Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Phan Thanh Giản - Nỗi Oan 40 năm


THÂN THẾ PHAN THANH GIẢN
Phan Thanh Giản sinh Giờ Thìn, Ngày 12 tháng Mười, Bính Thìn (1796), đời Lê Cảnh Hưng; mất vào đêm mồng Bốn rạng ngày mồng Năm tháng 7 năm Đinh Mão (1867) sau khi tuyệt thực 17 ngày rồi uống thuốc độc tự vẫn; hưởng tho 72 tuổi. Linh cữu an táng tại làng Bảo Thạnh,Ba tri Bến Tre.
 Phan Thanh Giản lấy tên tự  là Tịnh Bá và Đạm; hiệu là Lương Khê; biệt hiệu là Mai Xuyên. Sau khi thi đậu, cụ cưới vợ người đầu tiên người làng Cần Giuộc. Bà này mất, cụ tục huyền với bà Trần Thị Hoạch ở Quảng Trị và đưa vợ về Kiến Hòa để lo phụng dưỡng cha mẹ. Trong dịp này, cụ làm một bài thơ để tạ ơn vợ đã thay cụ báo hiếu cha mẹ.

 Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
 Lòng này ghi tạc có non sông
 Đường mây cười tớ ham dong ruổi
 Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng
 Ơn nước, nợ trai đành nỗi bận
 Cha già, nhà khó, cậy nhau cùng
 Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt
 Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng
(tham khảo: Vĩnh Long Xưa và Nay của Huỳnh Minh, 1967)

 Tương truyền tổ phụ cụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu là Ngẫu Cừ, sống dưới đời Nhà Minh.Sau đó Phan Thanh Tập di cư sang Việt Nam cư ngụ tại Phủ Hoài Sơn, Bình Định. Phan Thanh Tập có một con trai là Phan Thanh Ngạn tục kêu là Xán. Năm 1771, gia đình ông Ngạn di vào Nam, ngụ ở Thanh Trông, Định Tường. Sau dời về Mân Thích, Vĩnh Thanh, Vĩnh Long; rồi lại dời về Huyện Bảo An, Hoằng Trị, Vĩnh Long. Cuối cùng, ông lại dời về thôn An Hòa, Tân Thạnh, Vĩnh Bình., phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thạnh; nay là xã Bảo Thạnh, Ba Tri, Bến Tre. Ông cưới vợ là bà Lâm Thị Bút sinh hạ ra Phan Thanh Giản. Năm 1802, Phan Thanh Giản được 7 tuổi thì bà mẹ qua đời. Bà mẹ kế là bà Trần Thị Dưỡng rất yêu quý ông và cho ông thụ giáo với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi. Năm 1815, cha của Phan Thanh Giản bị tù oan. Phan Thanh Gian xin với quan cho ông được ở tù thế cho cha. Quan không thể giúp được nhưng tạo cơ hội cho ông ở gần cha và trau giồi kinh sử. Sau khi cha mãn tù, Phanh Thanh Giản ở lại Vĩnh Long tiếp tục học để tạo sự nghiệp.

SỰ NGHIỆP
 Năm 1825, cụ đậu Cử Nhân Khoa Ất Dậu.Năm sau, cụ đậu Đệ Tam Giáp đồng Tiến Sĩ. Cụ là người đậu Tiến Sĩ khai khoa ở Nam Bộ. Cụ từng giữ nhiều chức vụ: dưới ba triều Minh Mạnh, Thiệu Trị, và Tự Đức: Lang Trung Bộ Hình, Tham Hiệp Quảng Bình và Giám Khảo Thi Hương Thừa Thiên; Hiệp Trấn Quảng Nam, Hàn Lâm Viện, Phó Sứ sang Nhà Thanh, Đại Lý Tự Khanh Cơ Mật Viện, Kinh Lược Trấn Tây, Bố Chánh Tỉnh Quảng Nam, Hộ Lý Tuần Phủ Quan Phòng, Nội các Thừa Chỉ, Tả Thị Lang Bộ Hộ, Thị Lang Bộ Hộ, Binh Bộ Tả Thị Lang, Tham Tri Bộ Binh, Chánh Chủ Khảo Trường Thi Hà Nội, Hình Bộ Thượng Thư, Lại Bộ Thượng Thư, Kinh Lược Sứ, Nam Kỳ Kinh Lược Phó Sứ, Gia Định Tuần Vũ (coi giữ Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, và Hà Tiên), Chánh Tổng Tài Quốc Sử Quán biên soạn bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc Tử Giám Sự Vụ, được cử đi sứ tại Pháp, Trung Hoa, và nhiều nước khác. Năm 1852, Vua Tự Đức ban cho cụ tấm kim khánh khắc “Liêm, Bình, Cẩn, Cán” [Ngay Thật, Công Bằng, Cẩn Thận, Siêng Năng].
 Ngày 4 tháng Ba, năm 1863, để tìm cách chuộc lại 3 tỉnh Miền Đông, Vua Tự Đức bèn cử Phan Thanh Giản dẫn đầu phái đoàn đáp Tầu L'Européen qua Pháp điều đình với Hoàng Đế Napoleon III. Cùng đi với cụ Phan có Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, và 53 tùy viên trong đó có Trương Vĩnh Ký làm thông dịch viên. 
Trước khi lên đường, cụ Phan làm bài thơ Thuật Hoài để giãi bày tấc lòng như sau: 

Chút nghĩa vương mang phải gắng đi
Tang bồng đành rõ chí nam nhi
Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc
Khói đá phăng phăng lướt tích ti
La Hán dang tay chờ khách đến
Tướng quân ghé mắt hẹn ngày về
Phen nay miễn đặng hòa hai nước
Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi!

 Đề nghị giảng hòa tố cáo tâm trạng tuyệt vọng của Tự Đức nếu không muốn nói đó là thái độ đầu hàng. Tình trạng hòa hoãn này làm cho các quan đầu tỉnh bó tay không dám động tĩnh gì. Lợi dụng tình thế đó, quân Pháp súc tiến chiếm đoạt Nam Kỳ.

 Cụ bị giáng chức 5 lần. Lần thứ nhất lúc cụ bị thất bại khi dẹp loạn Cao Gồng ở Chiên Đàn, phía bắc Quảng Nam. Lần thứ hai cụ bị giáng chức vì can gián Vua Minh Mạng trong chuyến ngự du Quảng Nam với lý do là dân tình Quảng Nam lúc đó đang đói kém. Lần thứ ba cụ bị giáng vì lỗi thuộc viên sơ ý không đóng dấu triện vào một tờ sớ. Lần thứ tư cụ bị giáng vì ông không ký vào bản án Cơ Mật Viện buộc tội Tổng Đốc Bình Định xin vua hủy bỏ bản tuồng Lôi Phong Pháp lý do vở tuồng có lời lẽ bôi bác, chế nhạo Trời, Đất, và các Thần Minh. Lần thứ năm, cụ bị kết tội bất cẩn khi ông làm Phó Chủ Khảo Trường Thi Thừa Thiên. Cuối cùng, cụ bị giáng cách vì thực dân Pháp tráo trở chiếm đoạt thành Vĩnh Long trong lúc còn đang diều đình. Thực tế, cụ xét thấy tình thế không thể cứu vãn được nữa và để cứu lê dân trước mắt khỏi bị nan binh đao, nên cụ trao thành cho Pháp rồi uống thuốc độc tự vẫn. Vua và một số quan lại xiểm nịnh lên án cụ nặng nề ... Nhưng tấm lòng son sắt của cụ đối với quốc gia và dân tộc đã được trời xanh soi sáng và ngày nay tên tuổi của cụ đã được phục hồi.
 Xét cuộc đời và sự nghiệp văn thơ, chính trị của cụ, cụ quả xứng đáng là một bậc đại trí, đại nhân, và đại dũng.
 Mặc dầu trên vai cụ nhiều gánh nặng quốc gia phải chu toàn, cụ Phan vẫn hoàn tất nhiều tác phẩm rất giá trị về văn học và chính trị như sau:
 Lương Khê Thi Thảo (454 bài thơ); Lương Khê Văn Thảo; Sứ Thanh Thi Tập; Tây Phù Nhật Ký; Ước Phu Thi Tập; Tích Ung Ca Hội Tập; Sứ Trình Thi Tập; Việt Sử Thông Giám Cương Mục; và Minh Mạng Chính Yếu.
 Năm 1864, lúc làm Kinh Lược trấn nhậm Vĩnh Long, cụ Phan và Nguyễn Thông phụ tá xây dựng Văn Thánh Miếu thờ Đức Khổng Tử và Văn Xương Các làm nơi hội họp xướng họa thi văn. Tại Vĩnh Long ngày nay, Tòa Văn Xương Các có thờ chân dung của cụ và bài vị của Võ Trường Toản.

