Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2025

Em Là Mùa Thu Hà Nội - Tình Khúc Tế Luân


Thơ Nhạc: Tế Luân
Thực Hiện: Louis Tế Luân

Hồn Thu

 

Tôi đi tìm lại ánh trăng tan
Vá víu đời nhau buổi sắp tàn
Xào xạc lá thu hồn khuấy động
Cõi lòng cô phụ mỗi thu sang

Kim Phượng

Bài Rộn Ràng Thứ Nhất



OH ...MÔI!
Mùa đông má nhỏ đỏ au,
môi ngoan đỏ mận hồng đào, lứa tơ.
Sang xuân áo lụa, ơ hờ
nhỏ qua sân nắng, tôi mờ mắt tôi.
Trở hè, lớp vắng thì thôi
tôi về nhặt lá ... ô môi, nhớ người.

THẤT TÌNH
Nhỏ đi guốc mộc quai hường
thấy tôi, nhái điệu đào thương, bẹo hình.
Tôi về đếm đủ thất tình
đếm đi đếm lại, thấy mình ... ở trong.

TIÊNG TIẾC
Nhỏ mang nhan sắc vô trường,
tôi mang tâm sự về thương một mình.
Nhỏ thương nhỏ cứ làm thinh,
tôi thương tôi cứ đinh ninh... tại người!
………..........................................
Nhỏ ơi mai gặp cuối trời
lấy gì giấu được nụ cười ... tiếc em !

Cao Vị Khanh

Nhan Sắc

 

Em bỏ quên nhan sắc
Trên ghế đá em ngồi
Bóng chiều trôi ngây ngất
Gió thì thầm hỡi ôi !!!

Phan Khâm

Nỗi Nhớ


Cánh phượng rơi rơi vào nỗi nhớ

Áo trắng bay trong cõi tình xa
Bây giờ ta còn thương nắng hạ
Trên tóc nàng cõi mộng bao la!

Ai hiểu được lòng ta thuở đó
Không nói gì nhiều nỗi tương tư
Rồi hết hạ thu vàng lá đổ
Người vắng xa sương khói mịt mù!

Ở trong ta một trời bão tố
Thành sầu vây chặt cả buồng tim
Mùa hạ qua phượng hồng mấy độ
Biết nơi nào? biền biệt cánh chim !!

Hàn Thiên Lương

26-5-2025


Môi Sinh Và Đời Sống Con Người - Phần 2

 

Phần 2: VẤN NẠN VỀ RÁC RƯỞI TRONG CÁC THÀNH PHỐ TRÊN THẾ GIỚI

Hổi mới nghỉ hưu, người viết đã mơ tưởng là cặp vợ chồng già này sẽ sang miền nắng ấm của Florida, California, Nam Mỹ… để qua mùa đông cho đỡ lạnh. Nhưng mà khó mà có thể thực hành điều đó lắm: xa nhà lâu quá đâu có được vì còn có con, có cháu và có cái nhà để lại đằng sau! Vả lại, về già đôi chân lại yếu cho nên không muốn đi đâu nhiều cho lắm. Trong cái bối cảnh đó, người viết tìm ra cái thú viết văn để quên đi cái lạnh của xứ “Đất Lạnh ít Nồng hơn Cóng này!”

Người đời khi nhìn thấy các cây cầu vĩ đại, những tòa nhà trọc trời đồ sộ như hai cái tòa nhà được mệnh danh là “Marilyn Monroe” và “Brigitte Bardot” tại thành phố Mississauga, Canada, người ta trầm trồ khen ngợi rồi nghĩ rằng …thì…là…mà … cái ngành công chánh rất “hoành tráng” …

Thực ra thì ngành này còn phải đương đầu với những cái cống để thải nước cống, rồi đến cái vụ hốt rác rưởi… có những mùi rất khó ngửi và dơ bẩn…

Phần lớn các trường Cao đẳng Công Chánh (Community College, Civil Engineeriong Technology program) trong tỉnh bang Ontario tại Canada, thường hay có chương trình (program) về “Public Works” (Kiều lộ) để dễ bề thu nhận sinh viên. Điều quan trọng nhất là các trường này phải viết ra chương trình dạy học cho thật là thực tiễn, thích hợp với các dịch vụ như: đi hốt và vứt rác rưởi (solid waste management), lọc và phân phát nước uống (water treatment and distribution), xây cất và sửa chữa các đường cống (design and maintenance of sanitary sewers) để dẫn nước cống đến các nơi xứ lý nước cống (waste water treatment plants) trước khi xả nước đó ra hồ/sông/biển…Các trường cao đẳng này (còn được mệnh danh là “Đại Học Cộng Đồng”) hy vọng sẽ đào tạo ra các chuyên viên có một kiến thức tổng quát khi đi kiếm việc trong các thành phố…ngoại trừ khi họ đi làm trong những văn phòng liên quan đến phần tính toán, lập các bàn vẽ hay làm những công việc hành chánh trong công, tư sở…

Nơi chúng tôi dạy, thoạt đầu có hai “majors” (bộ môn) là “Structures” (tính toán, kiến tạo) và “Public Works “ (Lục lộ, xây cất, bảo trì…) Bộ môn “Structures” đào tạo các phụ tá kỹ sư (Technicians/Cán sự học 2 năm và Technologists/Cán sự học 3 năm…để kiến tạo/design các đường phố, cầu, cống , hãng xưởng, đập nước, sân bay…) Khoảng giữa thập niên 1980, Bộ môn “Structures” bị ế ẩm (Canada bị nghèo tiền để có thể xây cất thêm) cho nên sinh viên tốt nghiệp “major” này không kiếm được việc và một số người Canada đã phải bỏ xứ mà sang Mỹ để kiếm việc làm.

Bộ môn “Public Works “còn sống sót èo uột được là vì một số sinh viên tốt nghiệp trong ngành này còn có thể kiếm được việc trong các “Municipalities” (Công sở trong “chính quyền địa phương tại thành phố nhỏ ít dân cư/municipality”), nhất là trong một số văn phòng của chính quyền thuộc các khu vực trong vùng Đại Đô Thị Toronto (Greater Toronto Area) …

Sở dĩ, ngành Công Chánh của College của chúng tôi còn sống sót được là vì Ban Giảng Huấn (Civil Faculty) chúng tôi đã được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của các thành viên trong “Civil Program Advisory Committee” (Ban Cố Vấn bộ môn Công Chánh trường Centennial College), gồm có một số các kỹ sư chuyên nghiệp (Professional Engineers) đang làm việc trong nhiều khu vực “Đại ĐôThị vùngToronto/ Greater Toronto Area – GTA -”, cũng như trong chính quyền Tỉnh Bang Ontario (Ontario Provincial Government) và một số công ty chuyên về xây cất (consulting engineering firms)… Những vị này đã giúp cho sinh viên của chúng tôi có chỗ để được đi thực tập trong mùa hè, nhất là đi xin việc sau khi sinh viên đã tốt nghiệp.

Những vị ân nhân này đã được chính quyền tỉnh bang Ontario đề cử ra nhập “ Civil Program Advisory Committee” (không ăn lương) để mà họ có cơ hội góp ý kiến cho Ban Giàng Huấn chúng tôi nên “update” chương trình giảng dậy với mục đích giúp cho sinh viên theo kịp trào lưu mới mẻ trong ngành nghề.

Chính họ đã gửi tặng cho Ban Giảng Huấn chúng tôi những tài liệu mới nhất mà họ đang sử dụng trong công sở của họ. Ngoài ra, Ban Giảng Huấn chúng tôi còn xin được khá nhiều các “design drawings” (bản vẽ hợp thời) mới nhất đang được sử dụng trong việc xây cất các “sub-divisions” (các khu đất trống nay đang được mở mang để xây nhà cửa cho dân chúng) tại vùng “GTA”.

Bộ ba chúng tôi gồm có 3 GS Tom Transit, Rick Chan,và Phan Dam thường hay dùng chung các bản vẽ (drawings) và tài liệu về xây cất (specifications) để giúp cho chúng tôi có đầy đủ các chi tiết liên quan đến phần Địa Chánh (Surveying) cho GS TT; Đường Phố, Cống Rãnh (Roads, Streets, Sewers) cho GS RC và hệ thống Nước Uống (Water Treatment systems), Nước Phế Thải (Wasted treatment systems), dịch vụ về Rác Rưởi cho GS PD.

Nhờ vậy mà sinh viên của chúng tôi được am tường hơn vể công ăn, việc làm liên quan đến ngành công chánh trong tỉnh bang Ontario để rồi biết cách đi xin việc sau khi đã ra trường.

Cá nhân người viết đã rất may mắn được College đề cử làm GS Đại Diên (Civil Faculty Representative) của Trường Công Chánh (Civil Engineering Technology Department) để phụ giúp ông Giáo Sư Trưởng Phòng luân phiên (2- years- term- Civil Coordinator trong suốt thập niên 1980) trong những buổi họp ban đêm.

Nhờ sự giúp đỡ rất hữu hiệu của các vị cố vấn này mà chúng tôi đã có thể thay đổi nội dung ngành nghề hàng năm (annual curriculum change), nhất là những khi mà ngân quỹ về giảng dạy của chúng tôi liên tục bị Bộ Đại Học và Đại Học Cộng Đồng tỉnh bang Ontario cắt giảm.

Vấn nạn to tát nhất của Chương Trình Công Chánh cấp cao đẳng trong toàn tính bang Tại Ontario: một số các sinh viên sau khi đã ra trường phải gia nhập nghiệp đoàn “Ontario Association of Certified Engineering Technicians and Technologists / OACETT) cho các ngành: Điện, Cơ Khí, Hóa Học, Công Chánh… Nhiều công ty đòi hỏi nhân viên phải có “ membership licence” là một CET với OACETT (Thí dụ như: John Doe, CET là một Cán sự của hiệp hội cán sự OACETT hay Jane Smith, P.Eng. là một Kỹ Sư của Hiệp Hội Ký Sư của tỉnh bang Ontario thì mới được hãng sưởng thuê để làm việc theo đúng chức năng…)

OACETT đòi hỏi các điểu kiện khắt khao trên phương diện hoc vấn. Có nghĩa là Phân Khoa Kỹ Thuật của chúng tôi phải giảng dậy rất kỹ càng. Muốn vậy, chúng tôi phải dậy rất quy củ, có nghía là, nhà giáo chúng tôi cấn phải có nhiều thì giờ để giảng dạy cho đâu vào đó trong khi đó, vì thiếu ngân sách, nhà trường phải cắt ngân sách… Cái vòng lẩn quẩn…

Hầu hết các thành viên của “Advisory Committee members”, ngoài chức vụ cải tổ chương trình Công Chánh của chúng tôi, họ còn đóng vai làm trọng tài để thương lượng với bộ Đại Học và Đại Học Cộng Đồng (Ministry of Colleges and Universities, MCU) trên phương diện ngân sách tối thiểu cho các ngành nghề trong Phân Khoa Kỹ Thuật.

Kết cuộc là: trong cuối thập niên 1980, MCU đã quyết định đóng cửa một số bộ môn (Departments) trong một số các trường (Colleges) vì Chính Phủ Tính Bang không có đủ ngân quỹ. Năm 1996, Civil Department của chúng tôi đã bị đóng cứa vì lý do thiếu ngân sách…

May thay, cá nhân chúng tôi đã được thuyên chuyển sang ngành Enviromental Protection Department trong năm 1990…cho nên người viết không bị mất việc như các đồng sự Công Chánh khác

***

Đầu thập niên 1970, bà nữ giáo sư MK, chỉ có kinh nghiệm về “Structures” trong ngành Công Chánh của chúng tôi. Bà được chỉ định dạy những môn liên quan đến các vấn để tính toán (design), và soạn thảo các bản vẽ (technical drawings), cho nên bà không gặp trở ngại gì.

