
(Ảnh: Đỗ Chiêu Đức)
Bài Xướng:
Noel Trăng Mật
Lữ thứ lòng quê mãi vấn vương,
Năm mươi năm cũ lúc lên đường...
Lâm Viên bát ngát thông đưa gió,
Đà Lạt mộng mơ hoa ngát hương.
Trăng mật Giáng sinh tràn hạnh phúc,
Tân hôn dưới thế ngập niềm thương.
Cặp đôi Lục tỉnh hồn bay bổng...
Mật ngọt nhân sinh tuế nguyệt trường!...
Đỗ Chiêu Đức
Noel Trăng Mật
Nhớ tuần trăng mật thỏa tơ vương
Điển tích duyên thơ mộng Đại Đường
Hồng diệp kết giao tình thục nữ (*)
Xích thằng kết hợp sắc thiên hương (*)
Văn chương ông Tú đa thi hứng
Nho nhã ông Đồ nhất dạ thương
Gặp lễ Noel vâng ý Chúa
Trăng thanh mật ngọt suốt đêm trường.
ĐIỂN TÍCH “LÁ THẮM VÀ CHỈ HỒNG”
Trong lương duyên vợ chồng, văn học sử thường dùng 2 điển tích “Lá Thắm và Chỉ Hồng” (Hồng Diệp và Xích Thằng).
* Lá Thắm (Hồng Diệp)
Đời Đường Hy Tông, thư sinh Vu Hựu nhặt được 1 chiếc Lá thắm (lá đỏ) trôi theo dòng nước từ cung vua ra ngoài. Trên chiếc lá đỏ nầy có ghi một bài thơ, có lẽ từ một cung nữ:
Lưu thủy hà thái cấp
Thâm cung tận nhật nhàn
Ân cần tạ hồng diệp*
Hảo khứ đáo nhân gian.
(Trần Trọng San dịch)
Nước chảy sao mà vội
Thâm cung suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian.
Vu Hựu cũng làm 1 bài thơ ghi trên lá đỏ thả theo dòng nước vào cung:
Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng dương cung nữ đoạn trường thì
Quân ân bất cấm đông lưu thủy
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy?
(Trần Trọng San dịch)
Ngắm liễu nghe oanh thoáng cảm hoài
Cung cấm người đương buổi ngậm ngùi
Nước trôi không xiết tâm tình ấy
Trên lá thơ đề gửi đến ai?
Mười năm sau, Đường Hy Tông cho một số cung nữ xuất cung về sống đời thường dân. Hàn Thúy Tần là 1 trong số cung nữ nầy về ở với quyến thuộc và kết duyên với Vu Hựu. Vu Hựu tình cờ khám phá vợ mình có chiếc lá đỏ đề thơ của mình và nàng cũng là tác giả của bài thơ kia.
Nhờ chiếc lá thắm (hồng diệp) như là cái duyên tiền định của 2 người.
Hàn Thúy Tần sau khi thành gia thất với Vu Hựu có làm thêm bài thơ:
Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng thiệp thị lương mai.
(Trần Trọng San dịch)
Đôi câu thơ thả theo làn nước
Tâm sự mười năm chất chứa đầy
Ngày nay đã kết nên loan phượng
Mới hay lá thắm thuận duyên may.
* Chỉ Hồng (Xích Thằng)
Ngoài câu chuyện và những bài thơ về "Lá thắm", còn có câu chuyện về "Chỉ hồng":
Vi Cố gặp 1 ông già xách cái túi đựng chỉ hồng (xích thằng) và có cuốn sách cho biết có tên Vi Cố sẽ kết duyên (nối chỉ hồng) với 1 cô gái nhỏ tuổi con nhà hàng rau rách rưới. Ông già nầy là Nguyệt lão và cuốn sách nầy là Hôn thư. Vi Cố không tin nhưng quả thật nhiều năm sau đó ông lấy vợ chính là cô gái nầy.
Từ đó, văn học Việt Nam có những câu thơ về lương duyên vợ chồng dùng điển cố “Lá thắm và Chỉ hồng”:
Lá hồng ra mối chỉ hồng
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Nhận ra trong lá thơ đề
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Ba sinh cho vẹn mười nguyền
Nhờ tay kim tướng đem duyên xích thằng*
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Sinh vừa tựa liễu nương cây
Lá hồng đâu đã thổi bay tới gần
Mắt coi mới tỏ dần dần
Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu
Trông qua lặng ngắt giờ lâu
Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Dù khi lá thắm chỉ hồng*
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
(Đoạn Trường Tân Thanh)
* Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công Chúa
Năm 1786, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ của nhà Tây Sơn ra Bắc Hà, đem theo 2 ông Vũ Văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh, tấn công chúa Trịnh.
Ông Nguyễn Huệ sai ông Nguyễn Hữu Chỉnh đi trước theo đường biển vào cửa Đại An của sông Đáy theo sông Nam Định đến sông Hồng rồi chiếm kho lương ở Vị Hoàng (vùng đất có khúc sông nhỏ cùng tên chảy từ sông Hồng vào Nam Định). Biết quân chúa Trịnh chưa kịp phòng thủ, ông Nguyễn Huệ theo đường bộ qua Nghệ Tĩnh và Thanh Hóa đến hội ở Vị Hoàng.
Từ Vị Hoàng, quân Tây Sơn đánh bại bộ binh của ông Bùi Thế Dận ở Đông An (gần Hưng Yên?) và đánh bại thủy quân của ông Đinh Tích Nhưỡng ở góc sông Luộc và sông Hồng. Quân Tây Sơn lại thắng quân của chúa Trịnh Tông (Trịnh Khải) và ông Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân (thuộc Thanh Trì, Hà Nội).
Chúa Trịnh Tông chạy về Sơn Tây nhưng bị tên Nguyễn Trang bắt giải về nộp cho Tây Sơn. Chúa Trịnh Tông dùng gươm cắt cổ tự tận. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho tống táng chúa Trịnh Tông và vào Thăng Long chầu vua Lê Hiển Tông.
Sau khi cưới Ngọc Hân Công chúa (con Lê Hiển Tông) rồi Hiển Tông mất và cháu nội là Duy Kỳ lên ngôi là vua Lê Chiêu Thống, ông Nguyễn Huệ và Vũ Văn Nhậm về Phú Xuân (Huế) và để ông Nguyễn Hữu Chỉnh giữ Nghệ An.
Người Bắc Hà không thích cuộc hôn nhân nầy giữa ông Nguyễn Huệ và Công chúa Ngọc Hân. Ông Nguyễn Thì Thấu (con của Nguyễn Thế, đã từng là quân sư của Hoàng tử Lê Duy Mật chống lại Chúa Trịnh) có làm bài "Kỹ thuật thời sự", trong đó có những câu thơ nói về Công chúa Ngọc Hân trong hôn nhân nầy:
Ngựa thồ thay mối xích thằng*
Ông Tơ bà Nguyệt dẫu giằng, chẳng ra
Một ngày một vắng quê nhà
Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trong.
Bs Phan Thượng Hải biên soạn
Bài Xướng:
Noel Trăng Mật
Lữ thứ lòng quê mãi vấn vương,
Năm mươi năm cũ lúc lên đường...
Lâm Viên bát ngát thông đưa gió,
Đà Lạt mộng mơ hoa ngát hương.
Trăng mật Giáng sinh tràn hạnh phúc,
Tân hôn dưới thế ngập niềm thương.
Cặp đôi Lục tỉnh hồn bay bổng...
Mật ngọt nhân sinh tuế nguyệt trường!...
Đỗ Chiêu Đức
12/25/24
***
Bài Họa:Noel Trăng Mật
Nhớ tuần trăng mật thỏa tơ vương
Điển tích duyên thơ mộng Đại Đường
Hồng diệp kết giao tình thục nữ (*)
Xích thằng kết hợp sắc thiên hương (*)
Văn chương ông Tú đa thi hứng
Nho nhã ông Đồ nhất dạ thương
Gặp lễ Noel vâng ý Chúa
Trăng thanh mật ngọt suốt đêm trường.
Phan Thượng Hải
4/8/25
(*) Chú thích:
ĐIỂN TÍCH “LÁ THẮM VÀ CHỈ HỒNG”
Trong lương duyên vợ chồng, văn học sử thường dùng 2 điển tích “Lá Thắm và Chỉ Hồng” (Hồng Diệp và Xích Thằng).
* Lá Thắm (Hồng Diệp)
Đời Đường Hy Tông, thư sinh Vu Hựu nhặt được 1 chiếc Lá thắm (lá đỏ) trôi theo dòng nước từ cung vua ra ngoài. Trên chiếc lá đỏ nầy có ghi một bài thơ, có lẽ từ một cung nữ:
Lưu thủy hà thái cấp
Thâm cung tận nhật nhàn
Ân cần tạ hồng diệp*
Hảo khứ đáo nhân gian.
(Trần Trọng San dịch)
Nước chảy sao mà vội
Thâm cung suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian.
Vu Hựu cũng làm 1 bài thơ ghi trên lá đỏ thả theo dòng nước vào cung:
Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng dương cung nữ đoạn trường thì
Quân ân bất cấm đông lưu thủy
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy?
(Trần Trọng San dịch)
Ngắm liễu nghe oanh thoáng cảm hoài
Cung cấm người đương buổi ngậm ngùi
Nước trôi không xiết tâm tình ấy
Trên lá thơ đề gửi đến ai?
Mười năm sau, Đường Hy Tông cho một số cung nữ xuất cung về sống đời thường dân. Hàn Thúy Tần là 1 trong số cung nữ nầy về ở với quyến thuộc và kết duyên với Vu Hựu. Vu Hựu tình cờ khám phá vợ mình có chiếc lá đỏ đề thơ của mình và nàng cũng là tác giả của bài thơ kia.
Nhờ chiếc lá thắm (hồng diệp) như là cái duyên tiền định của 2 người.
Hàn Thúy Tần sau khi thành gia thất với Vu Hựu có làm thêm bài thơ:
Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng thiệp thị lương mai.
(Trần Trọng San dịch)
Đôi câu thơ thả theo làn nước
Tâm sự mười năm chất chứa đầy
Ngày nay đã kết nên loan phượng
Mới hay lá thắm thuận duyên may.
* Chỉ Hồng (Xích Thằng)
Ngoài câu chuyện và những bài thơ về "Lá thắm", còn có câu chuyện về "Chỉ hồng":
Vi Cố gặp 1 ông già xách cái túi đựng chỉ hồng (xích thằng) và có cuốn sách cho biết có tên Vi Cố sẽ kết duyên (nối chỉ hồng) với 1 cô gái nhỏ tuổi con nhà hàng rau rách rưới. Ông già nầy là Nguyệt lão và cuốn sách nầy là Hôn thư. Vi Cố không tin nhưng quả thật nhiều năm sau đó ông lấy vợ chính là cô gái nầy.
Từ đó, văn học Việt Nam có những câu thơ về lương duyên vợ chồng dùng điển cố “Lá thắm và Chỉ hồng”:
Lá hồng ra mối chỉ hồng
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Nhận ra trong lá thơ đề
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Ba sinh cho vẹn mười nguyền
Nhờ tay kim tướng đem duyên xích thằng*
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Sinh vừa tựa liễu nương cây
Lá hồng đâu đã thổi bay tới gần
Mắt coi mới tỏ dần dần
Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu
Trông qua lặng ngắt giờ lâu
Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người
(Bích Câu Kỳ Ngộ)
Dù khi lá thắm chỉ hồng*
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
(Đoạn Trường Tân Thanh)
* Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công Chúa
Năm 1786, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ của nhà Tây Sơn ra Bắc Hà, đem theo 2 ông Vũ Văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh, tấn công chúa Trịnh.
Ông Nguyễn Huệ sai ông Nguyễn Hữu Chỉnh đi trước theo đường biển vào cửa Đại An của sông Đáy theo sông Nam Định đến sông Hồng rồi chiếm kho lương ở Vị Hoàng (vùng đất có khúc sông nhỏ cùng tên chảy từ sông Hồng vào Nam Định). Biết quân chúa Trịnh chưa kịp phòng thủ, ông Nguyễn Huệ theo đường bộ qua Nghệ Tĩnh và Thanh Hóa đến hội ở Vị Hoàng.
Từ Vị Hoàng, quân Tây Sơn đánh bại bộ binh của ông Bùi Thế Dận ở Đông An (gần Hưng Yên?) và đánh bại thủy quân của ông Đinh Tích Nhưỡng ở góc sông Luộc và sông Hồng. Quân Tây Sơn lại thắng quân của chúa Trịnh Tông (Trịnh Khải) và ông Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân (thuộc Thanh Trì, Hà Nội).
Chúa Trịnh Tông chạy về Sơn Tây nhưng bị tên Nguyễn Trang bắt giải về nộp cho Tây Sơn. Chúa Trịnh Tông dùng gươm cắt cổ tự tận. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho tống táng chúa Trịnh Tông và vào Thăng Long chầu vua Lê Hiển Tông.
Sau khi cưới Ngọc Hân Công chúa (con Lê Hiển Tông) rồi Hiển Tông mất và cháu nội là Duy Kỳ lên ngôi là vua Lê Chiêu Thống, ông Nguyễn Huệ và Vũ Văn Nhậm về Phú Xuân (Huế) và để ông Nguyễn Hữu Chỉnh giữ Nghệ An.
Người Bắc Hà không thích cuộc hôn nhân nầy giữa ông Nguyễn Huệ và Công chúa Ngọc Hân. Ông Nguyễn Thì Thấu (con của Nguyễn Thế, đã từng là quân sư của Hoàng tử Lê Duy Mật chống lại Chúa Trịnh) có làm bài "Kỹ thuật thời sự", trong đó có những câu thơ nói về Công chúa Ngọc Hân trong hôn nhân nầy:
Ngựa thồ thay mối xích thằng*
Ông Tơ bà Nguyệt dẫu giằng, chẳng ra
Một ngày một vắng quê nhà
Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trong.
Bs Phan Thượng Hải biên soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét