(Nhân Ngày Quân Lực 19/6 - Bát Sách Biên Soạn)
Lời phi lộ
Hồi ở Việt Nam, Bát Sách có 7 năm lính. Ngày đó Bát Sách còn độc thân, sống rất tự do, thoải mái, chỗ nào cũng là nhà, ở đâu cũng vui. Tuy phóng túng, ham vui và hời hợt, Bát Sách lại rất yếu lòng, nên có những phút nghẹn ngào xúc động mà suốt đời không quên được: đó là lúc thấy những người vợ tay xách, nách mang, lếch thếch từ quê lên thăm chồng mà không gặp, vì chồng đi hành quân; đó là lúc thấy những người vợ nuôi chồng bị thương, ban đêm nằm co quắp dưới chân giường, thao thức; đó là lúc thấy những người vợ trẻ, mặt mày hốc hác, đầu quấn khăn tang, lên nhận xác chồng, nghẹn ngào khóc không ra tiếng ... Nỗi khổ của người lính VNCH sách vở đã nói nhiều, ai cũng biết. Nhân Ngày Quân Lực năm nay, Bát Sách muốn nói đến nỗi khổ của vợ lính, nỗi lòng chinh phụ. Bát Sách vốn mê thơ Đường, nên trích hầu quí vị mấy bài, mong rằng không đến nỗi làm quí vị thất vọng.
Vương Xương Linh
Mở đầu là bài của Vương Xương Linh, có lẽ ai cũng biết:
Nguyên tác Dịch âm
閨怨 Khuê Oán
閨中少婦不知愁 Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
春日凝妝上翠樓。 Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu,
忽見陌頭楊柳色, Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
悔教夫婿覓封侯 Hối giao phu tế mịch phong hầu.
王昌齡 Vương Xương Linh
(Thiếu phụ trong phòng khuê không biết sầu; ngày xuân trang điểm bước lên lầu thúy, chợt thấy màu dương liễu xanh tươi ở đầu đường, hối hận rằng đã khuyên chồng đi tìm ấn phong hầu)
Dịch thơ
Phòng khuê nàng chẳng biết sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu lang thang,
Liễu tươi chợt thấy đầu đàng,
Hối sao lỡ dại khuyên chàng cầu danh.
Bát Sách
Bài này âm điệu nhẹ nhàng, lời thơ trang nhã, quí phái, nỗi buồn của thiếu phụ chỉ thoang thoảng như làn gió xuân lùa qua mái tóc. Bát Sách có cảm tưởng rằng nàng chỉ thấy cô đơn chứ chưa nhớ chồng tha thiết. Trong Chinh Phụ Ngâm, Đặng Trần Côn có mượn 2 câu cuối của bài này mà bà Đoàn thị Điểm dịch như sau:
Chợt ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Ngày xưa, phương tiện giao thông còn thô sơ, đi bộ, ngựa, hoặc thuyền, làm gì có xe bus, xe lửa, phi cơ như bây giờ. Chồng đi lính thú ở xa, việc đi thăm là thiên nan vạn nan; lại không có điện thoại viễn liên để lâu lâu tỉ tê tâm sự, do đó các nàng chinh phụ chỉ còn cách gặp chàng trong giấc mộng.
Bát Sách dẫn 2 bài thơ Đường nói về giấc mộng của những người vợ trẻ:
伊州歌-春怨 Y Châu ca - Xuân Oán
打起黃鶯兒, Đả khởi hoàng oanh nhi,
莫教枝上啼 Mạc giao chi thượng đề,
啼時驚妾夢, Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西 Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)
金昌緒 Kim Xương Tự
(Hãy đuổi con chim oanh vàng, đừng để nó hót trên cành cây. Khi hót nó làm kinh động giấc mơ của thiếp, làm thiếp không đến được Liêu Tây để gặp chàng)
Trong ấn bản ở Việt Nam, Thầy Trần trọng San mở đầu bài dịch bằng câu: “Đuổi giùm hộ thiếp con oanh”, Bát Sách rất thích. Trong ấn bản mới ở Canada, Thầy đổi lại như sau:
Đuổi giùm đi cái oanh vàng,
Đừng cho nó hót rộn ràng trên cây,
Làm tan vỡ giấc mơ này,
Thiếp không đến được Liêu Tây với chàng.
Bài này lời đẹp, tình ý nhớ nhung thật nhẹ nhàng, ngây thơ, Bát Sách đoán thiếu phụ còn rất trẻ, và con nhà giàu vì ngôn ngữ cử chỉ của nàng vừa nũng nịu, vừa quí phái. Giấc mơ của nàng cũng nhẹ nhàng như lời thơ, không có tha thiết, đam mê như nàng chinh phụ của Trương Trọng Tố trong bài Xuân khuê tứ:
春閨思 Xuân Khuê Tứ
裊裊城邊柳, Niểu niểu thành biên liễu,
青青陌上桑。 Thanh thanh mạch thượng tang,
提籠忘採葉。 Đề lung vong thái diệp,
昨夜夢漁陽。 Tạc dạ mộng Ngư dương.
張仲素 Trương Trọng Tố
(Người chồng đồn trú tại Ngư Dương. Người vợ là một thôn nữ, ngày ngày ra đồng hái dâu nuôi tằm. Hôm nay một mình giữa thiên nhiên bao la, trước phong cảnh hữu tình, nàng lơ đãng quên cả công việc (hái lá dâu) lòng còn ngơ ngẩn vì giấc mộng đêm qua, được tới Ngư Dương gặp chàng …)
Nỗi nhớ nhung của nàng đậm đà hơn, ray rứt hơn, có ngụ ý đến lòng chung thủy và cả tình chăn gối. Bát Sách mê bài này lắm và dịch như sau đây, mượn lời của Kiều và Chinh Phụ Ngâm:
Bên thành tơ liễu thướt tha,
Ngàn dâu xanh ngắt là đà trên nương,
Quên hái lá, dạ vấn vương,
Đêm qua mộng tới Ngư Dương gặp chàng.
Nàng chinh phụ của Trần Ngọc Lan thực tế hơn, không có mộng mị, nhớ thương vớ vẩn, mà thương chồng bằng hành động. Thấy gió tây lạnh lùng thổi, nàng may áo gởi ra biên cương cho chồng. Nàng viết thư mà lệ rơi tầm tã, chỉ sợ áo đến không kịp.
寄夫 Ký phu
夫戍邊關妾在吳, Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
西風吹妾妾憂夫 Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu,
一行書信千行淚, Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ,
寒到君邊衣到無? Hàn đáo quân biên, y đáo vô.
陳玉蘭 Trần Ngọc Lan
(Chồng làm lính thú tại quan ải biên thùy, thiếp ở đất Ngô. Gió tây thổi vào thiếp, thiếp lo lắng cho chồng. Một hàng thư, ngàn hàng lệ. Lạnh đã đến biên cương rồi, áo có đến không?)
Bài này ý tình chan chứa, thật cảm động, nhưng lời thơ thì không được mỹ lệ, bay bướm như mấy bài trước, do đó Bát Sách dịch thoát ý theo thể lục bát cho có vẻ Việt Nam:
Võ vàng em ở đất Ngô,
Anh đi gìn giữ cõi bờ xa xôi,
Gió tây thổi đến tơi bời,
Làm em lo lắng cho người quan san,
Viết thư mà dạ ngổn ngang,
Một hàng thư cả hàng ngàn lệ rơi,
Biên cương giờ đã lạnh rồi,
Áo kia biết kịp đến nơi cho chàng?
Người con gái chỉ có một thời xuân sắc, tựa như đóa hoa phù dung, sớm nở tối tàn ... sự chờ đợi làm da thêm nhăn, mắt thêm quầng, mái tóc bớt mịn màng, óng ả. Mối ưu tư chính của chinh phụ là sự lo sợ cho dung nhan tàn tạ ... Bát Sách xin dẫn 2 bài:
自君之出矣其二 Tự quân chi xuất hỹ kỳ 2
自君之出矣 Tự quân chi xuất hỹ
不復理殘機 Bất phục lý tàn ky (cơ)
思君如滿月, Tư quân như nguyệt mãn,
夜夜減清輝 Dạ dạ giảm quan huy
張九齡 Trương cữu Linh
(Từ khi chàng ra đi, thiếp không còn sửa sang khung cửi cũ, nhớ chàng như bóng trăng đầy, đêm đêm bớt dần ánh sáng.).
Lúc đầu đọc bài này, Bát Sách thấy ngang dạ vì cách ví von của tác giả: nàng nhớ chàng mà càng ngày càng giảm thì nguy quá, chẳng lẽ xa mặt cách lòng? Nỗi thắc mắc của Bát Sách được gia phụ giải thích như sau: Nàng chinh phụ lúc này đang độ xuân thì, xinh đẹp mỹ miều như trăng tròn. Nếu nàng phải sống cô đơn, mỏi mòn chờ đợi chinh phu thì nhan sắc của nàng sẽ dần tàn phai như mảnh trăng kia, mỗi ngày một khuyết... Nghe ra có vẻ hợp tình, hợp lý. Tại ông thi sĩ họ Trương làm thơ khó, hay tại Bát Sách lờ quờ? Có lẽ tại cả hai. Đây là bản dịch của Bát Sách:
Từ anh cất bước lên đàng
Từ anh cất bước lên đàng
Chiếc khung cửi cũ chẳng màng nhúng tay
Giờ em như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm thương nhớ hao gầy dung nhan.
Trong bài Khuê Tình của Lý Bạch, chinh phụ nói rõ ý hơn: Chàng đi xa em cô đơn, sầu muộn, đến nỗi dệt gấm mà lòng ngổn ngang, khêu đèn mà nước mắt chan hòa. Em tiều tụy đến nỗi soi gương không nhận ra mình, huống hồ khi chàng trở về, liệu có nhận ra em? Có còn yêu em như thuở trước? Đây là 4 câu cuối của bài thơ:
…
織錦心草草, Chức cẩm tâm thảo thảo,
挑燈淚斑斑。 Khiêu đăng lệ ban ban,
窺鏡不自識, Suy kính bất tự thức,
況乃狂夫還。 Huống nãi cuồng phu hoàn.
閨情李白 Khuê Tình, Lý Bạch
Bát Sách dịch:
Ngồi dệt gấm, dạ ngổn ngang,
Khêu đèn mà lệ dâng tràn lung linh
Soi gương chẳng nhận ra mình
Ngày chàng trở lại, biết tình còn chăng?
Thành thật mà nói, những bài thơ Đường tuy rất hay, nhẹ nhàng, bay bướm và thơ mộng, nhưng không nói được những nỗi vất vả, sự hy sinh, cái tài đảm đang của người chinh phụ, đã thay chồng, một mình quán xuyến việc nhà ... Trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn thị Điểm, chỉ mấy câu mà nói lên được hết những nỗi nhọc nhằn của chinh phụ:
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân,
Nay một thân nuôi già dạy trẻ
Vả lại cái khổ của vợ lính đâu phải chỉ có sự cô đơn, vất vả, đâu phải chỉ có nhớ thương, đâu phải chỉ có lo nhan sắc tàn phai ... chiến tranh mãnh liệt và tàn khốc quá, tính mạng người lính như chỉ mành treo chuông. Cái khổ nhất của chinh phụ là nỗi thấp thỏm, hoang mang, không biết chồng mình nằm xuống lúc nào!! Khổ nhưng vẫn can đảm chịu đựng, và can đảm chấp nhận sự thật khi bất hạnh xảy đến cho chồng. Bát Sách xin ngã mũ trước những nàng chinh phụ Việt Nam.
Bát Sách
***
Những Bài Thơ Dịch: Khuê Oán -Vương Xương Linh
Phòng The Hối Hận
Phòng the thiếu phụ chẳng quen sầu,
Xuân đến bâng khuâng đứng trước lầu.
Bỗng thấy cuối đường dương liễu thắm,
Hận khuyên chàng dạo bước công hầu.
Con Cò
***
Tiếng Than Thở Nơi Phòng Khuê.
Phòng the nàng chẳng biết buồn phiền,
Trang điểm, lầu xuân dạo bước lên.
Bỗng thấy bên đường mầu liễu đổi,
Tiếc xui chàng kiếm chút danh quyền.
Mỹ Ngọc
Jun. 7/2025.
***
Trong phòng khuê thiếu phụ không sầu
Trang điểm ngày xuân bước tới lầu
Chợt thấy bên đường dương liễu thắm
Hối khuyên chồng gắng kiếm công hầu
Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
***
Buồn Hận Khuê Phòng
Khuê phòng vợ trẻ chẳng u sầu
Trang điểm ngày xuân bước tới lầu
Dõi mắt bên bờ nhìn sắc liễu
Tiếc chồng xa cách kiếm công hầu
Thanh Vân
***
Oán Khuê Phòng
1-
Phòng khuê thiếu phụ chẳng u sầu
Trau chuốt ngày xuân bước thúy lâu
Bỗng thấy đầu đường dương liễu biếc
Tiếc chàng nghe thiếp mộng công hầu!
2-
Chẳng u buồn phòng khuê kiều diễm
Lầu hoa xuân trang điểm ngát hương
Nhác trông liễu biếc một phương
Tiếc chàng nghe thiếp lên đường cầu danh
Lộc Bắc
***
Khuê Phòng Oán ThanPhòng khuê nàng chẳng vương sầuĐiểm tô nhan sắc tựa lầu thưởng xuânXa trông dương liễu xanh màuTiếc xui chàng kiếm tước hầu mà chi.Kim Oanh***
1.
閨怨-王昌齡 Khuê Oán-Vương Xương Linh
閨中少婦不知愁 Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
春日凝妝上翠樓 Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu
忽見陌頭楊柳色 Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
悔教夫婿覓封侯 Hối giao phu tế mịch phong hầu
Tạm dịch thơ:
Oán Hận Phòng The
Vợ trẻ phòng the chưa biết sầu
Ngày xuân trang điểm xong lên lầu
Đầu bờ chợt thấy liễu xanh thẳm
Hối đã khuyên chồng kiếm tước hầu.
Phóng tác:
Vợ quê tuổi trẻ đã nhiều sầu,
Ngày Tết thăm chồng có gặp đâu.
Chợt thấy bên đường anh hạ sĩ,
Hiên ngang hơi giống gợi niềm đau.
Sorrow of a Young Bride by Wang Chang Ling
In her room,the young bride has not yet learned what sorrow means.
One spring day, while putting on makeup on the upper floor
She advertently noticed the dark green willows on the roadside
And regretted having urged her husband to seek opportunities in the capital.
2.
伊州歌- 金昌緒 Y Châu Ca* - Kim Xương Tự
打起黃鶯兒 Đả khởi hoàng oanh nhi
莫教枝上啼 Mạc giao chi thượng đề
啼時驚妾夢 Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西 Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)
*Còn có tựa là Xuân Oán
Tạm dịch thơ:
Ghét Xuân
Hãy đuổi hoàng oanh này,
Om xòm trên nhánh cây.
Làm cho thiếp tỉnh mộng,
Không đến được Liêu Tây.
Spring Sigh by Jin Chang Xu
Please drive the oriole away
Don't let it sing on the branch
It wakes me up from my sleep
When I dream to visit my husband in Liaoxi
3.
春閨思-張仲素 Xuân Khuê Tứ - Trương Trọng Tố
裊裊城邊柳 Niểu niểu thành biên liễu
青青陌上桑 Thanh thanh mạch thượng tang
提籠忘採葉 Đề lung vong thái diệp
昨夜夢漁陽 Tạc dạ mộng Ngư dương
Tạm dịch thơ:
Ý Nghĩ Mùa Xuân Trong Khuê Phòng
Phất phơ liễu trên cành,
Bên ruộng đám dâu xanh.
Mang giỏ quên hái lá,
Đêm qua thấy Ngư thành.
Thoughts of Spring in the Bedroom by Zhang Zong Su
The willows at the city limit swing in the wind
Next to the mulberry green field
Carrying the basket I forgot to pick the leaves
Last night I dreamt of Yu Yang (where my husband station).
4.
寄夫-陳玉蘭 Ký Phu-Trần Ngọc Lan
夫戍邊關妾在吳 Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
西風吹妾妾憂夫 Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu
一行書信千行淚 Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ
寒到君邊衣到無 Hàn đáo quân biên, y đáo vô
Tạm dịch thơ:
Gởi Cho Chồng
Chàng đóng biên thùy, thiếp ở Đông
Gió Tây thiếp lạnh, thiếp thương chồng
Một hàng thư viết, ngàn dòng lệ
Mùa lạnh đến chàng, áo đến không?
To My Husband by Chen Yu Lan
You station at the frontier, I remain at home in Wu
The western wind chill my body and I think of you
Each line I wrote is accompanied by thousands of tears
The cold weather has already arrived, has the coat I sent you?
5.
自君之出矣其二-張九齡 Tự Quân Chi Xuất Hỹ Kỳ 2 - Trương Cữu Linh
自君之出矣 Tự quân chi xuất hỹ
不復理殘機 Bất phục lý tàn ky (cơ)
思君如滿月 Tư quân như nguyệt mãn,
夜夜減清輝 Dạ dạ giảm quan huy
Toàn Đường Thi có 29 bài thơ với tựa Tự Quân Chi Xuất Hỹ 自君之出矣, bài nào cũng xài câu thơ Tự quân chi xuất hỹ trong câu 1. Trong 29 bài thơ này, chỉ có một bài tứ tuyệt duy nhất của Trương Cửu Linh với tựa là Phú Đắc Tự Quân Chi Xuất Hỹ.
Tạm dịch thơ:
Từ Thuở Chàng Ra Ði
Từ lúc chàng tòng quân
Khung cửi không đến gần
Nhớ chàng như trăng sáng
Đêm đêm lu mờ dần.
From The Time You Left Home by Zhang Jiuling
From the time you left home
I have not touched the loom
I miss you just like the full moon
Loosing its halo night after night.
6.
閨情-李白 Khuê Tình - Lý Bạch
織錦心草草 Chức cẩm tâm thảo thảo
挑燈淚斑斑 Khiêu đăng lệ ban ban
窺鏡不自識 Suy kính bất tự thức
況乃狂夫還 Huống nãi cuồng phu hoàn
Bài ngũ ngôn tứ tuyệt bên trên là 4 câu cuối của bài thơ cổ thể 14 câu.
Tạm dịch thơ:
Dệt gấm dạ long đong,
Khêu đèn lệ ngập tròng.
Soi gương tiều tụy rõ,
Chồng nhận có ra không?
Tôi đồng tình với anh Bình về sự hy sinh cao cả, không kém các nam nhi đã bỏ xác thân ngoài chiến tuyến, của chinh phụ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa.
Cảm hứng bài viết của Bát Sách:
Chinh Phụ VNCH
Ba con một mẹ già,
Chồng lính chiến đồn xa.
Năm tháng chống xâm lược
Khổ đau chẳng nệ hà.
Phí Minh Tâm
***
Bài Dịch Khác:
伊州歌-春怨 Y Châu ca - Xuân Oán
打起黃鶯兒, Đả khởi hoàng oanh nhi,
莫教枝上啼 Mạc giao chi thượng đề,
啼時驚妾夢, Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西 Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)
金昌緒 Kim Xương Tự
Bài Hát Y Châu- Kim Xương Tự
Hãy đuổi chim oanh vàng,
Trên cành đang hót vang.
Làm tan vỡ giấc mộng,
Hết tới Liêu thăm chàng.
Nhớ Xuân Trong Phòng The.
Mơn mởn liễu ngoài nương,
Thắm xanh dâu cạnh đường.
Giỏ mang quên hái lá,
Đêm trước mộng Ngư Dương.
Gửi Chồng,
Thiếp ở Ngô chàng trú ải đông,
Gió Tây thổi lạnh thiếp lo chồng.
Một hàng thư gửi ngàn giòng lệ,
Rét tới bên người aó đến không?
Khuê Tình.
Dệt gấm lòng cỏ rối
Khêu đèn lệ chan hòa
Soi gương tự thấy khác
Chàng về sao nhận ra
Chàng Ra Đi.
Từ thủa chàng lên đàng,
Khung tơ chẳng sửa sang.
Nhớ chàng như nguyệt tỏ,
Mỗi tối thêm võ vàng.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 8/2025.
***
Góp ý của Quản Mỹ Lan:
Hi anh Bát Sách và các anh chị,
Đọc đến câu: vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai của anh tự nhiên nhớ ngày xưa quá!
Ngày trước ru con và ngày nay ru cháu mà thường thì đến câu 65 thì con hay cháu đã thiu thiu và bà ráng kéo đến câu 72 là hết sức và cũng đi vào giấc ngủ với cháu luôn!
Cũng nhân câu đó nhớ tới một bản nhạc của Y Vân mà từ 75 đến nay không hề được nghe lại.
"Ngày anh xa vắng,
em không trang điểm đợi chờ,
những đêm gió lạnh đầu hè
khuê phòng ủ kín tâm tư... "
Tâm sự não lòng của những người phụ nữ Việt Nam thời chinh chiến, ngay trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 chứ không phải chỉ ở thế kỷ thứ 18, thời Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm.
Vấn kế ông Google thì ông ấy mách cho:
https://nhac.vn/bai-hat/xa-vang-tam-doan-sozQP1N
Vào nghe thì thấy cô Tâm Đoan (tên hay quá: cái tâm đoan chính) hát kiểu như ngày xưa.
Những ai đã học Chinh Phụ Ngâm và nghe Xa Vắng thì chắc không thể không thương những người vợ lính, những người ở hậu phương mòn mõi trông ngóng người chồng đi đánh giặc phương xa. Những người vợ "tâm đoan" quên cả điểm trang vì thương nhớ chồng, không biết bao giờ chàng về hay không bao giờ về nữa vì đã bỏ thây nới chiến địa!
Đất nước Việt Nam đau thương của chúng ta đó! Những người lính đã chiến đấu cho ta có cơ hội ngồi đây, hôm nay... Dành một phút nhớ tới những người chiến sĩ vô danh đã không bao giờ trở về nữa vì họ đã nằm xuống ở một nơi nào đó trên quê hương...
Quản Mỹ Lan
------------
@ Bát Sách hồi âm:
Bát Sách photo2019_LB
ML ơi, Chinh phụ ngâm là nghề của BS mà. Trong phần góp ý của BS, dù đang đi du lịch mà cũng dẫn thơ của Đặng Trần Côn, và Đoàn Thị Điểm, Đái Thúc Luân... Cách đây mấy tháng, học giả Nguyễn Bá Triệu diễn thuyết về Chinh Phụ Ngâm mà tới trễ, BS lên nói khơi khơi, không chuẩn bị gì mà được gần 1 giờ, đem thơ của ông Côn, bà Điểm, thơ Tầu dẫn giải tùm lum, hôm đó có mặt thư ký Lộc Bắc. BS rất hãnh diện về việc này, nên về nhà có viết một bài rất dài về ảnh hưởng của thơ Tầu trong Chinh Phụ Ngâm, phân tích những chỗ hay dở của bản dịch ... Bài này BS đã gửi cho một đồng nghiệp đăng báo, nên không gửi cho nhóm, sợ lộ ra ngoài, bạn mình buồn.
Bát Sách
***
@ Lộc Bắc hỏi BS về kỷ niệm lính, và được Bát Sách trả lời:
Mũ đen một thủa ngang tàng,
Bây giờ như thể lá vàng gặp mưa,
Để đời cho gió đong đưa,
Vẩn vơ ngồi dịch thơ xưa giải sầu.
Bình.
***
Bài Dịch:
Trong lần đầu được thăm nuôi “cải tạo” LB rất vui được mẹ già đến thăm. Buổi tối đó hai mẹ con nói chuyện suốt, sáng mẹ về con nhận được gói quà nhỏ: một hũ mắm ruốc xào sả ớt, một nải chuối, một áo len lính và 2 đồng bạc mới (đủ để mua góc tư gói thuốc lào). Mẹ nói tay mẹ đau không xách được nhiều, nhưng con hiểu và thương mẹ vô cùng!
Những bài viết thêm của Bát Sách đã được chị Mỹ Ngọc và anh Phí Minh Tâm đã xuất thần phỏng dịch hết. Riêng bài Khuê Tình của Lý Bạch chỉ dịch có 4 câu chót như BS trích đoạn. Thư ký xin làm tiếp cho trọn bài
Nguyên tác Dịch âm
閨情 Khuê Tình
流水去絕國, Lưu thuỷ khứ tuyệt quốc,
浮雲辭故關。 Phù vân từ cố quan
水或戀前浦, Thuỷ hoặc luyến tiền phố,
雲猶歸舊山。 Vân do quy cựu san.
恨君流沙去, Hận quân Lưu Sa khứ
棄妾漁陽間。 Khí thiếp Ngư Dương gian.
玉箸夜垂流, Ngọc trợ dạ thuỳ lưu,
雙雙落朱顏。 Song song lạc châu nhan.
黃鳥坐相悲, Hoàng điểu toạ tương bi.
綠楊誰更攀。 Lục dương thuỳ cánh phan?
織錦心草草, Chức cẩm tâm thảo thảo,
挑燈淚斑斑。 Khiêu đăng lệ ban ban.
窺鏡不自識, Khuy kính bất tự thức,
況乃狂夫還。 Huống nãi cuồng phu hoàn.
Dịch nghĩa:
Dòng nước chảy tận miền xa khuất,
Đám phù vân rời cửa ải xưa.
Nước còn lưu luyến bến bờ xưa cũ,
Mây còn trở lại chốn núi xưa.
Giận chàng đi đến Lưu Sa,
Bỏ lại thiếp một mình ở Ngư Dương
Đũa ngọc đêm đêm tuôn chảy
Đôi dòng lệ tràn trên vẻ mặt trẻ trung.
Ngồi buồn thương cùng chim hoàng oanh,
Cây dương liễu xanh kia còn ai vin nhánh?
Dệt bức gấm mà lòng sao rối bời,
Khêu ngọn đèn mà lệ đẫm chứa chan!
Soi gương không còn nhận ra mình nữa,
Huống chi lúc chàng trở về.
(Trích Thi viện)
Phỏng Dịch:
Khuê Tình
1/
Nước trôi lìa cố quốc
Mây nổi rời ải quan
Nước còn thương bờ bến
Mây còn về núi ngàn
Hận chàng Lưu Sa bãi
Bỏ thiếp Ngư Dương làng
Đũa ngọc đêm tuôn tràn
Đôi dòng nhạt dung nhan
Cùng chim ngồi bi thương
Liễu dương ai vin cành?
Dệt gấm lòng tan nát
Khêu đèn lệ chứa chan
Soi gương khôn tự nhận
Huống chi cuồng điên chàng!
2/
Dòng nước chảy dần xa cố quốc
Mây nổi trôi rời trước ải quan
Nước còn lưu luyến bờ tràn
Mây còn trở lại đăng san quê nhà
Sầu hận chàng Lưu Sa chốn nọ
Nơi Lưu Dương chàng bỏ thiếp đây
Đêm đêm đũa ngọc hao gầy
Song song hàng lệ đẫm đầy dung nhan
Cùng chim vàng thở than ngồi ngắm
Cành liễu dương, ai dám uốn cong?
Dệt bức gấm, rối ren lòng
Đèn khuya khêu bấc, lệ hồng phiêu linh
Soi gương chẳng nhận ra mình
Huống chi chàng đã chiến chinh lâu về!
Lộc Bắc
***
Góp ý của HM Giám:
Dị bản: *bất tằng 不曾 = chưa từng
Mộc bản của Đường Nhân Vạn Cú Tuyệt Thủ Tuyển trong Tứ Cố Toàn Thư chỉ cho chữ 知=tri. Hai chữ tri và tằng viết và phát âm khác nhau quá nên không thể bảo rằng người đời sau chép nhầm mà có thể nghĩ rằng ai đó cố ý đổi thơ Vương Xương Linh.
Cũng như trong những bài Đường thi khác với hình ảnh cây liễu, 柳=liễu và 留=lưu là hai từ đồng âm từ thời Trung cổ nên rất có thể rằng khi thiếu phụ lên lầu thấy cây liễu liền liên tưởng đến việc thay vì ngày xưa ta khuyên chàng đi tìm việc phong hầu nếu đã khuyên chàng lưu chân thì biết đâu ngày nay ta không sầu muộn như thế này! Từ làm thiếu phụ đứt ruột có thể là 教=giáo vì giáo hàm ý rằng chính nàng xúi chồng đi; đã xúi người thì giờ biết trách ai!
Viết thêm cho BS.
Những bài thơ BS chọn diễn tả tâm sự người chinh phụ, hay người vợ có chồng đi làm ăn xa, nhưng tâm sự người vợ đơn côi không hẳn phản ảnh tâm sự người tương tư. Phụ nữ Hoa Lục thời cổ cũng như phụ nữ Việt thời Đoàn Thị Điểm thường thành vợ theo lối môn đăng hộ đối và đa số có thể không hề biết mặt chồng tương lai cho tới ngày hợp cẩn. Có bao nhiêu người thành vợ lối đó sẽ được hạnh phúc hôn nhân vì yêu được chồng? Được biết yêu như người vợ trong bài Khuê Oán của Vương Xương Linh có thể hơi ... hiếm!
Ừ thì rằng ta có thể thấy những câu thơ hàm ý tình yêu chồng trong bài thơ Chinh Phụ Ngâm nhưng những câu thơ BS trích chỉ nói đến trách nhiệm người đàn bà làm vợ theo lối tam tòng tứ đức, không phải tâm sự của người vợ đang tưởng nhớ người chồng yêu quý; và có lẽ ta nên nhớ rằng Chinh phụ Ngâm là tâm sự của người chinh phụ Hoa Lục theo cảm nghĩ của tác giả Đặng Trần Côn. Không có cách gì so sánh tâm sự của người chinh phụ với tâm sự của người vợ nhớ chồng được, phải không?
Huỳnh Kim Giám