Ba năm sau đó, bà bị bắt buộc phải dạy môn” Nước Uống và Nước Cống (Water Supply and Sewerage)”.

Các giáo sư bị bắt buộc phải dạy một số môn học khác nhau, dựa theo cái “Legal contract between Faculty and College”). Môn này thuộc vào loại “killer” vì rất khó dạy và người giáo sư cần phải soạn bài rất kỹ càng để có đủ kiến thức; phải ăn nói rất nhiều (descriptive subject) và phải dùng đến các tài liệu về phim ảnh (films, slide shows) để chiếu cho sinh viên xem cho “up-to-date”)… Ngoài ra bà còn phải có bổn phận phải mang sinh viên đi viếng thăm nhà máy lọc nước uống cũng như nhà máy lọc nước cống… có nghĩa là người giáo sư bị bắt buộc phải đọc sách rất nhiều và sửa soạn kỹ càng các tài liệu giảng dạy cho sinh viên trong khi đó, vì một lý do gì đó bà không ngồi soạn bài ở nhà cho đâu ra đó.

Bà bèn nảy ra sáng kiến: cuốn “text book” (sách giáo khoa) của môn đó có 12 chương (chapters) chính, bà chia ra 12 nhóm sinh viên trong lớp (mỗi nhóm có 2 hay 3 sinh viên) . Mỗi nhóm phải tự soạn bài và sau đó cả nhóm phải đứng trước mặt cả lớp để trình bày nội dung của chương sách cho cả lớp trong khi đó bà không phải soạn bài gì hết.

Trong niên học, sinh viên phản đối mãnh liệt vì họ đi học chứ họ không phải dạy cho cả lớp thay thế cho bà. Sinh viên đã viết thư khiếu nại đến văn phòng ông Khoa Trưởng. Kết quả là sau năm đó, bà giáo sư MK đã xin College chuyển sang ngành Kiến Trúc để dạy những môn liên quan đến phần tính toán trong ngành Kiến Trúc… nhưng rồi vài năm sau, bà đã trở thành vị nữ Khoa Trưởng (Dean) đầu tiên của Phân Khoa Kỹ Thuật (vì nhà trường đang cần một Khoa Trưởng là một phụ nữ dựa theo tinh thần “equity employment” sau khi ông Khoa Trưởng đương nhiệm bị mất chức . Nhưng sau đó vài năm, bà cũng mất chức Khoa Trưởng luôn…

Một hôm, trong lúc ăn trưa của nhân viên nhà trường, một ông giáo sư trường Điện đã khôi hài như sau:

“Those who can work, work. Those who can not work, teach. Those who can not teach, administer!”

Đây là lời nhạo báng của ông ta để ám chỉ đến ông “Chair” của Trường Điện và Bà Dean MK của Phân Khoa Kỹ Thuật vì 2 vị này đã từng là GS, sau đó họ trở thành dân “Admin (Chair, Dean)

Người viết đã bị bắt buộc phải dậy môn Nước Uống và Nước Cống ngay sau khi bà GS MK “nhảy rào” sang ngành Kiến Trúc.

***

Đã biết trước được cái “hung tin” này, một năm trước khi chúng tôi bắt buộc phải dậy môn đó thay bà MK, sau khi tất cả các ông giáo sư đàn anh chiếm hết các môn “dễ dạy”. “Giáo Út” phải nhường nhịn các “ông anh yêu dấu”…

Bèn phải lập kế hoạch ngay lập tức: lên thư viện của Campus để kiếm tất cả các sách giáo khoa (Text Books, Reference Books) liên quan đến ngành Công Chánh.

Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với bà “Reference Librarian” của Progress campus đế nhờ bà lùng kiếm thêm các cuốn sách liên quan đến ngành “Public Works” không những của nhà trường mà còn trong các “Public Libraries” và nhất là các thư viện của các Colleges và Đại Học trong tỉnh bang Ontario , qua hệ thống “Inter Loan” của Tỉnh Bang Ontario nữa. Bắt đầu phải làm việc ngay tức thì.

Mùa hè năm 1979 là một mùa hè đẹp tuyệt trần đời cho “Giáo Út”: mỗi buổi sáng, PD để vài cuốn sách liên quan đến các dịch vụ về ngành Công Chánh vào trong chiếc xe đẩy của con trai út mới sinh vào giữa tháng 4 năm 1979. Mẹ của cu Út đưa cho Bố của cu út một bình sữa đã được pha sẵn cùng với vài cái tã… Bố đẩy xe cho con trai ra cái Park gần nhà. Khi thằng cu đang nằm ngủ, ông bố trẻ bèn mở từng cuốn sách ra để đọc qua loa các chương sách. Cuốn sách nào thấy cách trình bày không “hot” cho lắm, bèn gấp nó lai, ghi “notes” rồi giở sang cuốn khác, không quên ghi chép nội dung của từng chương một – Đây là một mùa hè rất tươi đẹp cho tôi: vừa trông con, vừa sứa soạn / xem từng cuốn sách một để sau này đi kiếm tài liệu mà không phải tốn quá nhiều thì giờ

Khi viết đến những giòng này thì “cu út” đã 45 tuổi và đang say mê làm việc tại New York! Thời gian qua mau!

Tôi đã may mắn chọn ra được một số sách rất khá hợp trong ngành “Public Works” (Công Chánh) và “Environmental Protection” (Bảo Vệ Môi Sinh) cho những môn học phải “nói nhiều” (descriptive subject) trong những năm về sau này để làm tài liệu mỗi khi đi tìm kiếm các tài kiệu liên quan đến một số các môn học mà tôi phải dạy mãi cho đến khi tôi về hưu non ở tuổi 60.

Theo lời đề nghị của bà “Reference Librarian”, tôi gặp bà “Campus Librarian” JD để tìm cách “khuyếch trương” các sách giáo khoa cho ngành Công Chánh.

JD và PD đã quen biết nhau từ đầu thập niên 1970. Cả hai chúng tôi đều là “có job” đầu tiên tại College. JD gia nhập College sau tôi vài năm, JD thua tôi vài tuổi. Chúng tôi rất thân nhau: con gái đầu lòng của JD sinh cùng năm với con trai út của chúng tôi… Rồi cả hai chúng tôi đều được chuyến sang khuôn viên mới (Progress Campus) để làm việc.

JD cho biết tin vui: thư viện có ngân sách mua các sách Giáo Khoa cho các phân khoa Kỹ Thuật (Technology), Thương Mại (Business), và Y Tế (Health Science)… Bà sẵn sàng mua thêm sách giáo khoa cho ngành Công Chánh nếu tôi nộp cho bà một cái danh sách có tên những cuốn sách mà chúng tôi muốn có.trong Thư Viện Sau đó, bà còn nhờ tôi nộp cho bà một cái danh sách về các cuốn sách cho ngành Kiến Trúc nữa.

Bà giới thiệu tôi với 3 vị “Library Technicians”. Một bà chuyên môn đi “book film” (đi lùng các tài liệu. phim ảnh liên quan đến kỹ nghệ xây cất và các dịch vụ về rác rưởi, điện nước ở ngoài đời và nhất lá các hãng dầu xăng như “Shell”, “Esso”…).

Các tài liệu này đểu không tốn ngân quỹ nhà trường (free service) gì hết. Bà này tự tiện “book” các phim 8mm dùm cho tôi. Mỗi khi cuốn phim nào mà thư viện nhận được, 1 trong 2 ông “Library Technicians” sẽ tự ý lắp phim vào máy chiếu phim (film projector) và báo cho tôi biết ngay lập tức. Trong thư viện còn có phòng cho tôi ngồi xem phim. Dĩ nhiên là tôi luôn luôn mang theo một cuốn sổ tay để ghi lại nội dung, tựa đề, xuất sứ, “cataloguing number” của từng cuốn phim một để giúp cho thư viện “book dùm cho tôi một cách dễ dàng và nhanh chóng trong tương lai…Khi có ngân quỹ, Thư Viện còn mua luôn vài cuốn phim để làm tài liệu giảng huấn cho chúng tôi nữa.

Nhiệm màu thay, cái “nhóm đi lùng phim ảnh” của chúng tôi đã “mang về dinh được một số phim tài liệu mà không bị quá phí tồn về tiền bạc: chúng tôi đi đi gõ cửa rất đúng lúc.

&&&

Rác rưởi trong các thành phố được mệnh danh là “Municipal solid wastes /Garbage “.

“Food wastes, Kitchen wastes” trong tiếng Anh nêu rõ các phần rác rưởi từ đồ ăn trong bếp hay trong các hiệu ăn. Danh từ “Rubbish” cũng hơi giống danh từ “Garbage” nhưng trong “Rubbish” không có những rác rưởi liên quan đến đồ ăn (Food wastes)

Rác rưởi trong các đô thị bao gồm nhiều thành phần (composition) khác nhau cho nên phần rác rưởi trong các thành phố cũng không đồng nhất cho lắm. Trong những thành phố mới mở mang, trên phương diện rác rưởi, loại rác liên quan đến các phần “plastic” hay những loại rác có thể dùng lại được sẽ được loại riêng ra.

Vào đầu thế kỷ thứ 20, khoảng 53% rác rưởi ở bên Anh gồm có tro đốt của than đá, đến từ các lò đốt than để sưởi nhà. Ngoài ra còn có rác từ thức ăn, đồ mua từ chợ, các hộp bằng chất plastic, đồ đóng thùng và các thứ lặt vặt trong nhà cửa của dân chúng, từ các nơi buôn bán (commercial), các cơ sở (institutional), các hãng xưởng trong kỹ nghệ (industry) …

Các loại rác này (house hold solid wates) thường không chứa các đồ phế thải trong kỹ nghệ, đồ phế thải trong ngành canh nông, trong các cơ quan y tế, đồ phế thải của các chất quang tuyến (radioactive materials), đồ phế thải trong nước cống (sewage sludge).

Các đồ phế thải này được chính phủ địa phương (municipality) hốt đi (collected), theo từng khu vực một. Khi xe rác đã đầy (garbage trucks), tài xế lái xe rác đến cái “Transfer Staion”, rồi thải rác. Tại nơi này, rác được loại ra theo kiếu “wastes”, “recycle wastes “. Loại “wastes”được bỏ vào các xe chở rác rất dài rồi chở thẳng ra bãi rác (landfills) để đem chôn (Xin mời xem youtubes ở phía dưới).

Các đồ phế thải này được phân loại như sau:

– Bio degradable wastes (rác rưởi được thiên nhiên hấp thụ) gồm có: đồ ăn, rác trong bếp, các cọng rau, giấy…

– Recyclable materials: vật liệu có thể tái chế biến như giấy, thùng carton, thủy tinh, chai, lọ, hộp bằng kim loại, đồ bằng nhôm, một số các loại pin (batteries),

– Inert wates: chất thải bền vững như: vật liệu xây cất, vật liệu sửa nhà, đá (stone), bê tông…
- Electrical and electronic wastes (dụng cụ trong ngành điện, điện tử…), bóng đèn, máy móc, TV, telephones, đồng hồ chạy bằng điện…
-Composite wastes (chất thải tổng hợp) như : các đồ carton , đồ chơi, các dụng cụ bằng plastic dùng ngoài vườn..

- Hazardous wastes (chất thải nguy hiểm) như: các loại sơn, các chất hóa học, lốp xe (xe đạp, xe hơi), các loại pin, bóng đèn, các dụng cụ chạy bằng điện, các đèn nê ông, các loại thuốc xịt, các chất thải bằng phân bón.