GÁN GHÉP TỘI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ CHO PHAN THANH GIẢN.
Triều đình Nhà Nguyễn gán ghép tội cho cụ Phan như thế nào?
Trước hết phải kể tới sự kiện triều đình Tự Đức gán ghép tội cho cụ. Sau khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh miền Nam, Triều Đình Tự Đức trút hết trách nhiệm cho cụ về tội để mất thành với những lời buộc tội rất nặng nề như: “Xét phải tội chết chưa đủ che được tội.” và quyết định: “truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi mãi cái án giam hậu.”
 Sự thật cụ Phan có đầu hàng Pháp và để mất thành không? Các nhà phân tích sử liệu sau này căn cứ vào tư cách và nhân cách cao quý của cụ Phan để đưa ra kết luận là: Trước họa xâm lược của Pháp, vua tôi triều Nguyễn tỏ ra rất bị động và lúng túng. Trong triều chia ra người chủ chiến, kẻ chủ hòa, người lo chống giữ lâu dài. Vua Tự Đức thì tỏ ra phân vân và có thái độ chủ hòa hơn là chủ chiến nên nhà vua đã cho lịnh “tư cho quan Kinh Lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui. Tư liệu lịch sử cho thấy Phan Thanh Giản không đầu hàng và không nộp thành cho giặc như miêu tả trong một số tư liệu của Pháp. Việc mất ba tỉnh Miền Tây là hậu quả của chủ trương sai lầm của Vua Tự Đức. Tuy nhiên, năm 1886, Vua Đồng Khánh cho khôi phục nguyên hàm và khắc lại tên cụ trên bia tiến sĩ.

 Tháng 10.1963, Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử công bố bài viết tổng kết của GS Trần Huy Liệu với nhan đề “Chúng Ta Đã Nhất Trí về Nhận Định Phan Thanh Giản”.
Qua bài đó, Trần Huy Liệu đã lên án cụ Phan rất gắt gao: “Công đức đã bại hoại thì tứ đức [bốn Đức của Vua Tự Đức ban cho cụ Phan: Liêm, Bình, Cẩn, Cán] còn gì là đáng kể?”; “Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân.” và “Phan đã dâng hiến thành cho giặc”.
 Năm 1994, trước những dư luận nổi lên từ nhiều phía trong và ngoài nước yêu cầu phục hồi danh dự cho Phan Thanh Giản, một cuộc hội thảo được tổ chức tại Vĩnh Long có lẽ là vì nơi đây còn di tích của cụ để lại như Văn Miếu và Văn Xương Các (có chân dung của cụ đặt tại đây) trong khu đất Văn Thánh ở Long Hồ. GS Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử VN, đọc bài tổng kêt có đoạn như sau: “Chúng ta đều nhất trí không nên quy kết cho ông cái tội “bán nước' hay “phản bội tổ quốc”.
 Ngày 16 tháng 8 năm 2003, một cuộc tọa đàm diễn ra tại Saigòn do Tạp Chí Xưa & Nay tổ chức với chủ đề - và cũng chính là nhan đề của cuốn sách :
- “Thế Kỷ thứ 19: Nhìn Về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản”. 
Khoảng trên một trăm nhân vật tham dự buổi tọa đàm này trong đó có  Võ Văn Kiệt, Trần Văn Giàu, và Trần Bạch Đằng. 
Tuy nhiên, sau đó, nguyên cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt viết một bài đăng với tựa đề “Những Suy Nghĩ  Sau hai cuộc Hội Nghị về Nhân Vật Phan Thanh Giản” trong có đoạn viết:

- Tôi khẳng định rằng Phan Thanh Giản là một người yêu nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, cụ đã tự làm bản án cho chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đòi thanh sạch đáng để lại gương soi cho hậu thế. Sau cuộc tọa đàm tháng 8/2003, tôi đã về thăm mộ cụ PTG và thắp nhang lạy hương hồn cụ. Và tôi cũng quyết định sửa sang lại khu mộ phần và nhà thờ Cụ bởi mộ đã bị thời gian bào mòn quá nhiều.
(trích bài “140 Năm Sau” của Nguyễn Như Hùng (Santa Clara, CA) đăng trong Đặc San PTG & ĐTĐ Cần Thơ, tr. 23)

 Như vậy, phải chờ tới 40 năm kể từ cuộc hội thảo lần thứ nhất vào năm 1963 trong đó Trần Huy Liệu gắt gao lên án cụ PTG là “chủ bại”, “phản lại quyền lợi của dân tộc”, “dâng thành, hiến đất cho giặc”, đến năm 2003, Nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt nói lên lời cải tội cho cụ Phan rằng cụ là người yêu nướcthương dân.
                                      (Trích theo  http://cothommagazine.com)

Đã 141 năm, kể từ ngày 4/8/1867, cụ Phan Thanh Giản kết thúc đời mình bằng 17 ngày nhịn ăn và chén thuốc độc tự vẫn vì buồn đau, thương dân thương nước. Bi kịch đời cụ là bi kịch lịch sử cần được làm sáng tỏ. Chuyện ấy đã thành sự thật.

Khi thăm mộ và đền thờ Phan Thanh Giản, chúng tôi thấy rất nhiều vòng hoa đang còn tươi của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân tỉnh Bến Tre, Huyện ủy, UBND, HĐND huyện Ba Tri, rồi các ban ngành, sở, xã Bảo Thạnh (Ba Tri) đến viếng nhân ngày giỗ của cụ ngày 4/8.
Nghĩa là đám giỗ cụ đã được tỉnh long trọng tổ chức, chỉ một tuần trước khi chúng tôi đến Bến Tre. Dịp này,  Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long cũng đã tổ chức lễ rước và an vị tượng Phan Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long - nơi Kinh lược sứ đại thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
Pho tượng do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến. Tượng đúc bằng đồng, cao 85 cm, nặng 250 kg, được tỉnh Vĩnh Long đặt trang trọng tại nơi thờ trong Văn Thánh Miếu.  
Thật vui khi được biết, ngày 24/1/2008, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa Đặng Văn Bài vừa có công văn gửi UBND tỉnh Bến Tre, cho biết Cục đã làm việc với Viện Sử học và cơ quan này có công văn nêu rõ, các nhà sử học đánh giá cao công lao của cụ Phan Thanh Giản trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa.
Cụ nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, có nhiều đóng góp lớn đối với lịch sử dân tộc trên các lĩnh vực văn học, sử học... Viện Sử học kết luận: “Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau”. Đó là sự phán quyết  công bằng. Như vậy Phan Thanh Giản đã được giải oan sau gần 150 năm mang tiếng “bán nước”. 

…Người dân Miền Tây hiểu rất rõ công tội của cụ Phan Thanh Giản, rằng thời kỳ đó, triều đình Huế là mới là nguyên nhân chính để mất lục tỉnh Nam Kỳ, vì đã quyết “chủ hòa”.
Cụ Phan Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua. Nên không thể quy cho cụ tôi “bán nước” hay “phản bội Tổ quốc”. Mặc dù cụ vẫn ý thức được hoàn cảnh và trách nhiệm của mình.
Trong lá sớ gửi vua Tự Đức trước khi tự vẫn, cụ viết: “Nghĩ tôi đáng chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho quân phụ”!
Đứng trước mộ cụ Phan Thanh Giản tôi cứ nghĩ miên man về nỗi niềm lịch sử. Hết lòng vì dân vì nước nhưng lại không được người đời hiểu mình.
Hơn ba chục năm qua, tất cả những đường phố, trường học mang tên Phan Thanh Giản đều bị gỡ bỏ. Tượng cụ ở Châu Thành, ở trường Trung học Cần Thơ cũng bị gỡ. Hẳn nhiên bức tượng nằm trong lòng dân mới là vĩnh cửu. 

Một tin vui nữa là tại kỳ họp lần thứ 13 HĐND tỉnh Bến Tre khóa VII (ngày 10 và 11/4/2008) đã thông qua việc đổi tên trường THPT Ba Tri thành trường THPT Phan Thanh Giản từ năm học 2008-2009. Sắp tới tỉnh sẽ dựng lại tượng cụ Phan Thanh Giản.

Rời Ba Tri, tôi cứ ước ao không chỉ ở Bến Tre, Vĩnh Long mà tên của Đại thần Phan Thanh Giản tài hoa, khí tiết sẽ được đặt cho nhiều trường học và đường phố miền Nam như trước đây. 
                                           (Trích theo  http://www.tienphong.vn)

Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm

Vũ Hối- Thơ Lê Kim Thành


Thơ: Lê Kim Thành
Thư Họa: Vũ Hối 

Hương Đồng


Nhìn con sáo nhỏ xổ lồng
Chợt thương em đã dứt lòng đi xa
Bỏ con sông nhỏ quê nhà
Bên bồi, bên lở phù sa ngọt ngào

Em đi quên vẫy tay chào
Aó em mờ nhạt lẫn vào trong sương
Tiễn em gốc rạ bên đường
Vấn vương gởi chút hương đồng theo chân

Mai này bao nẻo xa gần
Dòng đời cuốn xoáy bụi trần mênh mông
Lạc loài giữa chốn bão giông
Ngại than chim nhỏ lạc không thấy bầy

Nặng lòng gửi gió mây bay
Ngu ngơ tôi hát chiều lay mưa buồn
Thôi đành, sáo đã bt luôn
Em đi, gởi lại nỗi buồn chơi vơi…

Trần Thị Dã Quỳ

Thu Trực Cấm Cung - 秋值禁宮 - Trương Gia Mô

  

秋值(*)禁宮            Thu Trực(*) Cấm Cung

黯雲慘淡鎖長空, Ảm vân thảm đạm tỏa trường không,
月色無光秋色籠。 Nguyệt sắc vô quang thu sắc lung.
孔雀殿頭啼細雨, Khổng Tước điện đầu đề tế vũ,
梧桐枝角落初風。 Ngô đồng chi giác lạc sơ phong.
遠邊武檄來何急, Viễn biên vũ hịch lai hà cấp,
大內笙歌樂未終。 Đại nội sanh ca lạc vị chung.
寒透重簾眠不得, Hàn thấu trùng liêm miên bất đắc.
寂寥獨對一燈紅。 Tịch liêu độc đối nhất đăng hồng.
張家模                     Trương Gia Mô

Tiểu Sử Tác Giả Trương Gia Mô: 1866-1929


      Trương Gia Mô (1866-1929) hiệu Cúc Nông, tên tự lúc đầu là Sư Thánh, sau đổi là Sư Quản, biệt hiệu Hoài Huyền Tử, khi làm quan ở Huế, còn được gọi là Nghè Mô; là sĩ phu yêu nước, quan triều Nguyễn, và là nhà thơ Việt Nam ở những năm đầu thế kỷ 20.
      Trương Gia Mô, nguyên quán ở Gia Định nhưng sinh quán tại làng Tân Hào, chợ Hương Điểm, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
      Cha của ông là Trương Gia Hội (1822–1877), từng làm Tri phủ Hoằng Trị dưới thời Tự Đức, được thăng chức Lang trung bộ Binh, về sau làm Tuần vũ Thuận Khánh (Bình Thuận và Khánh Hòa).
      Cuối cùng, vào đêm ngày 2 tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Tỵ (1929), ông đã lao mình từ Pháo đài trên đỉnh núi Sam (Châu Đốc) xuống vực sâu để kết thúc đời mình.
( Trích từ Wikipedia)

Chú thích:

(*) 值: Trị 
Theo Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, còn đọc là Trực khi có nghĩa là Gặp 
 1- ( Động từ) có nghĩa là Trực. ◎Như: trị ban 值班 luân phiên trực, trị nhật 值日 ngày trực, trị cần 值勤 thường trực. 
2 - (Động từ) có nghĩa là Gặp. ◇Nguyễn Trãi 阮廌: Thiên trung cộng hỉ trị giai thần 天中共喜值佳辰(Đoan ngọ nhật 端午日) Tiết thiên trung (đoan ngọ) ai cũng mừng gặp ngày đẹp trời. 
3 - (Danh từ) Giá. ◎Như: giá trị 價值. 
4 - (Động từ) Đáng giá. ◎Như: trị đa thiểu tiền? 值多少錢 đáng bao nhiêu tiền? ◇Tô Thức 蘇軾: Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim 春宵一刻值千金 (Xuân tiêu 春宵) Đêm xuân một khắc đáng giá ngàn vàng.
5 - (Động từ ) Cầm, nắm giữ. ◇Thi Kinh 詩經: Vô đông vô hạ, Trị kì lộ vũ 無冬無夏, 值其鷺羽 (Trần phong 陳風, Uyên khâu 宛丘) Không kể mùa đông hay mùa hạ, Cầm lông cò trắng (để chỉ huy múa hát). 

Dịch Nghĩa:

Mùa Thu Gặp Nơi Cung Cấm


Mây xám u buồn che phủ không gian
Ánh trăng không chút ánh sáng khiến nét thu lung linh
Chim công ở đầu cung điện cất tiếng kêu dưới cơn mưa nhỏ
Nhánh trên ngọn cây ngô đồng rớt xuống trong trận gió ban đầu
Từ biên giới xa xôi thư tin chiến sự đưa đến rất gấp
Nhưng nơi cung đình vẫn vui chơi đàn hát chưa dứt
Hơi lạnh xuyên qua mấy lớp rèm nên không ngủ được
Trong cảnh vắng vẻ một mình đối diện với chiếc đèn đỏ
* * *                                             
Các Bản Dịch:


Ảm vân thảm đạm tỏa trường không
Nguyệt sắc vô quang thu sắc lung
Khổng tước điện đầu đềtế vũ
Ngô đồng tri giác lạc sơ phong
Viễn biên vũ hịch lai hà cấp
Đại nội sanh ca lạc vịchung
Hàn thấu trùng liêm miên bất đắc
Tịch liêu độc đối nhất đăng hồng

Trương Gia Mô

* * *
Dịch nghĩa:

 Mây mù buồn thảm phủ khắp không gian
 Trăng tối mù, sắc thu lồng
 Chim công ở đầu điện kêu dưới mưa nhỏ
 Lá ngô đồng rơi trước gió chớm thu
 Ngoài biên hịch về việc binh bay về tới tấp
 Trong cung ca múa vui vầy chưa dứt
 Lạnh thấu qua nhiều lớp rèm, ngủ không được
 Một mình cô đơn đối diện ngọn đèn hồng

Dịch thơ

Mùa Thu Vào Cung

Mây mù thảm đạm không trung
Trăng treo èo uột thu lồng bóng ma
Đầu cung chim nghẹn mưa sa
Lá rơi lác đác như là tiễn ai
Ngoài biên tới tấp sớ bay
Trong cung hoan lạc đêm dài lại đêm
Trước rèm lạnh thấu vào tim
Mình ta bạn với ngọn đèn âm u

Chân Diện Mục


* * *
Mùa Thu Vào Cung

Trời u ám mây giăng bàng bạc
Đêm thu lồng, mờ nhạt trăng thâu
Đầu cung tước khóc mưa ngâu
Ngô đồng lả tả gió sầu chớm thu
Sớ khẩn từ biên khu tới tấp
Trong hoàng cung tất bật lạc hoan
Xuyên rèm gió buốt tâm can
Một mình đối bóng đèn vàng suốt đêm

Mailoc phỏng dịch
Cali 6-14-14
* * *
Mùa Thu Nơi Cung Cấm

Mây mù ảm đạm khắp không gian
Thu nhuộm trời mây, bóng nguyệt tàn
Mưa bụi giăng mờ, chim cất tiếng
Ngô đồng rơi ngập, gió ngân đàn
Biên cương, hịch đến bao dồn dập
Cung điện, tiệc bày vẫn rộn vang
Lạnh thấm qua rèm không ngủ được
Cô đơn đối diện ngọn đèn vàng

Phương Hà phỏng dịch

* * *
Vào Cung Nhằm Lúc Mùa Thu

Mây mù sầu khóa không gian,
Trăng mờ lơ lửng thu càng mông lung.
Chim công gáy, mưa lạnh lùng,
Ngô đồng rơi rụng mịt mùng gió thu.
Hịch ngoài cấp bách biên khu,
Sanh ca đại nội vui thu chưa tàn.
Lạnh vào rèm, ngủ sao đang ?
Đèn tàn chiếc bóng bàng hoàng năm canh.

Đỗ Chiêu Đức
* * *
Thu Nơi Nội Cung

Mây u ám,không gian buồn che phủ
Mảnh trăng mờ, bàng bạc rủ hơi thu
Nơi đầu cung, chim khổng tước gáy ru
Gió đã thổi, lá ngô đồng tơi tả
Ngoài biên trấn, hệch truyền thù đánh phá
Trong cung vàng, điệu nhạc vẫn rền vang
Qua rèm thưa, hơi thu lạnh xuyên ngang
Ngồi đối bóng,ánh đèn vàng mờ tỏ!

Song Quang
* * *
Mùa Thu Nơi Cung Cấm

Mây xám buồn phủ không gian
Sắc thu lồng lộng trăng man man sầu
Mưa sa chim khóc điện đầu
Ngô đồng lá đ úa nhầu bi ai
Tới tấp biên ải tin bay
Trong cung hoan lạc hết ngày lại đêm
Chập chờn gió buốt xuyên rèm
Cô đơn đối bóng ngọn đèn hồng soi

Kim Oanh
* * *
Thu Nơi Cấm Cung

Không gian giăng kín xám mây sầu
Dáng thu thơ mộng bóng trăng đâu
Mưa nhẹ đầu cung chim công gáy
Ngô đồng nhánh ngọn gió đùa bay
Tin giặc ngoài biên về vội vã
Trong cung vọng mãi tiếng đàn ca
Gió lạnh xuyên rèm ngăn giấc mộng
Một mình thao thức với đèn hồng.

Quên Đi

Ngủ Nằm Nghiêng Bên Phải



Ngủ là một nhu cầu tất yếu và vô cùng quan trọng đối với sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của con người. Trong một ngày 24 giờ thì giấc ngủ chiếm trung bình trên dưới 8 tiếng đồng hồ, tức là 1/3 thời gian cuộc sống là dành cho giấc ngủ.
Theo các bác sỹ, trẻ em ở độ tuổi phát triển, trong khi ngủ cơ thể tiết ra các hormone tăng trưởng nên trẻ em chỉ phát triển tốt về thể trạng và trí tuệ nếu có được giấc ngủ đủ, sâu và thoải mái.
Đối với người làm việc lớn tuổi, giấc ngủ chính là thời gian để thần kinh nghỉ ngơi, cơ thể tái tạo lại sức khỏe, chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Thành ra, nếu thiếu ngủ, cơ thể sẽ cảm thấy mệt mỏi, uể oải, kém minh mẫn, trí nhớ suy giảm, mất khả năng tập trung và năng lực làm việc kém hiệu quả.
Muốn có được một giấc ngủ ngon, sâu thì việc chọn tư thế ngủ là rất quan trọng. Trong Luật tạng Phật giáo, đức Phật dạy các đệ tử nên chọn thế ngủ bên phải mà không được ngủ với các tư thế khác. “Ngọa tu hữu hiếp, danh cát tường thụy, bất đắc ngưỡng ngọa, phúc ngọa, cập tả hiếp ngọa.” (Nằm phải nằm nghiêng hông bên phải gọi là ngủ “kiết tường”. Chẳng đặng nằm ngửa, nằm sấp, cùng nằm hông bên trái.)
Sở dĩ mà gọi thế ngủ như Sư tử vương là thế ngủ Cát tường. Bởi vì, khi nằm nghiêng hôn bên phải, thân không day trở, niệm không quên mất, ngủ chẳng ngủ nhiều, không mê, và không chiêm bao điềm dữ.
Một nghiên cứu mới đây của các chuyên gia tư vấn sức khỏe cho thấy rằng một vài tư thế ngủ không đúng cách sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe nội tạng của con người. Ví dụ: Nằm sấp: Với tư thế này, ngực sẽ bị ép vào, tim, phổi, các nội tạng cũng bị ảnh hưởng. Người ngủ sẽ dễ gặp ác mộng hơn. Khi nằm sấp, đầu sẽ phải nghiêng sang trái hoặc phải. Điều này ảnh hưởng tới sự lưu thông máu ở da mặt khiến da bị lão hóa nhanh, da cổ cũng bị nhăn do nghiêng đầu sang một bên. Bạn cũng dễ bị vẹo cổ, đau gáy, chảy nước miếng…
Nằm ngữa:
Nằm ngữa với hai chân duỗi thẳng dễ gây ra áp lực lên các cơ, khớp xương, dây chẳng ở lưng và cổ, dễ gây ra chứng đau lưng. Người lớn tuổi, béo phì nếu nằm ngửa dễ gây ngáy. Tuy nhiên, người bị cao huyết áp, tai biến mạch máu não nên chọn tư thế này vì rất có lợi cho tuần hoàn máu não và cơ thể.
Tư thế này cũng tốt cho trẻ nhỏ.

Nghiêng bên trái:
Đây là tư thế gây hại cho tim và nội tạng, vì tim nằm bên trái của lồng ngực, đầu ra của ruột non thông với ruột già đều nằm ở phía bên trái. Bạn dễ mắc các bệnh lý liên quan tới dạ dày hoặc làm bệnh về tim và dạ dày nặng hơn. Nếu bạn bị sỏi mật thì không nên chọn tư thế này vì sỏi sẽ bịt cuống mật gây đau đớn.

Nghiêng bên phải:
Với tư thế nà lục phủ, ngũ tạng sẽ nằm đúng vị trí giúp cho máu lưu thông tốt hơn. Đây là cách nhanh chóng xóa ta mệt mỏi và giúp bạn phục hồi được sức khỏe sau giấc ngủ ngon. Ngoài ra, tư thế này còn giúp cột sống được kéo giãn, giảm áp lực do sức nặng từ phần trên cơ thể đè lên.

Chúng ta nên biết:
Các nhà dưỡng sinh thời xưa cho rằng việc nằm nghiêng về bên phải và để cho hai chân, tay hơi co lại sẽ rất tốt cho cơ thể. Khoa học hiện đại cũng chứng minh rằng với tư thế này, các bó cơ bắp trên toàn thân sẽ được thư giãn nhiều nhất, giúp bạn có giấc ngủ ngon, sâu hơn.

Như vậy nằm nghiêng hông bên phải để ngủ theo Phật giáo gọi là thế ngủ Cát tường (Cát tường thụy). Thế ngủ này rất khoa học, giúp bạn ngủ sâu, ngủ ngon không chiêm bao điềm xấu, máu huyết lưu thông, luôn giữ chánh niệm không mê sảng trong khi ngủ

Thái Nguyễn Sưu tầm

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014

Cựu Học Sinh - Cựu Giáo Sinh Vĩnh Long Viếng Đền Thờ và Phần Mộ Đại Thần Phan Thanh Giản

Vào Tháng 7- 2014 nhân đi dự sinh nhật chị Dương Thị Anh ở Ba Tri Bến Tre, Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Vĩnh Long. 
Chúng tôi đến viếng Đền thờ và Mộ cụ Phan Thanh Giản.
Đền thờ và ngôi Mộ của cụ Phan hiện đang được người Cháu đời thứ Sáu trông coi.


Cổng vào khu Đền Thờ và Mộ Cụ Phan Thanh Giản
Thơ, Khang (Cháu nội Thơ), Minh, Điệp Lê, Đăng (Cháu nội Đức), Duyên,Sanh.
Bàn Thờ Cụ Phan Thanh Giản
Đức
Đăng, Anh Minh, Chánh, Huệ
Đức, Anh Minh, Huệ
Thơ, Đức, Chí Thanh
Điệp Lê,  Sanh
 Mộ Cụ Phan Thanh Giản
Hoàng (BT) Vinh(cựu giáo sinh), Chánh (cgs), Thể (BT), Thơ,Minh, Điệp Lê, Sanh, Chí Thanh, Duyên, Xuân, Đức

Hình Ảnh : Huỳnh Hữu Đức- Huỳnh Bảo Đăng

Thấy Bóng Chẳng Hình


Nhớ em thấy bóng chẳng hình
thấy trăng trước ngõ thấy mình bơ vơ
bỏ đi từ đó đến giờ
khi nào em nghĩ thằng khờ năm xưa

Thằng khờ đội gió đội mưa
đợi bao nhiêu khổ ngóng chờ ánh trăng
gió lay mờ tỏ bóng hằng
mà anh cứ ngỡ bước chân ai về

Nhớ mòn giấc ngủ cơn mê
thấy hình chẳng bóng nằm kề song song
đời anh mộng thực quay mòng
như con cá nược lội vòng theo ghe

Trần Phù Thế


Người Đàn Ông Kỳ Lạ


      Ông kể rằng ông cũng không biết cha mẹ mình là ai, và rằng ông ấy cũng từng sống ở cô nhi viện. 
      Năm 16 tuổi, tôi hoàn thành kỳ huấn luyện quân đội cơ bản và quyết định rời khỏi Florida, nơi tôi lớn lên trong một cô nhi viện, để tới thành phố khác tìm cơ hội.
      Khi tôi đến nhà ga tàu điện ngầm, tôi để ý thấy có rất nhiều người vô gia cư tụ tập ở đó - và đó cũng không phải là chuyện bất thường. Có một số người, tôi nghĩ mình từng gặp trước đây, bởi tôi cũng là một đứa trẻ đường phố vài năm trước khi sống ở cô nhi viện và được đào tạo những kỹ năng cơ bản để tự lập.
      Vì tôi chưa bao giờ có gia đình, nên tôi quyết định dừng lại một chút, nhìn quanh xem có người nào mà tôi từng quen từ ngày trước không. Khi nghe thấy có tiếng ồn ào cùng một đám đông, tôi lại gần và thấy có mấy thanh niên đang vừa chế nhạo, vừa xô đẩy một người bị dị tật. Người này thấp hơn hẳn mức bình thường, khuôn mặt hơi méo mó và chân đi khập khiễng. Thực ra, tôi đã từng nhìn thấy người đàn ông này nhiều năm trước, hồi tôi còn sống lang thang, nhưng tôi chưa bao giờ bắt chuyện với ông ta vì trông ông ta có vẻ đáng sợ.

      Ban đầu, tôi cứ thế bước tiếp bởi tôi không nghĩ rằng mình có thể làm gì để cản mấy cậu thanh niên kia. Tôi không đủ can đảm. Nhưng càng bỏ đi xa, tôi càng cảm thấy trong lòng mình không yên ổn. Cuối cùng, không chịu được nữa, tôi quay lại. Lúc này, mấy cậu thanh niên đã bỏ đi, còn người đàn ông dị tật thì bị đẩy ngã, ngồi bệt dưới đất, quần áo bẩn thỉu. Tôi nhìn ông ấy và chẳng biết nói gì. Thế rồi tôi cúi xuống, đỡ ông ấy dậy, dìu ông ấy tới ngồi ở một băng ghế, và bảo rằng tôi sẽ mua thứ gì đó cho ông ấy ăn, nếu ông ấy đói.
      Ông ấy nói rằng đang rất đói, nên tôi mở ví lấy ra một tờ 20 đôla. Đó là một khoản tiền lớn đối với tôi vì tôi chỉ được nhận 68 đôla/tháng trong kỳ huấn luyện quân đội. Khi tôi chào ông ấy rồi đi tiếp, ông ấy chợt gọi tôi lại và hỏi liệu ông ấy có thể mời tôi bữa tối được không.
      Chúng tôi vào tiệm ăn nhanh ngay trong ga tàu điện ngầm và gọi hai chiếc bánh burger cùng một phần khoai tây chiên. Chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc. Tôi kể với ông rằng tôi đã sống một thời gian trong cô nhi viện và bây giờ tôi sẽ cố gắng đi tìm việc làm ở một thành phố khác.
      Ông ấy kể rằng ông ấy cũng không biết cha mẹ mình là ai, và rằng ông ấy cũng từng sống ở cô nhi viện. Sau khi ăn xong, tôi quyết định trả tiền bữa ăn để ông ấy có thể giữ lại 20 đôla.Thế rồi người đàn ông này bảo tôi đợi một lúc trong khi ông ấy đi lấy một thứ quan trọng. Vì cũng chẳng vội vàng gì nên tôi ra ghế ngồi đợi.
      Phải đến 30 phút sau, ông mới quay lại, đưa cho tôi một phong bì lớn và bảo tôi không được mở ra cho đến khi lên tàu. Tôi bắt tay ông ấy và nhìn theo cho đến khi ông ấy đi khuất. Thế rồi tôi gấp chiếc phong bì lại, cho vào túi và đi.


      Một lúc sau, tôi lên được chuyến tàu mình cần. Khi đã ngồi yên chỗ, tôi mới nhớ ra chiếc phong bì mà người đàn ông dị tật đưa cho mình. Tôi mở ra, trong đó là mười tờ 100 đôla còn mới tinh, một tờ giấy ghi chú, và một trang tạp chí.
      Trong tờ giấy đó có viết: “Tôi đã nói rằng tôi sẽ mời cậu ăn tối". Còn trên trang tạp chí là hình ảnh chính người đàn ông dị tật lúc nãy, ăn mặc trang trọng, với tiêu đề bài báo: "Người đàn ông dị tật từng sống trong cô nhi viện đã trở thành một trong những doanh nhân giàu có nhất". Ở dưới cùng của trang báo đó có thêm một dòng chữ viết tay: "Cậu hãy dùng số tiền này để ăn bữa tối thật ngon nhé! Mặc dù với tôi, bữa ăn trong tiệm ăn nhanh lúc nãy mới là bữa ngon nhất mà lâu lắm rồi tôi mới được thưởng thức".


Haley
(Dịch từ Inspirationstories)
Tiểu Thu sưu tầm


Cách Làm Cơm Cháy Giòn Trong Vòng 10 Phút


Yên Đỗ Sưu Tầm


Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014

Đăng Bảo Đài Sơn - 登寶臺山



Thơ Trần Nhân Tôn (Trần Khâm)
  登寶臺山        Đăng Bảo Đài sơn

地寂臺逾古, Ðịa tịch đài du cổ,
時來春未深。 Thời lai xuân vị thâm
雲山相遠近, Vân sơn tương viễn cận.
花徑半晴陰。 Hoa kính bán tình âm.
萬事水流水, Vạn sự thủy lưu thủy,
百年心語心。 Bách niên tâm dữ tâm.
倚欄橫玉笛, Ỷ lan hoành ngọc địch
明月滿胸襟。 Minh nguyệt mãn hung khâm


Dịch nghĩa:

Vùng đất hẻo lánh càng khiến toà đài thêm xưa cũ
Mùa xuân đến chưa lâu
Mây núi thấy như xa như gần
Đường hoa nửa sáng lạng nửa mù mờ
Muôn việc như nước đẩy trôi  nước
Trăm năm lòng dặn với lòng
Tựa vào lan can cầm ngang cây sáo ngọc
Ánh trăng chiếu phủ vạt áo trước ngưc.



Dịch Thơ:

                     Lên núi Bảo Đài 
           Nơi tịch mịch đài trông thêm cổ
           Theo tiết trời xuân độ chưa lâu .
                Núi mây lồng lộng xa gần ,
   Đường hoa nửa rợp nửa vàng nắng xuyên .
       Muôn việc đời triền miên nước chảy ,
        Cuộc trăm năm lòng mãi nhủ lòng .
             Lan can sáo ngọc tay nâng ,
Ánh vàng đầy ngực một vầng trăng trong .
                                         Mailoc phỏng dịch

        Lên Núi Bảo Đài
Đền xưa cổ kính chốn hoang sơ
Xuân mới vừa sang, tiết chuyển mùa
Mây núi gần xa, hình bóng ẩn
Nắng râm đậm nhạt, ngõ hoa mờ
Việc đời tuần tự như dòng chảy
Tâm sự bời bời tựa giấc mơ
Đứng dựa lan can, nâng sáo ngọc
Ánh trăng bàng bạc khoảng trời thơ.
                              Phương Hà phỏng dịch

       Lên Núi Bảo Đài
Cảnh tịch liêu đài nhiều nét cổ
Đất trời chớm đổi tiết xuân sang
Gần xa mây núi trông mờ ảo
Sáng tối đường hoa tỏa dịu dàng
Muôn thuở sự đời con sóng nước
Trăm năm thế cuộc tấm trung can
Tay nâng sáo ngọc lùa âm vọng
Vạt hứng đầy trăng ngập ánh vàng

                                    Kim Phượng
 
    Lên Núi Bảo Đài 
Vùng hoang đài cổ kính
Xuân mới còn mong manh
Mây núi xa gần hiện
Đường hoa sáng tối tranh
Việc đời như nước chảy
Năm tháng với tâm lành
Sáo ngọc bên lầu thổi
Thân đầy ánh nguyệt thanh

                        Quên Đi



Lắng Sâu - Thơ Kim Phượng - Phổ Nhạc Dương Thượng Trúc


Thơ: Kim Phượng
Phổ Nhạc: Dương Thượng Trúc
Thực Hiện: Mũ Nâu11

* * *
Lắng Sâu

Đêm buồn về nghe bước chân xa lạ
Từng con đường bóng tối ngả màu trăng
Tàn hương hoa lòng trăng già gầy guộc
Trông mong gì khi chẳng thuộc về nhau

Gọi chiêm bao kiếp sau còn có thể
Định mệnh buồn dâu bể mối tình câm
Giấc mộng đầu ngàn năm còn thơ dại
Tình ngàn năm sương khói bạc màu trăng

Dáng trăng rằm mây cao thầm vẩn đục
Ngàn nhớ thương âm giục xé đôi lòng
Đêm lắng sâu tìm sao băng đi lạc
Thắp nguyện cầu lòng tạc níu trăng mơ

Hạnh phúc cho nhau lúc đợi chờ!

Kim Phượng

Nỗi Buồn Mùa Thu



Em thấy không ?
Rồi mùa thu cũng ra đi
Đâu có gì cứ giử hoài tuyệt mỹ
Màu lá vàng rực rỡ
Man mác buổi heo may
Giờ còn lại chỉ lạnh buồn tê tái.

Em thấy không?
Cả rừng phong với dáng buồn ủ rủ
Khẳng khiu cành
Cây đứng đợi ngọn đông phong
Mùa thu qua về đâu bao xác lá
Mới hôm nào còn mang cả sắc trời thu.

Rồi mai đây không còn gì quyến rũ
Khách thi nhân quyên hẳn buổi thu về
Một rừng phong chơ vơ màu tuyết trắng
Co ro buồn đứng lặng hứng đông rơi.

Họ lại đi lại chờ mùa thu tới
Sắc vàng pha rực rỡ buổi thu chiều
Hàng vạn vầng thơ
Với ngàn lời ca tụng
Đâu hiểu được nỗi buồn hiện tại
buổi tàn thu.

Em thấy không?
Thế nhân mê vẽ đẹp
Có bao giờ ai ngắm tuyết mà mơ
Mà chỉ có
những vầng thơ đầy oán trách
Khi nhìn rừng chiều tuyết lạnh trắng màu tang.

Vĩnh Trinh


Thơ Tranh: Một Mình

  

Thơ: Quên Đi
Thơ Tranh: Kim Oanh

Đêm Liêu Trai - Đông Hồ


Yếm tác nhân gian ngữ
(Bồ Tùng Linh)


Cánh mộng từ đây thôi khép lại,
Đêm đêm bút mực tặng ai đây.
Thời gian dằng dặc dài: Thương nhớ;
Vũ trụ mênh mông vắng: Đọa đày.

Còn nhớ đêm nào đương thưở ấy:
Ngàn thông reo tiếng, gió lung lay.
Tơ trăng mảnh rướm sau rèm lá,
Tay mới cầm tay dậy đắm say.
Ngờ ngợ như quen từ kiếp trước,
Ái ân bừng cảm phút giây này.

Lòng hoa ngậm kín hồn trinh trắng,
He hé mùa yêu ngát mái tây.
Một phút cảm thông tình vạn thuở,
Sông hồ còn vướng gió trăng đầy.
Qua rồi lạnh lẽo lòng chăn gối,
Chờ đợi đìu hiu tháng với ngày.

Đã thấy lâng lâng niềm giản dị,
Lòng tan theo nước, ý theo mây.

(Tuyển tập Trinh trắng)

Đông Hồ
Suối Dâu sưu tầm

Bài Thơ Tình Mùa Thu


      Ngày xưa khi mới chớm tuổi mộng mơ, tôi cũng mơ mộng theo phong trào thuở đó. Tôi mơ được sở hữu một chàng phi công đi mây về gió, “bay lượn” trên trời như cánh đại bàng oai vệ. Không phải vì lậm truyện phong thần mà a dua bởi lời đồn: “Pilot đẹp trai, hào hoa phong nhã”.
Con gái mới lớn thì lo xa làm gì cho mệt, nghe nói đẹp trai là khoái rồi, dù đẹp trai phong nhã thường đi đôi với đa tình và…bạc tình. Tôi chưa kịp thực hiện mơ ước thì đời rẽ sang hướng khác, đang đi học tôi lại đi lấy chồng. Thế là mộng tàn từ đấy!

      Đến bây giờ khi bước vào tuổi gió heo may về se lạnh, mộng mơ ngày xưa đã quên béng vào thời gian dằng dặc thì tôi bỗng vớ được hai chàng cựu Pilot từ trên trời rơi xuống một lúc. Hai chàng ngày xưa đều là phi công lái L19 quan sát, vậy mà chẳng hiểu bây giờ mấy ông quan sát kiểu gì lại trúng ngay một bác “đầm già” là tôi. Chắc tại hơn ba mươi năm không phi hành toàn phi…hãng nên tầm “quan sát” kém rồi chăng !???
      Tuy vậy “mối tình tay ba” của chúng tôi rất hòa thuận và thắm thiết, dù cả hai chàng vẫn còn mang nặng cái ba lô món nợ tình nghĩa sau lưng. Trong lúc ngẫu hứng, tôi đã cảm tác ra một bài thơ có tựa đề - MỐI TÌNH RẤT LẠ:
      Là “mối tình tay ba” trong vắt/ những email trêu ghẹo dở hơi/ dù phương trời ba đứa ba nơi……
      Tôi ở Georgia. Dũng ở Florida. Khánh ở Maryland.
      Tôi quen Khánh là do người bạn nhờ cầm chút quà của anh gởi cho chồng nó trong chuyến tôi về VN. Có sẵn số phone, dù đã xong công việc gởi quà, Khánh vẫn thường xuyên gọi cho tôi mỗi ngày, không có chuyện gì để nói thì hỏi: Hôm nay trời mưa hay nắng? Hôm nay Ngân vui hay buồn? Hôm nay Ngân …uống nước chưa? Toàn chuyện “hôm nay” vớ vẩn, chẳng lẽ anh mê giọng nói… à…uôm như ễnh ương kêu, hay kiểu cười phá lên như mảnh sành bể của tôi?
      Sau khi tôi từ VN trở về, mối giao hảo với Khánh càng thêm khắng khít. Truyện trên trời dưới đất, chuyện chiến tranh hòa bình thế giới, chuyện hỏa tiễn tàu ngầm, chuyện tình yêu tình hận, được chúng tôi đem ra mổ xẻ như những nhà bình luận thứ thiệt. Tuy lòng tôi cũng có nhiều nỗi niềm ai oán nhưng khi giao tiếp với mọi người tôi thường dí dòm pha trò, tự nhiên sảng khoái, khiến câu chuyện thêm phần rôm rả, có lẽ vì vậy anh tìm được nơi tôi chút niềm vui thư giãn, tạm quên đi những phiền muộn hàng ngày. Và anh cũng là chỗ dựa tinh thần, chia xẻ niềm vui nỗi buồn cùng tôi.

      Thân thiết, tôi nhận ra trong tâm tư anh có chút cay đắng buồn phiền với người vợ càng lớn tuổi càng cố chấp khó khăn. Anh vốn hiền lành, chịu đựng, yêu chiều nhường nhịn vợ từ ngày bắt đầu ký giấy chung thân. Sau ba mươi mấy năm “nể” vợ, bề dày thời gian như sợi xích vô hình trói chặt tư tưởng, nếp sống. Anh không còn một chút tự do cá nhân, vợ càng ngày càng xiết chặt “kỷ luật thép” khiến anh ngộp thở. Nhưng anh chưa bao giờ có ý muốn thử làm một cuộc bứt phá để cải thiện nếp sống, anh cam tâm phục tùng theo “điều lệnh” của vợ.
      Nói chuyện với tôi anh có chỗ để “xả” bớt những ức chế trong lòng. Giọng anh nửa Nam nửa Bắc, ngọt lịm như mía hấp, tôi nghe cũng bắt ghiền. Khi tôi kể anh nghe chuyện Dũng, anh thường nói: - Nó hoạt bát lanh lợi, cái gì cũng giỏi hơn anh, với nó em sẽ vui hơn với anh!
      Hai anh cùng học chung một khóa huấn nhục KQ ở Nha Trang, là bạn của nhau.

      Tôi quen Dũng do một lần viết e-mail cám ơn anh đã gởi cho cuốn Đặc San Hội Ngộ KQ tôi nhờ một người bạn xin giùm. Mail qua mail lại trở nên thân hồi nào không hay, sau dùng phone cho tiện, vợ Dũng không là người Việt Nam nên ở nhà khi cần “đàm thoại”, vợ chồng anh phải dùng ngôn ngữ thứ ba. Có lẽ vì không thể diễn đạt hết tình cảm yêu thương với “đối tác” bằng lời, nên anh cũng bị ức chế. Dù chưa bao giờ “có lỗi” với vợ, nhưng bây giờ chắc anh cần một “hồng nhan tri kỷ” đồng hương để “tán” cho hết ý.
      Vợ Dũng không ghen tương bóng gió, không sở hữu cô lập chồng khắt khe. Cuối tuần anh được tự do đi gặp gỡ bạn bè, càfe tán dóc nhậu nhẹt, có khi đi giang hồ một hai ngày mới về, vợ đã không giận hờn mà còn nồng hậu kiểm soát xem “vốn liếng” còn hay hết. Anh cũng là thành viên trong hội “nể” vợ, sợ bóng sợ vía nàng vô cùng. Có lần đang sôi nổi chuyện trò với tôi, anh bỗng hạ giọng thì thào: - Chết!...nàng tiên của anh về, thôi bye.
      Mấy bà vợ này đúng là họ đã tu tiên đắc đạo!

      Khi trò chuyện, anh pha trò nhiều câu dí dỏm hài hước, khiến tôi cười nôn ruột, anh đắc chí hỏi:
- Em thấy anh có dễ thương không?
Tôi vẫn ngoác miệng cười khì:
- Có, rất dễ thương. Nhưng còn một người dễ thương hơn anh nhiều.
Anh ngạc nhiên hấp tấp hỏi:
- Ai … thằng nào “ngon” vậy?
Tôi ỡm ờ nói đố :
- Người này ở MD, bạn anh đó, anh nghĩ coi là ai?
      Thật ra tôi cũng không muốn nói cho Dũng biết tôi quen Khánh, vì cần phải giữ bí mật cho “chàng” này được an toàn, nhưng cảm thấy như vậy không công bằng với Dũng. Lâu nay câu chuyện gì giữa tôi và Dũng, tôi đều kể cho Khánh nghe, nên hôm nay tôi muốn công khai “mối tình tay ba”.
Anh suy nghĩ hồi lâu, lẩm bẩm những cái tên, không tên nào đúng anh mất kiên nhẫn chịu thua:
- Em nói đại đi, anh không nghĩ được đâu, tên nào vậy?
Khi tôi nói tên “Khánh”, anh lặng đi một lúc rồi hỏi?
- Em …có nghe thấy tiếng gì không?
Tôi thật thà đáp:- không.
- Vừa nghe nói tên nó, anh giật mình rơi từ trên giường xuống đất cái rầm. Anh cũng thoáng nghĩ tới, nhưng không thể ngờ nó … to gan như vậy. Thằng này trước giờ hiền như cục đất, tôn … thờ vợ một phép, vậy mà ra chiêu qúa ngoạn mục. Trong khi anh trầy trật mãi mới có số phone của em, thì nó đã qua mặt từ lâu!
Tôi hỉ hả chọc ghẹo:
- Vậy anh phải bái phục em, vì em có chiêu thức cao siêu nên mới dụ được thầy tu phá giới.

      Khi biết tới ngày Christmas, mấy anh bạn thân cùng khóa với Khánh và Dũng sẽ có một cuộc hội ngộ tại nhà Khánh để gặp gỡ hàn huyên, tôi nằng nặc đòi bay qua. Hôm sau phone cho tôi, Khánh kể:
- Dũng nói với anh, lần này trước khi bọn nó kéo qua đây, nó phải đem theo lá cờ và đi quyên tiền…
Tôi ngạc nhiên ngắt lời:
- Đem theo cờ làm gì. Mấy anh đi chơi chớ đâu phải đi biểu tình? Mà sao lại phải quyên tiền, chẳng lẽ họ qua có mấy ngày anh không lo được? Ông này … khinh người quá đáng.
Anh bật lên tràng cười to, chắc nãy giờ cố nén:
- Ha…ha…nó nói quyên góp tiền để phúng điếu cho anh. Cờ để làm lễ…phủ cờ khi anh đi đoong, lần này anh chết chắc rồi, vì em là người “lạ mặt” không …mời mà đến.
- Ghê vậy sao? Thôi em không đòi đi nữa để anh được sống bình an.
- Cũng chưa chắc, ngày nào thông tin này rò rỉ ra ngoài, đến tai bả, anh vẫn bị án lăng trì.
- Dù em ở xa ngàn dặm, chỉ nói chuyện với anh qua phone và không bao giờ gặp mặt???
- Đúng, dù ở xa ngàn dặm và chỉ nói chuyện qua phone, nhưng vì em là đàn bà. Giao tiếp với đàn bà anh sẽ…chết.
- Vậy anh có sợ không!? Hay thôi đi.
Anh nói trong tiếng cười, giọng dịu như …nước mắm pha đường:
- Sợ thì … có, nhưng lỡ rồi, tới đâu tính tới đó.

      Những câu chuyện nói với Khánh, tôi kể lại cho Dũng nghe và ngược lại. Vì múi giờ khác nhau nên hết “ca” của Khánh thì đến “ca” Dũng, không kẹt đường. Mấy câu chuyện kể qua kể lại như vậy làm chúng tôi cười bò lăn, tôi hay phàn nàn với Dũng:
- Anh nói chuyện chẳng ngọt tí nào!... Không bù với người kia, càng ngày người ta càng pha mật vào giọng nói, em sắp chết như…ruồi rồi nè.
Dũng thở dài thườn thượt:
- Ôi giời!...Khi …yêu mới biết tình yêu là buồn. Anh làm sao chạy đua được với cái thằng Khánh ”đường” ấy, hay là mỗi lần nó nói với em câu gì, em viết lại rồi đưa cho anh học, anh sẽ nói với em y chang như vậy.
Câu nói dí dỏm giả ngây giả ngô của anh, mỗi lần nhớ đến tôi lại cười một mình. Dũng hay “hát” cái điệp khúc “khi yêu mới biết tình yêu là buồn”. Yêu gì mà luôn nói:
- Anh cầu trời trúng số, sẽ đứng ra tổ chức đám cưới cho ”hai em”, ở bên nó em sẽ hạnh phúc hơn với anh.
Tôi cười sằng sặc:
- Em có phải là… hủi đâu mà mấy ông né dữ vậy? Người này đùn đẩy qua người kia. Ông nào thì em cũng chẳng dám xâm mình nhào vô, lơ mơ ăn đạn liền, các bà “tiên” của mấy ông khi ghen lên trở thành bà chằng cả. Thôi, em cứ ở xa vầy…xạo xạo cho an toàn.
***

      Con gái rủ đi FL chơi trong dịp nghỉ vài ngày lễ cuối tuần, tôi chịu ngay. Tôi muốn nhân cơ hội này, nhìn “tạng mặt” Dũng, coi lão đẹp giai cỡ nào, nhìn hình gởi qua máy giống …cựu chiến binh trở về từ thế chiến thứ hai quá. Anh cũng nói, “thấy mới tin” một vị cao niên là tôi mà nhìn còn … được được.
      Nhưng xui xẻo, mấy ngày tôi đến FL là mấy ngày Dũng phải về quê ăn đám cưới cháu vợ, “quê” ở xa nên vợ anh muốn ở lại chơi cho bõ công đi. Tôi bâng khuâng buồn, tiếc cho chuyến đi không được một công hai chuyện. Thôi! …âu cũng là cái số, coi như “mối tình tay ba” mãi mãi là những “người tình không chân dung”.
      Còn ba tiếng nữa mới tới FL. Phone của Dũng. Anh nói đang chờ ở motel nơi tôi book phòng sẵn. Anh đã viện lý do nào đó để không đi về “quê” dự đám cưới cùng vợ. Tôi thật sự rất vui, có thế chứ, chẳng lẽ “hồng nhan tri kỷ” này không được welcome.
      Nói là ba tiếng, nhưng rồi bốn tiếng đồng hồ chúng tôi mới đến nơi, anh chờ mỏi tê người, tội quá! Đúng, ở ngoài anh đẹp…giai phong độ hơn trong hình, nhờ cộng thêm nét sinh động của nụ cười, ánh mắt.

      Sau khi ăn uống, con gái về phòng ngủ sớm vì lái xe đường dài mệt mỏi. Anh đưa tôi đi dạo ven biển. Gió sang mùa lạnh ngắt làm tôi run lập cập bởi quên mang áo khoác. Anh choàng tay ôm vai tôi dìu đi, hơi nóng cơ thể anh lan truyền sang tôi ấm áp, chút cảm xúc chợt len lỏi vào lòng. Trái tim không có tuổi còn nhiều xao xuyến với nhịp đập riêng. Nhưng tôi kịp trấn áp mình, không để đi trật đường rầy sang con đường chữ “T”, không phải T…tình mà là Tê…tái. Tôi sẽ phải giữ khoảng cách tình bạn trong sáng nếu tôi không muốn tê tái, tê thấp và tê liệt cả trái tim.
      Anh đưa tôi đi tìm một Gorcery để mua vài chai nước uống. Chớm sang thu, con đường vương vài chiếc lá úa xào xạc dưới chân, gió heo may se lạnh. Hàng cây trúc đào trồng dày đặc ven đường nở đỏ thắm, cánh hoa mỏng manh chao đảo trước gió, rơi rụng xuống hè đường. Anh ôm vai tôi trìu mến, nhìn vào giống một đôi tình nhân đi dưới chiều thu vàng bãng lãng, bâng khuâng…

      Hôm sau anh dành cả ngày đưa tôi vòng quanh thành phố. Xem phố, xem biển. Biển ở Florida không đẹp mấy, không có hàng dương xanh trên bờ cát trắng như biển Nha Trang, gặp hôm trời mưa lất phất nên bãi ít người, hoang vắng. Vài chiếc thuyền nhỏ neo bến dập dềnh. Vài người cưỡi xe trượt nước rẽ sóng lượn vòng. Biển xa rì rào mời gọi. Từng con sóng xô bờ tung bọt trắng rồi tan nhanh. Vài người chạy bộ dọc theo mé nước, họ muốn tận hưởng mùi của biển, không khí trong lành.
Ngồi trong xe trên đường về, tôi nói đùa khiêu khích:
- Em trả anh về nguyên vẹn, không sứt mẻ tí nào. Vợ anh có phước ghê, em không cám dỗ được anh.
Anh nhìn tôi, nói như dỗi:
-Em đừng ngạo anh….
      Tôi cười xòa, nghĩ thầm: Thôi anh ạ, giữ được tình cảm không vẩn đục thế này tốt hơn.
Tôi biết “ông anh” này nhát gan, chờ tôi bật đèn xanh mới dám …tới, nhưng tôi đâu có dại dột như thế, khi không lại đâm đầu vào ngõ cụt không lối thoát. Nhưng vì vậy tôi thêm quí mến anh, anh đã rất coi trọng tôi, không làm tôi khó chịu khi hành xử theo cách thường tình.
      Hôm ấy cũng là tối cuối cùng ở FL, sáng sớm mai tôi sẽ rời nơi này trở về chốn cũ. Đứng dưới chân cầu thang motel, chúng tôi nói lời từ biệt. Anh chợt với tay ôm tôi vào lòng, nâng cằm đặt một nụ hôn lên…trán. Nụ hôn dịu dàng trìu mến, nhẹ như gió. Cơn gió bất ngờ ào ạt đến rồi vội vã bay nhanh. Nụ hôn để lại dấu ấn kỷ niệm khó phai…
      Mối “tình thơ” với anh quả là thơ mộng như thuở hồng hoang. Có đời nào giữa thời đại loài người coi sex như trò con nít chơi game, hai kẻ có bề dày thời gian “chinh chiến” lại chỉ dè dặt nắm tay nhau, run run như lần đầu hò hẹn, giữ gìn lễ giáo nghiêm cẩn. Tôi mến anh chàng này quá. Anh là người bạn khác giới đúng nghĩa, để tôi chia xẻ buồn vui cay đắng giữa cuộc đời bể khổ, yên tâm không lo lắng bị cám dỗ phạm tội.

      Tôi vốn có tâm hồn thơ…thẩn thâm căn cố đế, bèn “sáng tác” một bài thơ, ghi lại cảm xúc cuộc hội nghộ quá ư là trữ tình lãng mạn:…....... Em đi rồi ai có nhớ nhung? / Gởi lại anh con đường mới dìu nhau qua mà như thân quen lắm. / Thu vừa sang lá vội đổi màu. / Gởi lại anh biển lộng gió chiều sâu. Nắm nhẹ tay nhau run run như thuở đầu đời khờ khạo…..
      Dĩ nhiên khi làm thơ thì phải thăng hoa thi vị, phải dùng lời óng ả mượt mà, thậm chí có khi còn phải lâm ly bi đát nữa, thì tình thơ mới ru được lòng người. Khi tôi hào hứng đọc cho anh nghe những lời tràn trề cảm xúc ấy thì đầu giây bên kia lặng đi một chút, rồi tiếng anh cười xòa:
- Ôi giời!... anh đưa em đi mua có chai nước thôi, vậy mà em cũng làm được bài thơ, ghê thật! Nhưng phải công nhận, bài thơ đi … mua nước của em hay lắm.
Nghe nhân vật chính phán một câu hết sức hụt hẫng, nhưng tôi mắc cười…
- Ơ…cái anh này, bài thơ tình của người ta lãng mạn vậy mà anh bảo là bài thơ … đi mua nước, rõ chán…!!!
       Tuy nói thế, nhưng tôi biết tâm trạng “anh chàng” não nùng xao xuyến lắm, vì một “mối tình” lãng…đãng như vậy mà thành thơ mới ghê. Nói theo văn chương của Dũng, đó là “tí nắng cuối đời”.
Khi nghe kể tôi và Dũng nắm tay ôm vai, đi dưới chiều thu vàng lá rụng. Khánh nói lẫy:
-Em với nó đi…mua nước tình tứ thế còn gì, anh thua rồi.
Tôi cười ha hả:
-Thua gì, anh Dũng nói anh là nhà máy sản xuất đường với mật, ảnh chạy theo không kịp. Lúc nào ổng cũng thở dài ca cẩm “lại thua nó nữa”, rồi hát khi yêu mới biết tình yêu là …khờ.

      Dũng hay thở ngắn thở dài vì bị tôi chê là hời hợt, không biết “ga lăng” phụ nữ. Hôm đi với tôi, anh cố nhớ mở cửa xe cho tôi lên đúng một lần. Những lần sau đó, khi đã ngồi chễm chệ sau tay lái, anh mới nhớ đến tôi đang còn đứng xớ rớ bên ngoài. Anh cười cười, thôi mở cửa vô đại đi em.
Dũng hay “khen” tôi:
-Em giỏi thật, một lúc “điều hành” hai …thằng “người yêu” mà vẫn vui vẻ bình yên, không có cảnh võ sĩ lên sàn thi đấu …
Tôi thở dài não nuột:
- Có ai yêu em đâu mà chẳng vui vẻ? Người này rước em đi thì người kia ăn mừng, cần gì phải thi đấu cho mệt.
Khánh cũng nói:
- Em tài thật, hai tay …lái hai thằng phi công…
      Hai anh vẫn phone cho tôi theo “ca”. Ngày nào chúng tôi cũng có chuyện để nói cười, chọc ghẹo nhau. Ngày nào cũng có người rót mật ngọt ngào cho tôi say. Ngày nào cũng có người thở dài tiếc nuối: “khi yêu mới biết tình yêu là …khùng”.

      Một …tí nắng cuối chiều thu êm dịu, đủ ấm áp một khoảng trời hiu hắt cô liêu.

Hoàng T Thanh Nga 

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

Mười Năm Tình Cũ - Trần Quảng Nam - Elvis Phương

      Từ năm 1975 đến 1985 là 10 năm,bản nhạc ra đời đã nhanh chóng đươc nhiều người yêu mến, vì bản nhạc đã nói lên nỗi lòng cùng tâm trang của hàng vạn người đã thấy mối tình của mình trong lời bài hát, và đến bây giờ gần 30 mươi năm sau bản nhạc vẫn còn sức hấp dẫn của nó.
       Vì lẽ . . .tình yêu tưởng đã cũ, tưởng đã quên, nhưng tình yêu ấy trong thời gian dài như vậy, nó vẫn còn âm ĩ trong lòng cho những ai đã mang tâm trang này.
      Tình yêu là thế đó và khi xa nhau trong nỗi nhớ nỗi thương mới thấy tình yêu của mình lúc xưa sao mà đẹp đến thế.


Nhạc Sĩ: Trần Quảng Nam
Ca Sĩ: Elvis Phương
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình