Ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas) và Ngày Sinh (Birthday) của Chúa Jesus là một.
Từ thế kỷ thứ 4, chúng ta biết được 2 Ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas) đã được công nhận như là Ngày Sinh của Chúa Jesus:
Ngày 25 Tháng 12 cho Đế Quốc Tây La Mã (Western Roman Empire).
Ngày 6 Tháng 1 ở Miền Đông (đặc biệt là ở Ai Cập và Tiểu Á = Egypt and Asia Minor).
Sau nửa thế kỷ thì hầu hết Miền Đông cũng bắt đầu dùng Ngày 25 tháng 12 cho Ngày Lễ Giáng Sinh và Ngày Sinh của Chúa Jesus.
Ngày nay, Giáo hội Armenia tiếp tục làm Lễ Giáng Sinh (Christmas) vào ngày 6 tháng 1; còn theo những người Kitô Giáo (Christians) trên toàn thế giới, Ngày 25 tháng 12 được dùng làm Ngày Lễ Giáng Sinh, trong khi đó Ngày 6 Tháng 1 trở thành là Ngày Lễ Hiển Linh hay Ngày Lễ Chúa Hiển Linh (the Feast of Epiphany), kỷ niệm sự kiện những Nhà Thông Thái (the Magi) đến Bethlehem gặp Chúa Jesus. Sau này, Giai đoạn giữa 2 Ngày này trong Mùa Lễ (holiday season) được biết là 12 Ngày của Lễ Giáng Sinh (12 Days of Christmas).
Lễ Giáng Sinh
= Lễ Mừng Ngày Sinh của Chúa Jesus “giáng xuống” trần gian.
= Christmas = Christ + Mass = Thánh lễ (Mass) của Christ.
Theo lịch sử, từ Jesus (Giê-su / Gia tô) có một tôn giáo là Christianity.
Là người Do Thái, Jesus được các Tông đồ, cũng là người Do Thái, gọi là "Đấng cứu thế" (savior) mà tiếng Do thái là Messiah. Messiah dịch ra tiếng Hy Lạp là Christo và tiếng La Tinh là Christus, chuyển thành tiếng Anh là Christ.
Christianity là từ Christ (Christo và Christus), có nghĩa là: Tôn giáo của Christ, Đấng cứu rỗi thế gian. Dịch âm thành tiếng Việt của Christo là Kitô và của Christus là Cơ Đốc.
Do đó Christianity được dịch ra tiếng Việt là Kitô giáo hay Cơ Đốc giáo. Theo hiện đại, tác giả dùng từ ngữ "Kitô giáo".
Đến năm 1054, khi Kitô giáo chia ra 2 Giáo hội (Churches) thì 2 Giáo hội chọn 2 tên khác nhau:
Công giáo (Catholicism) và Giáo hội Công giáo (Catholic Church)
Chính Thống giáo (Orthodoxy) và Giáo hội Chính Thống giáo (Orthodox Church).
Lịch sử Công giáo (Catholicism) bắt đầu khi nó còn là Kitô giáo (chung với Chính Thống giáo).
Từ ngữ Đạo Thiên Chúa có được dùng để dịch ra từ Catholicism hay Christianity nhưng đều không chính xác.
Vào thế kỷ thứ 16, sau phong trào Cải Cách (Reformation), có những Giáo phái Kháng Cách (Protestant) tách ra từ Giáo hội Công giáo. Những giáo phái Kháng Cách nầy đã được gọi chung là Đạo Tin Lành vì các giáo phái nầy căn cứ chính trên Phúc Âm (Gospels), dịch Nôm là "Tin Lành" (Good News). Theo hiện đại, tác giả dùng từ ngữ "Kháng Cách".
Dàn bài
Ngày Sinh và Những Ngày Cuối của Chúa Jesus(trang 2)
Ngày 25 Tháng 12 là Ngày Sinh của Chúa Jesus và là Ngày Lễ Giáng Sinh (trang 3).
Ngày 25 Tháng 12 không phải là Ngày Sinh của Chúa Jesus (trang 8)
A. Ngày Sinh và Những Ngày Cuối của Chúa Jesus
*
Sách Phúc Âm của Thánh Kinh không đưa ra manh mối nào về Ngày Sinh của Chúa Jesus, kể cả không nói đến thời gian nào của nó trong năm.
Những tác giả Kitô giáo trong thế kỷ thứ 1 và thứ 2 như Irenaeus (khoảng 130-200) và Tertullian (khoảng 160-225) không hề đề cập đến việc mừng lễ Ngày sinh của Chúa Jesus. Origen of Alexandria còn chế nhạo lễ mừng sinh nhật của người La Mã, thải hồi chúng như là hành vi của người Ngoại giáo (“pagan” practices). Điều này cho thấy, Lễ Giáng Sinh không hề có trong thời gian này.
*
Ngược lại, những Ngày cuối của Chúa Jesus được viết đến rất kỹ lưỡng trong bốn sách Phúc Âm (4 Gospels).
Theo sách Phúc Âm của John, Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá như là những con chiên của Lễ Vượt Qua (Passover) bị hy sinh (sacrificed). Điều này xảy ra trong ngày thứ 14 của tháng Nisan theo lịch của người Hebrew (người Do Thái xưa), ngay trước khi Lễ Vượt Qua của người Do Thái (Jewish) bắt đầu khi mặt trời lặn xuống (coi như là bắt đầu của ngày thứ 15 bởi vì theo lịch của người Hebrew mỗi ngày bắt đầu từ khi mặt trời lặn).
Trong 3 sách Phúc Âm kia, của Matthew, Mark và Luke, Bữa Ăn Tối Cuối Cùng hay Bữa Tiệc Ly (The Last Supper) xảy ra sau khi mặt trời lặn, khi bắt đầu ngày thứ 15, và Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá sau khi trời sáng (buổi sáng), vẫn thuộc ngày thứ 15 (ngày Lễ Vượt Qua).
Lễ Phục Sinh (Easter), có trước Lễ Giáng Sinh (Christmas), theo Kitô giáo là Lễ Vượt Qua (Passover) trên phương diện Sự Thương Khó của Chúa Jesus (Jesus’ Passion) mà thôi.
Kỷ niệm này được nêu lên trong Tân Ước (New Testament): “Con chiên của chúng ta, Christ, đã phải hy sinh (sacrificed). Do đó chúng ta hãy làm lễ mừng…” (1 Corinthians dòng 5:7).
Lễ Phục Sinh được có từ giữa thế kỷ thứ 2 khi theo văn kiện trong sách Epistle to the Apostles, Chúa Jesus đã dạy các tông đồ của ngài “hãy kỷ niệm cái chết của ngài, đó là Lễ Vượt Qua” (make commenmoration of (his) death, that is, the Passover).
Sứ vụ (ministry), những phép lạ (miracles), sự thương khó (Passion) và sự sống lại (Resurrection) của Chúa Jesus là những điểm được để ý đến nhiều nhất trong thế kỷ thứ 1 và đầu thế kỷ thứ 2 của những văn sĩ Kitô giáo.
*
Nguồn gốc của Chúa Jesus theo thời gian bắt đầu được chú trọng đến. Trong thế kỷ thứ 2, sách Infancy Gospel của Thomas và sách Proto-Gospel của James có viết chi tiết về thời thơ ấu của Chúa Jesus. Những sách này đưa ra rất nhiều chi tiết kể cả tên của tổ tiên của Chúa Jesus và sự học hành giáo dục của ngài nhưng không hề cho biết Ngày Sinh của Chúa Jesus.
Cuối cùng, vào khoảng năm 200 (200 C.E.), Clement of Alexandria mới đưa ra nhiều Ngày Sinh của Chúa Jesus được đề nghị từ nhiều nhóm khác nhau. Trong những Ngày Sinh này, không có ai nói đến Ngày 25 Tháng 12.
Đây là những Ngày Sinh chính của Jesus được Clement of Alxandria đưa ra:
Ngày thứ 25 của tháng Pachon trong lịch của Ai Cập (Ngày 20 tháng 5 trong lịch của chúng ta bây giờ)
Ngày thứ 24 của tháng Pharmuthi của lịch Ai Cập (Ngày 20 hay 21 Tháng 4 trong lịch của chúng ta bây giờ).
Cuộc Thương Khó của Chúa Jesus (Passion of Jesus) xảy ra trong năm thứ 16 của Hoàng đế Tiberius và có thể vào 1 trong những Ngày (theo lịch của Ai Cập):
Ngày thứ 25 của tháng Phamenoth (ngày 21 tháng 3 trong lịch của chúng ta).
Ngày thứ 25 của tháng Pharmuthi (ngày 21 tháng 4 trong lịch của chúng ta).
Ngày thứ 19 của tháng Pharmuthi (ngày 15 tháng 4 trong lịch của chúng ta).
B. Ngày 25 Tháng 12 là Ngày Sinh của Chúa Jesus và là Ngày Lễ Giáng Sinh
Từ thế kỷ thứ 2, theo tài liệu của Giáo hội cho thấy rằng tín đồ Kitô giáo có lẽ đã kỷ niệm và lễ mừng Ngày Sinh của Chúa (the birth of the Lord) mặc dù không có sự đồng ý về ngày sinh.
Như vậy tại sao Ngày 25 Tháng 12 được ấn định là Ngày Sinh của Chúa Jesus và là Ngày tổ chức Lễ Giáng Sinh hằng năm.
Có 2 lý thuyết.
Lý thuyết thứ nhất rất được phổ thông và nổi tiếng vì nó đi song song với quyết định chính thức của Giáo hội mặc dù chỉ dựa trên hình thức biểu tượng và bối cảnh văn hóa chứ không dựa trên sự kiện có thật trong lịch sử về Ngày Sinh của Chúa Jesus.
Lý thuyết thứ nhì được đưa ra sau này chỉ là giả thuyết ước định từ vài nhà Thần học. Nó hiếm được biết ngoài vòng trí thức của các học giả Thần học (và rất là cổ điển).
a) Lý thuyết dựa trên hình thức biểu tượng và bối cảnh văn hóa
Năm 336 (336 AD) của thế kỷ thứ 4, trong thời của Hoàng đế La Mã Constantine và Giáo hoàng Julius, từ văn kiện The Chronograph of 354 (còn gọi là Lịch của Filocalus), viết ở Rome:
- Ngày Sinh của Chúa Jesus (Bithday of Jesus) được chính thức ấn định là Ngày 25 Tháng 12 và cũng được ghi nhận đó là Ngày Sinh của Sol Invictus (Thần Mặt Trời Vô Địch = The Invincible Sun) và trùng với Ngày Đông Chí (Winter Solstice).
- Ngày Lễ Giáng Sinh (Date of Christmas) được chính thức ấn định là tổ chức hằng năm vào Ngày 25 Tháng 12:
Trùng với Ngày Đông Chí (Winter solstice) theo truyền thống của Đế quốc La Mã.
Trùng với Ngày Lễ Hội (festival) của Ngày Sinh của Thần Mặt Trời Vô Địch (Dies Natalis Solis Invictus = Birthday of Invincible Sun), được tổ chứa hằng năm bắt đầu từ năm 274 (274 AD) theo lệnh của Hoàng đế La Mã Aurelian (Aurelianus). Lễ Hội dies Natalis Solis Invictus tiếp theo sau giai đoạn 7 ngày của Lễ Saturmalia hay Lễ Hội của Thần Saturn (17 đến 23 tháng 12), mùa lễ vui nhất của Rome, gồm có tiệc tùng, hội họp vui chơi và trao đổi quà. Thần Saturn và Thần Mặt Trời Vô Địch là những vị thần của Ngoại Giáo (Pagan).
Lễ Giáng Sinh = Lễ Mừng Ngày Sinh của Chúa Jesus “giáng xuống” trần gian.
= Christmas = Christ + Mass = Thánh lễ (Mass) của Christ.
Solis Invictus (Solis Invicti)
= Invincible Sun = Thần Mặt Trời Vô Địch
= Unconquered Sun = Thần Mặt Trời Không Kuất phục.
Sự lựa chọn Ngày 25 tháng 12 dựa trên hình thức biểu tượng và bối cảnh văn hóa này có liên quan đến Mặt Trời (the sun), Đông Chí (winter solstice) và sự tôn thờ Thần Mặt Trời (the Sun) rất phổ thông trong thời gian cuối của Đế quốc La Mã.
Giáo hội trong lúc sơ khai thường biểu tượng Chúa Jesus là “Ánh Sáng của Thế gian” (Light of the World). Giáo hội trong thời sơ khai còn liên kết Jesus Christ với “Thần Mặt Trời” (the Sun) và gọi ngài là “Thần Mặt Trời Công Chính” (the Sun of the Righteousness), theo Isaac Newton dẫn từ sách tiên tri Malachi dòng 4:2. Cha của Giáo hội (Church Father) Ambrose (khoảng 339-397) mô tả Christ như là “Mặt Trời chân thật”
Lễ hội Natalis Solis Invictus mừng sự tái sinh của Solis Invictus (Thần Mặt Trời Không Khuất Phục) cũng như đánh dấu sự trở lại của ban ngày dài hơn, tức là có nhiều ánh sáng mặt trời (sun) hơn sau ngày Đông Chí (Winter Solstice). Vào đầu thế kỷ thứ 5, Augustine of Hippo và Maximus of Turin dạy rằng rất đúng đắn khi Lễ mừng (celebrate) Ngày Sinh của Chúa Jesus vào Đông Chí (winter slostice) vì điều này trùng hợp với “khi những giờ của ban ngày bắt đầu tăng lên”.
Giáo sư Gary Forsythe nhận xét rằng Lễ Hội dies Natalis Solis Invicti tiếp theo sau giai đoạn 7 ngày của Lễ Saturmalia hay Lễ Hội của Thần Saturn (17 đến 23 tháng 12), đó là mùa lễ vui và phổ thông nhất của Rome, gồm có tiệc tùng, hội họp vui chơi và trao đổi quà. Những người mọi rợ (barbarian people) của Bắc Âu và Tây Âu cũng có lễ hội này với cùng thời gian.
Natalis Solis Invicti, Invictus còn là Ngày Sinh của Thần Mithra (Indo-European), Thần của ánh sáng và trung thành rất được lính La Mã tôn thờ phổ thông vào lúc đó.
Cho tới khi chấm dứt thế kỷ thứ 4, những Cha của Giáo hội (Church Fathers) như John Chrysostom, Augustine of Hippo và Jerome đều có truyền bá những ấn định về Ngày 25 Tháng 12 này.
Sự lựa chọn này có thể liên quan đến Ngoại giáo (Pagan)
Trước thời gian trị vì của Hoàng đế Constantine, tín đồ Kitô giáo bị đàn áp ngược đãi trong khi Ngoại giáo (Pagan) được chính quyền công nhận do đó Giáo hội và tín đồ Kitô giáo cố tình cô lập đối với Ngoại giáo (pagan).
Đến thời trị vì của Hoàng đế Constantine, Kitô giáo được công nhận, không còn bị ngược đãi đàn áp nữa (persecuted). Chính Hoàng đế Constantine cũng theo Kitô giáo. Việc dùng Ngày của những Lễ hội của Ngoại giáo cho Lễ Giáng Sinh giúp Giáo hội Kitô giáo lôi cuốn nhiều tín đồ Ngoại giáo theo mình là điều hợp lý không chối cãi được. Hơn nữa Giáo hội không hề biết Ngày Sinh của Chúa Jesus vì nó không được ghi trong Phúc Âm của Thánh Kinh cũng như một văn kiện nào của Kitô giáo hay của lịch sử.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng nhiều đặc sắc hiện đại của Lễ Giáng Sinh phản ảnh tục lệ của người ngoại giáo (pagan customs) được vay mượn rất lâu sau đó, khi Kitô Giáo lan truyền vào Bắc Âu và Tây Âu. Thí dụ như Cây Giáng Sinh (Christmas tree) đã có liên hệ với phong tục thời Trung cổ của người Celtics. Nhiều thực hành trong tôn thờ của Kitô giáo kể cả bữa ăn thánh thể (eucharistic meals), tiệc vinh danh thánh tử đạo (martyrs) và nghệ thuật trong tang lễ của Kitô giáo có thể đã dễ hiểu và thông cảm cho những người Ngoại giáo nhìn thấy.
b) Lý thuyết dựa trên Giả thuyết Ước định
*
Lý thuyết thứ nhì là Giả thuyết Ước định (Calculation Hypothesis) chỉ dựa trên Thần học (Theology) chứ không dựa trên Sự kiện và diễn tiến lịch sử như Giả thuyết thứ nhất.
Theo Giải thuyết ước định này, một số nhà Thần học (Theologians) vào lúc đầu tin rằng:
Chúa Jesus được thụ thai cùng ngày với ngày chết của mình, theo truyền thống là Ngày 25 Tháng 3. Cộng thêm đúng 9 tháng của mang thai dẫn tới Ngày 25 Tháng 12 là ngày sinh của ngài. Từ Ngày Sinh được ấn định, Giáo hội dùng cho Ngày Lễ Giáng Sinh.
Ngày Chết (và Ngày Thụ thai) của Chúa Jesus, Ngày 25 Tháng 3, được căn cứ vào Ngày Chết của Chúa Jesus vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover) trong Phúc Âm. Đó là điểm then chốt của giả thuyết này.
Ý niệm này đã được đề ra cho thế giới hiện đại từ học giả người Pháp Louis Duchesne vào cuối thế kỷ 19 (1889) và được phát triển đầy đủ bởi một người Mỹ là Thomas Talley trong những năm gần đây. Tuy nhiên họ chắc chắn không phải là những người đầu tiên để ý đến sự liên kết giữa ngày chết và ngày sinh của Chúa Jesus theo truyền thống.
Thật ra, Giả thuyết này được cho là bắt đầu từ sử gia Kitô giáo người La Mã là Sextus Julius Africanus, vào năm 221.
Vào khoảng năm 200 (200 C.E.), Tertullian of Carthage ước định rằng ngày thứ 14 của tháng Nisan (14th of Nisan) trong lịch của người Hebrew trong năm mà Chúa Jesus chết, đó là ngày Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá (crucifixion) theo sách Phúc Âm của John, thì đúng là ngày 25 tháng 3 (March 25) trong dương lịch của người La Mã (Roman solar calendar).
Từ đó, sử gia Kitô giáo người La Mã là Sextus Julius Africanus, vào năm 221, cho là Chúa Jesus được thụ thai vào ngày 25 tháng 3 này. Ngày 25 tháng 3, dĩ nhiên, là 9 tháng trước ngày 25 tháng 12, mà sau này Ngày 25 tháng 3 này được coi là “Lễ Đức Mẹ Truyền Tin” (the Feast of the Annunciation); kỷ niệm Sự Thụ Thai của Chúa Jesus (Jesus’ conception). Như thế, Chúa Jesus được tin là đã thụ thai và bị đóng đinh trên thập giá trong cùng một ngày. Đúng chín (9) tháng sau đó, Chúa Jesus được sinh ra, vào ngày 25 tháng 12.
Lễ Đức Mẹ Truyền Tin (Feast of Annunciation) là ngày lễ quan trọng của Kitô giáo kỷ niệm Thiên thần Gabriel báo tin cho Đức Trinh Nữ Maria rằng bà sẽ thụ thai và sinh ra Chúa Jesus. Những đồng nghĩa của Lễ Đức Mẹ Truyền Tin là Lễ Truyền Tin, Lễ Kính Đức Minh (tên cũ) hoặc Lễ Công Bố (tên gọi riêng của Công Giáo).
Như vậy, từ Sextus Julius Africanus vào năm 221, Ngày Sinh của Chúa Jesus là Ngày 25 Tháng 12 và sau đó được phổ quát khắp nơi và sau này Lễ Giáng Sinh (Christmas) cũng được Giáo hội và Hoàng đế La Mã ấn định vào ngày này (từ năm 336 của thế kỷ thứ 4).
*
Tuy nhiên, ngoài ra cũng có những ý kiến ủng hộ trong thế kỷ thứ 4.
Ý niệm này cũng xuất hiện trong Bài Luận Kitô giáo (khuyết danh tác giả) tựa đề là On Solstices and Equinoxes (Đông Chí và Xuân Phân) viết vào thế kỷ thứ 4 từ Bắc Phi. Bài Luận viết:
“Như vậy, Chúa của chúng ta (our Lord) được thụ thai vào ngày kalends thứ 8 của “April” trong tháng Ba {25 tháng Ba}, đó là ngày của sự “vượt qua” (passion) của Chúa và của sự thụ thai (conception) của ngài. Do đó trong ngày đó, ngài được thụ thai giống như ngài chịu khổ (suffered)”. Dựa trên đó bài luận cho rằng Ngày sanh của Chúa Jesus là ngày Đông Chí (winter solstice).
Thánh Augustine, cũng cho biết sự hỗn hợp này. Trong sách On the Trinity (khoảng năm 399-419), ngài viết:
“Ngài {Chúa Jesus} được tin là đã thụ thai vào ngày 25 tháng 3, chịu khổ trong ngày đó cũng như (trong) bụng của Đức Mẹ Đồng Trinh (the Virgin) mà ngày đã thụ thai, nơi mà không người chết nào được sinh ra, tương quan với nắm mồ mới (new grave) mà ngài đã bị chôn, trong đó không hề có một người nào nằm trước ngài hay sau ngài. Tuy nhiên ngài được sinh ra vào ngày 25 tháng 12, theo đúng như truyền thống”.
“For he [Jesus] is believed to have been conceived on the 25th of March, upon which day also he suffered; so the womb of the Virgin, in which he was conceived, where no one of mortals was begotten, corresponds to the new grave in which he was buried, wherein was never man laid, neither before him nor since. But he was born, according to tradition, upon December the 25th.”.
*
Ở Miền Đông, ngày thụ thai và chết của Chúa Jesus cũng được liên kết với nhau. Nhưng thay vì dủng ngày thứ 14 của tháng Nisan trong lịch của người Hebrew, những người Miền Đông dùng ngày thứ 14 của tháng đầu tiên của mùa xuân (Artemisios) trong lịch của người Hy Lạp, đó là ngày 6 tháng 4 của chúng ta bây giờ. Ngày 6 tháng 4, dĩ nhiên, đúng là chín tháng trước ngày sinh của Chúa Jesus ngày 6 tháng 1 (tháng giêng) (January 6), cùng ngày mà Miền Đông dùng cho Lễ Giáng Sinh (eastern date for Christmas).
Ở Miền Đông, chúng ta cũng có bằng chứng sự liên hợp của sự thụ thai và việc đóng đinh trên cây thập tự của Chúa Jesus vào tháng 4.
Giám mục Epiphanius of Salamis viết về ngày 6 tháng 4:
Như con chiên bị ém miệng trong bụng (womb) trong sạch của Đức Mẹ Đồng Trinh (Holy virgin), ngài đã và lấy đi tất cả tội lỗi của thế gian trong sự hy sinh vĩnh cửu của mình.
Ngay cả ngày nay, Giáo hội Armenia (Armenian Church) có Lễ Truyền Tin vào đầu tháng 4 (April), vào ngày 7 chứ không phải ngày 6 tháng 4 và Lễ Giáng Sinh (Christmas) vào ngày 6 tháng 1.
*
Như vậy, tín đồ Kitô giáo ở 2 Miền của thế giới đước định Ngày Sanh của Chúa Jesus dựa trên căn bản là ngài chết và được thụ thai trong cùng một ngày (25 tháng 3 hoặc 6 tháng 4) và đưa đến 2 hậu quả gần giống nhau nhưng vẫn khác nhau về Ngày Sinh (25 tháng 12 và 6 tháng 1) vì dùng 2 lịch khác nhau (của người Do Thái cũ và của người Hy Lạp).
*
Liên kết sự việc Chúa Jesus thụ thai và chết theo lối này chắc chắn khó hiểu đối với độc giả hiện đại tân thời nhưng nó phản ảnh sự hiểu biết của thời cổ điển và trung cổ (ancient and medieval) về toàn thể sự cứu rỗi (salvation) được liên kết chung với nhau.
Đức tin này được diễn tả trong nghệ thuật Kitô giáo. Trong nhiều bức họa vẽ về Thiên thần Truyền Tin cho Đức Mẹ Mary, trong lúc Chúa Jesus được thụ thai, “em bé” Jesus được vẽ trượt xuống từ thiên đường trên và với một cây thập tự nhỏ; một hình ảnh nhắc rằng sự thụ thai đem theo lời hứa cho sự cứu rỗi qua cái chết của Chúa Jesus.
Đây là bức họa “Annunciation scene” của Master Bertram (thế kỷ 14): Em bé Jesus bay xuống từ thiên đường trên lưng của một cây thập tự. Sự thụ thai của Chúa Jesus mang hứa cho sự cứu rỗi qua cái chết của ngài.
{Kunsthalle, Hamburg/Bridgeman Art Library, NY}
Ý niệm sự sáng tạo và sự cứu rỗi phải xảy ra trong cùng một năm cũng được phản ảnh trong truyền thống cổ điển của người Do Thái (Jewish), được ghi lại trong kinh Talmud (the Talmud). Kinh Babylonian Talmud giữ lại tranh luận giữa 2 Rabbis vào đầu thế kỷ thứ 2, 2 rabbis nầy có cùng ý kiến như trên, nhưng không đồng ý về ngày tháng.
Rabbi Eliezer cho rằng: “Vào tháng Nisan, thế gian được tạo ra, vào tháng Nisan, các Giáo chủ (Patriarchs) được sinh ra; vào ngày Lễ Vượt Qua (Passover), Isaac được sanh ra… và vào tháng Nisan, tổ tiên của chúng ta sẽ được cứu rỗi trong thời gian sẽ tới”. (Rabbi kia, Joshua, cho rằng những sự kiện này xảy ra trong tháng sau đó, tháng Tishri).
*
Như vậy, Ngày của Lễ Giáng Sinh (Christmas) và Lễ Hiển Linh (Epiphamy) có thể là kết quả của sự phản ảnh của Thần học Kitô giáo về thời khắc biểu: Chúa Jesus có thể đã được thụ thai cùng ngày với ngày chết của ngài, và sinh ra chín tháng sau đó.
Ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas) và Ngày Sinh (Birthday) của Chúa Jesus là một.
Từ thế kỷ thứ 4, chúng ta biết được 2 Ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas) đã được công nhận rộng rãi như là Ngày Sinh của Chúa Jesus:
Ngày 25 Tháng 12 cho Đế Quốc Tây La Mã (Western Roman Empire).
Ngày 6 Tháng 1 ở Miền Đông (đặc biệt là ở Ai Cập và Tiểu Á = Egypt and Asia Minor).
Sau nửa thế kỷ thì hầu hết Miền Đông cũng bắt đầu dùng Ngày 25 tháng 12 cho Ngày Lễ Giáng Sinh và Ngày Sinh của Chúa Jesus.
Ngày nay, Giáo hội Armenia tiếp tục làm Lễ Giáng Sinh (Christmas) vào ngày 6 tháng 1; còn theo những người Kitô Giáo (Christians) trên toàn thế giới, Ngày 25 tháng 12 được dùng làm Ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas), trong khi đó Ngày 6 Tháng 1 trở thành là Ngày Lễ Hiển Linh hay Ngày Lễ Chúa Hiển Linh (the Feast of Epiphany), kỷ niệm sự kiện những Nhà Thông Thái (the Magi) đến Bethlehem gặp Chúa Jesus. Sau này, Giai đoạn giữa 2 Ngày này trong Mùa Lễ (holiday season) được biết là 12 Ngày của Lễ Giáng Sinh (12 Days of Christmas).
C. Ngày 25 Tháng 12 không phải là Ngày Sinh của Chúa Jesus
a) Sự kiện Sinh ra đời của Chúa Jesus từ Phúc Âm
*
Sự chính xác của ngày tháng và năm sanh của Chúa Jesus không có viết trong Thánh Kinh (Bible) hay bất cứ tài liệu lịch sử nào.
Tuy nhiên trong 4 sách Phúc Âm của Cựu Ước của Thánh Kinh (của Matthew, Luke, Mark và John) có 2 sách Phúc Âm (Gospels) từ Luke và từ Matthew viết rõ ràng về sự kiện sinh ra đời của Chúa Jesus.
Sách Phúc Âm của Luke đưa ra chi tiết của sự Truyền Tin (Annunciation) (dòng 1:26-38) với Thiên thần Gabriel thông báo cho bà Mary (Maria) là bà sẽ thụ thai một con trai bởi phép (power) của Đứa Chúa Thánh Thần (Holy Spirit), được có tên là Jesus; và bà Mary đồng ý (consent) “Tôi đây là tôi tớ của Thiên Chúa, cứ để việc xảy ra cho tôi như lời của ngài” (Here am I, the servant of the Lord, let it be with me according to your word).
Bà Mary đang mang thai, đến thăm người bà con là Elizabeth, người đang có thai John the Baptist, trong đoạn Visitation (dòng 1:39-45); sau đó có bài hát khen ngợi rất cảm động của bà Mary, the Magnificat (dòng 1:46-55).
Chương tiếp theo đưa ra manh mối về thời gian sinh của Chúa Jesus, trong lúc có cuộc kiểm tra dân số (census) được tổ chức đương khi Quirinius làm Thống đốc của Syria (dòng 2:2), và ghi chú là Chúa Jesus được để nằm trên máng lừa (sau khi sinh ra) vì không có phương tiện nào khác ở Bethlehem trong lúc đó. Tại đây có câu chuyện những thiên thần (angels) đến gặp những mục đồng (shepherds) ở ngoài đồng, báo tin Đấng Cứu Thế (the Messiah) được sinh ra, và những mục đồng kinh sợ (awstruck) đến thăm con trẻ (Jesus) vào đêm đó (dòng 2:8-20).
Thời sơ sinh (infancy) của Chúa Jesus được kết luận với sự cắt bao bì của dương vật (circumcision) và đặt tên cho Jesus, rồi Chúa Jesus được trình diện tại Đền Thờ Jerusalem, nơi đó, Chúa Jesus gặp trưởng lão Simeon và tiên tri Anna (dòng 2:21-38).
Sách Phúc Âm theo Matthew bắt đầu với gia hệ (genealogy) của Đấng Cứu Thế Jesus (Jesus the Messiah), kiếm dấu vết từ Abraham rồi vua David cho đến Joseph, chồng của bà Mary (dòng 1:1-17).
Sau đó Phúc Âm này kể lại chuyện ông Joseph, đã hứa hôn với bà Mary, được thiên thần hiện ra trong giấc mộng khi đang ngủ cho hay rằng bà Mary đã được thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần (Holy Spirit) giống như lời tiên tri là Chúa Jesus “sẽ cứu dân của ngài khỏi mọi tội lỗi (sins)” (dòng 1:18-25).
Sự sinh ra của Christ được mô tả không khác lắm với Phúc Âm theo Luke.
Chương tiếp theo mô tả chuyến viếng thăm của 3 nhà thông thái hay vua ở phương Đông (the Magi) dẫn đạo bởi Ngôi Sao của Bethlehem (dòng 2:1-12), và cả gia đình của Chúa Jesus (the Holy Family) trốn sang Ai Cập khi vua Herod tàn sát dã man những trẻ vô tội trong việc tìm kiếm một đứa trẻ sẽ là Christ (dòng 2:13-15).
*
Từ những câu chuyện trong Phúc Âm, sự kiện sinh ra đời của Chúa Jesus đem lại những ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh (Christmas), Lễ mừng sự kiện này.
Đối với tín đồ Kitô giáo, Lễ Giáng Sinh (Christmas) là một biến cố đánh dấu rằng Thiên Chúa (God) trở thành con người (human), sinh ra như một con trẻ bơ vơ trong một chuồng gia súc.
Sự Giáng sinh (Incarnation) là thời điểm then chốt trong câu chuyện của sự Cứu Rỗi và được hiểu như là bắt đầu của hành động yêu thương nhân loại trong sự thánh thiện để rồi đưa đến cái chết của Chúa Kitô Cứu Thế (Christ) và sống lại (Resurrection) trong Easter (lễ Phục Sinh).
Sinh ra đời trong khiêm nhường của Chúa Kitô Cứu Thế (Christ) nêu lên nghịch lý (paradox) của sự uy nghiêm thánh thiện (divine majesty), diễn tả qua nhược điểm và sự nghèo nàn của nhân loại.
Dù sao, toàn câu chuyện của về Ngày Sinh của Chúa Jesus và Lễ Giáng Sinh (Christmas) chứa đầy những phép lạ (miracles) và những biểu tượng nghịch lý (paradox): một người nữ đồng trinh mang thai (a pregnant virgin), những mục đồng hèn hạ được dẫn dắt bởi một “đám” thiên thần, và một em bé Do Thái được tặng những quà quý giá từ những vị vua thông thái ngoại đạo của phương Đông (Gentile Magi).
Trên lý thuyết, những sự kiện này chứng minh Chúa Jesus là Đấng Cứu Thế (Messiah) đã được tiên tri và chờ đợi từ lâu, người sẽ đem lại sự cứu chuộc tâm linh (spiritual redemption).
Chúa Jesus cũng được gọi là Emmmanuel trong Phúc Âm theo Matthew (dòng 1:23), có nghĩa là “Chúa ở cùng chúng ta” (God is with us), danh hiệu diễn tả Đức Tin Kitô Giáo (Christian belief), được giữ mãi trong tín đồ, là Thiên Chúa (God) nhập vào thể xác của Con người.
Mùa Lễ Giáng Sinh tràn đầy niềm vui và hy vọng cho tín đồ Kitô Giáo, họ dâng lễ mừng vì Chúa yêu thương và hiện hữu (loving and present) đã cung cấp phương tiện làm lành tội lỗi của nhân loại (sinful humanity) với sự thánh thiện (divine).
b) Ngày 25 tháng 12 không phải là Ngày Sinh của Chúa Jesus
Dựa trên những dữ kiện chi tiết trong Phúc Âm về sự sinh ra đời của Chúa Jesus, sử gia và học giả về Thánh Kinh dùng những sự tương quan trong lịch sử và những bằng chứng trong Thiên văn để phỏng định một thời gian hữu lý về Ngày Sinh của Chúa Jesus.
Từ những sự phỏng định này, chúng ta nhận thấy rằng Ngày 25 tháng 12 không phải là Ngày Sinh của Chúa Jesus, Ngày được dùng cho Ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas). Lý do là Ngày 25 tháng 12 (và Ngày 1 tháng 6) ở vào giữa Mùa Đông trong Năm, nhưng thời gian phỏng định về Ngày Tháng Sinh của Chúa Jesus cho thấy rằng không ở vào Mùa Đông mặc dù có thể xảy ra trong 1 trong 3 Mùa kia (Xuân, Hạ, Thu).
*
Phỏng định Năm Sanh của Chúa Jesus (Year of Birth)
Hầu hết các học giả ấn định Năm Sanh của Chúa Jesus trong khoảng 6 tr CN (6 BC) và 4 tr CN (4 BC).
Thời gia Trị vì (Reign) của Đại đế Herod (Herod the Great): Cả hai sách Phúc Âm (Gospels) của Matthew và Luke cho rằng Chúa Jesus đã được sanh trong Thời gian trị vì của Đại đế Herod. Theo sử gia Josephus, Herod chết vào năm 4 tr CN, có nghĩa là Chúa Jesus phải đã được sanh ra trước năm này (4 tr CN).
Cuộc Kiểm tra Dân số (Census) của Quinirius: Luke (trong sách Phúc Âm của mình) đề cập đến một cuộc Kiểm tra Dân số khi Quinirius là Thống đốc (Governor) của Syria. Theo tài liệu chính thức có 1 cuộc Kiểm tra Dân số năm 6 (6 AD),nhưng có vài học giả cho rằng sự ghi chép bắt đầu xảy ra sớm hơn vào khoảng những năm 6-4 tr CN.
Sự ước định về Sứ mệnh và Giáo vụ (Ministry) của Chúa Jesus: Dòng 3:23 của Phúc Âm của Luke ghi rằng Chúa Jesus “vào khoảng 30 tuổi” khi ngài bắt đầu Sứ mệnh và Giáo vụ (Ministry) trong niên hiệu thứ 15 của Hoàng đế Tiberius Caesar (khoảng 28-19 = c. AD 28-29). Trừ đi 30 năm (không kể Năm 0) thì Năm Sanh của Chúa Jesus từ 2 hay 3 (2 BC or 3 BC).
*
Phỏng định Ngày và Tháng Sanh của Chúa Jesus
Mặc dù Ngày 25 Tháng 12 (December 25) là Ngày Lễ (Day of celebration) theo truyền thống, nó không phải thật sự là Ngày và Tháng Sanh của Chúa Jesus.
Manh mối từ Mùa (seasonal clues): Dòng 2:8 của Phúc Âm của Luke nhắc rằng những mục đồng “luôn phải coi chừng (giữ) đàn cừu về đêm”. Ở Bethlehem, những con cừu theo đúng kiểu thường được giữ ở ngoài đồng trong những tháng nóng (warm), từ mùa xuân cho đến đầu mùa thu, hơn là trong thời tiết lạnh và có mưa của mùa đông.
Thời khắc biểu của những Tu sĩ (the priestly schedule): Từ theo dõi thời gian luân chuyển làm phận sự trong đền thờ của cha của John the Baptist, có nhà khảo cứu phỏng định Chúa Jesus sanh trong mùa thu (tháng 9 hay tháng 10) hoặc trong mùa xuân (tháng 3 hay tháng 4).
Những Sự việc xảy ra trong Thiên văn (Astronomical events): Trong sự tìm hiểu để nhận dạng “Ngôi sao của Bethlehem” (Star of Bethlehem) người ta thấy nó là những biến cố rất hiếm xảy ra trong những ngày sau đây (trong mùa hạ hoặc mùa thu):
Ngày 17 tháng 4, năm 6 tr CN (6 BC): Sự che lấp Sao Jupiter của Mặt Trăng.
Ngày 17 tháng 6, năm 2 tr CN (2 BC): Sự nối tiếp (conjunction) của Venus và Jupiter.
Ngày 11 tháng 9, năm 3 tr CN(3 BC): Sự nối tiếp của Jupiter và sao Regulu
Từ những sự phỏng định này, chúng ta nhận thấy rằng Ngày 25 tháng 12 không phải là Ngày Sinh của Chúa Jesus, Ngày được dùng cho Ngày Lễ Giáng Sinh (Christmas). Lý do là Ngày 25 tháng 12 (và Ngày 1 tháng 6) ở vào giữa Mùa Đông trong Năm, nhưng thời gian phỏng định về Ngày Tháng Sinh của Chúa Jesus cho thấy rằng không ở vào Mùa Đông mặc dù có thể xảy ra trong 1 trong 3 Mùa kia (Xuân, Hạ, Thu).
Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền
Bài viết này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Kitô Giáo.
Tài liệu tham khảo
1) How December 25 Became Christmas (Andrew Mc Gowan - Biblical Archeology Society)
2) Why Is Christmas In December (Britanica)
3) Christmas (Britanica)
4) The Story of Christmas (Britanica)
5) Christmas (Wikipedia)
6) The Date of Jesus Birth (Google Search)
Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét