerais mieux adorer la poussière du coeur que la poussière du génie.) (16)

     (If altars were to be raised to something human, I would rather bow before the dust of the heart than before the dust of genius.)

     Nói tóm lại, yêu đương thuần túy và chân thành là điều tốt lành và những người yêu nhau đều cùng muốn bên nhau trọn đời trên con đường tình ái và muốn đường dài dài đến khắp mọi nơi, đồng thời muốn cây hạnh phúc tuyệt vời luôn cắm rễ muôn đời trong cuộc sống!

     Họ cũng muốn cận kề như hình với bóng từ buổi gặp nhau đến lúc bạc đầu để cùng góp nguồn vui hay chia xẻ ưu sầu hầu chung sức tô xanh màu ước vọng…

 

III. ĐỊNH NGHĨA THƠ

 

    Samuel Taylor Coleridge, Nhà thơ người Anh (1772-1834), đã viết:

     “Thơ ca là sự nở rộ và là hương thơm của mọi kiến thức, suy nghĩ, đam mê, cảm xúc và ngôn ngữ của loài người. (For poetry is the blossom and the fragrance of all human knowledge, human thoughts, human passions, emotions, language.) (17)

     Trang mạng tiếng Việt Vi.wikipedia.org, trong phần Một Cách Hiểu Về Thơ, đã định nghĩa thơ như sau: Thơthơ ca hay thi ca, là khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài văn cũng có thể là một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn mang tính vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài. Thơ thường dùng như hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước thảm cảnh. Sự tương tác giữa tình cảm con người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ với một phong độ chắt lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng cô đọng và khúc chiết. Muốn làm được như vậy, người làm thơ phải có một con mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và nhanh chóng liên tưởng giữa những hình ảnh quan sát được với những gì vốn có trước đây.

     Tự Điển Thi Sĩ và Thi Ca (Dictionnaire des poètes et de la poésie) của hai thi sĩ Pháp, Jacques Charpentreau  Georges Jean, Éditions Gallimard, Paris,1983, định nghĩa:

     « Thơ là một nghệ thuật, hay một hình thức diễn đạt, bằng cách gợi lên và truyền đạt đến người khác những cảm tình mà thi sĩ có th chứng nghiệm và những suy tưởng mà thi sĩ theo đuổi trong cô độc, bằng phương tiện duy nhất là ngôn ngữ. 

     Trong thơ ca, những chữ dùng hằng ngày, “được tập hợp theo một trật tự nhất định,” có một quyền lực mới, bằng những ý nghĩa và cả những gì những chữ này thể hiện trong trí tưởng tượng của mỗi người, nhưng cũng do âm thanh của chúng, các mối quan hệ giữa những âm thanh với nhau, tính đa dạng của nhịp điệu tạo ra từ đó, cũng như do s so sánh và những hình ảnh “cho thấy” điều gì đó khác với những ch nói ra.

     Trong tất cả hình thức nghệ thuật, thơ ca là nghệ thuật duy nhất sử dụng một chất liệu bình thường và thông dụng, đó là ngôn ngữ. Do đó, thi sĩ có đặc quyền tuyệt vời là tiếp xúc và tạo xúc động, bắt đầu từ những lời nói hng ngày. Đây chắc chắn là lý do tại sao người xưa tin rằng các vị thần nói qua giọng nói của thi sĩ! Và trong Kinh Thánh, cũng như trong các văn bản khác nhắc nhở đến sự sáng tạo thế giới, đã viết rằng “khởi đầu đã là Lời Nói.” »

     (C’est un art, ou une forme d’expression, qui cherche à évoquer et à transmettre aux autres les sentiments qu’un homme peut éprouver, les méditations qu’il poursuit dans la solitude, par le seul moyen de son langage.

     Dans la poésie, les mots de tous les jours, “en un certain ordre assemblé,” ont un pouvoir nouveau, par leur sens et tous ce qu’ils peuvent représenter dans l’imagination de chacun, mais également par leurs sonorités, les rapports de ces sonorités entre elles, la multiplicité des rythmes qui en résultent, ainsi que par les comparaisons et les images qui “donnent à voir” autre chose que ce que les mots disent.

     Seule de tous les arts, la poésie utilise un matériau banal et commun à tout le monde: la langue. Le poète dispose ainsi du fabuleux privilège de toucher et d’émouvoir, à partir de la parole quotidienne. C’est sans doute pour cette raison que les anciens croyaient que les dieux parlaient par la voix du poète! Et dans la Bible comme dans d’autres textes évoquant la création du monde, il est dit “qu’au commencement était la Parole”).

     Từ điển Britannica (Anh-Quốc) định nghĩa như sau: “Thơ là văn bản hình thành một nhận thức tưởng tượng tập trung của kinh nghiệm trong ngôn ngữ được chọn lựa và sắp xếp để tạo ra phản ứng cảm xúc riêng biệt thông qua ý nghĩa, âm thanh và nhịp điệu của nó. Thơ cũng được phân biệt với văn xuôi bởi sự cô đọng, sự sử dụng thường xuyên các quy ước về luật nhịp và vần điệu, sử dụng dòng hàng như một đơn vị chính thức, ngữ vựng được gia tăng và ngữ pháp tự do của nó. Nội dung cảm xúc của thơ được biểu hiện thông qua nhiều kỹ thuật khác nhau, từ mô tả trực tiếp đến chủ trương tượng trưng, bao gồm việc sử dụng phép ẩn dụ và sự so sánh bóng bẩy.”

     (Poetry. Writing that formulates a concentrated imaginative awareness of experience in language chosen and arranged to create a specific emotional response through its meaning, sound, and rhythm. It may be distinguished from prose by its compression, frequent use of conventions of metre and rhyme, use of the line as a formal unit, heightened vocabulary, and freedom of syntax. Its emotional content is expressed through a variety of techniques, from direct description to symbolism, including the use of metaphor and simile.)

     Tự điển Merriam-Webster của Hoa-Kỳ cũng có cùng định nghĩa về thơ như Britannica.

     Và theo trang mạng Literaryterms.net (Anh-Quốc): “Thơ là một thể loại văn học dựa trên sự ảnh hưởng lẫn nhau (tương tác) giữa từ ngữ và nhịp điệu. Thơ thường sử dụng vần điệu và luật nhịp (một tập hợp các quy tắc điều khiển số lượng và cách sắp xếp các âm tiết trong mỗi hàng chữ). Trong thơ, các từ được xâu chuỗi lại với nhau để tạo thành những âm thanh, hình ảnh và ý tưởng mà chúng có thể quá phức tạp hoặc trừu tượng để mô tả trực tiếp.

     Thơ từng được viết theo các quy tắc khá nghiêm ngặt về luật nhịp và vần điệu, và mỗi nền văn hóa có các quy tắc riêng.”

     “Mặc dù các hình thức cổ điển này vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến nay, các nhà thơ hiện đại thường loại bỏ tất cả các quy tắc – thơ của họ thường không vần điệu và không phù hợp với bất kỳ nhịp điệu đặc biệt nào. Tuy nhiên, những bài thơ này vẫn có chất lượng nhịp điệu và tìm kiếm sáng tạo cái đẹp thông qua các từ ngữ của chúng.”

     (“Poetry is a type of literature based on the interplay of words and rhythm. It often employs rhyme and meter (a set of rules governing the number and arrangement of syllables in each line). In poetry, words are strung together to form sounds, images, and ideas that might be too complex or abstract to describe directly.

     Poetry was once written according to fairly strict rules of meter and rhyme, and each culture had its own rules.”

     “Although these classical forms are still widely used today, modern poets frequently do away with rules altogether – their poems generally do not rhyme, and do not fit any particular meter. These poems, however, still have a rhythmic quality and seek to create beauty through their words.”)

     Nhìn chung, có thể nói bên cạnh lời nói và văn (văn xuôi), thơ (văn vần) là một trong những phương tiện văn chương quan trọng nhất trong vấn đề truyền thông cũng như thông tin. Cũng như văn sĩ và nhạc sĩ, thi sĩ là người kế thừa một truyền thống văn hóa lâu đời, đó là văn chương truyền khẩu. Và khi chữ viết (văn tự) ra đời, trở thành một phương tiện và dần dần được hệ thống hóa thì văn và thơ xuất hiện rồi tạo thành hai hình thức nghệ thuật và kỹ thuật được sử dụng để thông tin liên lạc trước tiên và được cải thiện cũng như phát triển để hình thành văn học sau này.

     Thơ hầu như hiện diện trong nhiều nền văn hóa và trong văn học của mọi quốc gia trên thế giới và tùy theo mỗi nơi, mỗi vùng mà nghệ thuật này có những hình thức và thể loại khác nhau với cấu trúc khác nhau để phù hợp với văn hóa địa phương.

 

 

IV.             THƠ CA VIỆT-NAM

 

     Theo Tác giả Thụy Khuê trong sách Cấu Trúc Thơ (1995) (18)người ta chưa biết đích xác thơ ca có từ bao giờ, nhưng đến cuối thế kỷ thứ 10 thì chắc chắn đã thịnh hành, vì có hai dữ kiện được ghi lại:

     - Sách “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư” chép việc năm Ðinh Hợi (987), dưới thời vua Lê Ðại Hành (941-1005) nhà Tống (Song) sai Lý Giác (Li Jue) sang sứ nước ta. Khi Giác ra về, vua sai Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933-1011) làm bài hát để tiễn, đó là bài “Vương Lang Quy.”

     - Sách “Văn Hiến Thông Khảo” chép việc sứ nhà Tống là Tống Cảo (Song Gao), năm 990 được dự buổi tiệc do vua Lê Ðại Hành khoản đãi và chính nhà vua “tự hát bài mời rượu.”

     Vậy trong thời Tiền Lê, nghệ thuật ca hát đã được phổ biến.

     Trong văn học Việt-Nam, chúng ta có 2 hình thức thơ trong nền thơ ca, đó là thơ cổ điển (hay còn được gọi là thơ truyền thống) và thơ mới (hoặc thơ phóng tác):

     - Thơ cổ điển (thơ truyền thống) gồm có 10 thể loại (hay dạng thơ): thơ Lục Bát, thơ Song Thất Lục Bát, thơ Biến Thể (Hát Nói, Mưỡu, Thét Nhạc, Thiên Thai và Tỳ Bà), thơ Cổ Phong, thơ Đường (hay thơ Đường Luật), thơ Hàn Luật, thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ 6 chữ,  thơ 7 chữ.

     - Thơ mới gồm có 5 thể loại (hay dạng thơ): thơ 8 chữ, thơ 9 chữ, thơ Tự Do, thơ Hài-Cú (Haiku), và thơ Tân Hình Thức.

     A) THƠ CỔ ĐIỂN (THƠ TRUYỀN THỐNG):

          1) Thơ Lục Bát (câu 6 chữ và câu 8 chữ): Thơ lục bát đã thấm nhuần trong tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài hát ru con. Những chữ đậm nét là nhấn mạnh tính cách hợp vần của 2 câu thơ. Thí dụ:

 

Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. (Tục ngữ)

 

Đố Ai?

Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết 
mây mấy từng?
Đố ai quét sạch lá 
rừng,
Để ta khuyên gió, gió 
đừng rung cây?
Rung cây, rung cội, rung 
cành,
Rung sao cho chuyển lòng 
anh với nàng…

(Ca dao)

 

ời Thương

Một thương tóc bỏ đuôi gà,

Hai thương ăn nói mặn  có duyên.

Ba thương má lúm đồng tiền,

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.

Năm thương cổ yếm đeo bùa,

Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.

Bảy thương nết ở khôn ngoan,

Tám thương ăn nói dịu dàng thêm xinh.

Chín thương em ở một mình,

Mười thương con mắt đưa tình với ai?

(Ca dao)

 

Truyện Thúy Kiều (Nguyễn Du)

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo  ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!

(Trích 4 câu thơ đầu của truyện thơ dài 3254 câu)

 

Truyện Trinh Thử (Hồ Huyền Qui)

Gặp cơn nhầm chốn sa vời,

Chẳng tham chìu đãi nghe lời bướm ong!

Mặc ai cợt diễu thử lòng,

Gan vàng chẳng chuyển chẳng long chút nào!

(Trích 4 câu – dài 850 câu)

 

Ðôi Ngã Ðường Tình (Văn Bổn)

Ðường tình hoa bướm rẽ đôi

Biết bao thương nhớ trong đời chia xa

Ðêm đêm nhắn gió bay qua

Nhờ mây trao gởi thướt tha bóng hồng.

(Trích 4 câu – Ngọn-Ðuốc #57, 2022 Tâm Bút, Montréal)

 

Hương Ân Tình (Mây Brussels) (Nguyễn Thanh Vân)

Mây trôi gọi gió đêm nồng,

Đêm hong hương tóc môi hồng tình lang.

Tay đan quấn quít miên man,

Yêu thương ngời sáng địa đàng dấu chân!

(Trích 4 câu – Ngọn-Ðuốc #57, 2022 Tâm Bút, Montréal)

 

Màu Áo Da Trời (Song Bích) (Phạm Thị Bích)

Ngoài hiên trăng đổ bên thềm

Cà-phê thánh thót giọt mềm, giọt rơi

Nhạc tình thắm thiết chơi vơi

Giọng người ca sĩ buông lơi vào hồn.

(Trích 4 câu – Thời-Luận #1, 05-2006, Montréal)

Mùa Hè và Hoa Phượng (Phan Chi)

Hè về phượng thắm khung trời

Nhớ bao kỷ niệm một thời học sinh

Những tà áo trắng xinh xinh

Như ngàn bướm thắm gợi tình biết bao!

(Trích 4 câu – Ngọn-Ðuốc #42, 2017 Sen Hạ, Montréal)

 

Nhớ Mùa Phượng Xưa (Tịnh Phan) (Phan Minh Tịnh)

Nhìn hoa phượng đỏ quê nhà 
Học trò áo trắng thướt 
tha tươi cười. 
Sang đây phượng nở tím 
trời 
Dạt dào kỷ niệm một 
thời đã qua…!

(Cali July 2017. Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #42, 2017 Sen Hạ, Montréal)

 

2) Thơ Song Thất Lục Bát: Song thất là hai câu bảy chữ nối theo hai câu lục bát.

 

 Cung Oán Ngâm Khúc (Ôn Như Hầu)

Chìm đáy nước, cá lờ đờ lặn

Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa!

Hương trời đắm nguyệt say hoa,

Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình!

(Trích 4 câu – 356 câu)

 

Loạn Thời (Đặng Trần Côn)

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh!

(Trích 8 câu – 24 câu)

 

          3) Thơ Biến ThểLà tên gọi chung các thể thơ Hát Nói, Mưỡu, Thét Nhạc, Thiên Thai,  Tì Bà. Các thể thơ này phần lớn kỹ thuật dựa theo âm luật và cách gieo vần của hai thể thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát nhưng hình thức trình bày, sắp xếp câu, xếp khổ khác với hai thể thơ vừa nói nên thơ biến thể mang những tên gọi khác nhau như nói trên. (19)

          4) Thơ Cổ Phong: Còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể thi. Thơ cổ phong Việt-Nam xuất hiện đầu tiên có lẽ là với tác giả Trần Tung (1230–1291). Thật thú vị khi tác giả “khai sinh” cổ phong cũng chính là phong cách thơ độc đáo với tư tưởng thơ ca–tôn giáo được coi là phóng túng, tự do, không câu chấp khuôn khổ. (20) Các tác giả Việt-Nam đã sử dụng thể thơ này từ thế kỷ 13 cho đến 17.

     Cổ phong là lối thơ chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn, hoặc thất ngôn), làm dài ngắn bao nhiêu cũng được; ngoài ra, không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối Đường luật, nghĩa là không có niêm, luật, không phải đối (đối hay không là tùy tác giả, chứ không bắt buộc).

     Bài thơ có 4 câu, thì gọi là: cổ phong tứ tuyệt. Bài thơ có 8 câu, thì gọi là: cổ phong bát cú.

     Đây là bài thơ Cổ Phong 5 chữ 8 câu (Ngũ ngôn bát cú Cổ Phong):

 

Khen Trần Bình Trọng (Phan Kế Bính) (1914)

Giỏi thay Trần Bình Trọng
Dòng dõi Lê Đại Hành
Đánh giặc dư tài mạnh
Thờ vua một tiết trung
Bắc vương sống mà nhục
Nam quỉ thác cũng vinh
Cứng cỏi lòng trung nghĩa
Ngàn thu tỏ đại danh.

 

     Đây là một trong nhiều bài thơ trong tiểu thuyết Hưng Đạo Vương của Phan Kế Bính (1875-1921) in lần đầu năm 1912, nhiều khả năng do Phan Kế Bính tự sáng tác.

          5) Thơ Đường, thơ Đường Luật hoặc Thơ luật Đường: Theo Vi.wikipedia, thơ Đường, một thể thơ cách luật xuất hiện từ thời nhà Đường (Tang) ở Trung-Hoa (628-907), là một trong những dạng thơ bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi). Thơ Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy. Về hình thức, thơ Đường Luật có các dạng “thất ngôn bát cú” (8 câu, mỗi câu 7 chữ), “thất ngôn tứ tuyệt” (4 câu, mỗi câu 7 chữ), “ngũ ngôn tứ tuyệt” (4 câu, mỗi câu 5 chữ), “ngũ ngôn bát cú” (8 câu, mỗi câu 5 chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Đặc biệt của thể thơ này là câu 3 đối với câu 4, và câu 5 đối với câu 6.

     Dưới đây là một bài thơ Đường Luật theo thể dạng “thất ngôn bát cú”:

 

Thăng-Long Hoài Cổ (Bà Huyện Thanh-Quan)

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường!

 

          6) Thơ Hàn Luật: Vì văn chương chính thống, giáo dục và hệ thống khoa cử thời trung đại đều sử dụng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt chúng ta đặt ra thể thơ Hàn Luậtđó là sự kết hợp thơ Đường Luật với các thể thơ dân tộc Việt. Thể loại thơ này của Việt-Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20.

     Hàn Thuyên (1229-?), tên thật là Nguyễn Thuyên, làm tới chức Thượng thư Bộ Hình dưới thời Trần Nhân Tông (1258-1308). Ông là một trong những người phát triển hệ thống chữ Nôm và là người đặt ra thể thơ Hàn luật. Đặc biệt của thơ Hàn luật vào thế kỷ 15 và 16 không dùng 5 hay 7 chữ mà lại có câu 6 chữ xen kẽ trong một bài ngũ hay thất ngôn; việc này hoàn toàn không thấy trong thơ Đường. Dưới đây là một bài thơ Hàn Luật của Nguyễn Trãi (1380-1442), đại thần Nhà Hậu Lê (Vua Thái Tổ Lê Lợi) (1385-1433):

 

Liên Hoa (Hoa Sen) (Nguyễn Trãi)

Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh

Quân tử khôn kham được thửa danh

Gió đưa hương, đêm nguyệt tạnh

Riêng làm của, có ai tranh.

 

          7) Thơ 4 chữThơ có 4 chữ, số lượng câu không giới hạn, chữ cuối câu thường vần với nhau.

 

Chốn Xưa (Hồng Thúy) (Lê Ngọc Thúy)

Về thăm… chốn cũ

Chợt nghe xa lạ

Hàng cây bóng 

Phố xưa… nhạt nhòa.

(Trích 4 câu – Ngọn-Ðuốc #45, 2018 Dáng Thu, Montréal)

 

Hè Về (Lộc Bắc) (Nguyễn Trọng Lộc)

Bão tuyết mịt mùng

Trắng xóa mông lung

Hạ vàng quê ngoại

Nhớ thương vô cùng.

(Trích 4 câu – Tuyển tập Xuôi Dòng, Gánh Hát Rong Miền Québec 2016)

 

     8) Thơ 5 chữThơ có 5 chữ, số lượng câu không giới hạn, chữ cuối câu thường vần với nhau.

 

Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)

Hôm nay đi chùa Hương

Hoa cỏ mờ hơi sương

Cùng thầy me em dậy

Em vấn đầu soi gương.

(Trích 4 câu – 136 câu – Chùa Hương)

(Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa. 08-1934)

 

Thược Dược (Quách Thoại)

Đứng im ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
–  Ta sụp lạy cúi đầu.

(Nguyên bài 6 câu – Thivien.net)

 

Trong Lắng Ðọng (Ngọc Thể)

Từ một phía hư không

Từng sát-na nhớ lại

Ta thấy ta hình, bóng

Vác một đời mênh mông.

(Hoa-Kỳ 2011. Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #44, 2018 Hoa Xuân, Montréal)

 

Tình Nồng (Phạm Thị Huyền)

Từ khi em yêu chàng

Em tập tễnh làm thơ

Những vần thơ vụng dại

Em viết tặng riêng chàng…

(Trích 4 câu – Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay, Montréal, 2005)

 

          9) Thơ 6 chữ: Bài thơ có 6 chữ, dùng chữ cuối cùng có 2 cách gieo vần: vần chéo và ôm.

          - Vần chéo:

Cỗ Bài Tam Cúc (Hồ Dzếnh)

Nay tóc đời ta điểm bạc
Bể dâu thời thế phôi pha
Em ạ, cỗ bài tam cúc
Vẫn thơm nguyên vẹn tình ta.

(1978 – Trích 4 câu – Thơ Hồ Dzếnh, Thi Ca Việt-Nam Chọn Lọc, Nxbth Đồng-Nai 2008)

 

          - Vần ôm:

Ta Đi Tìm Em (Vinh Hồ) (Hồ Văn Thinh)

Ba mươi năm tình điêu đứng

Ta đi giữa sa mạc hồng

Ta gọi tên em… sấm động

Mặt trời nhỏ máu sau giồng

Ta gọi tên em… gió lộng

Hư vô, tịch mịch, vô cùng.

(Trích 6 câu – Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay, Montréal)

 

          10) Thơ 7 chữ: Ảnh hưởng của Thất ngôn tứ tuyệt trong thơ Đường.

 

Cánh Phượng Hồng (Thanh Lam) (Ðặng Văn Tín)

Ai gởi cho ai cánh phượng hồng

Chút thương chút nhớ chút chờ mong

Hoa bay theo gió theo tà áo

Phượng đỏ ngày xưa… chợt chạnh lòng.

(Trích 4 câu – Ngọn-Ðuốc #42, Sen Hạ, 2017 Montréal)

 

Một Thời Áo Trắng (Lê Thị Bạch Nga)

Một thời áo trắng đẹp như 

Chưa biết yêu ai để đợi chờ

Ngắm bướm vờn bay trên đường vắng

Mơ màng sống lại tuổi ngây thơ.

(Trích 4 câu – Ngọn-Ðuốc #44 Hoa Xuân, 2018 Montréal)

 

Đường Trần (Điệp Hồ) (Hồ Hoàng Điệp)

Tuổi trẻ một thời của mộng 

Duyên xưa tiền kiếp vẫn còn chờ

Dung nhan mười sáu vừa đương độ

Ngưỡng cửa khung đời tuổi ngây thơ.

(Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #44, Hoa Xuân 2018, Montréal)

 

Nuối Tiếc (Hoàng Mai) (Phạm Thị Quảng)

Nuối tiếc làm chi chuyện đã qua

Tình yêu ân ái đã phôi pha

Còn đâu giây phút thần tiên đó

Tâm sự giãi bày ôi xót xa!

(Trích 4 câu – Tuyển tập Xuôi Dòng, GHR Miền Québec 2016, Montréal)

 

Một Thời Áo Trắng (Bá Nha) (Hà Minh Hùng)

Áo trắng ngày xưa tuổi ước 

Âu lo chưa biết chẳng mong chờ

Tựu trường hẹn bạn mùa thu tới

Kỷ niệm trao tay những lá thơ.

(Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #44, Hoa Xuân 2018, Montréal)

 

Giọt Nước Có Buồn Không (Sỏi Ngọc) (Lê Ngọc Huyền)

Ngàn năm giọt nước có buồn không

Sao vẫn long lanh dưới ánh hồng

Trên cánh sen vàng ai biết được

Ngàn năm giọt nước có buồn không?

(Trích 4 câu – Tuyển tập Xuôi Dòng, GHR Miền Québec 2016, Montréal)

 

Thể thơ 7 chữ cũng đã được cải biên:

Ta Về (Tô Thùy Yên)

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.

(Trích 4 câu từ bài thơ dài 126 câu) (07-1985)

 

Một Kiếp Yêu Anh (Mai Phương) (Nguyễn Mai Phương)

Chủ nhật mưa hiên nhà tầm tỉ

Gõ nhịp đời mấy nỗi buồn tênh

Nếu một mai xương tàn cốt lụy

Đưa em về chôn kiếp bên anh!

(Trích 4 câu – Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay, Montréal)

 

     B) THƠ MỚI gồm có 5 thể loại (hay dạng thơ): thơ 8 chữ, thơ 9 chữ, thơ Tự Do, thơ Hài-Cú, và thơ Tân Hình Thức.

1) Thơ 8 chữ: Có 3 cách gieo vần (vần tiếp, vần chéo, và vần ôm) và không vần:

           - Vần tiếp:

Ngập Ngừng (Hồ Dzếnh)

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,

Tôi sẽ trách – cố nhiên – nhưng rất nhẹ;

Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,

Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề

Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.

Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,

Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...

(Trích 7 câu từ bài thơ dài 18 câu)

 

Vần chéo:

Ta làm gì cho hết nửa đời sau? (Cao Tần) (Lê Tất Ðiều)

Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi

Những hào hùng, uất hận gối lên nhau

Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:

Ta làm gì cho hết nửa đời sau?

(Trích 4 câu từ bài thơ dài 32 câu) (03-1977)

 

Âm Vang Ngày Cũ (La Toàn Vinh)

Còn tiếng hát nào mang đến nơi đây

Để chút âm vang vọng lại trong ngày?

Tuởng tượng như em còn đang bên ấy

Thấp thoáng hiền hòa tóc xõa bờ vai…

(Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #6, Biển Xô Sóng Vỗ 2008, Montréal)

 

Vần ôm:

Ảo Ảnh (Hiên Chi)

Em đứng đó xa vời như ảo ảnh

Ảo ảnh dài buông móng vuốt quanh tôi

Nghe cao vút lời Thánh Kinh cứu rỗi

Tôi mãi quỳ nên em mãi xa xôi

(Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #23, Nai Vàng Ngơ Ngác 2012, Montréal)

 

Tiếng Ngậm Ngùi (Lê Thị Kim Oanh)

Khi vạn vật chìm dần trong thinh lặng
Đêm trở về hạnh phúc lắng tâm tư
Âm thanh và bóng nhớ hồn nhiên ngự
Trăng thẹn thùng ẩn mặt nép sương thu…

(Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #56, Xuân Thanh Bình 2022, Montréal) (http://lethikimoanh9.blogspot.com) (Úc-Châu)

 

Đổ Vỡ (Tương Huyền) (Nguyễn Văn Tường)

Đường trần thế hôm nay dừng bước lại

Nhìn mây trời tan tác đổ về đâu?

Nắng chiều nay, nắng dội những giọt sầu

Ta chết đứng nghe đau đời vô vọng!

(Trích 4 câu – Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay, Montréal)

 

Rêverie (*) (Nguyễn Hải Bình)

Tưởng rằng có em bên giòng sông nhỏ

Vòng tay em đang níu chặt hồn anh

Ðặt nụ hôn dài trên đôi mắt long lanh

Mình hạnh phúc như chưa bao giờ mình có!

(Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #41 Diễm Xuân 2017, Montréal)

(*) Mộng tưởng, sự mơ màng.

 

Không vần:

 Giọng Huế (Tô Kiều Ngân)

Nếu lại được em ru bằng giọng Huế
Được vỗ về như mạ hát ngày xưa
Câu mái đẩy chứa chan lời dịu ngọt
Chết cũng đành, không nối tiếc chi mô!

(Trích 4 câu từ bài thơ dài 20 câu)

 

Bởi Ðịnh Mệnh (KTrần)

Em lặng lẽ đi dưới làn mưa lũ
Bước ngả nghiêng trong hụt hẫng chênh vênh
Con đường về sao như dài vạn dặm
Để mình em lạc lối giữa đêm trường…

(Trích 4 câu – Ngọn-Đuốc #38 Tháng Bảy Mưa Ngâu 2016, Montréal)

(http://thuchieubuon.blogspot.ca/2016/06/boi-inh-menh-tho-ktran.html)

 

          2) Thơ 9 chữThơ có 9 chữ, chữ cuối câu là vần tiếp, vần chéo, vần ôm hoặc không vần.

Vần chéo:

Tình Yêu Học Trò (Viễn Du) (Võ Lê Mỹ Hằng)

Người thích gì đây nếu mai mình gặp lại

Em phải mỉm cười hay vờ vĩnh làm ngơ

Thôi để tình ta mãi hoài còn khờ dại

Như tuổi học trò ta mới biết mộng 

(Trích 4 câu – Tập thơ Ngày Tháng Và Tình Yêu, 1987, tái bản 1989, Montréal)

 

          3) Thơ tự do (tiếng PhápVers libre – tiếng AnhFree verse). Theo Vi.wikipedia, thơ tự do là hình thức cơ bản của thơ, phân biệt với thơ cách luật ở chỗ không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm đối… Nhưng thơ tự do lại khác thơ văn xuôi ở chỗ văn bản có phân dòng và xếp song song thành hàng, thành khổ như những đơn vị nhịp điệu, có thể có vần.

     Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định và không quy định số lượng từ trong một câu, cũng như không cần có vần liên tục.

    Thơ tự do xuất hiện cuối thế kỷ 19 (1886) tại Pháp, 1909 tại Anh, và 1928 tại Việt-Nam. Từ năm 1932tại Việt Nam với sự xuất hiện làn sóng thơ mới với tính chất sáng tác độc đáo, không tuân theo lối vần luật, niêm luật của các thể loại thơ cổ nên đã tạo ra một cuộc canh tân trong lịch sử văn học gọi là Thơ Mới.

     Thơ tự do tại Việt-Nam có lẽ bắt đầu do Học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) dịch bài thơ ngụ ngôn “Con Ve và Con Kiến” từ bài La Cigale et la Fourmi (1668) của Nhà thơ Pháp Jean de la Fontaine (1621-1695) trên tạp chí Trung Bắc Tân Văn (1928) mà nguồn thơ mới khởi thảo:

 

Ve sầu kêu ve ve

Suốt mùa hè

Đến kỳ gió bấc thổi

Nguồn cơn thật bối rối…

 

(La Cigale, ayant chanté
Tout l’été,
Se trouva fort dépourvue

Quand la bise fut venue…)

     Dưới đây là phần giới thiệu 3 trong số những bài thơ tự do tiêu biểu:

 

Nhìn Kìa… (Chân Hội Ðăng) (Nguyễn Tài)

Năm mới đến trong yên lành lặng lẽ

Ngoài trời không

nắng

tuyết

lá cây xanh

Mình mới thấy cây trơ thân nhẫn nhịn

Phải làm gan bứt bỏ những mầm non

Ðể lại những thân cành cứng cỏi

Ðứng vững yên trong rét lạnh giá băng

Chờ

Chờ

Chờ.

(Trích 12 câu – Ngọn-Ðuốc #36, Xuân Bính-Thân, 2016)

 

Nơi Con Đó (Đ. Trần) (Trần Ngọc Điệp)

Một cuối đông lạnh, một mùa Xuân hé nụ trên ngàn cây

Ngàn cây, ngọn cỏ đâm chồi mọc lên, và một hồn Xuân chìm hụt xuống!

Một ngọn đèn vụt tắt, và một tan nát cõi lòng đau!

Một trống vắng mênh mông, một cõi đời hoang lạnh!

(Trích 4 câu từ bài thơ 21 câu, Toronto, 2000.

(Tuyển tập Đồng Môn Xướng Họa, GHR Miền Québec, Montréal, 2017.)

 

Nhớ Mẹ (Khải Minh) (Nguyễn Khải Minh)

Con muốn về thăm mẹ

Ngõ gầy trúc mộng tóc hương xưa

Cầm tay thần thoại đêm bồng bế

Mẫu tử thanh tâm đọng nắng mưa.

(Trích 4 câu từ bài thơ dài 19 câu, Khí Thơ, tập sách phân tích thơ, 04-1997 Montréal)

 

          4) Thơ Hài-Cú (Haiku): Hài-cú là loại thơ độc đáo của Nhật-Bản ra đời vào thế kỷ 17 và phát triển mạnh vào thời kỳ Edo (1603-1867). Lúc sơ khởi hài-cú mang sắc thái trào phúng nhưng dần chuyển sang mang âm hưởng lắng tịnh của Thiền tông. Thơ hài-cú xuất phát từ 3 câu đầu (phát cú – hokku) của những bài liên ca (renga) có tính trào phúng gọi là “Renga no haikai” mà sau gọi là Haikai (bài hài). Thiền giả Nhà thơ lỗi lạc Matsuo Basho (1644-1694) được coi là người khai sinh thể loại thơ này và nhà thơ Yosa Buson (1716-1784) cùng nhà thơ Masaoka Shiki (1867-1902) đã phát triển thể thơ này thêm hoàn thiện, cho nó thể thức và tên gọi như ta thấy ngày nay.

     Thơ hài-cú ngắn gọn; một bài thơ hài-cú truyền thống gồm có 17 âm tiết, chia thành 3 dòng, mỗi dòng 5, 7 và 5 âm tiết, trong khi một bài thơ hài-cú hiện đại gồm số lượng âm tiết và cách sắp xếp không xác định. (21)

     Thơ hài-cú Việt-Nam là phỏng theo và sáng tác bằng tiếng Việt.

     Sau đây là một trong những bài thơ hài-cú điển hình của Matsuo Basho:

Yoku mireba

Nazuna hana saku kakine

Kana.

Looking closely, I see

a shepherd’s purse blooming

under the hedge.

(Makoto Ueda dịch sang tiếng Anh, pg 139) (22)

 

Nhìn kỹ, tôi thấy

Hoa Nazuna đang nở rộ

Dưới hàng rào. (*)

 

(*) Nazuna = Hoa ví tiền của mục đồng = La bourse à berger = Shepherd’s purse = mục nhân tiền bao.

 

          5) Tân Hình Thức: Thơ Tân hình thức Việt-Nam ảnh hưởng từ thơ New Formalism của Hoa-Kỳ, và từ năm 2000, một số nhà thơ gốc Việt tại Mỹ đã bắt đầu sáng tác thơ Tân hình thức tiếng Việt cũng như tiếng Anh.

     Phong trào văn chương New Formalism (Tân hình thức) (tiếng Pháp gọi là Nouveau Formalisme) phát sinh trong nền thơ ca Hoa-Kỳ vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Khuynh hướng Tân hình thức khuyến khích sự trở lại với thơ vần điệu và nhịp điệu và thơ ca tự sự (kể chuyện) vì cho rằng 3 yếu tố này cần thiết cho nền thơ ca Hoa-Kỳ.

     Trong những năm 1920 đã có những cuộc tranh luận về giá trị của thơ Tự do đối với thơ chính thức trên các báo chí văn chương tại Mỹ. Trong những năm 1950 đã xảy ra một Cuộc Cách Mạng Thơ Tự Do (The Free Verse Revolution) lần thứ 2 với mục đích canh tân nền thơ ca Mỹ cho phù hợp với tinh thần thời đại. Cho đến khoảng năm 1975 được xem là thời kỳ bắt đầu chính thức của thơ Tân hình thức với các tập thơ được xuất bản và nhiều nhà thơ tham gia phong trào.

     Cuộc Cách Mạng Thơ Tự Do lần thứ nhất tại Mỹ được cho là của Nhà thơ Walt Whitman (1819-1892) qua tác phẩm thơ Leaves of Grass (Lá Cỏ) của ôngxuất bản năm 1855(23)

 

V.              10 VẦN THƠ ĐẸP – 10 NỮ THI SĨ MONTRÉAL GỐC VIỆT

 

     Montréal hoa lệ là một đô thị cá biệt duy nhất không những tại Canada mà tại cả Bắc Mỹ vì đây là nơi mà 2 trong số những nền văn hóa lớn của thế giới là Pháp và Anh gặp gỡ nhau, cộng sinh, giao thoa và phát triển song hành. Và đây cũng là nơi có sự hiện hiện của cộng đồng người Việt với khoảng 38,000 người, chiếm 0.85% dân số Montréal (khoảng 4,38 triệu người). (24)

     Và hiển nhiên là có sự hiện diện của khá nhiều tài năng gốc Việt, nhất là trong lãnh vực văn học nghệ thuật: văn-thi-họa-nhạc-nhiếp ảnh. Riêng về những nữ thi sĩ Canada gốc Việt, từ hơn 50 năm qua, các bác, các chị, các cô, và các bạn đã cho ra đời biết bao sáng tác trữ tình, chan chứa tình tự quê nhà cũng như tình yêu quê hương thứ hai, tình người, tình xã hội, tình gia đình và tình cảm lứa đôi…

     Bài viết này chỉ đề cập đến 10 bài thơ của 10 nữ thi sĩ trong số những nữ thi sĩ người Canada gốc Việt được biết hiện đang cư ngụ tại Montréal, tỉnh bang Québec, Canada: Dạ Dung (Vũ Thị Tuyết Dung), Hải Nguyên (Suzanne Ðinh), Hiên Chi, Lê Quỳnh Mai, Mai Bình Phương (Mai Thị Thoại), Nguyên Di (Ðồng Kim Lan), Sao Khuê (Đinh Thị Quỳnh Mai), Sao Mai (Dương Thị Sang), Thủy Trang, và Yên Vũ (Mai Thị Vân).

     Sau đây là đôi dòng cảm nghĩ và nhận xét cá nhân về 10 bài thơ của các nữ thi sĩ nói trên. Các khuynh hướng hay trường phái văn chương được đề cập dưới đây là do tác giả bài biên khảo này trình bày thông qua cảm nhận và nhận xét ngữ văn cùng nội dung của các bài thơ mà các thi sĩ gửi gắm khi sáng tác. Cho nên, những khuynh hướng đó không nhất thiết là do các thi sĩ chủ trương, theo đuổi hay dựa theo trong khi sáng tạo.

 

1)     DẠ DUNG

 

Thu Vỡ Hạt Buồn

 

Điệu buồn kết hạt thu rơi

Vào hơi thở khó của thời đã qua

Dư âm ngày tháng vang xa

Hoa thời gian rụng phôi pha đêm ngày

Tình là kiếp lá thu bay

Sầu giăng giăng mắc như mây ngang trời

Nỗi đau gắn chặt lấy đời

Tình trong nhân thế xa rời vắng xa

Chỉ còn lưu lại trong ta

Niềm đau ray rứt giữa tà huy phai

Hoàng hôn khắc dấu hình hài

Trăm năm ai nhớ thương hoài ngàn năm

Chăn đơn gối lạnh chỗ nằm

Hồn như khói thuốc quẩn quanh theo người

Khác gì phiến lá vàng rơi

Chạm vào nỗi nhớ ngắt hơi thở tàn…

 

Dạ Dung

(Montréal, 12-2021)

 

     “Thu Vỡ Hạt Buồn” là bài thơ lục bát thuộc khuynh hướng Duy hiện thực kể về một mối tình không vui trong bối cảnh chiều thu ảm đạm. Duy hiện thực là trường phái đặc trưng phổ thông trong văn học nghệ thuật được thể hiện bởi thái độ của văn nghệ sĩ đối với hiện thực nhằm mục đích tái hiện hiện thực khả thể một cách trung thực nhất, nhất là truyền đạt một ấn tượng về đời sống thường nhật và bày tỏ cảm xúc khi đối diện vấn đề. Hiện thực nơi đây, bên cạnh sự cô đơn và bối cảnh, đó là thời tiết; yếu tố thiên nhiên này ảnh hưởng ít nhiều đến tâm tư và cảm xúc con người.

     Nhà thơ Dạ Dung sử dụng những từ ngữ nhẹ nhàng đan dệt tính lãng mạn khi đem không gian, thời gian và con người hòa nhập với nhau trong bài thơ tình với nội dung thật buồn và đầy hoài niệm xa xưa… Chị Dạ Dung cũng là Nhà văn với những sáng tác truyện ngắn và tùy bút về tình yêu và tình gia đình rất cảm động, và bút pháp thanh nhã và trung hòa với giọng văn cũng dịu dàng như nguồn thơ của chị.

 

2)     HẢI NGUYÊN

 

Em Về

 

Em về gọi gió xôn xao

Dường như chiếc lá bơ vơ giận hờn

Em về bên cổng thánh đường

Ru hoài những giấc vô thường nghìn thu

Em nghe từng bước lãng du

Bâng khuâng góc phố ưu tư dỗi đời

Em ngồi lặng lẽ nhớ người

Hình dung một phút cuối trời hoài mơ…

 

Hải Nguyên

(Montréal, 09-1995) (Thời-Luận #1, 2006 Montréal)

 

     Bài thơ lục bát này của Nhà thơ Hải Nguyên mang phong cách Lãng mạn. Đặc điểm của khuynh hướng Lãng mạn trong văn học nghệ thuật là sự nhấn mạnh vào cảm xúc và cá tính, cũng như dành ưu tiên cho trí tưởng tượng để vượt qua những hạn chế của hình thức cổ điển, và là sự pha trộn giữa tưởng tượng vào thực tại đồng thời hướng đến thiên nhiên.

     Bài thơ có 8 câu ngắn gọn nhưng gợi nhớ nhung cả một khung trời lãng mạn, một góc phố tình yêu, và có một dáng hình người con gái từng bước chân đi mà lòng bâng khuâng nhớ đến người yêu…

     Tính chất lãng mạn, trữ tình và nhân cách hóa sự vật được thể hiện bằng những từ ngữ dệt nên những vần thơ êm ái mà Hải Nguyên sử dụng một cách dịu dàng, như cơn gió nhẹ nhàng vào một buổi trưa hè tĩnh lặng giao cảm với thiên nhiên và thoát trần bay lên đến tận chín tầng mây xanh biếc xa xăm…

 

3)     HIÊN CHI

 

Nắng Thu

 

Em bước đi nắng chiều nghiêng nghiêng đổ

Ngõ trúc dài, giàn thiên lý... tiêu sơ

Nắng thu pha... bóng em buồn muôn thuở

Gót chân hồng lay động những âm xưa

 

Em bỏ về giữa chiều hoang vời vợi

Đường em đi nắng lụa cuốn mây trời

Dấu chân em in lối mòn chốn cũ

Giữa chiều vàng âu yếm lá thu rơi

 

Em bước đi gót hài khua nỗi nhớ

Tôi quay về sao bỗng thấy ngu ngơ

Chiều thênh thang cho nỗi buồn ngây dại

Mái hiên ngoài một chút nắng thu phai…

 

Hiên Chi

(Ngọn-Đuốc #35, Thu Phong, 2015, Montréal)

 

     Bài thơ 8 chữ của Nhà thơ Hiên Chi thuộc khuynh hướng Ấn tượng. Ấn tượng là một ý tưởng, một cảm giác hay ý kiến về một điều gì hoặc ai đó, đặc biệt là một ý tưởng được hình thành không qua nhận thức. Đặc trưng của trường phái Ấn tượng trong hội họa là đường nét cọ mỏng manh, nhỏ nhắn nhưng dễ thấy, kỹ thuật nhấn mạnh vào việc mô tả chính xác ánh sáng trong tính chất thay đổi của nó.

     Với thơ ca cũng vậy, trong bài thơ trên chị Hiên Chi như đắm chìm trong một bầu không khí bí ẩn cổ trang của một buổi chiều phố xưa hiu quạnh khi chị sử dụng những từ ngữ nhẹ nhàng và mảnh mai tạo ấn tượng thanh thoát nẩy nở tức thì của thiên nhiên giống như nắng vàng chói chang vào một buổi chiều thu quạnh quẽ, và điệp ngữ “Em” làm nổi bật một ấn tượng về một người em gái, một cô nàng nào đó cô đơn…

 

4)     LÊ QUỲNH MAI

 

Tình Tàn

 

Từ em khoác áo xa vời

Ta về chôn hết mảnh đời gió mưa

Ba mươi năm chẵn cho vừa

Em đi – ta ở – tình xưa tan rồi

Ngó nhau chỉ ngoảnh mặt thôi

Trăm năm duyên phận nước trôi qua cầu

Mai này hoa dạt về đâu

Thương em để lỡ chuyến tàu với ta

Hận em – giờ đã phôi pha

Buồn ta, một kiếp biển xa dã tràng

Từ em rời chốn hoa vàng

Ta thôi làm bướm – gọi nàng cố nhân!

 

Lê Quỳnh Mai

(Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay xuất bản, Montréal, 2005)

 

     Bài thơ lục bát với khuynh hướng Duy hiện thực pha lẫn Lãng mạn của Nhà thơ Lê Quỳnh Mai mang âm hưởng tình cảm buồn man mác kể từ khi một chuyện tình đã phôi pha… Văn chương Duy hiện thực truyền đạt một ấn tượng về đời sống thường nhật, thường đề cập đến những chủ đề như việc làm, xã hội và quan hệ hôn nhân, và Lãng mạn quan tâm đến cá tính, cảm xúc và trí tưởng tượng, thì bài thơ tình trên gợi lên một thực tế buồn trong đời sống tình cảm!     

     Do tình cờ hay là vì duyên nghiệp, hai người gặp nhau và yêu nhau, rồi đến một lúc đau buồn nào đó cả hai lại chia tay mãi mãi! Tất cả là sự đổ vỡ và những hoài niệm về một tình yêu đã hết, một hôn nhân đã tan, chỉ còn lại đây nỗi ngậm ngùi về thời gian đã mất!

     Chị Lê Quỳnh Mai cũng là Nhà văn với những sáng tác truyện ngắn và tùy bút cũng như ký sự về cuộc sống và xã hội, cùng những bài tường thuật phỏng vấn… với một bút pháp thanh nhã và trung hòa và lời văn súc tích.

 

5)     MAI BÌNH PHƯƠNG

 

Thì Thầm

 

Ðã muốn nhặt sao trời nhóm lửa

Ðốt thời gian đốt tuổi đợi chờ

Nắng vàng khe khẽ lên song cửa

Rười rượi cõi lòng tiếc tuổi thơ.

 

Tưởng chừng có bước chân ai nhẹ

Hun hút xa rồi chẳng bóng ai!

Gói ơi gởi gió lời khe khẽ

Mộng chút mộng thường, mộng đêm nay.

 

Văng vẳng lời kinh đêm Bồ Tát

Ta như chợt tỉnh, nỗi buồn về

Thì thầm trong gió niềm đau cát

Có phải lòng mình đã thoát mê?

 

Mai Bình Phương

(Montréal, 2007)

 

     Bài thơ 7 chữ trên đây của Nhà thơ Mai Bình Phương mang phong cách Ấn tượng, cũng như hội họa với trường phái Ấn tượng, là chọn những đường nét cọ mỏng manh, nhỏ nhắn, và kỹ thuật nhấn mạnh vào việc mô tả chính xác ánh sáng vì ánh sáng thường làm nổi bật các hiệu ứng của thời gian trôi qua.

     Trong thơ ca cũng vậy, những vần thơ Thì Thầm mang chủ đề bình thường, nhưng có một góc nhìn đặc biệt vì những từ ngữ được chọn lọc đưa ánh sáng và chuyển động vào như hai yếu tố quan trọng của bối cảnh và hoàn cảnh, và trải nghiệm của tác giả trong suy tưởng, hồi tưởng quá khứ buồn đau và đối diện hiện tại không vui…

     Tác giả Mai Bình Phương cũng là Nhà văn với nhiều sáng tác truyện ngắn và tùy bút về cuộc sống, về xã hội và gia đình, với bút pháp thanh nhã và trung hòa và nhẹ nhàng như ngữ điệu của những vần thơ của chị.

 

6)     NGUYÊN DI

 

Ðịa Ðàng Hồng

 

Tình óng ả như chiều buồn xuống muộn

Vàng son kia ai kết nụ tơ hồng?

Trong ký ức những ân tình ăm ắp

Vẫn xa xôi như trời đất mênh mông…

 

Người ở đó và bình minh ở đó,

Hoa cỏ kia nắng sớm vẫn thơm đầy…

Lòng trĩu nặng những giọt lời ký thác

Dù chiều buông trăm nẻo, vẫn hoa bay…

 

Ngày chưa lên đã tận cùng khuya khoắt,

Người cho ta những oan trái muộn màng…

Hãy giữ lại vàng son ngày tháng ấy!

Ðịa đàng hồng muôn thuở vẫn mênh mang…

 

Những chiếc lá rơi đầy trên cỏ úa,

Mây mùa thu ngơ ngẩn cuộn bay vòng…

Ta cứ mãi quẩn quanh trời đất ấy,

Cõi thiên đàng đâu đó vọng về không…

 

Nguyên Di

(Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay xuất bản, Montréal, 2005)

 

     Đây là bài thơ 8 chữ thuộc trường phái văn chương Biểu hiện. Đặc điểm điển hình của khuynh hướng Biểu hiện trong văn học nghệ thuật là trình bày thế giới bằng cái nhìn chủ quan và xây dựng thế giới một cách triệt để để tạo ra hiệu ứng cảm xúc nhằm gợi lên những trạng thái hoặc những ý tưởng, cũng như biểu hiện ý nghĩa của kinh nghiệm cảm xúc hơn là thực tại trước mắt.

     “Địa Đàng Hồng” của Nhà thơ Nguyên Di thể hiện tính chất thơ Biểu hiện nhiều nhất vì mỗi câu thơ đều mang hiệu ứng cảm xúc, chứa chan ưu sầu nhưng cũng có niềm vui thầm lặng, thất vọng nhiều nhưng cũng có hy vọng nhỏ nhoi, và những từ ngữ sử dụng diễn đạt những cảm tình và tâm tư thầm kín, đưa thiên nhiên vào hình thành trạng thái của cảm giác tự do mà sự nhạy cảm mãnh liệt hình như thổ lộ một vết thương huyền bí trong nội dung bài thơ với “lòng trĩu nặng những giọt lời ký thác!”

 

7)     SAO KHUÊ

 

Duyên Hờ

Đăng trình chàng bước ra đi
Hành trang kỷ niệm những gì có nhau
Canh khuya dế cất giọng sầu
Mình em một bóng bờ lau thẫn thờ
Than ôi! Bà Nguyệt ông Tơ
Xích thằng sao nỡ buộc hờ tay ai
Vu qui giọt ngắn giọt dài
Chúc hoa leo lắt, bóng phai đêm tàn…

 
Sao Khuê

(Ngọn- Ðuốc #53, Xuân Tân-Sửu 2021, Montréal)

 

     Tình yêu là một đề tài trường cửu, dầu vui hay buồn, sướng hay khổ, tồn tại dài hay ngắn… văn, thi, họa, nhạc sĩ và triết gia vẫn sáng tác và phân tích cảm xúc này không bao giờ dứt.

     Bài thơ lục bát trên đây của Nhà thơ Sao Khuê thuộc khuynh hướng Duy hiện thực bởi vì nội dung trình bày tâm trạng thực tế, dù buồn bã, để diễn tả sự chia ly của một tình yêu đứt đoạn, tái hiện một hiện thực trung thực của cuộc đời trong vấn đề tình cảm, nhất là tình cảm phôi pha!

     Tiếng dế canh khuya nghe u sầu bao nhiêu thì nỗi não nề của sự cô đơn càng nặng trĩu bấy nhiêu giữa đêm trường hiu quạnh…

     Tác giả Sao Khuê cũng là Nhà văn với nhiều sáng tác truyện ngắn, tùy bút và ký sự lạc quan cũng như hạnh phúc về cuộc sống qua bút pháp trung hòa và lời văn dí dỏm, vui tươi.

 

 

8)     SAO MAI

 

Mưa Xuân

 

Ðêm Xuân mưa ướt vườn em

Cỏ non xanh mượt, cảnh xem hữu tình

Suối reo róc rách lung linh

Lối vào thơ mộng, hương tình ngất ngây

Ðưa nhau lên tận thang mây

Dặt dìu tiếng nhạc là đây thiên đàng

Cùng nhau dạo khúc hoan ca

Anh đàn, em hát mộng vàng ái ân…

 

Sao Mai

(Montréal, 21-03-2004)

(Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay xuất bản, Montréal, 2005)

 

     Bài thơ lục bát mang khuynh hướng Lãng mạn của Nhà thơ Sao Mai diễn tả tình yêu lứa đôi với suy nghĩ lạc quan trong niềm tin tích cực và nét duyên dáng của sự mộng mơ kỳ vọng vào hạnh phúc ở tương lai.

     Nhà thơ mang ước mơ thơ mộng của hiện thực vào một tương lai tràn ngập trữ tình và lãng mạn đang mong chờ trên Thiên Đàng Tình Ái nơi có hai bóng hình khắn khít bên nhau, hòa chung nhịp đập của sở thích văn học nghệ thuật trong khung cảnh trữ tình “em hát, anh đàn” thật dễ thương…

     Đó chính là sự chân thành của tình cảm, là cảm xúc và là ước mơ chung mà mọi người hằng khao khát: một niềm hạnh phúc viên mãn với người thân yêu, với người tình chung ước hẹn!

 

9)     THỦY TRANG

 

Điệp Khúc Đêm

 

Xin cho tôi được ngủ

Vùi một giấc thật sâu

Để không còn phải nhớ

Đời mình lạc nơi đâu

 

Xin cho tôi được ngủ

Vùi một giấc thật say

Để quên đi ngày cũ

Rong rêu phủ chưa đầy

 

Xin cho tôi được ngủ

Vùi một giấc thật nồng

Để quên mình là kẻ

Thèm quá đêm phương đông

 

Xin cho tôi được ngủ

Vùi một giấc thật vùi

Cho bỏ ngày biệt xứ

Ôm ấp lòng không nguôi

Một trời nào thật nhớ

Trời Việt-Nam xa vời!

 

Thủy Trang

(Ngọt Ngào Nỗi Nhớ, Thơ Nguyễn Bá Dĩnh và Thủy Trang, 1991, Sông Thu xuất bản)

 

     “Điệp Khúc Đêm” của Nhà thơ Thủy Trang với những vần thơ Lãng mạn 5 chữ đầy cảm xúc để trí tưởng tượng hòa nhập vào hiện thực, và qua cơn ngủ vùi để hướng về một khung trời xa xăm nào đó ngõ hầu lãng quên đi một quá khứ trầm buồn…

     “Xin cho tôi được ngủ” chính là điệp khúc về đêm cho tựa đề của bài thơ truyền cảm gợi lên tâm tình của người xa xứ mà vẫn giữ mãi trong lòng tình hoài hương tha thiết, một nét hoài cổ duyên dáng; một mối tình định mệnh tiềm tàng muôn thuở trong tâm tư nhân thế phù sinh…

     Giấc ngủ làm quên đi tạm thời những phiền muộn cuộc đời thì giấc ngủ cũng là người bạn đời của thơ ca tỉnh thức.

 

10) YÊN VŨ

 

Nỗi Lòng

 

Nắng chiều đổ xuống theo chân

Ðường xưa, xe cũ, tần ngần nhớ thương

Ai đưa em nốt đoạn đường?

Hiu hiu gió thoảng mùi hương hôm nào.

Trông lên trời sáng trăng sao

Lòng riêng, riêng biết nỗi đau đoạn trường

Trót sinh trong kiếp vô thường

Cố đi hết nốt đoạn đường phải đi

Lệ nào thấm ướt làn mi?

Lệ nào khóc nỗi biệt ly đôi đường?

Nỗi lòng trăm nhớ, ngàn thương

Nửa đêm trăn trở, đoạn trường ai chia?

 

Yên Vũ (27-07-2003)

(Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005, Thời-Nay xuất bản, Montréal, 2005)

 

     Mất mát người thân yêu, một nỗi đau trần thế lớn lao nhất, luôn luôn ở trong tâm khảm cũng như để lại nỗi lòng tiếc thương vô hạn của người thân còn lại.

     Bài thơ Nỗi Lòng của Nhà thơ Yên Vũ là bài thơ lục bát với khuynh hướng Duy hiện thực diễn tả nỗi bi ai và nhớ thương bất tận của một người đối với một người vì sự nghiệt ngã của cuộc đời làm họ chia ly vĩnh viễn. Chị sử dụng những từ ngữ mềm mại diễn tả tình yêu và sự sầu muộn khôn nguôi với nội dung bài thơ giàu chất trữ tình, gần gũi thực tại và nhất là âm điệu ưu tư điển hình trình bày nỗi lòng nhân loại trong cõi sống trần gian…

     Nước mắt không thể nào cuốn trôi hết nỗi khổ đau trần thế, thì có những vần thơ tình ái an ủi cuộc sống vô thường của kiếp nhân sinh…

 

VI.           BÀN LUẬN VỀ THƠ

 

     Cũng như văn xuôi, hội họa, âm nhạc và những dạng thức nghệ thuật khác, bàn luận về thơ là một đề tài trường cửu và thú vị bởi vì thơ là một nghệ thuật văn chương súc tích, uyển chuyển, huyền nhiệm và nhanh chóng trong sáng tạo.

     Trong cuộc sống, nhất là đối với những người có tâm hồn văn chương, sự thiếu vắng văn học cũng giống như một người tình thiếu vắng một người yêu…

 

La vie ressemble à un désert
Sans toi
Ce monde est triste et solitaire…

(La Vie Sans Toi, Hervé Vilard 1965)

Bản dịch:

Vắng em đời sẽ hoang vu

Thế gian cô độc âm u gợi buồn…

(Cuộc Sống Vắng Em)

 

     Do đó, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, đã và đang có biết bao câu chuyện thú vị và những nhận xét triết lý liên quan đến thơ ca khi người ta bàn luận về đề tài hấp dẫn này.

     Trong chương 9 của tác phẩm Poetics (Thơ Ca), Bác học và Triết gia Cổ Hy-Lạp Aristotle (384-322 tớc Tây-lịch) viết rằng Thơ ca là đề tài nghiêm túc hơn lịch sử và gần với triết học hơn. Điều này là vì thơ ca, giống như triết học, quan tâm đến cái phổ quát hơn là cái cụ thể. Lịch sử là một bản tường thuật về số lượng tương đối nhỏ những điều đã xảy ra trên thế giới, nhưng thơ ca có thể bao gồm bất cứ điều gì có thể xảy ra và do đó có phạm vi rộng hơn.

     Tóm lại, Aristotle tin rằng thơ ca mang tính triết học và sâu sắc hơn lịch sử vì thơ ca đề cập đến những chân lý tổng quát và khám phá những gì có thể xảy ra dựa trên xác suất và sự cần thiết. Ngược lại, lịch sử tập trung vào các sự kiện cụ thể và những gì thực sự đã xảy ra. Do đó, thơ ca tham gia vào các khái niệm sâu sắc hơn và trừu tượng hơn, đồng thời cung cấp những hiểu biết lớn lao hơn về bản chất và kinh nghiệm của con người.

     (In chapter 9 of the PoeticsAristotle writes that poetry is a more serious matter than history and that it is closer to philosophy. This is because poetry, like philosophy, is concerned with the universal rather than the specific. History is an account of the relatively small number of things that have happened in the world, but poetry can include anything that might happen and therefore has a wider scope.

     Aristotle believed poetry is more philosophical and profound than history because poetry deals with universal truths and explores what might happen based on probability and necessity. In contrast, history focuses on particular events and what has actually happened. Poetry, therefore, engages with deeper, more abstract concepts, offering greater insights into human nature and experience.) (25)

     Triết gia Đức Martin Heidegger (1889-1976) trong tác phẩm Giới Thiệu về Siêu Hình Học (Einführung in die Metaphysik) (1953) cũng cùng quan điểm khi viết rằng:

     Chỉ có thơ ca mới ở cùng một bình diện với triết lý và suy tư triết lý.

     (Seule la poésie est du même ordre que la philosophie et la pensée philosophique.) (Introduction à la métaphysique, bản tiếng Pháp năm 1958.) (26)

     (Only poetry is of the same order as philosophy and philosophical thinking.) (Introduction to Metaphysics, bản tiếng Anh năm 1959.) (27)

     Về lại hiện thời, nữ Văn-thi sĩ người Québec Hélène Dorion (sinh năm 1958) cho rằng thơ ca có mối liên kết thiết yếu với thế giới: “Đó thực sự là cách mà tôi kết nối với thế giới và mang lại cho mối liên hệ này chiều sâu, một sự bổ sung ý nghĩa. Cũng có khả năng cũng để đặt câu hỏi về điều đó, xoay chuyển nó, làm ngạc nhiên và gặp gỡ nó một cách khác thông qua ngôn ngữ. Đây là những câu hỏi, những điều kinh ngạc, và khả năng mang lại một cách rõ ràng ý nghĩa thông qua ngôn ngữ.

     Bà cũng nói thêm : “Thơ ca, đó là phần nào làm cho ngôn ngữ rung chuyển để trở nên mạnh mẽ hơn. Vì vậy, bạn cũng có tất cả những câu hỏi này và tất cả những điều kỳ diệu này.”

     (C’est vraiment ma manière d’être reliée au monde et de donner à ce lien-là une épaisseur, un surcroit de sens. Une possibilité aussi de le questionner, de le retourner, de m’émerveiller, de le rencontrer différemment à travers le langage. C’est des questions, des émerveillements, et la possibilité, évidemment, de donner du sens à travers le langage.

     … La poésie, c’est un peu faire trembler le langage pour le rendre plus fort. Donc, tu as aussi toutes ces questions et tous ces émerveillements.) (28)

     Sáng tác văn, thơ, nhạc, triết lý, v.v. đều qua phương tiện viết. Viết là một hành động phát triển của tâm trí con người, cho nên có thể nói hầu hết các tác giả văn chương, chủ yếu là qua nghệ thuật văn xuôi, thơ ca, và cả âm nhạc…, luôn luôn cố gắng trình bày cho người thưởng thức biết những quan điểm tiêu cực hoặc bi quan và tích cực hoặc lạc quan của mình đối với mọi vấn đề của loài người, kể cả vấn đề giải phóng những ràng buộc tinh thần lẫn vật chất đang cột chặt tư tưởng con người.

     Trong quá trình và tiến trình sáng tạo, hai yếu tố quan trọng tinh thần và vật chất luôn luôn song hành với nhau như hình với bóng, do đó người ta thường hay tìm cách dung hòa chúng để giữ cho tư tưởng được quân bình, phát triển, cải thiện cũng như được tân trang, như vậy những ý tưởng hài lòng mới có thể hình thành nên những tuyệt phẩm thỏa mãn cho đời.    

     Người sáng tạo nghệ thuật không thể lúc nào cũng hạnh phúc, nhưng cũng không thể cô đơn mãi mãi. Họ cần hai điều này: gia đình và sự cô đơn. Hạnh phúc được ở bên người khác là yếu tố vật chất cần thiết và tình yêu thương người khác là nhu cầu thiêng liêng của tinh thần người nghệ sĩ. Sự thiếu hụt vĩnh viễn của một trong hai yếu tố chỉ là sự tổn hại, nguy hiểm cho tâm hồn và thậm chí cả thể xác của họ. Tùy theo quan điểm của mỗi cá nhân, đối với một số nghệ sĩ nhất định, việc sống bên cạnh người khác là điều kiện cần thiết và là nhiệt huyết thiết yếu cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Trao đổi tình cảm và trải nghiệm cuộc sống là những chất liệu tự nhiên giúp con người thoát khỏi sự tắc nghẽn trầm ngâm và tiềm tàng của sự ưu tư, cũng như chấm dứt việc góp phần làm giàu cho sự tịch liêu của tâm hồn…

     Đối với những nghệ sĩ khác, sự cô đơn lại là chất liệu quan trọng và cũng là nhiệt huyết bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật.

     Người nghệ sĩ thật sự không phải là thần thánh hay nhà tiên tri, nhưng họ thật sự là nhà phát minh, nhà sáng tạo và là người có thiên tài vì họ phát minh ra chất dinh dưỡng tinh thần cho tinh thần con người và tạo ra một tác phẩm mà chúng ta gọi là nghệ thuật mà trước tiên những sản phẩm nghệ thuật về tình yêu và tôn giáo là một ví dụ điển hình.

     Không kể đến những sáng tác thô sơ, đơn giản và thơ ngây được xem như những tác phẩm nghệ thuật thời tiền sử được tìm thấy trong các hang động, những sản phẩm nghệ thuật tiên khởi phần lớn liên hệ hay bắt nguồn từ tình yêu rồi tôn giáo, kế đến xã hội, chính trị hoặc quân sự…

     Vì vậy, ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo và đức tin thiêng liêng về một trật tự xã hội do tôn giáo thiết lập là yếu tố quyết định thấm nhuần tư tưởng của nhiều nghệ sĩ mọi thời đại. Đó là lý do tại sao những văn, thi, họa, nhạc, nghệ sĩ, tác giả và kiến trúc sư… có tâm hồn nhân ái, biết yêu thương, tràn đầy tình yêu và niềm tin, đã xây dựng nên các công trình tôn giáo và sáng tác các tác phẩm mỹ thuật, tôn giáo và xã hội để tô điểm cũng như làm đẹp thế gian và để đối đầu với những bất hạnh cùng nghịch cảnh của cuộc đời.

     Rồi với thời gian, thế giới thay đổi và xã hội tiến hóa, tư duy con người cũng phát triển để thích ứng với hoàn cảnh, với thời gian và với cả không gian, do đó mọi vấn đề xã hội thực tế và quan trọng được quan tâm, nghiên cứu và hành động. Văn hóa là một trong những vấn đề xã hội quan trọng nhất.

     « Xã hội hiện tại không còn cảm thấy cần thiết đến sự hoàn hảo về mặt diễn đạt; nó được khai mở cho mọi hình thức. Mỗi người thực sự có tâm hồn, mỗi người đều có “điều gì đó để nói.” Ý niệm về thể loại vẫn tồn tại do thói quen, nhưng chân lý của nghệ thuật, ngày nay, nằm trong sự nhạy cảm chứ không còn ở trong kỹ thuật. »

     (La société actuelle ne ressent plus la nécessité de la perfection expressive; elle est ouverte à toutes les formes. Chacun a véritablement une âme, chacun a “quelque chose à dire.” La notion de genre existe encore par habitude, mais la vérité de l’art, aujourd’hui, est dans la sensibilité, non plus dans la technique.) (29)

     Câu nói trên của Nhà văn Pháp Jean-Marie Gustave Le Clézio (sinh năm 1940, giải Nobel Văn Học 2008) thể hiện sự tiến hóa của xã hội. Nghệ thuật trừu tượng và trào lưu thơ tự do có lẽ là những “điều gì đó để nói.” Kỹ thuật trong nghệ thuật đã từng là kim chỉ nam trong ý thức sáng tạo, rồi nó trở thành một khái niệm máy móc ràng buộc sự tự do sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ, các tác giả, các nghệ sĩ hay các nhà sáng tạo nói chung. Ðó là lý do tại sao các nhà sáng tạo cần sự giải phóng tinh thần ra khỏi mọi khuôn khổ ràng buộc đó và họ đã để cho sự nhạy cảm hành động theo ý muốn.

     Vì vậy, lịch sử được nghiên cứu và học hỏi, người ta trải nghiệm quá khứ để định hình hiện tại và dự phóng tương lai ngõ hầu phát triển và duy trì mãi mãi nền văn hóa tươi đẹp cho cuộc sống tinh thần lẫn vật chất nơi thế gian vốn dĩ đầy phức tạp!

     Đối với vai trò của người cầm bút, Nhà văn Mỹ William Faulkner (1897-1962), giải Nobel Văn Học năm 1949, 20 năm sau khi ông viết tiểu thuyết « The Sound and the Fury » (Âm Thanh và Cuồng Nộ, 1929), đã có bài phát biểu nhận giải tại Stockholm, Thụy-Điển, 10-12-1950. Bài diễn văn dài tựa đề The Writer’s Duty (Bổn Phận của Nhà Văn), trích đoạn sau đây:

     « Bổn phận của nhà thơ, nhà văn là viết về những điều này. Đặc ân của họ là giúp con người chịu đựng bằng cách nâng cao tâm hồn con người, bằng cách nhắc nhở con người về lòng can đảm, danh dự, hy vọng, tự hào, lòng bác ái, lòng từ bi và sự hy sinh vốn đã là niềm vinh quang trong quá khứ. Tiếng nói của nhà thơ không cần đơn thuần là bia kỷ niệm con người, mà nó có thể là một trong những chỗ dựa, những trụ cột giúp cho con người chịu đựng và chiến thắng. »

     (The poet’s, the writer’s, duty is to write about these things. It is his privilege to help man endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor and hope and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the glory of his past. The poet’s voice needs not merely be the record of man, it can be one of the props, the pillars to help him endure and prevail. – William Faulkner – The Writer’s Duty(30)

     (Le devoir du poète, de l’écrivain, est d’écrire sur ces choses. C’est son privilège d’aider l’homme à endurer en élevant son cœur, en lui rappelant le courage, l’honneur, l’espérance, la fierté, la compassion, la pitié et le sacrifice qui ont été la gloire de son passé. La voix du poète ne doit pas seulement être le témoignage de l’homme, elle peut être l’un des appuis, l’une des colonnes qui l’aident à endurer et à triompher.) (31)

     Riêng về thơ ca Việt-Nam, từ xưa đến nay đã có biết bao bài thơ tuyệt vời của những nhà thơ hiện diện trong kho tàng văn hóa nước nhà; những vần thơ tiếng Việt dịu dàng như những lời nhạc vàng của những bài ca trữ tình mang âm điệu hài hòa và du dương truyền tải đến người thưởng thức một cảm xúc lắng đọng và nhẹ nhàng khi đắm chìm trong những dòng âm thanh đầy thi vị.

     Có những bài văn, truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, tự truyện, bút ký, ký sự, những bài thơ, sử thi (trường ca), bản nhạc, khúc ca, và những tấm ảnh, bức tranh, bức tượng, tranh điêu khắc… mang một sức truyền cảm dữ dội thấm nhuần trong lòng người thưởng thức và nhất là những người yêu thích văn chương. Sức thu hút mạnh mẽ đó trước hết là do nội dung hoặc cốt truyện, rồi đến hình thức, bút pháp, và sau cùng là kỹ thuật.

     Nội dung thuộc về một khuynh hướng văn chương nào đó, hình thức thuộc một thể loại nào đó, bút pháp là mang một bút pháp nào đó, và kỹ thuật bút pháp.

     Mỗi khuynh hướng hay trường phái văn học nghệ thuật, mỗi hình thức, mỗi bút pháp và mỗi kỹ thuật đều có đặc điểm riêng, có tính cách cá biệt, có nghệ thuật, có sức mạnh của chữ nghĩa, sự phong phú, và những điều kỳ diệu riêng tư…

     Trong bài khảo luận Đi Tìm Cái Đẹp,” Tác giả Nguyễn Văn Tĩnh (Montréal) dẫn chứng hai câu thơ trong “Truyện Kiều” của Thi hào Nguyễn Du (1766-1820):

 

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng…

 

     Ông viết: “Vẽ đẹp của câu thơ nằm trong những hình ảnh vừa trang nhã vừa lộng lẫy của bức tranh thiên nhiên yêu tĩnh, vần thơ vang lên một nốt nhạc ngân nga cùng nhịp điệu khoan thai đã làm tăng thêm nét trang nghiêm của phong cảnh. Vẽ đẹp ấy rất rõ ràng, là một phẩm chất có thật toát ra từ ý nghĩ, âm thanh của nó. Dễ hiểu rõ hơn, thử tìm xem ở âm nhạc. Xét về âm nhạc, tức là cấu trúc âm thanh theo những quy luật của cái đẹp. Đó là sự khác biệt giữa âm thanh tự nhiên và âm thanh âm nhạc.” (32)

 

VII.         THƠ VÀ TÌNH YÊU

 

     Như đã đề cập trong phần những giai thoại về thơ, liên hệ giữa thơ ca và tình yêu hoặc đề tài tình yêu trong thơ là điều đương nhiên, và thơ cũng như văn hoặc nhạc và tranh ảnh là những phương tiện văn chương nghệ thuật tuyệt vời nhất để đưa con người gần gũi với nhau trong tình yêu, như dòng nước tuôn chảy nhẹ nhàng và dào dạt, thầm lặng và công khai vượt qua những trắc trở của địa hình tình cảm…

     Sau đây là dẫn chứng thú vị về một vài chuyện tình thi vị.

     * Durante degli Alighieri, thường được gọi là Dante Alighieri hoặc ngắn gọn là Dante (khoảng 1265-1321), là Nhà thơ người Ý ở cuối thời Trung Cổ. Ông được gia đình hứa gả cho cô Gemma di Manetto Donati (1265-1333) mặc dù lúc ấy ông bị cú sét ái tình và đang say mê cô nàng Beatrice Bice di Folco Portinari (1265–1290), nhưng Beatrice không đáp lại tình yêu của ông. Ông cưới Gemma năm 1285. Năm 1287 Beatrice cũng lên xe hoa với một người khác. Mặc dầu vậy, Beatrice vẫn luôn luôn là Nàng Thơ (Muse) và là người hướng dẫn ông trong một số sáng tác văn chương nổi tiếng của ông. Tình yêu đó chính là nguồn cảm hứng bất tận cho ông trong sáng tạo hai kiệt tác Cuộc Sống Mới (La Vita Nuova) và Thần Khúc (hay Hài Kịch Thần Thánh) (La Divina Commedia).

-        Cuộc Sống Mới (1294), bản tiếng Pháp: Vie Nouvelle, tiếng Anh: The New Life.

-        Thần Khúc (1321), bản tiếng Pháp: La Divine Comédie, tiếng Anh: The Divine Comedy.

     Dưới đây là trích dẫn một đoạn thơ:

 

Twenty minutes, when the planet appeared

Shine bright and finish your path

Love suddenly appeared before my eyes

It's terrible when my heart remembers.

(Excerpt from La Vita Nuova [The New Life] by Dante written in the years 1283 – 1293.)

 

Hai mươi phút, khi hành tinh xuất hiện

Tỏa sáng ngời hoàn tất lối em đi

Tình yêu bỗng hiện ra trước mắt

Trái tim anh hồi tưởng kinh hoàng…

(Đây là lúc cú sét ái tình đánh trúng tim nhà thơ Dante khi gặp người đẹp Beatrice.

Trích đoạn từ tập trường ca Cuộc Sống Mới của Dante khoảng năm 1283 – 1293)

 

     * Edgar Allan Poe (1809-1849) là nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình văn học người Mỹ. Bài thơ “Annabel Lee” là bài thơ hoàn chỉnh cuối cùng của ông sáng tác năm 1849. Giống như nhiều bài thơ khác của ông, bài thơ này khám phá chủ đề về cái chết của một người phụ nữ xinh đẹp: Một chàng trai dành cho nàng Annabel Lee một tình yêu mãnh liệt đến nỗi các thiên thần cũng phải ghen tị, và anh vẫn giữ mãi tình yêu dành cho cô sau khi cô qua đời.

     Người ta cho rằng bài thơ này ông dành cho người vợ xinh đẹp của ông là nàng Virginia Eliza Clemm Poe (1822-1847). Bà mất trước ông 2 năm.

 

And neither the angels in Heaven above,

Nor the demons down under the sea,

Can ever dissever my soul from the soul

Of the beautiful Annabel Lee: —

(Annabel Lee – 1849) (33)

 

Không thiên thần ở Thiên Đường,

Cũng không ác quỷ dưới lòng biển khơi,

Tách rời hồn phách của tôi

Xa nàng Ánh Lý tuyệt vời đẹp xinh —

(Annabel Lee – 1849) (Bản dịch – Trích đoạn bài thơ dài 41 câu)

 

     * George Frederick Cameron (1854-1885), nhà thơ, luật sư và nhà báo CanadaMối tình đầu của ông đã bị tan vỡ khi gia đình ông chuyển từ New Glasgow, Nova Scotia, Canada, sang Boston, Hoa-Kỳ, năm 1869. Tuy nhiên, ông vẫn thường xuyên trao đổi thư từ với người yêu. Năm 1872, biết tin người yêu đính hôn và sau đó kết hôn với một người đàn ông khác, điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và thể xác của ông mà lúc này đang làm việc tại Cuba. Hai năm sau, từ Cuba trở về Boston, ông được tin nàng đã qua đời (1874) và ông về Canada, đến Nova Scotia để thăm mộ bà. Năm 1883, ông kết hôn với cô Ella Amey (1871-?) và họ có một cô con gái tên Jessie Cameron Alison. Dưới đây là bài thơ tình gửi người phụ nữ tên Isabel.

 

To Isabel.

 

My sweet fastidious Isabel,

Thy silence hath been read!

I shall not sign to say farewell, –

‘Tis sometimes lightly said;

Albeit it soundeth like a knell

O’er days forever dead.

(Lyrics on Freedom, Love and Death (1887) – Canadian Poetry) (34)

 

Gửi Isabel.

 

Isabel của anh, ngọt ngào khó tính,

Sự im lặng của em anh đã hiểu rồi!

Anh sẽ không nói lời giã biệt, –

Đây là điều thỉnh thoảng nói nhẹ nhàng

Dù nghe giống hồi chuông báo tử

Những ngày kia mãi mãi mất rồi.

(Bản dịch – Trích đoạn từ tập “Thơ trữ tình về sự Tự Do, Tình Yêu và Cái Chết”)

(1887) (Thơ Ca Canada)

 

VIII.      NHẬN XÉT VỀ THƠ CỦA 5 THI SĨ CANADA GỐC VIỆT

 

1.     HỒNG THÚY LÊ NGỌC THÚY

 

     Thơ của Nhà thơ Hồng Thúy (Toronto) dịu dàng với niềm hoài cổ đầy lãng mạn và duyên dáng đắm chìm trong bầu không khí ấn tượng khi diễn tả tình cảm đối với quê hương qua những địa danh kỷ niệm thân thương của Đà-Lạt, Sài-Gòn hay Huế mến yêu… Một sự giao cảm gần giũ với thiên nhiên minh chứng cho cuộc đời đáng nhớ bằng những vần thơ trữ tình êm dịu và âm nhạc du dương và sống động…

     Khi thưởng thức những bài thơ của chị nói chung, và bài “Bài Ca Cho Huế” nói riêng, chị đã phối hợp trực giác và tính thẩm mỹ để diễn tả Cố Đô Huế, vùng đất thiêng liêng, qua những địa danh thân thương, quen thuộc, từ Hoàng Thành cổ kính cho đến thôn Vỹ-Dạ hiền hòa, từ dòng Hương Giang xanh biếc cho đến mấy nhịp Trường-Tiền dạo bước bên em…

 

Bao tháng năm dài xa… nhớ Huế

Ngói cũ rêu phong mái đình làng

Hương nắng chan hòa duyên dáng phố

Tóc thề... tôn nữ… nón bài thơ

Hồn vẫn chiêm bao Huế ngọt ngào

Hàng cây xanh lá thắp nôn nao

Hỏi thăm thôn Vĩ bình yên đó

Giữ cả tơ lòng ai xuyến xao …

(Trích đoạn từ Bài Ca Cho Huế, 2020)

(www.youtube.com/watch?v=164tJ0KEHgk)

 

     Nhà thơ Hồng Thúy cũng là Nhà văn với nhiều sáng tác truyện ngắn tình cảm và xã hội Duy hiện thực; bút pháp thanh nhã hòa hợp với trung hòa đồng thời cũng giản dị và dịu dàng như những vần thơ của chị.

 

2.     NGUYỄN HẢI BÌNH

 

     Về những dòng thơ êm ái của Nhà thơ Nguyễn Hải Bình (Montréal) trong các tuyển tập thơ của anh là một cuốn phim ghi lại cuộc đời và tình cảm của chính anh cũng như của quê hương xứ sở, đưa chúng ta nhẹ nhàng vào một cuộc hành trình thú vị vượt thời gian và cả không gian, trải dài từ nhiều thập niên về trước cho đến hôm nay, từ Việt-Nam yêu dấu cho đến vùng đất tạm dung cách nửa quả địa cầu, gợi nhớ thương biết bao tình yêu nam nữ cũng như tình cảm đối với quê nhà, những buồn vui, thăng trầm của cuộc đời riêng tư và đất nước.

     Những dòng thơ Duy hiện thực và Lãng mạn đó là dấu ấn của những ước mơ, hoài bão và những kỷ niệm của anh không bao giờ phai nhạt với thời gian…

 

Tìm về sông nước miền Nam

Nhớ người em gái nơi Vàm Cỏ Đông

Trời xanh lộng thức mây hồng

Hồn tôi ôm trọn một vòng quê hương…

(Trích đoạn từ bài thơ Một Mai Về Lại, 2007.

Tuyển tập thơ Một Thoáng Phù Vân, 2009, Montréal)

 

3.     LỘC BẮC NGUYỄN TRỌNG LỘC

 

     Thơ của Nhà thơ Lộc Bắc (Montréal) là sự sáng tạo từ những hoài niệm xa xưa, tình yêu vui buồn, tình cảm lãng mạn và từ thiên nhiên, và hình thành những bài thơ thuộc nhiều thể loại khác nhau.

     Với một sự tự do lớn lao khi anh sáng tác những vần thơ chứa đựng nội dung mang đầy cảm xúc và thực tế theo khuynh hướng Duy hiện thực gần gũi Lãng mạn, và ng diệu du dương lẫn dịu dàng như những ca khúc mùa xuân từ quê nhà nước Việt mến yêu cho đến xứ sở Canada đất lạnh tình nồng…

Hai tà áo lộng bay theo gió

Quấn quýt bên nhau bóng với hình

Thùy dương bờ xoải lăn tăn sóng

Nhẹ tiếng chuông chiều, thoảng tiếng kinh…

(Trích đoạn từ bài thơ Chờ Em, Tuyển tập Xuôi Dòng, Montréal 2016)

 

4.     NGỌC BÍCH NGÂN

 

     Thơ của Nhà thơ Nguyễn Ngọc Bích Ngân (Montréal) mang khuynh hướng Duy hiện thực xen kẽ với Lãng mạn chứa chan đầy cảm xúc trong sự sáng tạo, tạo nên một không gian hư ảo nơi mà hiện thực gặp gỡ mộng mơ qua những vần thơ với ngữ điệu buồn gợi lên một vòm trời lặng lẽ, tịch liêu…

     Ngọc Bích Ngân là văn-thi và ca sĩ. Về văn xuôi, chị sáng tác các truyện ngắn và tùy bút; bút pháp thanh nhã và trung hòa, nhẹ nhàng như những lời thơ giản dị của chị.

Mưa ơi..! Mưa hãy cứ rơi!
Nhưng xin mưa chớ làm trôi mộng lành…
Mộng lành… vừa dệt mong manh
Cũng theo sương lạnh long lanh… phai tàn…!

(Trích đoạn từ bài thơ Mưa, 2015 Montréal)

(Vomtroimagazine.wordpress.com)

 

5.     CHÂN HỘI ĐĂNG NGUYỄN TÀI

 

     Họa sư người Ý Léonard de Vinci (1452-1519) đã viết: Hội họa là một thể loại thơ ca đ ngắm nhìn thay vì để cảm nhận, và thơ ca là một thể loại hội họa đ cảm nhận thay vì để ngắm nhìn. (La pittura è una poesia che si vede e non si sente, e la poesia è una pittura che si sente e non si vede) (35) (La peinture est une poésie qui se voit au lieu de se sentir et la poésie est une peinture qui se sent au lieu de se voir) (Painting is poetry that is seen rather than felt, and poetry is painting that is felt rather than seen).

     Điều nói trên có thể áp dụng vào Nhà thơ Chân Hội Đăng Nguyễn Tài (Montréal). Anh là một văn-thi-họa sĩ và nhiếp ảnh, người sở hữu một lúc 4 yếu tố văn học nghệ thuật, do đó, khi ngắm nhìn tranh ảnh Tượng hình và Trừu tượng của anh, người ta cảm nhận sự hiện hữu của thơ văn khắp nơi trong đó, và khi đọc thơ văn Duy hiện thực và Lãng mạn của anh, nơi đó người ta cũng cảm nhận những nét chấm phá của sắc màu hội họa thắm tươi…

     Anh là một người sáng tạo mãnh liệt với hàng trăm sáng tác thi-văn-họa và nhiếp ảnh!


IX. KẾT LUẬN

     Cùng với hệ thống thơ ca thế giới, thơ ca Việt-Nam cũng đã phát triển mạnh mẽ kể từ sự xuất hiện của trào lưu Thơ Mới, với tính chất đa dạng của bút pháp, sự phong phú của chủ đề và ý nghĩa sâu sắc của nội dung tùy theo cảm xúc và suy tư của mỗi nhà thơ đưa đến mỗi vần điệu và mỗi âm giai được thể hiện cá biệt, riêng tư.

     Thơ trình bày và diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống, từ hạnh phúc lớn lao cho đến hạnh phúc phù du, từ khổ đau kinh niên cho đến đau khổ thoáng qua, từ sự chiêm nghiệm vui tươi cho đến sự chiêm nghiệm đau lòng về thân phận con người… tất cả dù là tích cực hay tiêu cực, lạc quan hay bi quan, thơ ca vẫn là một trong những món ăn tinh thần quan trọng. Và đề tài Tình Yêu chính là một trong những đề tài quan trọng nhất và được xem như là định đề của đời sống văn chương.

     Bên cạnh đó, cách diễn đạt tuyệt vời trong thơ ca là cùng với sự sử dụng những từ ngữ nói chuyện hằng ngày, còn có sự sử dụng những thuật ngữ và câu văn mang tính trí tuệ và những thuật ngữ triết học được sử dụng để thể hiện tổng quát những ý tưởng phức tạp của tư tưởng cá nhân.

     Nhà nghiên cứu văn học, nhà biên khảo, văn-thi sĩ Nguyễn Vy Khanh (Toronto), trong bài khảo luận văn chương “Thơ Hôm Nay” (11-2002), đã viết:

     “Vũ trụ thơ là một vũ trụ con chữ, xử dụng với mỹ học khiến thơ hay. Ngôn ngữ có những ký hiệu ước định của nó. Có ngôn ngữ mới có văn chương, nhờ hư cấu, sáng tạo mà ngôn ngữ trở nên văn chương và ngôn ngữ đó đến được với người khác, với ký hiệu ước định của ngôn ngữ thơ! Thật vậy, tổ chức ngôn ngữ tạo nên thi-tính, tức, thơ có cách tổ chức ngôn ngữ riêng. Thơ cũ được tổ chức để dễ nhớ, thơ mới không hẳn vậy, vì chỉ cốt tạo ấn tượng cho hợp mỹ học thời đại. Dù sao thì ngôn ngữ thi ca phải/nên mang chức năng thi pháp!” (36)

     Nữ văn-thi sĩ người Québec, Louise Dupré (sinh năm 1949), đã viết: “Khi người ta không còn thắc mắc nữa là lúc họ đang cận kề sự khổ đau. Đối với tôi, đọc thơ hiện tại là cách tốt nhất để khám phá trong lòng mình những tiếng nói đang yên ngủ.”

     (Quand on ne veut plus se questionner, on est près de l’agonie. Lire la poésie actuelle, c’est pour moi la meilleure façon de découvrir en moi des voix qui dorment.) (37)

     Nói tóm lại, thơ ca có chức năng gợi lên, không những từ ký ức những kỷ niệm xa xăm và gợi lên từ tiềm thức những hình ảnh cũ xưa, mà còn khắc ghi lại mọi sự diễn ra trước mắt, và tất cả được diễn đạt bằng ngôn ngữ có nhịp điệu cộng với tính thẩm mỹ làm cho những câu thơ trở nên du dương, sống động…

     Và bài viết này, như đã ghi phía trên, không phải là sự phê bình hay đánh giá một tác phẩm văn chương, mà chỉ là cảm nghĩ và nhận xét cá nhân và có tính cách địa phương, và chỉ đề cập chủ yếu đến những bài thơ và một số vần thơ trong số nhiều bài thơ đẹp của các nhà thơ gốc Việt tại Canada, cũng như của một số nhà thơ gốc Việt hải ngoại và tại Việt-Nam.

     Giấc ngủ làm quên đi tạm thời những phiền muộn cuộc đời thì giấc ngủ cũng là người bạn đời của thơ ca tỉnh thức. Cũng như nước mắt không thể nào cuốn trôi hết nỗi khổ đau trần thế, thì có những vần thơ tình ái an ủi cuộc sống vô thường của kiếp nhân sinh…

 

     Chu Diệp

     (06-2025, Montréal, Québec, Canada)

 

 

·       Ghi Chú: Những đoạn dịch từ tiếng Pháp và Anh sang tiếng Việt là của tác giả bài này.

 

·       Các khuynh hướng hay trường phái văn học nghệ thuật tiếng Pháp và Anh:

- Ấn tượng – Impressionnisme – Impressionism.

- Biểu hiện – Expressionnisme – Expressionism.

- Duy hiện thực – Réalisme – Realism.

- Lãng mạn – Romantisme – Romanticism.

 

 

CHÚ THÍCH:

 

(1)   Thi sĩ Đinh Hùng – Người Làm Thơ Tình Kiệt Xuất. – Huyền Viêm – Vietart.free.fr.

(2)   Đinh Hùng: Mối Tình Hoa Sen Trắng – Quốc Quyền – Goutrends.com.

(3) En.wikipedia.org/wiki/Elizabeth_Barrett_Browning.

(4) V.wikisource.org. Đầu đề bài thơ này có 2 dị bản:

- 1. Đề Đô Thành Nam Trang (Đề thơ ở khu vườn phía nam Đô Thành).

- 2. Đề Tích Sở Kiến Xứ (Ghi lại những điều đã thấy năm xưa).

(5) Englishhistory.net/keats/letters/fanny-brawne-letters-march-1820.

(6) nongnghiepmoitruong.vn/pham-thai---truong-quynh-nhu-va-guong-luoc-kieu-moi-d214935.html

(7) Phạm Công Cúc Hoa do Tác giả Dương Minh Đức Thị biên soạn, Thiên Bảo Lâu Thư Cục 

      (Quảng-Đông, Trung-Hoa) xuất bản năm 1880, Minh Chương Thị đính chính và hiệu sách

      Quảng Thạnh Nam, Chợ-Lớn phát hành. – Vov.vn/van-hoa-giai-tri.

(8) Mumtaz là vợ của vua Jahan. Bà mất sớm, ông cho xây cung điện nổi tiếng Taj Mahal

     (Vương Miện của Cung Điện) như lăng mộ vĩ đại dành cho bà. – Prathaculturalschool.com.

(9) Các phiên bản sau do Tác giả Charles Perrault (1628-1703) xuất bản năm 1697 trong 

      Les Contes de ma mère l’Oye (Truyện cổ tích mẹ ngỗng), và có nhiều phiên bản khác nhau

      nhưng cùng một cốt truyện. – Fr.wikipedia.org.

(10) Rainer-Maria Rilke, Lettres à un jeune poète (entre 1903 et 1908), Les Cahiers Rouges, 

        Editions Bernard Grasset, 1937, Paris, France. Page 74.

(11) Genius.com/Rainer-maria-rilke-letter-seven-annotated?

(12) Rainer-Maria Rilke, Lettres à un jeune poète (entre 1903 et 1908), Les Cahiers Rouges, 

        Editions Bernard Grasset, 1937, Paris, France. Page 50.

(13) Rainer Maria Rilke, Letters to a Young Poet (1929 & 2002). Dover Publications, Mineola, NY.

(14) Victor Hugo, Notre-Dame de Paris (1831). Citations.ouest-france.fr/citation-victor-hugo.

(15) Victor Hugo, The Hunchback of Notre-Dame (Người gù ở Nhà Thờ Đức Bà) (1831, 2001.

        Signet Classics, www.goodreads.com).

(16) Henri Lacordaire – Conférence: De la religion comme passion et vertu de l'humanité.

        Conférences de Notre-Dame de Paris 1844, publiées en 1845–1853).

(17) Artplaylife.home.blog/2020/01/28/about-haiku.

(18) Cấu Trúc Thơ – Thụy Khuê – Archive.org.

(19) Sáng Tác Thơ, Khải Minh, 1989, Québec, Canada.

(20) Thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Du và cuộc đối thoại trường thiên về nhân thế

        – Nguvan.hnue.edu.vn.

(21) Artplaylife.home.blog/2020/01/28/about-haiku.

(22) Basho Hokku Translations – A selection of Makoto Ueda's translations.

        – Basho-imagery.blogspot.com/2013/01. (Makoto Ueda dịch sang tiếng Anh, pg 139.)

(23) AI Overview – En.wikipedia.org/wiki/New_Formalism.

(24) Canadian Encyclopedia 2025.

(25) Enotes.com/topics/poetics/questions/aristotle.

(26) Introduction à la métaphysique, của Martin Heidegger, bản tiếng Pháp năm 1958).

        (Dịch giả: Gilbert Kahn. Nxb Gallimard, Paris. Bibliothèque de philosophie, 1967.

(27) Câu tiếng Anh xuất hiện trong bản dịch của Ralph Manheim: Introduction to Metaphysics

        (Einführung in die Metaphysik) của Martin Heidegger, do Yale University Press, 1959.

(28) Weekend Livres, Le Journal de Montréal, Thứ Bảy, 10 tháng 08, 2024, tr. 85.

(29) J.M.G. Le Clézio, L’Extase matérielle (L’infiniment moyen), NRF, Gallimard, Paris, France, 

        PP. 206 et 207, 1967.

(30) Themarginalian.org/2014/09/25/william-faulkner-university-of-virginia-recording.

(31) Discours d'acceptation de William Faulkner lors de l'attribution du prix Nobel de littérature.

        Gallimard, collection Du monde entier, 1969. Traducteurs: Jules Bréant et Louise Bréant.

(32) Đi Tìm Cái Đẹp, Nguyễn Văn Tĩnh, Tạp chí Sóng, 08-1987, Toronto, Ontario, Canada.

(33) Eapoe.org/WorkS/reading/pp097r1.htm.

(34) Lyrics on Freedom, Love and Death (1887) – Canadian Poetry – Books.google.ca.

(35) Hs-augsburg.de. – Differenza che ha la pittura con la poesia. Lionardo da Vinci, Trattato della   

        pittura – Parte prima (1651) – Un traité de peinture – Partie 1. La différence entre la peinture et

        la poésie. Léonarde de Vinci – A Treatise on Painting – Part 1, France 1651.

        Difference between painting and poetry. (Chính Luận về Hội Họa).

(36) Hocxa.com/VanHoc/TacGia/ThoHomNay_NguyenVyKhanh.php.

(37) Nhật báo Le Devoir, Thứ Bảy & Chủ Nhật 06 & 07 tháng 03, 2021. Montréal, Québec.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

 

-        Archive.org.

-        Artplaylife.home.blog.

-        Basho-imagery.blogspot.com.

-        Britannica.com/summary/poetry).

-        Canadian Encyclopedia 2025.

-        Canadian Poetry. Books.google.ca.

-        Chimvenuinhan.com.

-        Chinawiki.net/thread/51/5996.html#google_vignette.

-        Dictionnaire des poètes et de la poésie – Jacques Charpentreau et Georges Jean,

Éditions Gallimard, Paris, France, 1983.

-        Discours d'acceptation de William Faulkner.

-        Eapoe.org.

-        En.wikipedia.org. (Expressionism, Impressionism, Realism, Romanticism).

-        Englishhistory.net.

-        Enotes.com/topics/poetics/questions/aristotle.

-        Fr.wikipedia.org(Expressionnisme, Impressionnisme, Réalisme, Romantisme).

-        Genius.com.

-        Goodreads.com.

-        Goutrends.com.

-        Harpersbazaar.fr.

-        Hocxa.com/VanHoc/TacGia/ThoHomNay_NguyenVyKhanh.php.

-        Hs-augsburg.de.

-        Inf.news/en/culture/048c8bd52cb16faf1e151a854a1b6e2d.html.

-        Introduction à la métaphysique – Martin Heidegger, 1958 – Fr.wikipedia.org.

Gallimard, Paris (1967). Introduction to Metaphysics, Yale University Press, 1959.

-        L’Extase matérielle (L’infiniment moyen), J.M.G. Le Clézio, Gallimard, Paris, France.

-        La Belle Dame sans Merci: A Ballad by John Keats (1819).

-        La Vie Sans Toi (Hervé Vilard, 1965).

-        Le Devoir (Montréal, Québec, Canada), 03-2021.

-        Le Journal de Montréal (Québec, Canada), 08-2024.

-        Lediemchihue.com.

-        Lethikimoanh9.blogspot.com.

-        Lettres à un jeune poète – Les Cahiers Rouges, Editions Bernard Grasset, Paris, 1937.

Letters to a Young Poet – Dover Publications, Mineola, NY. 1929, 2002.

-        Literaryterms.net.

-        Merriam-Webster.com.

-        Một Thoáng Phù Vân, Tuyển tập thơ Nguyễn Hải Bình, 2009, Sherbrooke & Montréal.

-        Mypoeticside.com.

-        Notre-Dame de Paris – Victor Hugo (1831) – Fr.wikipedia.org & Citations.ouest-france.fr.

-        The Hunchback of Notre-Dame – Victor Hugo (1831, 2001). Signet Classics, Goodreads.com.

-        Ngọn-Đuốc (tạp chí), 2007-2022, Montréal, Québec, Canada.

-        Ngọt Ngào Nỗi Nhớ, Tuyển tập thơ Nguyễn Bá Dĩnh & Thủy Trang, 1991, Montréal.

-        Nguvan.hnue.edu.vn.7

-        Nhiều tài liệu văn học nghệ thuật: Ấn tượng, Biểu hiện, Duy hiện thực và Lãng mạn.

-        Nongnghiepmoitruong.vn.

-        Ouest-France.fr.

-        Prathaculturalschool.com.

-        Saimonthidan.com

-        Sáng Tác Thơ, Khải Minh, 1989, Québec, Québec, Canada.

-        Shs.cairn.info/revue-philosophique-2012-1-page-15?lang=fr.

-        Tạp chí Sóng, 08-1987, Toronto, Ontario, Canada.

-        Themarginalian.org

-        Thica.net.

-        Thivien.net.

-        Thơ Hồ Dzếnh, Thi Ca Việt-Nam Chọn Lọc, Nxbth Đồng-Nai 2008.

-        Thohoangnguyenchuong.weebly.com.

-        Thời-Luận (tạp chí), 2006, Montréal, Québec, Canada.

-        Thuchieubuon.blogspot.ca/2016/06/boi-inh-menh-tho-ktran.html.

-        Thuykhue.free.fr.

-        Tuyển Tập Đồng Môn Xướng Họa, GHR Miền Québec, 2017, Montréal, Québec, Canada.

-        Tuyển Tập Thơ Tình Hải Ngoại 2005. Thời-Nay xuất bản, Montréal, Québec, Canada.

-        Tuyển Tập Xuôi Dòng, GHR Miền Québec, 2016, Montréal, Québec, Canada.

-            V.wikisource.org. & Vi.wikipedia.org.

-            Vietart.free.fr.

-            Vomtroimagazine.wordpress.com.

-        Vov.vn/van-hoa-giai-tri.

 

Danh sách các nhà thơ gốc Việt hiện diện trong bài này:

 

- Bá Nha (Hà Minh Hùng) (Canada) (Trang 18)

- Chân Hội Ðăng (Nguyễn Tài) (Canada) (Trang 21 & 36)

- Đ. Trần (Trần Ngọc Điệp) (Canada) (Trang 21)

- Dạ Dung (Vũ Thị Tuyết Dung) (Canada) (Trang 22 & 23)

- Điệp Hồ (Hồ Hoàng Điệp) (Canada) (Trang 17)

- Hải Nguyên (Suzanne Ðinh) (Canada) (Trang 22, 23 & 24)

- Hiên Chi (Canada) (Trang 19, 22, 24 & 25)

- Hoàng Mai (Phạm Thị Quảng) (Canada) (Trang 17)

- Hồng Thúy (Lê Ngọc Thúy) (Canada) (Trang 16 & 35)

- Khải Minh (Nguyễn Khải Minh) (Canada) (Trang 21)

- KTrần (Hoa-Kỳ) (Trang 20)

- La Toàn Vinh (Canada) (Trang 19)

- Lê Quỳnh Mai (Canada) (Trang 22 & 25)

- Lê Thị Bạch Nga (Canada) (Trang 17)

- Lê Thị Kim Oanh (Úc-Châu) (Trang 19)

- Lộc Bắc (Nguyễn Trọng Lộc) (Canada) (Trang 16 & 36)

- Mai Bình Phương (Mai Thị Thoại) (Canada) (Trang 22, 25 & 26)

- Mai Phương (Nguyễn Mai Phương) (Canada) (Trang 18)

- Mây Brussels (Nguyễn Thanh Vân) (Bỉ & Tây-Ban-Nha) (Trang 13)

- Ngọc Bích Ngân (Nguyễn Ngọc Bích Ngân) (Canada) (Trang 36)

- Ngọc Thể (Hoa-Kỳ) (Trang 16)

- Nguyên Di (Ðồng Kim Lan) (Canada) (Trang 22, 26 & 27)

- Nguyễn Hải Bình (Canada) (Trang 19, 35 & 36)

- Phạm Thị Huyền (Canada) (Trang 16)

- Phan Chi (Bỉ) (Trang 14)

- Sao Khuê (Đinh Thị Quỳnh Mai) (Canada) (Trang 22 & 27)

- Sao Mai (Dương Thị Sang) (Canada) (Trang 22, 27 & 28)

- Sỏi Ngọc (Lê Ngọc Huyền) (Canada) (Trang 18)

- Song Bích (Phạm Thị Bích) (Canada) (Trang 13)

- Thanh Lam (Ðặng Văn Tín) (Canada) (Trang 17)

- Thủy Trang (Canada) (Trang 22, 28 & 29)

- Tịnh Phan (Phan Minh Tịnh) (Việt-Nam) (Trang 14)

- Tương Huyền (Nguyễn Văn Tường) (Canada) (Trang 19)

- Văn Bổn (Canada) (Trang 13)

- Viễn Du (Võ Lê Mỹ Hằng) (Canada) (Trang 20)

- Vinh Hồ (Hồ Văn Thinh) (Hoa-Kỳ) (Trang 17)

- Yên Vũ (Mai Thị Vân) (Canada) (Trang 22 & 29).