Xin nhắc Quý Vị đừng đổ bất cứ chất lỏng hóa học nào trong vườn nhà mình hay trong bất cứ nơi nào khác. Lý do: các chất hóa học độc hại này sẽ ngấm vào dòng nước trong lòng đất rồi chảy ra các sông ngòi làm nguy hại đến con người và các động vật như cá, tôm…

– Toxic wastes: (chất thải độc hại gồm có các thuốc trừ sâu , thuốc trừ cỏ dại (herbicides), thuốc trừ nấm (fungicides)…
– Bio medical wastes (chất phể thải trong ngành y sinh học)

Các dịch vụ về rác rưởi tại vùng Đại Đô Thị Toronto, Canada:

Người viết là một cư dân tại vùng Toronto, Canada đã lâu năm cho nên xin dùng nơi này làm “cứ điểm” để mà… biết gì, viết nấy:Nếu người dân ở trong một căn nhà, trong nhà bếp cần phải có 2 cái thùng rác (garbage cans); 1 cái (A) cho “kitchen garbage” (gồm đồ ăn bỏ đi, giấy gói, đồ quét rác trong nhà…), một thùng rác khác (B) đựng các chai, lọ bằng thủy tinh, các hộp đựng đồ ăn bằng kim loại hay bằng plastic, các sách vở, báo chí…

Rác thuộc loại (A) sẽ được mang ra khỏi nhà và bỏ vào một thùng rác lớn (màu xanh lá cây) cao gần 1 mét, được đậy nắp rất kỹ để cho các con “racoon” (chồn Canada) không mở nắp được.

Rác thuộc loại (B) cũng giống như loại (A) nhưng có màu xanh đậm để chứa các loại rác (B).


Mỗi tuần (giả dụ như ngày Thứ Ba), rác loại (A) được xe hốt rác (garbage truck) đến từng căn nhà để lấy đi (collected) rác loại (A) này rồi đổ vào xe hốt rác. Sau khi xe hốt rác đã đầy, xe hốt rác chạy thẳng đến nơi nhận rác, được mệnh danh là Transfer Station, rồi thả rác tại nơi đó.

Vào ngày (giả dụ như Thứ Sáu), rác loại (B) được xe rác đén hốt đi, giống như hôm Thứ Ba.

Trong các building cao ốc, mỗi căn hộ (apartment: cho người ở thuê ; condo: cho người đã mua căn hộ ) cũng phải theo quy luật như (A) và (B) đã nêu ra. Thường thì loại rác (A) được vứt đi qua một cái “chute” ở mỗi từng lầu. Loại rác (B), dân chúng phải mang xuống tầng trệt và bó vào một nơi đặc biệt. Mỗi tuần, sẽ co một xe rác đến mang đi rác loại (A) và rác loại (B) đến cái “Transfer Station”.

YOUTUBES VỀ “GARBAGE COLLECTION & TRANSFER STATIONS”

1.
Bãi rác được lấp đất


2.
Một bãi rác tại California
https://www.youtube.com/watch?v=FTD03QAkK0E
3.
Một bãi rác không được lấp đất tại Serbia, Âu Châu
https://www.youtube.com/watch?v=c36kP3vp_kk

4. Rác được “hỏa thiêu” ở nhiệt độ cao:
https://www.youtube.com/watch?v=zm0jslIE1kk

Tai họa:Rất tốn tiền
Rất bụi bậm
Gây mưa acid
Một số dân chúng có thể bị dị ứng
Kết quả: Không nơi nào dám đốt rác nữa

5. Thống kê cho thấy: Mỗi người dân sống trong các thành phố xả 700 kg rác trong mỗi năm trong khi đó Nhật Bản và một vài thành phố đang cố gắng không còn xả rác trong tương lai.

Trong nhiều thành phố bên Nhật, rất khó kiếm được thùng rác công cộng lắm. Mục đích là dân chúng phải cố gắng tránh việc xả rác.

Liệu các nơi khác có thể xả rác ít đi hay không?

Tài lệu ham khảo:Internet
Wikipedia
Youtube

Đàm Trung Phán
GS Công Chánh hồi hưu
Mississauga, Canada
Feb. 18, 2024

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Thương Ca Mùa Hạ - Nhạc Sĩ Thanh Sơn - Kim Trúc


Sáng Tác: Nhạc Sĩ: Thanh Sơn
Trình Bày; Kim Trúc

Mùa Giã Biệt

 

Một mùa hoa phượng nở
Rực rỡ trưa nắng hè
Ta xa nhau từ đó
Rên rĩ tiếng sầu ve
Người đi tình để lại
Tan tác cõi buồn riêng
Cánh hoa lòng héo úa
Rơi trong nắng chiều nghiêng
Gió ru hời xa vắng
Đêm trắng mưa rơi rơi
Giọt buồn vương mắt hạ
Giọt thương nhớ đầy vơi!
Mùa sang … mùa sang nữa …
Phượng vẫn đỏ màu son
Vờ hồn nhiên khoe sắc
Ai biết lòng héo hon!

Yên Dạ Thảo

Tâm Sự Tháng Sáu



Mùa hè tháng sáu cỏ khô nắng cháy
Đóm lửa tràn lan sáng cả bãi dâu
Ở nơi đây không có tiếng ve sầu
Bằng lăng tím thay màu hoa phượng đỏ

Kỷ niệm thiết tha tình đầu chưa tỏ
Tuổi hoa niên mười tám vẫn dại khờ
Tự trách mình ngày ấy quá ngây thơ
Để năm tháng trượt dài theo nỗi nhớ

Giờ tan học ta theo sau bước nhỏ
Lòng hân hoan hạnh phúc ngập tràn dâng
Mang trong lòng nỗi khát vọng lâng lâng
Ươm hy vọng một ngày mai tươi sáng

Nhưng vận nước đã tới hồi bi thảm…
Ta mất nhau để sống kiếp lưu đầy
Mặc cho ngày tháng cứ mãi vần xoay
Chiều nắng hạ nhớ về phương trời cũ…

Nguyễn Cang 
(Jun. 7, 2025)


Giọt Đắng Tình

 

Không phải tình sao lại nhớ lâu
Không hề khóc sao khăn vẫn ấm
Có gì đó mà em chẳng nhận
Coi tình như gió thoảng qua hiên

Tôi mãi còn giọt đắng trong tim
Đắng muốn chết vậy mà chưa đủ
Chờ em về pha giùm thuốc lú
Thì họa may quên giọt đắng tình

Trần Bang Thạch

Phương Triều Những Vầng Thơ Thân Phận

 

Phương triều tên thật là Lê Huỳnh Hoàng, quê quán Sa Đéc. Ông làm thơ từ lúc còn trẻ, gia nhập làng báo rất sớm năm 1959 và trở thành nhà báo chuyên nghiệp viết cho nhiều tờ báo ở Sài Gòn trước năm 1975 . Khi vào quân đội ông là sĩquan báo chí Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1967 đến 1975, ngoài ra ông còn giữ nhiệm vụ tổng thư ký tuần báo Hoa Tình Thương. Do nghiệp vụ báo chí, sau đó lại bị nhiều năm tù nên cảm hứng thơ phú trong ông đã thu về một góc nhỏ trong đáy hồn. Mãi đến khi qua định cư ở Hoa Kỳ bằng hữu văn nghệ xa gần đã réo gọi ông trở lại cầm bút. Năm 1994 ông làm thơ trở lại hay nói đúng hơn nguồn thơ trong ông từ đáy tim thức dậy, dâng trào và viết rất khỏe.
Những tác phẩm xuất bản:

CÒN NHỚ CÒN THƯƠNG (tập truện Sông Hậu xb, Sài Gòn 1966)
TIẾNG HÁT HOÀNG HÔN (tập truyện Sông Hậu xb, Sài Gòn 1969)
SẦU HƯƠNG PHẤN (tập truyện Sông Hậu xb, Sài Gòn 1972)
THƠ PHƯƠNG TRIỀU (Thơ, Tình Thương xb California 1995)
TRĂM BÀI THƠ XUÂN (Thơ, Lê Huỳnh xb, Minesota 2000)
XÓM MỘ (Thơ, Lê Huỳnh xb, Minesota 2001)
GIỌT SỮA ĐẤT (Thơ, Lê Huỳnh xb, Minesota 2002)
XƯƠNG RỒNG ĐEN (Thơ, Lê Huỳnh xb, Minesota Texas 2004)

Thời gian Phương Triều ở Mỹ chúng tôi hay phone thăm nhau và trao đổi những câu chuyện về văn học nghệ thuật. Sau ngày anh bị bệnh thỉnh thoảng tôi nhận được thư anh, đến khi anh biết xử dụng điện thư thì không bao lâu anh mất! Bằng hữu văn nghệ sĩ khắp nơi vô cùng thương tiếc anh. Trước đó, các bạn trong giới văn nghệ đã viết những dòng cảm nghĩ về anh: Con Người và Tác Phẩm như một món quà tinh thần vinh danh một người miệt mài sáng tác dù trong lúc bệnh. Cuốn sách được xuất bản có tựa: Các Tác Giả Viết Về Phương Triều, gồm 43 người. Anh đã gói thật kỹ, bọc nhiều lớp giấy vì sợ ướt và gởi tặng tôi ttước khi anh mất! Hôm nay ngồi đọc lại những tập thơ của anh lòng tôi cảm thấy bùi ngùi nhớ bạn, nên viết thêm về những vần thơ của anh:

“Phương Triều theo khuynh hướng thơ mới nhưng sáng tác thơ theo nhiều thể thơ khác nhau. Do đó cấu trúc trong thơ ông rất vững vàng từ cách gieo vần điệu, niêm luật cho đến lối dùng ẩn dụ, hoán dụ, nhưng lại không câu nệ gò bó vào niêm luật. Thi sĩ đã để hồn thơ lai láng hòa nhập trong ngữ nghĩa theo nhịp con tim, khéo léo trong cách sử dụng con chữ như những tiếng thì thầm vọng từ một cõi mơ để diễn tả cái chiều sâu của bài thơ. Ông không chú trọng về mặt chải chuốt, bóng bẩy làm đẹp ngôn từ, nhưng lại rất tỉ mỉ khi chọn nghĩa ngữ, và sắp xếp câu thơ thành một thông điệp riêng của tiếng lòng gởi tặng đời. Thơ của ông là một thế giới riêng biệt. Nhà thơ khéo sử dựng nhạc tính trong thơ bằng một lối gieo vần ngắt nhịp ghép từ qua những âm kép làm giai điệu thêm phong phú. Ngôn ngữ trong thơ ông là những hình ảnh thắm màu sắc quê hương bao gồm những đau thương lẫn mật ngọt của quá khứ thêm chút hiện thực ê chề. Tác giả đã vẽ lên chân dung của những mảnh đời vỡ vụn!

Phương Triều thích bằng hữu gọi mình là nhà thơ hơn nhà báo hay thày giáo.Trong sự nghiệp cầm bút, Phương Triều là một nhà thơ dù rằng thời gian viết văn làm báo và dạy học của ông dài hơn những quãng đời làm thơ. Phải chăng thơ là hình thức tuyệt vời của nghệ thuật, cái có sãn bàng bạc trong trời đất. Có lẽ thế, ở lứa tuổi học trò chẳng ai mà không mang tâm hồn thi nhân mơ mộng? Phương Triều cũng thế, đã vướng nợ thi nhân nên tâm hồn bồng bềnh, mơ mộng mặc cho thực trạng có biến đổi. Nhưng cuộcđời đâu chỉ là cơn mơ! Vì dấn thân vào làng báo quá sớm nên tính hồn nhiên mơ mộng của ông đã nhường lại cho tính hiện thực để nhìn đời bằng con mắt nhà báo đòi hỏi sự quan sát và độ chính xác, do đó nguồn thơ trong ông bị nghẽn lối! Phương Triều không làm thơ một thời gian rất dài, các mạch cảm hứng đã sơ cứng như những rễ con thiếu nước không đủ nuôi cho cây trổ hoa lá, dù những năm tù đày, hay những năm sau khi được thả ông phải sống trong một hoàn cảnh khó khăn. Đó là những chất liệu đau thương để một nhà thơ có thể viết lên những vần thơ thống thiết nhất. Khi một nhà văn bị bạo lực tước đoạt ngòi bút, người văn sĩ khí phách sẽ cắn tay lấy máu viết trên đá ghi lại cho đời. Phương Triều nhếch miệng cười thay cho tiếng hét, để trút những phẫn nộ vào mặt những «kẻ bịt miệng người».Vì còn tình cảm gia đình, vợ con, những ân tình đó nên ông đành nín lặng. Sự chịu đựng khiến ông cắn bật máu môi, thu nạp tất cả những thương đau rồi đè nén dòng cảm xúc và cất dấu trong tim thành những tiếng lòng chờ khi có dịp giải bày. Mãi đến khi đến được bến bờ tự do, nguồn thơ mới tuôn trào. Phương Triều từ những nỗi nhọc nhằn đớn đau của dân tộc vươn lên, hồn thơ cũng chắp cánh vút cao như những nham thạch phún ra từ lòng núi tạo thành những chùm pháo bông hừng hực lửa, nhưng ấm áp tình người, đầy hào khí nhưng không sắt máu.

Ai xa xứ lâu ngày, có về thăm quê hương nhìn thấy bao đổi thay: Những nhà cao tầng ngất ngưởng, những đường phố khang trang, những xe hơi lộng lẫy..vv.. Đó là lớp son khỏa lấp những vết tích một thời cơ cực! Sự đổi mới đã phải trả giá quá đắt bao hy sinh xương máu của dân tộc. Hôm qua và hôm nay vẫn còn những giọt mồ hôi của những người lao động xa xứ, những giọt nước mắt của những thiếu nữ bán thân cơ cực nơi xứ người, và nó còn là sự đánh đổi to lớn hơn, cao cả hơn mang ý nghĩa: Tự Do của bao sinh mạng trên biển cả, mất xác trong rừng sâu. Hôm nay đất nước vẫn chưa thục sự thay đổi tư duy, nhưng những người sống bỏ đi năm xưa đã vội mau quên ?! Nhà thơ Phương Triều cảm nhận được điều này nên đã lục tung ký ức, ghi lại những dấu tích một thời khốn khổ trên quê hương, viết về từng ngõ hẻm, hang cùng nơi chui rúc của lớp người dân đen lây lất sống trong những ổ chuột qua ngày! Có lẽ trong số những tập thơ bi ca viết về nỗi thống khổ của quê hương, tập thơ Xóm Mộ và Trăm Bài Thơ Xuân của Phương Triều là tập thơ đầy xúc cảm nhất đã lột tả toàn cảnh những mảnh đời lây lất, sống trong một nghĩa trang sau ngày «giải phóng ». Cái phồn hoa hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam ấy đã để lại bao nước mắt, cho dù những người hôm nay muốn quên, hay định xóa nhòa đi cái quá khứ đau thương. Nhà thơ Phương Triều cũng đã ra người thiên cổ, nhưng những mảnh đời ấy đã đi vào thơ văn âm nhạc như những chứng tích không phai. Nếu người đời sau có dịp đọc lại sẽ nghĩ gì về một VN có thời khốn khổ?!

Mời các bạn bước vào vườn thơ của Phương Triều để nghe ông tâm sự qua bài Nghĩa Trang, trích trong Xóm Mộ. Nhà thơ đã diễn tả cảnh khốn cùng, nỗi cơ cực. Ông dùng lối ẩn dụ, rất nhiều loài động vật được dùng để ẩn dấu, hoán vị nhiều cảnh đời khác nhau : Mưa ở đây là mong một sự thay đổi. Ở nghĩa trang làm sao đào giếng ? Như thế là thiếu Nước! Nhưng cơn mưa không đến trong mùa nắng hạn theo nghĩa mong chờ, mà mưa gió làm ướt sũng những thân phận nghèo, những căn lều rách giăng bằng bao cát gợi lên nỗi xót xa phận nghèo! Mưa ở trong thơ là niềm hy vọng làm mát tâm hồn. Chuỗi từ: Ngầu mắt đỏ, diễn tả bạo lực chỉ muốn cắn những kẻ khố rách!:

" Nửa đêm bất chợt mưa qua xóm
Gió dẫn bầy mây đứng sắp hàng
Sói giọt nước buồn trên đất bạc
Lùa thêm ẩm lạnh góc điêu tàn!
Hạ nồng cho tóc khô như rạ
Chiếc võng đu đưa sầu nghĩa trang,
Mưa ơi, lều bạt dù tan nát
Lòng vẫn thèm mưa giữa nát tan!
Con chó nhà ai ngầu mắt đỏ
Cắn đen thi thể buổi hoang tàn
Đám tang không có người ai điếu
Người chết nằm quên hết họ hàng!
Người chết hôm qua còn hát dạo
Ru đời mưa gió giữa lang thang
Người đó đêm qua say ngất ngưởng
Vung tay đấm ngực rồi cười khan!
Người đó hôm nay không hát nữa
Trợn trừng mắt đợi chút hương nhang !...
Nè em, đào giúp ta phần mộ
Ta dẫu người dưng cũng họ hàng
Nếu chẳng con Hồng thì cháu Lạc
Lều rách cùng nhau xóm nghĩa trang
Ông già vé số, cô chè đậu
Chia chút tình riêng chú lễ tang!..."
( Nghĩa Trang )

Nhà thơ ngậm ngùi thân phận, chua xót cảnh đời và châm biếm thói đời qua bài Hồi Xuân:

"Uống đi ông, ông lão đàn cò!
Uống đi bạn, bạn già móc bọc!
Ăn đi em, lơ cơm xe đò
Nhà xóm mộ can gì mà lo!...
Thì lại tết, đếm người chưa chết
Đêm giao thừa được miếng xương kho
Chút lễ mời tiên nhơn mồ tổ
Về đây chơi, ăn miếng giả đò!
Xóm mộ hoang không người tảo mộ
Kẻ sống nhờ, phóng uế vô tư
Tới một lúc con người quên hết
Cõi phù sinh nào chốn thực hư ?
Em bắp cải tưởng mình hoa cúc
Anh cò ma tưởng cánh chim bằng
Thì cứ mặc mưa bùn nắng lửa
Khóc hay cười cũng được nhăn răng !"
……….
(Hồi Xuân)

Trong văn chương VN ngày xưa, hình ảnh cảnh nghèo được gắn liền với tính thanh cao. Kẻ sĩ chọn cuộc sống thanh bạch để tâm hồn trong sáng hướng về chân thiện mỹ. Trong thời đại Xã Hội Chủ Nghĩa cái nghèo làm con người co rúm lại vì lo miếng ăn, phải vị kỷ, bần tiện để tự tồn thì miếng kẹo gừng sẽ không cay mà đắng, vị đắng ở đây là nỗi khốn khổ cuộc đời! Nhà thơ dùng cặp từ : Mèn ơi! Ngôn ngữ đặc chất miệt vườn, hay quá, vừa là lời than vừa và nhạc thơ mang âm điệu buồn tạo cho câu thơ mang tính đột ngột:

"Tay phẩy quạt rát mày rát mặt
Miếng kẹo gừng đắng ngắt đêm xuân
Em ngồi mắt ngó rưng rưng
Khói hương di ảnh có mừng sang năm ?
Cứ thậm thụt lui ngày tháng chạp
Thế kỷ buồn già háp mươi năm
Mèn ơi, ai nói đẻ lầm
Trẻ chưa kịp lớn đã lăm le già!
Bếp thiếu lửa năm này năm nọ
Miếng bọt bèo đã bỏ bụng luôn!
Táo ông chắc đã quen buồn
Hăm ba tháng chạp tiễn suông ông về!...
Sáng mồng một không hề năm mới
Nắng xuân về chưa tới đã đi!
Miếng cơm chìm dưới khoai mì!
Miệng mo chưa đủ lấy gì đãi nhau ?"
( Miệng Mo)

Như đã trình bày ở đoạn trên. Biến cố năm 1975 xảy ra chung cho Miền Nam, nhưng hoàn cảnh gia đình mỗi người khác nhau. Nhà thơ đành giữ một thái độ im lặng trong một thời gian dài, vì nặng nợ gia đình. Cái nợ tình nghĩa ấy rất thâm sâu. Bài thơ Mắt Mèo không những giải bày nỗi khổ tâm của nhà thơ, mà còn giải hộ cho một số những người từng bị tù vì thời cuộc:

"Thương em ruột hến canh bầu
Húp thêm muối mặn làm dâu nhà nghèo!
Chồng tù vợ lãnh án treo
Thế nhân đầy những mắt mèo ngó đêm"
(Mắt Mèo-Sũa Đất)

Những Bà mẹ, những người Vợ của Lính VNCH sau ngày đổi đời thật đáng ca ngợi vàvinh danh. Bút mực nào diễn tả hết những nỗi nhọc nhằn, những hy sinh của những tấm lòng cao cả đó. Từ khi làm vợ của một nhà báo, một nhà văn, một sĩ quan, một người tù, và một phó thường dân. Người trong mộng và cũng là người bạn đời của nhà thơ Phương Triều vẫn luôn sắt son chung thủy, vượt qua bao nhiêu thử thách gian khổ để nuôi con , nuôi chồng, do đó nhà thơ nợ ân tình với vợ với gia đình là phải. Bài thơ Rượu Mời là một khúc bi ca đẹp cho đời:
" ….
Giao thừa còn khứa cá kho
Ta mút xương cá giả đò ngon cơm!
Vợ chồng như hai cọng rơm,
Gió mưa bật gốc, vẫn ôm nhau cười!..".
( Rượu Mời) »

Được thả tù, về khu xóm mộ Phương Triều bỗng ngỡ ngàng! Tâm trạng ngỡ ngàng không phải ở sự lạ thành phố ; mà bàng hoàng về sự đổi thay tình người! Bài Bóng Quế, nói lên sự ám ảnh bởi những bóng ma sống!:

"Đêm ta về ma vẫn giả hình
Cõi sống chập chờn bóng quế lung linh
Nhiều em mặt giả và tên giả
Cười nói rân ran chuyện bất bình!
Góc phố ông già say ngất ngưởng
Bên hè bà cụ ngồi thất kinh
Cớ sao ta tưởng ta đoàn tụ
Mà bóng đìu hiu cũng bóng mình?"
………(Bóng Quế)

Trước những đột biến của quê hương và sự đổi thay về giá trị đạo đức ở mảnh đất tạm dung, nhà thơ băn khoăn nghiệm lại về ý nghĩa sự mất còn. Dù ôm những nỗi đớn đau chung làm hao mòn tâm thức, nhà thơ không vì thế mà trở nên yếm thế, bi quan để hồn thơ chìm lắng trong hệ lụy áo cơm, rồi tan loãng. Phải chăng ngàn năm trước và ngàn năm sau những tấm lòng son sắt đối với quê hương nào khác nhau? Nếu có khác chăng là khác sự biểu lộ, cách diễn đạt.Có lẽ thế thi sĩ Phương Triều đã từ những nỗi nhọc nhằn đớn đau của dân tộc vươn lên, hồn thơ cũng chắp cánh vút cao như những nham thạch phún ra từ lòng núi tạo thành những chùm pháo bông hừng hực lửa, nhưng ấm áp tình người,đầy hào khí nhưng không sắt máu. Nhà thơ đã thay bạn bè, chiến hữu cất cao tiếng than vọng từ trong lòng quê hương, nơi đáy vực sâu tích tụ những lời uất nghẹn.
Đọc thơ anh, tôi cảm thấy bùi ngùi:

"Nửa đêm ngựa hí buồn trong gió
Xuân rụng đìu hiu ngọn nắng đào"

bỗng thấy mình mơ được trở về với quê hương bằng tâm tưởng sau bao năm xa cách. Trở về để tìm lại những mất còn trong cuộc bể dâu đầy xót xa.
Bài thơ Bạc Màu của Phương Triều tôi mượn thay lời kết về một giấc mơ hư trong đó có cả hồn tôi

“Mùa xuân còn rụng đầy hoa tuyết
Còn lạnh bao nhiêu quán dọc đường
Bấm tay đếm tuổi nghịch thường
Nghe chân gió nhẹ tìm phương cô phòng
Hồn trải mênh mang vào chớm mộng
Đôi tay ngày đó mải mê nhau
Sao không ấm được tròn chung thủy
Mà rã rời theo mệnh số đau ?
Người qua từng vết hằn binh lửa
Đời cháy bùng theo vạt chiến bào
Nửa đêm ngựa hí buồn trong gió
Xuân rụng đìu hiu ngọn nắng đào
Có ai về gọi lầm thương tưởng
Mắt trợn trừng không kịp thấy nhau
Khói vẫn run thêm chiều rũ rượi
Nhà ai thềm lạnh lối ra vào!
Ngẩng mặt mây sầu trôi điệp điệp…
Thân cò đơn lạnh giữa bờ lau
Đã bao lần bến không thuyền đậu
Gợn nét buồn xa nhạt bóng sao!...
Còn khói hương không ngày vọng bái?
Kèn xuôi trống ngược dội vào nhau
Em phương trời có lành thương tổn?
Anh đất trầm luân cứ bạc màu!..."
( Bạc Màu)

Đỗ Bình
 

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

Cảm Ơn Người Đã Hát Buổi Chiều Nay


(Nhớ Ngày Quân Lực 19/6)

Cảm ơn người đã hát buổi chiều nay
Cho tôi nghe những bài ca của lính
Những hình ảnh năm xưa, bây giờ tái hiện
Để hồn tôi theo dõi bước quân hành
Của những người chẳng tiếc tuổi xuân xanh
Xếp nghiên bút, khoác lên mình áo trận

Cảm ơn người, cảm ơn người nhiều lắm
Bao năm rồi chẳng tắt lửa thương yêu
Tiếng hát cất lên trong một buổi chiều
Cho tất cả cùng vỡ tung buồng phổi
Người đã hát với trái tim nóng hổi
Khi nhớ về Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Văn Đương
Anh dũng hy sinh, vĩnh biệt chiến trường
Những tên tuổi đã trở thành bất tử
Những địa danh lẫy lừng trong chiến sử
Chu Prong, Hạ Lào, Krek, Pleime...
Chinh chiến xưa nay mấy kẻ quay về

Cảm ơn người nhắc tôi nhiều kỷ niệm
Kể từ thuở tôi yêu đời lính chiến
Từ giã sân trường , trả lại em yêu
Giữa lúc non sông khói lửa tiêu điều
Chắc tay súng, lên đường theo tiếng gọi
Rất hãnh diện khi làm anh lính mới
Gót chân mòn trên mấy ngả quê hương
Rồi một ngày lịch sử giở sang chương
Thân trôi nổi bềnh bồng theo vận nước

Và chiều nay dưới màu cờ tổ quốc
Giữa quê người, ôn lại những buồn vui
Ôi đã trôi qua mấy chục năm rồi
Nghe người hát, bồi hồi xao xuyến lạ !
Việt Nam, Việt Nam....trầm hùng giục giã
Như ngày nào rộn rã bước quân đi
Tôi thấy xa xa phất phới quân kỳ.....

Nguyễn Kinh Bắc

Khúc Tình Ca Của Lính

 

Hát nhớ người anh lính Cộng Hoà
Nơi miền thung lũng lắm vàng hoa
Một thời ký ức còn sâu đậm
Dẫu bóng thời gian có nhạt nhòa

Hát quý thương anh đã một thời
Bút nghiên xếp lại mái trường ơi
Đầu quân đất nước cần trai trẻ
Bảo vệ an toàn khắp mọi nơi

Hát kể về anh những tấm lòng
Băng rừng lội suối giữ non sông
Nằm gai nếm mật vai sờn áo
Chẳng ngại đêm ngày vất vả công

Hát dạo phố phường bộ áo xanh
Bên nàng lụa trắng đẹp như tranh
Thì thầm dệt mộng ngày chung lối
Về phép rồi xa lính phải đành

Hát khóc thân anh nhọc chiến trường
Đạn bom pháo lửa chuyện khôn lường
Hy sinh bỏ mạng màu cờ phủ
Bạn tiễn hai hàng khóc tiếc thương

Hát ngỡ ngàng nhìn, ánh mắt ngơ
Nổi trôi vận nước khó ai ngờ
Tinh thần chiến đấu còn anh dũng
Một sớm, một chiều tưởng giấc mơ

Hát thấm rừng sâu lính tội tù
Tương lai chỉ thấy bóng sương mù
Vợ con lệ tủi đời cay đắng
Đợi mãi chồng về nghẹn tiếng ru

Hát ngậm ngùi sầu tủi hận căm
Anh linh tử sĩ đã yên nằm
Hy sinh mạng sống vì non nước
Thương phế thân tàn chịu tháng năm

Đồng Thảo dâng lên tấm nghĩa tình
Đóa Hồng sáng rỡ ánh bình minh
Cô ca ngập tận niềm thương cảm
Mến mộ các anh đậm bóng hình

Văn nghệ chương trình ý nghĩa mang
Bao nhiêu giọng hát góp lời vàng
“Lễ Cha “tháng sáu, ngày “ Quân Lực “
Kỷ niệm một thời …khúc nhạc vang

Minh Thúy Thành Nội

Tháng 6/2024

Lâm Giang Tiên 臨 江 仙 - Dương Thận - 楊慎 (Ngày Quân Lực của VNCH, 19 tháng 6)

 

Kính thưa quý anh,

Hàng năm vào ngày 19 tháng 6 (ngày Quân Lực của VNCH) em vẫn thường xem lại những cuộc diễn hành của QLVNCH thời xưa mà trong lòng cảm khái, nhớ đến bài từ dẫn nhập của truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, tức là bài Lâm Giang Tiên của thi sĩ Dương Thận đời nhà Minh. Kính gửi quý anh một bài em viết trong lúc hồi tưởng lại việc cũ 50 năm trước.

臨 江 仙

滾 滾 長 江 東 逝 水
浪 花 淘 盡 英 雄
是 非 成 敗 轉 頭 空
青 山 依 舊 在
幾 度 夕 陽 紅
白 發 漁 樵 江 渚 上
慣 看 秋 月 春 風
一 壺 濁 酒 喜 相 逢
古 今 多 少 事
都 付 笑 談 中

Phiên âm Hán-Việt

Lâm Giang Tiên (tiên trên bến sông)


Cổn cổn [1] Trường Giang [2] đông thệ [3] thủy
Lãng hoa [4] đào tận [5] anh hùng
Thị phi thành bại chuyển đầu [6] không
Thanh sơn y cựu tại [7]
Kỷ độ tịch dương hồng [8]
Bạch phát ngư tiều giang chử [9] thượng
Quán khan [10] thu nguyệt xuân phong [11]
Nhất hồ trọc tửu [12] hỉ tương phùng
Cổ kim đa thiểu sự [13]
Đô [14] phó tiếu đàm trung

Chú thích:

[1] Cổn: nước chảy ào ào, cuồn cuộn
[2] Trường giang: tức là sông Dương Tử, nơi xảy ra trận Xích Bích quyết liệt thời Tam Quốc.
[3] Thệ: đi không trở lại nữa
[4] Lãng hoa: bọt sóng. Sóng vỗ vào bờ tạo ra bọt nước.
[5] Đào tận anh hùng: gột sạch hết dấu vết anh hùng
[6] Chuyển đầu: ngoảnh đầu (ý nói thời gian nhanh lắm, trong khoảnh khắc)
[7] Non xanh vẫn còn đó
[8] Đã bao lần mặt trời lặn? Ý nói đã bao thời gian trôi qua?
[9] Chử: bến sông
[10] Quán khan (khán): quen thấy, thường thấy
[11] Thu nguyệt xuân phong: trăng thu, gió xuân. Ý muốn nói năm tháng trôi qua.
[12] Trọc tửu: rượu không sang của giới bình dân, tạm dịch là rượu nhạt
[13] Bao nhiêu việc xưa nay
[14] Đô: đều. Câu này dịch nghĩa là (những việc xưa nay) đều gửi trong cuộc nói cười.

Tác giả Dương Thận (楊 慎) là một thiên tài văn chương của Trung Hoa. Tương truyền rằng năm 11 tuổi ông đã biết làm thơ, rất hay. Ông đỗ Trạng Nguyên khoa Tân Mùi (năm Chính Đức thứ 6 đời hoàng đế Minh Vũ Tông) năm mới 23 tuổi. Đến đời Gia Tĩnh thì ông vì làm mất lòng nhà vua nên bị hoàng đế Minh Thế Tông tước quan chức và biếm đi cao nguyên Vân Nam. Ông ngao du ở Vân Nam hơn 30 năm, hết sức sảng khoái. Về sau Minh Thế Tông đã hồi tâm triệu ông về triều 6 lần, nhưng ông nhất định không quay trở về. Ông qua đời vào năm Gia Tĩnh thứ 38. Những hoàng đế nhà Minh về sau như Minh Mục Tông và Minh Hy Tông đều kính phục và truy thăng cho ông.

Bản dịch của cụ Bùi Kỷ.

Trường giang cuồn cuộn chảy về đông
Sóng dập dồn đãi hết anh hùng
Được, thua, phải, trái, thoắt thành không
Non xanh nguyên vẻ cũ
Mấy độ bóng tàn hồng
Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi
Mảnh trăng thanh gió mát vui chơi
Gặp nhau, hồ rượu đầy vơi
Xưa nay bao nhiêu việc
Phó mặc cuộc nói cười.

Bản dịch của cụ Phan Kế Bính.

Than Việc Đời


Cuồn cuộn sông dài nước chảy suôi,
Anh-hùng sóng rập cát vùi.
Dở hay chớp mắt việc qua rồi.
Non xanh trơ vẫn đó,
Trải mấy bóng chiều soi!
Hai chú ngư tiều đầu trắng xóa,
Giăng trong gió mát ưa mùi.
Gập nhau chén rượu chuyện trò vui.
Bao nhiêu việc kim cổ,
Đem bỏ cuộc vui cười.

Hậu học Vũ xuân Hoài phỏng dịch ý bài từ theo thể lục bát


Trường giang nước đổ về đông
Bao năm sóng vỗ, anh hùng mất tang
Thắng thua phút chốc bằng không
Non xanh vẫn đó, tà dương bao lần?
Bên sông đôi bạn bạc đầu
Ngư tiều rượu nhạt gió trăng tháng ngày
Ít nhiều những việc xưa nay
Cũng đều gói trọn trong câu nói cười

Kính,
Hoài

-----===<o0o>===----- 


From: vinh.trang @ Sent: Friday, June 20, 2025 3:50 SA
To: 'Hoai Vu' <hoai.hvu @ >; 'HCD G.' <huy017 @>; 'nang huynh' <nlehuynh @>
Subject: RE: Ngày Quân Lực của VNCH, 19 tháng 6

Kính Anh Đẳng, Anh Năng, Anh Hoài,

Đã lâu, từ thứ hai 16/06/25 đến giờ không thấy email của Anh Đẳng trên QVĐ, không biết Anh Đẳng có bình an không ? Mong Anh Đẳng được mọi sự An Lành.

Anh Hoài thật đa tài. Trong bộ phim Tam Quốc Diễn Nghiã 1994, có bài hát « Nước Trường Giang chảy về đông » (滚滚长江东逝水) dựa theo bài của Dương Thận, là ca khúc mở đầu của bộ phim, và bài « Lịch Sử Đích Thiên Không » (历史的天空) do Vương Kiến sáng tác và Mao A Mẫn hát (1). Tôi rất thích bài nầy. Đây là ca khúc kết thúc bộ phim.


历史的天空             Lịch Sử Đích Thiên Không

暗淡了刀光剑影           Âm đạm liễu đao quang kiếm ảnh
远去了鼓角铮鸣          Viễn khứ liễu cổ giác tranh minh
眼前飞扬着一个个      Nhãn tiền phi dương trước nhất cá cá
鲜活的面容                  Tiên hoạt đích diện dong
湮没了黄尘古道          Nhân một liễu hoàng trần cổ đạo
荒芜了烽火边城          Hoang nguyên liễu phong hỏa biên thành
岁月啊你带不走         Tuế nguyệt a nễ đái bất tẩu
那一串串熟悉的姓名 Na nhất xuyến xuyến thục tất đích tính danh
兴亡谁人定啊              Hưng vong thùy nhân định a
盛衰岂无凭啊             Thịnh suy khởi vô bằng a
一页风云散啊             Nhất hiệt (đầu) phong vân tán a
变幻了时空                 Biến huyễn liễu thì không
聚散皆是缘哪             Tụ tán giai thị duyên na
离合总关情啊             Ly hiệp tổng quan tình a
担当生前事啊             Đảm đương sinh tiền sự a
何计身后评                 Hà kế thân hậu bình
长江有意化作泪         Trường Giang hữu ý hóa tác lệ
长江有情起歌声         Trường Giang hữu tình khởi ca thanh
历史的天空闪烁几颗星 Lịch sử đích thiên không thiểm luyện kỷ khỏa tinh
人间一股英雄气             Nhân gian nhất cổ anh hùng khí
在驰骋纵横                     Tại trì sính tung hoành.

 

(1): Video youtube do Mao A Mẫn hát:
https://www.youtube.com/watch?v=F-AtfMoekds

Đã tắt rồi ánh đao ánh kiếm,
Đã xa rồi tiếng trống tiếng chiêng.
Trước mặt hiện lên rõ ràng,
Những khuôn mặt sống động.
Con đường cát bụi đã được chôn vùi,
Thành quách khói lửa đã thành hoan vu.
Năm tháng ơi!
Người không lấy đi được
Từng vị danh nhân quen thuộc
Hưng vong là ai đã định?
Thịnh suy là bởi cớ nào?
Như gió mây tan ra,
Biến thành hư không.
Tụ tán đều do duyên kiếp,
Ly hợp đều bởi chữ tình.
Đảm nhận chuyện của đời trước,
Sợ gì đời sau bình luận.
Trường Giang tinh ý hóa thành lệ,
Trường Giang tinh ý hát lên bài ca.
Lịch sử bầu trời,
Lấp lánh bao vì sao.
Dũng khí người anh hùng trong nhân gian,
Vẫn rong duổi tung hoành.

(Do nhà lồng tiếng phim dịch?)

Gởi 3 Anh nghe cho dzui.

An Lành.

Kính,

VT.

-----===<o0o>===----- 


From: vinh.trang
Sent: Friday, June 20, 2025 4:33 SA
To: 'Hoai Vu' <hoai.hvu @ any .com>; 'HCD G.' <huy017 @ any .com>; 'nang huynh' <nlehuynh @ any .com>
Subject: RE: Ngày Quân Lực của VNCH, 19 tháng 6

Kính Quý Anh,

Tôi hứng chí, dịch tào lao 5 câu cuối cho vui:

Nước Trường Giang hóa thành sông lệ,
Gió Trường Giang vang mãi lời ca.
Giữa bầu trời lịch sử,
Muôn triệu ánh sao sa.
Trong nhân gian một thuở,
Vẫn vang dũng khí anh hùng.


Kính,

Vinh Trang.

Huỳnh Chiêu Đẳng: Cứ ngở anh Tráng anh Hoài giỏi khoa học ai ngờ lại rất ràng về văn chương chữ nghĩa.

Huỳnh Chiêu Đẳng Biên Soạn


Ủ Giấc Mơ

 

Xướng: 

Ủ Giấc Mơ


Xế bóng nhưng thầm ủ giấc mơ
Thời gian lấp bụi chẳng ơ hờ
Nung lời vẫy mực bài tranh phú
Nhuốm lửa bung trời bút chiến thơ
Mắt quáng quê hương hoài ngóng đợi
Lòng đau đất nước mãi trông chờ
Tinh thần dũng cảm còn hăng hái
Ngẫm nghĩ trăm bề dạ rối tơ

Minh Thúy Thành Nội
Tháng 6/2025
***
Họa:

Tình Nhà Nợ Nước

Năm mươi năm hận ươm niềm mơ
Giấc mộng phục hưng chẳng hững hờ
Đất khách giữ nguồn nung chính khí
Lưu vong nhớ cội dệt hùng thơ
Tâm đồng chia sẻ xây hoài vọng
Ý hợp cùng nhau hẹn đợi chờ
Mạt vận trôi qua cùng dựng lại
Tình nhà nợ nước nối duyên tơ.

Lâm Hoài Vũ
Jun 10 , 2025

Khuê Oán 閨怨 Vương Xương Linh 王昌齡


(Nhân Ngày Quân Lực 19/6 - Bát Sách Biên Soạn)

Lời phi lộ

Hồi ở Việt Nam, Bát Sách có 7 năm lính. Ngày đó Bát Sách còn độc thân, sống rất tự do, thoải mái, chỗ nào cũng là nhà, ở đâu cũng vui. Tuy phóng túng, ham vui và hời hợt, Bát Sách lại rất yếu lòng, nên có những phút nghẹn ngào xúc động mà suốt đời không quên được: đó là lúc thấy những người vợ tay xách, nách mang, lếch thếch từ quê lên thăm chồng mà không gặp, vì chồng đi hành quân; đó là lúc thấy những người vợ nuôi chồng bị thương, ban đêm nằm co quắp dưới chân giường, thao thức; đó là lúc thấy những người vợ trẻ, mặt mày hốc hác, đầu quấn khăn tang, lên nhận xác chồng, nghẹn ngào khóc không ra tiếng ... Nỗi khổ của người lính VNCH sách vở đã nói nhiều, ai cũng biết. Nhân Ngày Quân Lực năm nay, Bát Sách muốn nói đến nỗi khổ của vợ lính, nỗi lòng chinh phụ. Bát Sách vốn mê thơ Đường, nên trích hầu quí vị mấy bài, mong rằng không đến nỗi làm quí vị thất vọng.

Vương Xương Linh

Mở đầu là bài của Vương Xương Linh, có lẽ ai cũng biết:

Nguyên tác             Dịch âm

閨怨                         Khuê Oán

閨中少婦不知愁     Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
春日凝妝上翠樓。 Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu,
忽見陌頭楊柳色, Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
悔教夫婿覓封侯     Hối giao phu tế mịch phong hầu.

王昌齡                    Vương Xương Linh

(Thiếu phụ trong phòng khuê không biết sầu; ngày xuân trang điểm bước lên lầu thúy, chợt thấy màu dương liễu xanh tươi ở đầu đường, hối hận rằng đã khuyên chồng đi tìm ấn phong hầu)

Dịch thơ

Phòng khuê nàng chẳng biết sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu lang thang,
Liễu tươi chợt thấy đầu đàng,
Hối sao lỡ dại khuyên chàng cầu danh.

Bát Sách

Bài này âm điệu nhẹ nhàng, lời thơ trang nhã, quí phái, nỗi buồn của thiếu phụ chỉ thoang thoảng như làn gió xuân lùa qua mái tóc. Bát Sách có cảm tưởng rằng nàng chỉ thấy cô đơn chứ chưa nhớ chồng tha thiết. Trong Chinh Phụ Ngâm, Đặng Trần Côn có mượn 2 câu cuối của bài này mà bà Đoàn thị Điểm dịch như sau:

Chợt ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

Ngày xưa, phương tiện giao thông còn thô sơ, đi bộ, ngựa, hoặc thuyền, làm gì có xe bus, xe lửa, phi cơ như bây giờ. Chồng đi lính thú ở xa, việc đi thăm là thiên nan vạn nan; lại không có điện thoại viễn liên để lâu lâu tỉ tê tâm sự, do đó các nàng chinh phụ chỉ còn cách gặp chàng trong giấc mộng.

Bát Sách dẫn 2 bài thơ Đường nói về giấc mộng của những người vợ trẻ:

伊州歌-春怨  Y Châu ca - Xuân Oán

打起黃鶯兒, Đả khởi hoàng oanh nhi,
莫教枝上啼     Mạc giao chi thượng đề,
啼時驚妾夢, Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西     Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)

金昌緒            Kim Xương Tự

(Hãy đuổi con chim oanh vàng, đừng để nó hót trên cành cây. Khi hót nó làm kinh động giấc mơ của thiếp, làm thiếp không đến được Liêu Tây để gặp chàng)

Trong ấn bản ở Việt Nam, Thầy Trần trọng San mở đầu bài dịch bằng câu: “Đuổi giùm hộ thiếp con oanh”, Bát Sách rất thích. Trong ấn bản mới ở Canada, Thầy đổi lại như sau:

Đuổi giùm đi cái oanh vàng,
Đừng cho nó hót rộn ràng trên cây,
Làm tan vỡ giấc mơ này,
Thiếp không đến được Liêu Tây với chàng.

Bài này lời đẹp, tình ý nhớ nhung thật nhẹ nhàng, ngây thơ, Bát Sách đoán thiếu phụ còn rất trẻ, và con nhà giàu vì ngôn ngữ cử chỉ của nàng vừa nũng nịu, vừa quí phái. Giấc mơ của nàng cũng nhẹ nhàng như lời thơ, không có tha thiết, đam mê như nàng chinh phụ của Trương Trọng Tố trong bài Xuân khuê tứ:

春閨思             Xuân Khuê Tứ

裊裊城邊柳, Niểu niểu thành biên liễu,
青青陌上桑。 Thanh thanh mạch thượng tang,
提籠忘採葉。 Đề lung vong thái diệp,
昨夜夢漁陽。 Tạc dạ mộng Ngư dương.

張仲素            Trương Trọng Tố

(Người chồng đồn trú tại Ngư Dương. Người vợ là một thôn nữ, ngày ngày ra đồng hái dâu nuôi tằm. Hôm nay một mình giữa thiên nhiên bao la, trước phong cảnh hữu tình, nàng lơ đãng quên cả công việc (hái lá dâu) lòng còn ngơ ngẩn vì giấc mộng đêm qua, được tới Ngư Dương gặp chàng …)

Nỗi nhớ nhung của nàng đậm đà hơn, ray rứt hơn, có ngụ ý đến lòng chung thủy và cả tình chăn gối. Bát Sách mê bài này lắm và dịch như sau đây, mượn lời của Kiều và Chinh Phụ Ngâm:

Bên thành tơ liễu thướt tha,
Ngàn dâu xanh ngắt là đà trên nương,
Quên hái lá, dạ vấn vương,
Đêm qua mộng tới Ngư Dương gặp chàng.

Nàng chinh phụ của Trần Ngọc Lan thực tế hơn, không có mộng mị, nhớ thương vớ vẩn, mà thương chồng bằng hành động. Thấy gió tây lạnh lùng thổi, nàng may áo gởi ra biên cương cho chồng. Nàng viết thư mà lệ rơi tầm tã, chỉ sợ áo đến không kịp.

寄夫                         Ký phu

夫戍邊關妾在吳, Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
西風吹妾妾憂夫    Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu,
一行書信千行淚, Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ,
寒到君邊衣到無?   Hàn đáo quân biên, y đáo vô.

陳玉蘭                    Trần Ngọc Lan

(Chồng làm lính thú tại quan ải biên thùy, thiếp ở đất Ngô. Gió tây thổi vào thiếp, thiếp lo lắng cho chồng. Một hàng thư, ngàn hàng lệ. Lạnh đã đến biên cương rồi, áo có đến không?)

Bài này ý tình chan chứa, thật cảm động, nhưng lời thơ thì không được mỹ lệ, bay bướm như mấy bài trước, do đó Bát Sách dịch thoát ý theo thể lục bát cho có vẻ Việt Nam:

Võ vàng em ở đất Ngô,
Anh đi gìn giữ cõi bờ xa xôi,
Gió tây thổi đến tơi bời,
Làm em lo lắng cho người quan san,
Viết thư mà dạ ngổn ngang,
Một hàng thư cả hàng ngàn lệ rơi,
Biên cương giờ đã lạnh rồi,
Áo kia biết kịp đến nơi cho chàng?

Người con gái chỉ có một thời xuân sắc, tựa như đóa hoa phù dung, sớm nở tối tàn ... sự chờ đợi làm da thêm nhăn, mắt thêm quầng, mái tóc bớt mịn màng, óng ả. Mối ưu tư chính của chinh phụ là sự lo sợ cho dung nhan tàn tạ ... Bát Sách xin dẫn 2 bài:

自君之出矣其二 Tự quân chi xuất hỹ kỳ 2

自君之出矣      Tự quân chi xuất hỹ
不復理殘機      Bất phục lý tàn ky (cơ)
思君如滿月,  Tư quân như nguyệt mãn,
夜夜減清輝      Dạ dạ giảm quan huy

張九齡            Trương cữu Linh

(Từ khi chàng ra đi, thiếp không còn sửa sang khung cửi cũ, nhớ chàng như bóng trăng đầy, đêm đêm bớt dần ánh sáng.).

Lúc đầu đọc bài này, Bát Sách thấy ngang dạ vì cách ví von của tác giả: nàng nhớ chàng mà càng ngày càng giảm thì nguy quá, chẳng lẽ xa mặt cách lòng? Nỗi thắc mắc của Bát Sách được gia phụ giải thích như sau: Nàng chinh phụ lúc này đang độ xuân thì, xinh đẹp mỹ miều như trăng tròn. Nếu nàng phải sống cô đơn, mỏi mòn chờ đợi chinh phu thì nhan sắc của nàng sẽ dần tàn phai như mảnh trăng kia, mỗi ngày một khuyết... Nghe ra có vẻ hợp tình, hợp lý. Tại ông thi sĩ họ Trương làm thơ khó, hay tại Bát Sách lờ quờ? Có lẽ tại cả hai. Đây là bản dịch của Bát Sách:

Từ anh cất bước lên đàng
Từ anh cất bước lên đàng
Chiếc khung cửi cũ chẳng màng nhúng tay
Giờ em như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm thương nhớ hao gầy dung nhan.

Trong bài Khuê Tình của Lý Bạch, chinh phụ nói rõ ý hơn: Chàng đi xa em cô đơn, sầu muộn, đến nỗi dệt gấm mà lòng ngổn ngang, khêu đèn mà nước mắt chan hòa. Em tiều tụy đến nỗi soi gương không nhận ra mình, huống hồ khi chàng trở về, liệu có nhận ra em? Có còn yêu em như thuở trước? Đây là 4 câu cuối của bài thơ:
織錦心草草, Chức cẩm tâm thảo thảo,
挑燈淚斑斑。 Khiêu đăng lệ ban ban,
窺鏡不自識, Suy kính bất tự thức,
況乃狂夫還。 Huống nãi cuồng phu hoàn.

閨情李白         Khuê Tình, Lý Bạch

Bát Sách dịch:

Ngồi dệt gấm, dạ ngổn ngang,
Khêu đèn mà lệ dâng tràn lung linh
Soi gương chẳng nhận ra mình
Ngày chàng trở lại, biết tình còn chăng?

Thành thật mà nói, những bài thơ Đường tuy rất hay, nhẹ nhàng, bay bướm và thơ mộng, nhưng không nói được những nỗi vất vả, sự hy sinh, cái tài đảm đang của người chinh phụ, đã thay chồng, một mình quán xuyến việc nhà ... Trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn thị Điểm, chỉ mấy câu mà nói lên được hết những nỗi nhọc nhằn của chinh phụ:

Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân,
Nay một thân nuôi già dạy trẻ

Vả lại cái khổ của vợ lính đâu phải chỉ có sự cô đơn, vất vả, đâu phải chỉ có nhớ thương, đâu phải chỉ có lo nhan sắc tàn phai ... chiến tranh mãnh liệt và tàn khốc quá, tính mạng người lính như chỉ mành treo chuông. Cái khổ nhất của chinh phụ là nỗi thấp thỏm, hoang mang, không biết chồng mình nằm xuống lúc nào!! Khổ nhưng vẫn can đảm chịu đựng, và can đảm chấp nhận sự thật khi bất hạnh xảy đến cho chồng. Bát Sách xin ngã mũ trước những nàng chinh phụ Việt Nam.

Bát Sách

***
Những Bài Thơ Dịch: Khuê Oán -Vương Xương Linh 

Phòng The Hối Hận

Phòng the thiếu phụ chẳng quen sầu,
Xuân đến bâng khuâng đứng trước lầu.
Bỗng thấy cuối đường dương liễu thắm,
Hận khuyên chàng dạo bước công hầu.

Con Cò
***
Tiếng Than Thở Nơi Phòng Khuê.

Phòng the nàng chẳng biết buồn phiền,
Trang điểm, lầu xuân dạo bước lên.
Bỗng thấy bên đường mầu liễu đổi,
Tiếc xui chàng kiếm chút danh quyền.

Mỹ Ngọc  
Jun. 7/2025.
***
Trong phòng khuê thiếu phụ không sầu
Trang điểm ngày xuân bước tới lầu
Chợt thấy bên đường dương liễu thắm
Hối khuyên chồng gắng kiếm công hầu

Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
***
Buồn Hận Khuê Phòng

Khuê phòng vợ trẻ chẳng u sầu
Trang điểm ngày xuân bước tới lầu
Dõi mắt bên bờ nhìn sắc liễu
Tiếc chồng xa cách kiếm công hầu

Thanh Vân
***
Oán Khuê Phòng

1-

Phòng khuê thiếu phụ chẳng u sầu
Trau chuốt ngày xuân bước thúy lâu
Bỗng thấy đầu đường dương liễu biếc
Tiếc chàng nghe thiếp mộng công hầu!

2-

Chẳng u buồn phòng khuê kiều diễm
Lầu hoa xuân trang điểm ngát hương
Nhác trông liễu biếc một phương
Tiếc chàng nghe thiếp lên đường cầu danh

Lộc Bắc
***
Khuê Phòng Oán Than

Phòng khuê nàng chẳng vương sầu
Điểm tô nhan sắc tựa lầu thưởng xuân
Xa trông dương liễu xanh màu
Tiếc xui chàng kiếm tước hầu mà chi.

Kim Oanh
*** 
1.

閨怨-王昌齡       Khuê Oán-Vương Xương Linh

閨中少婦不知愁 Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
春日凝妝上翠樓 Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu
忽見陌頭楊柳色 Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
悔教夫婿覓封侯 Hối giao phu tế mịch phong hầu

Tạm dịch thơ:

Oán Hận Phòng The

Vợ trẻ phòng the chưa biết sầu
Ngày xuân trang điểm xong lên lầu
Đầu bờ chợt thấy liễu xanh thẳm
Hối đã khuyên chồng kiếm tước hầu.

Phóng tác:

Vợ quê tuổi trẻ đã nhiều sầu,
Ngày Tết thăm chồng có gặp đâu.
Chợt thấy bên đường anh hạ sĩ,
Hiên ngang hơi giống gợi niềm đau.

Sorrow of a Young Bride by Wang Chang Ling

In her room,the young bride has not yet learned what sorrow means.
One spring day, while putting on makeup on the upper floor
She advertently noticed the dark green willows on the roadside
And regretted having urged her husband to seek opportunities in the capital.

2.

伊州歌- 金昌緒  Y Châu Ca* - Kim Xương Tự

打起黃鶯兒 Đả khởi hoàng oanh nhi
莫教枝上啼 Mạc giao chi thượng đề
啼時驚妾夢 Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西 Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)

*Còn có tựa là Xuân Oán

Tạm dịch thơ:

Ghét Xuân

Hãy đuổi hoàng oanh này,
Om xòm trên nhánh cây.
Làm cho thiếp tỉnh mộng,
Không đến được Liêu Tây.

Spring Sigh by Jin Chang Xu

Please drive the oriole away
Don't let it sing on the branch
It wakes me up from my sleep
When I dream to visit my husband in Liaoxi

3.

春閨思-張仲素 Xuân Khuê Tứ - Trương Trọng Tố

裊裊城邊柳 Niểu niểu thành biên liễu
青青陌上桑 Thanh thanh mạch thượng tang
提籠忘採葉 Đề lung vong thái diệp
昨夜夢漁陽 Tạc dạ mộng Ngư dương

Tạm dịch thơ:

Ý Nghĩ Mùa Xuân Trong Khuê Phòng

Phất phơ liễu trên cành,
Bên ruộng đám dâu xanh.
Mang giỏ quên hái lá,
Đêm qua thấy Ngư thành.

Thoughts of Spring in the Bedroom by Zhang Zong Su

The willows at the city limit swing in the wind
Next to the mulberry green field
Carrying the basket I forgot to pick the leaves
Last night I dreamt of Yu Yang (where my husband station).

4.

寄夫-陳玉蘭        Ký Phu-Trần Ngọc Lan

夫戍邊關妾在吳 Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
西風吹妾妾憂夫 Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu
一行書信千行淚 Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ
寒到君邊衣到無 Hàn đáo quân biên, y đáo vô

Tạm dịch thơ:

Gởi Cho Chồng

Chàng đóng biên thùy, thiếp ở Đông
Gió Tây thiếp lạnh, thiếp thương chồng
Một hàng thư viết, ngàn dòng lệ
Mùa lạnh đến chàng, áo đến không?

To My Husband by Chen Yu Lan

You station at the frontier, I remain at home in Wu
The western wind chill my body and I think of you
Each line I wrote is accompanied by thousands of tears
The cold weather has already arrived, has the coat I sent you?

5.

自君之出矣其二-張九齡 Tự Quân Chi Xuất Hỹ Kỳ 2 - Trương Cữu Linh

自君之出矣 Tự quân chi xuất hỹ
不復理殘機 Bất phục lý tàn ky (cơ)
思君如滿月 Tư quân như nguyệt mãn,
夜夜減清輝 Dạ dạ giảm quan huy

Toàn Đường Thi có 29 bài thơ với tựa Tự Quân Chi Xuất Hỹ 自君之出矣, bài nào cũng xài câu thơ Tự quân chi xuất hỹ trong câu 1. Trong 29 bài thơ này, chỉ có một bài tứ tuyệt duy nhất của Trương Cửu Linh với tựa là Phú Đắc Tự Quân Chi Xuất Hỹ.

Tạm dịch thơ:

Từ Thuở Chàng Ra Ði

Từ lúc chàng tòng quân
Khung cửi không đến gần
Nhớ chàng như trăng sáng
Đêm đêm lu mờ dần.

From The Time You Left Home by Zhang Jiuling

From the time you left home
I have not touched the loom
I miss you just like the full moon
Loosing its halo night after night.

6.

閨情-李白 Khuê Tình - Lý Bạch

織錦心草草 Chức cẩm tâm thảo thảo
挑燈淚斑斑 Khiêu đăng lệ ban ban
窺鏡不自識 Suy kính bất tự thức
況乃狂夫還 Huống nãi cuồng phu hoàn

Bài ngũ ngôn tứ tuyệt bên trên là 4 câu cuối của bài thơ cổ thể 14 câu.

Tạm dịch thơ:

Dệt gấm dạ long đong,
Khêu đèn lệ ngập tròng.
Soi gương tiều tụy rõ,
Chồng nhận có ra không?

Tôi đồng tình với anh Bình về sự hy sinh cao cả, không kém các nam nhi đã bỏ xác thân ngoài chiến tuyến, của chinh phụ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa.

Cảm hứng bài viết của Bát Sách:

Chinh Phụ VNCH

Ba con một mẹ già,
Chồng lính chiến đồn xa.
Năm tháng chống xâm lược
Khổ đau chẳng nệ hà.

Phí Minh Tâm
***
Bài Dịch Khác:

伊州歌-春怨  Y Châu ca - Xuân Oán

打起黃鶯兒, Đả khởi hoàng oanh nhi,
莫教枝上啼     Mạc giao chi thượng đề,
啼時驚妾夢, Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西     Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)

金昌緒            Kim Xương Tự

Bài Hát Y Châu- Kim Xương Tự

Hãy đuổi chim oanh vàng,
Trên cành đang hót vang.
Làm tan vỡ giấc mộng,
Hết tới Liêu thăm chàng.

Nhớ Xuân Trong Phòng The.
Mơn mởn liễu ngoài nương,
Thắm xanh dâu cạnh đường.
Giỏ mang quên hái lá,
Đêm trước mộng Ngư Dương.

Gửi Chồng,

Thiếp ở Ngô chàng trú ải đông,
Gió Tây thổi lạnh thiếp lo chồng.
Một hàng thư gửi ngàn giòng lệ,
Rét tới bên người aó đến không?

Khuê Tình.

Dệt gấm lòng cỏ rối 
Khêu đèn lệ chan hòa 
Soi gương tự thấy khác 
Chàng về sao nhận ra 

Chàng Ra Đi.

Từ thủa chàng lên đàng,
Khung tơ chẳng sửa sang.
Nhớ chàng như nguyệt tỏ,
Mỗi tối thêm võ vàng.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 8/2025.
***
Góp ý của Quản Mỹ Lan:

Hi anh Bát Sách và các anh chị,

Đọc đến câu: vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai của anh tự nhiên nhớ ngày xưa quá!
Ngày trước ru con và ngày nay ru cháu mà thường thì đến câu 65 thì con hay cháu đã thiu thiu và bà ráng kéo đến câu 72 là hết sức và cũng đi vào giấc ngủ với cháu luôn!
Cũng nhân câu đó nhớ tới một bản nhạc của Y Vân mà từ 75 đến nay không hề được nghe lại.

"Ngày anh xa vắng,
em không trang điểm đợi chờ,
những đêm gió lạnh đầu hè
khuê phòng ủ kín tâm tư... "

Tâm sự não lòng của những người phụ nữ Việt Nam thời chinh chiến, ngay trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 chứ không phải chỉ ở thế kỷ thứ 18, thời Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm.
Vấn kế ông Google thì ông ấy mách cho:
https://nhac.vn/bai-hat/xa-vang-tam-doan-sozQP1N

Vào nghe thì thấy cô Tâm Đoan (tên hay quá: cái tâm đoan chính) hát kiểu như ngày xưa.
Những ai đã học Chinh Phụ Ngâm và nghe Xa Vắng thì chắc không thể không thương những người vợ lính, những người ở hậu phương mòn mõi trông ngóng người chồng đi đánh giặc phương xa. Những người vợ "tâm đoan" quên cả điểm trang vì thương nhớ chồng, không biết bao giờ chàng về hay không bao giờ về nữa vì đã bỏ thây nới chiến địa!

Đất nước Việt Nam đau thương của chúng ta đó! Những người lính đã chiến đấu cho ta có cơ hội ngồi đây, hôm nay... Dành một phút nhớ tới những người chiến sĩ vô danh đã không bao giờ trở về nữa vì họ đã nằm xuống ở một nơi nào đó trên quê hương...

Quản Mỹ Lan
------------
@ Bát Sách hồi âm:

Bát Sách photo2019_LB

ML ơi, Chinh phụ ngâm là nghề của BS mà. Trong phần góp ý của BS, dù đang đi du lịch mà cũng dẫn thơ của Đặng Trần Côn, và Đoàn Thị Điểm, Đái Thúc Luân... Cách đây mấy tháng, học giả Nguyễn Bá Triệu diễn thuyết về Chinh Phụ Ngâm mà tới trễ, BS lên nói khơi khơi, không chuẩn bị gì mà được gần 1 giờ, đem thơ của ông Côn, bà Điểm, thơ Tầu dẫn giải tùm lum, hôm đó có mặt thư ký Lộc Bắc. BS rất hãnh diện về việc này, nên về nhà có viết một bài rất dài về ảnh hưởng của thơ Tầu trong Chinh Phụ Ngâm, phân tích những chỗ hay dở của bản dịch ... Bài này BS đã gửi cho một đồng nghiệp đăng báo, nên không gửi cho nhóm, sợ lộ ra ngoài, bạn mình buồn.

Bát Sách
***
@ Lộc Bắc hỏi BS về kỷ niệm lính, và được Bát Sách trả lời:

Mũ đen một thủa ngang tàng,
Bây giờ như thể lá vàng gặp mưa,
Để đời cho gió đong đưa,
Vẩn vơ ngồi dịch thơ xưa giải sầu.

Bình.
***
Bài Dịch:

Trong lần đầu được thăm nuôi “cải tạo” LB rất vui được mẹ già đến thăm. Buổi tối đó hai mẹ con nói chuyện suốt, sáng mẹ về con nhận được gói quà nhỏ: một hũ mắm ruốc xào sả ớt, một nải chuối, một áo len lính và 2 đồng bạc mới (đủ để mua góc tư gói thuốc lào). Mẹ nói tay mẹ đau không xách được nhiều, nhưng con hiểu và thương mẹ vô cùng!

Những bài viết thêm của Bát Sách đã được chị Mỹ Ngọc và anh Phí Minh Tâm đã xuất thần phỏng dịch hết. Riêng bài Khuê Tình của Lý Bạch chỉ dịch có 4 câu chót như BS trích đoạn. Thư ký xin làm tiếp cho trọn bài

Nguyên tác      Dịch âm

閨情                 Khuê Tình

流水去絕國, Lưu thuỷ khứ tuyệt quốc,
浮雲辭故關。 Phù vân từ cố quan
水或戀前浦, Thuỷ hoặc luyến tiền phố,
雲猶歸舊山。 Vân do quy cựu san.
恨君流沙去, Hận quân Lưu Sa khứ
棄妾漁陽間。 Khí thiếp Ngư Dương gian.
玉箸夜垂流, Ngọc trợ dạ thuỳ lưu,
雙雙落朱顏。 Song song lạc châu nhan.
黃鳥坐相悲, Hoàng điểu toạ tương bi.
綠楊誰更攀。 Lục dương thuỳ cánh phan?
織錦心草草, Chức cẩm tâm thảo thảo,
挑燈淚斑斑。 Khiêu đăng lệ ban ban.
窺鏡不自識, Khuy kính bất tự thức,
況乃狂夫還。 Huống nãi cuồng phu hoàn.

Dịch nghĩa:

Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
Đám phù vân rời cửa ải xưa.
Nước còn lưu luyến bến bờ xưa cũ,
Mây còn trở lại chốn núi xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa,
Bỏ lại thiếp một mình ở Ngư Dương
Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy
Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung.
Ngồi buồn thương cùng chim hoàng oanh,
Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh?
Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời,
Khêu ngọn đèn mà lệ đẫm chứa chan!
Soi gương không còn nhận ra mình nữa,
Huống chi lúc chàng trở về.
(Trích Thi viện)

Phỏng Dịch:

Khuê Tình

1/
Nước trôi lìa cố quốc
Mây nổi rời ải quan
Nước còn thương bờ bến
Mây còn về núi ngàn

Hận chàng Lưu Sa bãi
Bỏ thiếp Ngư Dương làng
Đũa ngọc đêm tuôn tràn
Đôi dòng nhạt dung nhan

Cùng chim ngồi bi thương
Liễu dương ai vin cành?
Dệt gấm lòng tan nát
Khêu đèn lệ chứa chan
Soi gương khôn tự nhận
Huống chi cuồng điên chàng!

2/
Dòng nước chảy dần xa cố quốc
Mây nổi trôi rời trước ải quan
Nước còn lưu luyến bờ tràn
Mây còn trở lại đăng san quê nhà

Sầu hận chàng Lưu Sa chốn nọ
Nơi Lưu Dương chàng bỏ thiếp đây
Đêm đêm đũa ngọc hao gầy
Song song hàng lệ đẫm đầy dung nhan

Cùng chim vàng thở than ngồi ngắm
Cành liễu dương, ai dám uốn cong?
Dệt bức gấm, rối ren lòng
Đèn khuya khêu bấc, lệ hồng phiêu linh
Soi gương chẳng nhận ra mình
Huống chi chàng đã chiến chinh lâu về!

Lộc Bắc
***
Góp ý của HM Giám:

Dị bản: *bất tằng 不曾 = chưa từng
Mộc bản của Đường Nhân Vạn Cú Tuyệt Thủ Tuyển trong Tứ Cố Toàn Thư chỉ cho chữ 知=tri. Hai chữ tri và tằng viết và phát âm khác nhau quá nên không thể bảo rằng người đời sau chép nhầm mà có thể nghĩ rằng ai đó cố ý đổi thơ Vương Xương Linh.


Cũng như trong những bài Đường thi khác với hình ảnh cây liễu, 柳=liễu và 留=lưu là hai từ đồng âm từ thời Trung cổ nên rất có thể rằng khi thiếu phụ lên lầu thấy cây liễu liền liên tưởng đến việc thay vì ngày xưa ta khuyên chàng đi tìm việc phong hầu nếu đã khuyên chàng lưu chân thì biết đâu ngày nay ta không sầu muộn như thế này! Từ làm thiếu phụ đứt ruột có thể là 教=giáo vì giáo hàm ý rằng chính nàng xúi chồng đi; đã xúi người thì giờ biết trách ai!

Viết thêm cho BS.

Những bài thơ BS chọn diễn tả tâm sự người chinh phụ, hay người vợ có chồng đi làm ăn xa, nhưng tâm sự người vợ đơn côi không hẳn phản ảnh tâm sự người tương tư. Phụ nữ Hoa Lục thời cổ cũng như phụ nữ Việt thời Đoàn Thị Điểm thường thành vợ theo lối môn đăng hộ đối và đa số có thể không hề biết mặt chồng tương lai cho tới ngày hợp cẩn. Có bao nhiêu người thành vợ lối đó sẽ được hạnh phúc hôn nhân vì yêu được chồng? Được biết yêu như người vợ trong bài Khuê Oán của Vương Xương Linh có thể hơi ... hiếm!

Ừ thì rằng ta có thể thấy những câu thơ hàm ý tình yêu chồng trong bài thơ Chinh Phụ Ngâm nhưng những câu thơ BS trích chỉ nói đến trách nhiệm người đàn bà làm vợ theo lối tam tòng tứ đức, không phải tâm sự của người vợ đang tưởng nhớ người chồng yêu quý; và có lẽ ta nên nhớ rằng Chinh phụ Ngâm là tâm sự của người chinh phụ Hoa Lục theo cảm nghĩ của tác giả Đặng Trần Côn. Không có cách gì so sánh tâm sự của người chinh phụ với tâm sự của người vợ nhớ chồng được, phải không?

Huỳnh Kim Giám