Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

Xích Bích Hoài Cổ 赤壁懷古 - Đỗ Mục (Vãn Đường)


Đỗ Mục 杜牧 (803-853) tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn Xuyên 樊川, người Vạn Niên, quận Kinh Triệu (nay là Trường An, tỉnh Thiểm Tây). Ông nội Đỗ Hựu vừa là một tể tướng giỏi về lý tài, vừa là một sử gia biên soạn sách Thông điển. Anh là Đỗ Sùng, phò mã, làm đến tiết độ sứ, rồi tể tướng.

Đỗ Mục có dáng dấp thanh tú, tính thích ca nhạc, ưa phóng túng, còn nhỏ đã nổi tiếng văn tài. Khi mới lên kinh sư, được Thái học bác sĩ Ngô Vũ Lăng đưa thư văn đến cho quan chủ khảo là thị lang Thôi Uyển xem. Thôi rất kinh ngạc về bài A Phòng cung phú. Năm 828, hai mươi sáu tuổi, ông đỗ tiến sĩ, lại đỗ luôn khoa chế sách Hiền lương phương chính, được bổ chức hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi ra làm đoàn luyện tuần phủ tại Giang Tây, sau đó đến Hoài Nam làm thơ ký cho tiết độ sứ Ngưu Tăng Nhụ, lại đổi về làm giám sát ngự sử tại Lạc Dương. Năm 835, ông đi chơi Hồ Châu, rồi cứ bị đổi làm thứ sử hết nơi này đến nơi khác (Hoàng Châu, Từ Châu, Mục Châu). Năm 849, ông nhờ một người bạn làm tướng quốc xin cho về thái thú Hồ Châu, sau đổi khảo công lang trung tri chế cáo, và cuối cùng làm Trung thư xá nhân. Tác phẩm có Phàn Xuyên thi tập (20 quyển), chú giải Tôn Vũ binh pháp (13 thiên, do Tào Tháo soạn)

Mời bạn đọc bài này để thấy Nguyễn Du đã mượn câu nào của Đỗ Mục cho Truyện Kiều.

Nguyên tác Dịch âm

赤壁懷古            Xích Bích Hoài Cổ

折戟沉沙鐵未銷 Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
自將磨洗認前朝 Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
東風不與周郎便 Đông phong bất dữ Chu lang tiện
銅雀春深鎖二喬 Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều.

Chú thích:

赤壁 Xích Bích là một khúc sông trên Trường Giang thuộc tỉnh Hồ Bắc. Đời Tam Quốc, Chu Du nhờ gió đông nổi lên mới dùng hoả công đốt cháy các chiến thuyền của Tào Tháo.
周郎 Chu Lang: Tức Chu Du, trong quân gọi là Chu lang.
銅雀 Đồng Tước: Tào Thào xây đài Đồng Tước để dưỡng lão, nền cũ giờ còn ở huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam.
二喬 Nhị Kiều: Tức Đại Kiều, vợ của Tôn Sách, và Tiểu Kiều, vợ của Chu Du. Khi Khổng Minh khích Chu Du đánh Tào Tháo, có nói rằng: “Tào Tháo thường nói xây đài Đồng Tước để khi chiếm được Đông Ngô, sẽ bắt Đại Kiều và Tiểu Kiều về ở đây để mua vui lúc tuổi già”.

Dịch nghĩa

Xích Bích hoài cổ

Mũi kích gãy nằm trong cát, sắt chưa mòn hết,
Tự tay mình mài rũa, đã nhận thấy dấu vết triều đại vừa qua.
Gió đông ví không thuận tiện cho chàng Chu Du,
Thì cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước đã khoá chặt hai nàng Kiều.

Dịch thơ

Xích Bích Hoài Cổ

Mũi kích chìm sâu sắt chửa tiêu,
Tự tay mài dũa nhớ tiền triều.
Gió đông chẳng giúp Chu lang đủ...
Đồng Tước khóa xuân Tiểu Đại Kiều.

Lời bàn:

Đỗ Mục đã dùng hai câu 3 & 4 (Đông phong bất dữ Chu lang tiện, Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều: nếu gió đông không đủ mạnh để giúp Chu lang thì đài Đồng Tước đã khóa xuân hai nàng Kiều của Đông Ngô) để kết thúc một bài thơ vinh lịch sử xuất sắc nhất thế giới. Thường thì thơ vịnh lịch sử rất khô khan (dễ gây nhàm chán), nhưng họ Đỗ đã lãng mạn hóa nó bằng hai câu này.

Nguyễn Du đã mượn câu 4 của bài này trong Truyện Kiều và dịch là“Một đài Đồng Tước khóa xuân hai Kiều”. Ngọn bút của họ Nguyễn tài khéo đến mức khiến độc giả quên hẳn họ Đỗ. Họ Nguyễn cũng đã từng mượn một câu thơ bay bướm nhất Đường thi của Thôi Hộ (Đào hoa y cựu tiếu đông phong: hoa đào như cũ cười với gió đông nhưng ông đã dịch câu này không hoàn hảo (Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông) vì cụm từ năm ngoái đã gây nên ngộ nhận: Hoa đào của năm ngoái (đã khô héo rồi) thì làm sao còn cười với gió đông được nữa? Tổng cộng Nguyễn Du đã mượn hàng trăm câu thơ Hán để tô điểm cho Truyện Kiều. Nếu Truyện Kiều không phải là một tác phẩm sáng tác bất hủ thì nó cũng xứng đáng là một phóng tác kiêm dịch thuật bất hủ.

Con Cò
***
Chuyện xưa Xích Bích

Cát vùi mũi kích vẫn chưa tiêu
Mài kích chùi lau hiện ấn triều
Nếu gió không lùa cho Xích Bích
Hai Kiều, Đồng Tước nhốt đìu hiu

Thanh Vân
***
Thời Tam Quốc, Tào Tháo có xây Đài Đồng Tước vào năm 210, rất xa hoa, tráng lệ để dưỡng già. Đài này cạnh sông Chương Hà, ở Nghiệp Thành, thuộc tỉnh Hà Nam, có 3 lầu, lầu giữa cao nhất, hai lầu bên cạnh thấp hơn, nối với lầu giữa bằng 2 cầu Ngọc Long và Kim Phượng. Đồng Tước Đài Phú của Tào Thực tả như sau:

Lập song đài ư tả hữu hề,
Hữu Ngọc Long dữ Kim Phượng,
Liên nhị kiều ư đông tây hề,
Nhược trường không chi đế đống.

(Lập hai đài phía trái và phải,
Có Ngọc Long và Kim Phượng,
Hai cây cầu nối đông và tây,
Như cầu vồng sáng chói không gian)

Trước khi xẩy ra trận Xích Bích, Đô Đốc nước Ngô là Chu Du còn do dự, thì Vũ Hầu Gia Cát Lượng đã khích Du bằng cách nói về đài Đồng Tước, và sửa đổi 2 câu thơ của Tào Thực thành:

LÃM nhị kiều ư đông NAM hề,
Lạc triêu tịch chi dữ cộng.
(Ngắm, hay bồng bế 2 kiều ở phía đông nam,
Để cùng vui sớm tối.)

Trong bài phú, 橋 kiều là CẦU, viết với bộ mộc; câu của Vũ Hầu, 喬 kiều là họ KIỀU, viết với bộ khẩu.

Hai KIỀU ở phía Đông Nam là Đại KIỀU vợ Tôn Sách, và Tiểu KIỀU vợ Chu Du ở Đông Ngô. Bồng hai nàng KIỀU ở Đông Ngô, cùng vui sớm tối thì Chu Du sao chịu được, phải đánh thôi. Và đã thắng nên mới có bài thơ của Đỗ Mục.

Xích Bích Hoài Cổ

Kích gẫy, cát vùi, sắt chửa tiêu,
Rửa mài nhận dấu biết tiền triều,
Gió đông chẳng giúp Chu Lang được,
Đồng Tước đài xuân nhốt nhị Kiều,

Bát Sách.
(Ngày 29/11/2025)

***
(i) Bài Đồng Tước Đài Phu của Tô Thức: Bài phú này gồm 252 chữ trong 40 câu. Trong phần góp ý bên trên của Bát Sách trích từ câu thứ 11 đến câu 14.

Đổng Tước đài
Nguyên tác:

立雙臺於左右兮,
有玉龍與金鳳。
連二橋於東西兮 / 攬二喬於東南兮,。,
若長空之蝃蝀。 / 樂朝夕之與共

Trích ĐồngTước đài phú, Tô Thức Khổng Minh sửa 2 câu

Phiên âm:

Lập song đài ư tả hữu hề,
Hữu Ngọc Long dữ Kim Phụng.
Liên nhị kiều ư đông tây hề, / Lãm Nhị Kiều ư Đông Nam hề
Nhược trường không chi đế đống / Lạc triêu tịch chi dữ cộng

Phỏng Dịch:

Lập hai đài ở phải trái hề
Có Ngọc Long với Kim Phụng
Nối hai cầu ở đông tây hề /Ẵm hai Kiều ở đông nam hề
Như cầu vồng giữa trời rộng /Vui sớm chiều cùng chung sống

Nhớ Xưa Xích Bích

Giáo gãy cát vùi sắt chửa tiêu
Tự tay mài rửa rõ tiền triều
Gió đông chẳng giúp Chu Du thắng
Đồng Tước thâm nghiêm khóa nhị kiều

Sắt chửa tiêu, giáo chìm cát phủ
Mài rửa xong, triều cũ rõ ràng
Gió đông nếu phụ Chu lang
Khóa xuân Đồng Tước hai nàng Kiều xinh!

Lộc Bắc
Nov25
***

Nguyên tác: Phiên âm:

赤壁*- 杜牧 Xích Bích*- Đỗ Mục

折戟沈沙鐵未銷 Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu
自將磨洗認前朝 Tự tương ma tẩy nhận tiền triều
東風不與周郎便 Đông phong bất dữ Chu Lang tiện
銅雀春深銷二喬 Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều

* Bài thơ trong các sách cổ Trung Hoa có tựa là Xích Bích. Xích Bích Hoài Cổ 赤壁懷古 là tựa của một bài từ điệu Niệm Nô Kiều 念奴嬌 do văn hào Tô Thức viết năm 1082.

Tài Điều Tập - Thục - Vi Hộc 才調集-蜀-韋縠
Tam Thể Đường Thi - Tống - Chu Bật 三體唐詩-宋-周弼
Đường Âm - Nguyên - Dương Sĩ Hoằng 唐音-元-楊士弘
Cổ Thi Kính - Minh - Lục Thì Ung 古詩鏡-明-陸時雍
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi Chú:

Xích Bích: một khúc sông trên Trường Giang thuộc tỉnh Hồ Bắc. Đời Chiến quốc, Chu Du nhờ gió đông nổi lên mới dùng hỏa công đốt cháy các chiến thuyền của Tào Tháo, nay là núi Trì Tế ở phía tây nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc.
Chiết kích: kích bị hỏng; kích là một vũ khí cổ xưa
Nhận tiền triều: công nhận chiết kích là di tích của triều đại Đông Ngô
Chu Lang: là Chu Du, nguyên soái của Đông Ngô
Đồng Tước: lâu đài, trên mái có một con chim tước bằng đồng lớn, do Tào Tháo xây cất ở huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Bắc ngày nay, để vui chơi
Nhị Kiều: là hai con gái của Kiều Công, Đông Ngô. Đại Kiều là vợ của Tôn Sách và Tiểu Kiều là vợ của Chu Du. Khi khích Chu Du đánh Tào Tháo, Khổng Minh có nói rằng: "Tào Tháo thường nói xây đài Đồng Tước để khi chiếm được Đông Ngô, sẽ bắt Đại Kiều và Tiểu Kiều về ở đây để mua vui lúc tuổi già.''

Dịch nghĩa:

Nhớ Chuyện Xưa Xích Bích

Mũi kích gãy chìm trong cát, sắt chưa tiêu mòn hết,
Sau khi tự mình giũa mài đánh bóng, đã nhận thấy dấu vết triều đại qua.
Nếu gió đông không thuận lợi giúp Chu Du trong trận Xích Bích,
Thì có lẻ quân Tào đã thắng và hai nàng Kiều đã bị bắt giữ ở đài Đồng Tước trong mùa xuân đen tối.

Dịch thơ:

Xích Bích

Kích vùi trong cát chưa tiêu,
Giũa mài thấy dấu của triều ngày xưa.
Gió Đông nếu phụ Chu Du.
Chắc Xuân Đồng Tước cũng lưu hai Kiều.

The Purple Cliff by Du Mu
Translation by Witter Bynner:

On part of a spear in the sand still not rusted
I have burnished the symbol of an ancient kingdom...
Except for a wind aiding General Chou Yu,
Spring would have sealed both Ch'iao girls in Copper-Bird Palace.

The Crimson Cliff by Du Mu
Translation by Betty Tseng

Buried deep in the sand are broken lances, have yet rust are their spearheads,
I wash them up and recognise they are from a historic period.
Had the easterlies not blown in General Zhou's favour,
Cao's Tower of Bronze Peacocks would have held hostage the nubile Qiao sisters.

Phí Minh Tâm
***
Góp ý: 

Xích Bích=赤壁 ở đâu?


Xích là đỏ thẩm, bích là vách núi nhưng các bờ Trường Giang vùng nam Vũ Hán bây giờ không nơi nào có vách núi hay bờ sông có màu đỏ. Trường Giang chảy quanh co trong một bình nguyên dưới Vũ Hán và lòng sông đã dời chỗ nhiều lần trong lịch sử, thường sau mỗi lần lũ lụt xói mòn bờ sông, tạo thành những khúc sông chết hình vành móng ngựa (曲=khúc trong tiếng Tàu). Một phần cũng vì thế, các địa danh hai bên bờ Trường Giang cũng đi vào lịch sử, và từ 1350 năm nay các nhà sử học đã tranh luận ồn ào (舌战群儒=thiệt chiến quần nho) về địa điểm Xích Bích. Người ta biết chắc đây không phải là Xích Bích ở Hoàng Châu (黃州) của Tô Đông Pha. Các khai quật khảo cổ gần đây phát hiện những di tích vũ khí thời Hán gần địa danh 蒲圻=Bồ Kì, Hồ Bắc và chính quyền Hoa Lục chính thức đổi tên Bồ Kì thành Xích Bích Thị để lôi cuốn du khách.

Hai chữ 赤壁 trong hình dưới trên bờ sông phía nam của Bồ Kì-Xích Bích Thị đã được biết từ hơn một ngàn năm.

Xích Bích có thật, cho dù chi tiết trận đánh (208-9) thì tùy người kể vì ta không thể tin hoàn toàn chính tác giả Trần Thọ của bộ Tam Quốc Chí nguyên thủy, khỏi cần nói đến các hư cấu của La Quán Trung trong bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa . Hai nhân vật "nhị Kiều" cũng có thật nhưng chuyện Gia Cát Lượng dùng Đổng Tước đài để nói khích Chu Du thì lại là chuyện hư cấu vì Tào Tháo xây đài đó năm 210, sau trận Xích Bích và Tào Thực làm bài phú cho đài năm 212. Trong bài phú đó không có câu nào nói về hai đài Kim Hổ và Băng Tỉnh, hay về nhị Kiều. La Quán Trung chép lại nguyên văn bài phú trong bộ truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa và thêm vào bảy câu (銅雀臺賦). Hai câu mới sau câu 7 của nguyên tác là thế này:

立雙臺於左右兮, 有玉龍與金鳳 lập song đài ư tả hữu hề, hữu ngọc long dữ kim phụng
攬二喬於東南兮, 樂朝夕之與共 lãm nhị Kiều ư đông nam hề, nhạc triêu tịch chi dữ cộng

Theo người ni nghĩ, họ La dùng sự hiểu sai sử liệu của Đỗ Mục để đặt bày hư cấu về việc Khổng Minh nói khích Chu Du. Có hai "tường thuật" khác nhau về chuyện Khổng Minh, Lỗ Túc, và Chu Du bàn luận cách đối phó với Tào Tháo, nhưng không có sử liệu nào nói về vai trò của nhị Kiều hết.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét