Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2020

Quy Khứ Lai Từ 歸去來辭 - Bài Ca Về Đi Thôi


Đào Tiềm (365-427), tự Uyên Minh, thi hào đời Tấn (Lục Triều) nguyên quán nay thuộc tỉnh Giang Tây. So sánh thời đại: Lý Bạch (701-762), Đỗ Phủ (712-770), Thịnh Đường. Bạch Cư Dị (772-846) Trung&Vãn Đường. Ông làm rất ít thơ và chỉ có bài Quy Khứ Lai Từ được xếp vào hàng bất hủ. Nó siêu việt đến độ ba chữ “quy khứ lai” (về đi thôi) thường xuất hiện trên bờ môi đầu lưỡi của những đại thi hào Trung quốc như Lý Bạch, Đỗ Phủ và trở thành châm ngôn của Tàu và Việt. 

Quy Khứ Lai Từ là một yêu tinh lão trượng. Nó là thủ lãnh của loại yêu tinh hưu trí. Từ những ông đồ dạy học ở thôn quê tới những thi hào hàng đầu như Lý Bạch, Đỗ Phủ, khi làm thơ về hưu trí hoặc hưởng nhàn, thường dẫn chứng 3 chữ Về Đi Thôi. Đây là lần thứ 3 Con Cò thả con yêu tinh này lang thang trong các diễn đàn, và sẽ còn tiếp tục thả nó tới chúc thọ quý vị trong mỗi năm còn lại của đời mình. Mời các bạn thưởng thức Bài Ca Về Đi Thôi của Đào Tiềm.


Nguyên tác:            Dịch âm:

歸去來辭                Quy Khứ Lai Từ 

歸去來兮                Quy khứ lai hề, 
田園將蕪 胡不歸   Điền viên tương vu, hồ bất quy!
既自以心為形役    Ký tự dĩ tâm vi hình dịch 
奚惆悵而獨悲        Hề trù trướng nhi độc bi?
悟已往之不諫        Ngộ dĩ vãng chi bất gián, 
知來者可追            Tri lai giả khả truy.
實迷途其未遠        Thực mê đồ kỳ vị viễn, 
覺今是而昨非        Giác kim thị nhi tạc phi.
舟遙遙以輕颺        Chu dao dao dĩ khinh dương,
風飄飄而吹衣        Phong phiêu phiêu nhi xuy y.
問征夫以前路        Vấn chinh phu dĩ tiền lộ, 
恨晨光之熹微        Hận thần quang chi hy vi.
乃瞻衡宇                Nãi chiêm hành vũ, 
載欣載奔                Tái hân tái bôn.
僮僕歡迎                Đồng bộc hoan nghinh, 
稚子候門                Trĩ tử hậu môn.
三徑就荒               Tam kính tựu hoang, 
松菊猶存               Tùng cúc do tồn.
攜幼入室               Huề ấu nhập thất,
有酒盈樽               Hữu tửu doanh tôn.
引壺觴以自酌       Dẫn hồ trường dĩ tự chước, 
眄庭柯以怡顏       Miện đình kha dĩ di nhan.
倚南窗以寄傲       Ỷ nam song dĩ ký ngạo, 
審容膝之易安       Thẩm dung tất chi dị an.
園日涉以成趣       Viên nhật thiệp dĩ thành thú, 
門雖設而常關       Môn tuy thiết nhi thường quan.
策扶老以流憩       Sách phù lão dĩ lưu khế, 
時矯首而遊觀       Thời kiểu thủ nhi du quan.
雲無心以出岫       Vân vô tâm dĩ xuất tụ, 
鳥倦飛而知還       Điểu quyện phi nhi tri hoàn.
景翳翳以將入       Cảnh ế ế dĩ tương nhập, 
撫孤松而盤桓       Phủ cô tùng nhi bàn hoàn.
歸去來兮              Quy khứ lai hề, 
請息交以絕遊      Thỉnh tức giao dĩ tuyệt du.
世與我而相違      Thế dữ ngã nhi tương vi, 
復駕言兮焉求       Phục giá ngôn hề yên cầu?
悅親戚之情話       Duyệt thân thích chi tình thoại, 
樂琴書以消憂       Lạc cầm thư dĩ tiêu ưu.
農人告余以春及   Nông nhân cáo dư dĩ xuân cập,
將有事於西疇      Tương hữu sự ư tây trù.
或命巾車              Hoặc mệnh cân xa, 
或棹孤舟              Hoặc trạo cô chu.
既窈窕以尋壑      Ký yểu điệu dĩ tầm hác, 
亦崎嶇而經丘      Diệc khi khu nhi kinh khâu.
木欣欣以向榮      Mộc hân hân dĩ hướng vinh, 
泉涓涓而始流      Tuyền quyên quyên nhi thuỷ lưu.
羨萬物之得時      Tiện vạn vật chi đắc thời, 
感吾生之行休      Cảm ngô sinh chi hành hưu.
已矣乎                  Dĩ hĩ hồ!
寓形宇內復幾時  Ngụ hình vũ nội phục kỷ thời, 
曷不委心任去留  Hạt bất uỷ tâm nhiệm khứ lưu?
胡為遑遑 欲何之  Hồ vi hoàng hoàng, dục hà chi?
富貴非吾願           Phú quý phi ngô nguyện, 
帝鄉不可期           Đế hương bất khả kỳ.
懷良辰以孤往       Hoài lương thần dĩ cô vãng,
或植杖而耘耔       Hoặc thực trượng nhi vân tỷ.
登東皋以舒嘯       Đăng đông cao dĩ thư khiếu,
臨清流而賦詩       Lâm thanh lưu nhi phú thi.
聊乘化以歸盡       Liêu thừa hoá dĩ quy tận,
樂夫天命復奚疑   Lạc phù thiên mệnh phục hề nghi?

Đào Tiềm
***
Chú giải: 

Khứ lai: đi và lại. Từ: lời văn, bài ca. Tương: sắp, sẽ. Vu: bỏ hoang. Hồ: sao? chẳng? Ký: đã xong. Tự: tự thân mình. Dĩ: lấy, dùng. Vi: làm. Hình: hình thể, cái hiện ra ngoài. Dịch: sai làm việc (phục dịch). Trù trướng: buồn rầu. Nhi: mà, lời nói chuyển sang ý khác. Ngộ: thấu hiểu. Gián: can gián. Giả: học giả. Truy: đuổi theo, kịp. Giác: biết, giác ngộ. Thị: phải, (trái với phi). Tạc: hôm qua. Dao: lay động. Khinh: nhẹ. (ngược với trọng). Dương: gió bay tốc lên. Phiêu phiêu: gió thổi nhẹ. Xuy: gió thổi. Hy: tang tảng sáng. Vi: nhỏ. Nãi: trợ từ. Chiêm: xem, ngẩng mặt lên mà nhìn. Vũ: mái nhà. Tải: chở. Đồng bộc: gia nhân, đầy tớ. Trĩ tử: con trẻ. Hầu: chờ chực. Kính: lối tắt. Tựu: sự đã nên. Hoang: ruộng bỏ hoang. Do: giống như, còn. Tồn: còn (ngược với vong). Doanh: đầy đủ. Tôn: chén uống rượu. Dẫn: dương cung lên, dẫn đến. Hồ: bình đựng rượu. Miến: trông, liếc. Đình: sân trước. Kha: cành cây. Di: vui vẻ, dễ dàng. Y=Ỷ: dựa vào. Song: cửa sổ. Dung: tiếp nhận bao bọc. Tất: đầu gối. Dung tất: nhà chật hẹp. Viên: vườn hoa. Thiệp: lội qua nước, trải qua. Thiết: đặt bày ra. Quan: đóng cửa. Sách: kế sách. Phù: cây gậy. Lưu: nước chẩy, chuyển động. Khế: nghỉ ngơi. Thời: thường. Kiều thủ: ngẩng đầu lên nhìn. Hà: xa, hà phương. Quan: quan sát. Tụ: hang, khe núi. Quyện: mỏi mệt. Ế ế: trời âm u. Phủ: vỗ về. Bàn hoàn: không dứt ra được. Thỉnh: cầu mong. Tức: thôi, nghỉ. Dữ: cùng với. Vi: lìa ra, trái ngược. Phục: đáp lại, lại lần nữa. Giá: tiến hành. Ngô: tôi. An: ở đó, há, sao, vậy…trợ từ dùng dứt câu. Duyệt: hài lòng. Thoại: nói chuyện. Dư: ta. Ư: ở, chưng, trợ từ. Trù: ruộng cấy lúa. Mệnh: sai bảo. Cân: khăn tay đội đầu. Cân xa: xe có mui. Trạo châu: chèo thuyền. Yểu điệu: sâu thẳm. Hác: khe nước ở chân núi. Diệc: cũng, cũng theo. Kỳ khu: đường khấp khểnh. Kinh khâu: gò đất. Hân hân: vui vẻ. Vinh: cây cỏ tốt tươi. Toàn: suối, nguồn nước. Quyên quyên: dòng nước nhỏ trong sạch. Thủy: mới, bắt đầu. Cảm: cảm khái. Ngô=ngã: ta. Sanh. Hành, hưu: lúc sinh ra, làm việc và nghỉ hưu. Ngụ: nhờ, ở đậu. Vũ nội: vũ trụ. Năng: tài năng. Kỷ: bao nhiêu. Hạt: sao? chẳng? Ủy: uỷ thác. Nhậm: gánh vác. Hoàng: nghỉ thư nhàn. Dục: muốn. Hà chi: đi đâu? Đế hương: quê nhà Trời, thiên đường. Kỳ: trông mong. Hoài: nhớ trong lòng. Lương: tốt lành. Thần: buổi sáng sớm. Vãng: đã qua. Thực: trồng cây, cắm. Trượng: cây gậy. Đăng: trèo lên cao. Thư: thư dãn, nhàn. Khiếu: kêu, hát to. Thanh lư: dòng nước trong. Liêu: hãy. Thừa: cỡi xe. Hóa: thay đổi tự nhiên. Thừa hóa dĩ quy tận: nhân cái chết đến do luật tạo hóa. Phù: giúp. Nghi: ngờ.

Dịch thơ: 
Bài Ca Về Đi Thôi

Về đi thôi hề! 
Ruộng vườn hoang phế sao chưa về?
Lòng tự nhủ bản thân phục dịch 
Cớ sao còn buồn bã sầu bi? 
Quá khứ đã dở dang hề 
Tương lai còn bắt kịp. 
Lạc đường chưa quá xa hề 
Xưa lỡ lầm nay còn dịp. 
Thuyền thênh thênh theo gió lướt 
Gió vi vu tà áo bay. 
Hỏi chinh phu đường phía trước 
Tiếc bình minh ánh chưa đầy. 
Thấy mái nhà xưa
Hân hoan rảo bước 
Đồng bộc đón chờ 
Trẻ thơ cửa trước 
Lối ngõ hoang sơ 
Y nguyên tùng cúc. * 
Ẵm trẻ vô nhà 
Rượu hồ ngon ngọt *
Nâng hồ trường hề tự rót 
Nhìn cây lá mỉm miệng cười. 
Dựa cửa nam hề cao ngạo 
Nhà chật chội lòng vui tươi
Thú chơi vườn hề thành thạo 
Cửa sẵn có luôn then cài.
Nương gậy tre hề bước dạo 
Ngẩng đầu lên nhìn xa xôi. 
Chim mỏi cánh hề về cội 
Mây lững lờ qua núi khe 
Trời âm u hề xập tối 
Ôm cây tùng đứng mải mê.
Về đi thôi hề! 
Không mong giao du với ai 
Ta và đời nhiều tương phản
Chẳng làm gì được nữa rồi. 
Họ hàng thân thương đàm thoại 
Tiêu sầu đàn sách vui chơi 
Nông dân thông báo xuân vừa tới 
Mùa cấy cày sắp đến nơi. 
Hoặc vời xe lại
Hoặc thả thuyền bơi 
Tìm nơi thâm sâu khe đá 
Hay chốn gập ghềnh núi đồi 
Trong veo suối nguồn nước chảy 
Thanh thanh cây cỏ xinh tươi 
Muôn loài gặp thời thuận lợi 
Sinh, làm, hưu hề cảm hoài. 
Ôi vậy sao! 
Hình hài này sống gởi bao lâu? 
Sao không lui tới bất kỳ đâu? 
Sao không nhàn hạ còn đi nữa? 
Phú quí không thèm lựa
Thiên đường chẳng cầu mong. 
Sáng đẹp một mình tản bộ 
Khuôn viên cây cỏ vun trồng 
Trèo lên đồi cao ca hát
Vịnh thơ bên dòng nước trong
Thuận tử sinh về cõi diệt 
Vui theo thiên mệnh há ngại ngùng? 

Con Cò
***
Bài Hát Về Đi Thôi

Về đi thôi hề, ruộng vườn hoang vu, sao chẳng về đi! 
Trót giao hồn cho thân sai khiến, sao hãy còn độc sầu bi? 
Hiểu chuyện đã qua không ngăn lại được, biết tương lai sửa đổi chút gì 
Cảm việc qua lầm, chuyện nay phải, bởi đường mê vừa mới chớm đi 
Thuyền nhè nhẹ lướt cao bay, gió lay lay áo xuân thì 
Hỏi khách đường xa trước mặt, hận nắng ban mai chẳng thấy gì! 

Nhác thấy dáng nhà, bước vội như bay 
Đầy tớ vui đón, trẻ nít một bầy 
Vườn hoang lối nhỏ, tùng cúc còn đây 
Dắt con vào nhà, ly rượu tràn đầy! 

Mở bầu rượu tay tự rót, ngắm cỏ cây nét mặt tươi 
Dựa cửa nam lòng kiêu ngạo, hẹp gối co đủ môi cười 
Dạo vườn quen lâu thành thú, cửa sẵn khoen tiện khép hoài 
Chống gậy lão đi thơ thẩn, thường ngước mặt ngóng xa vời 
Mây vô tâm ra khe núi, chim bay mỏi nhớ chốn nơi 
Cảnh mờ mờ trời dần khuất, vỗ thông côi dạ bồi hồi 

Về đi thôi hề, đoạn tuyệt giao tiếp từ đây 
Ta với đời đà dứt bỏ, lời suông hề ước xum vầy? 
Thích tâm tình cùng thân thuộc, vui đàn sách để giải khuây 
Nông dân nhắc ta xuân sắp đến, sẽ làm mùa tại cánh đồng tây 
Hoặc chèo thuyền nhỏ, hoặc ngồi xe quây 
Đã lòng vòng tìm khe hang hốc, lại gập ghềnh qua chốn gò mây 
Suối êm đềm thuận trôi chảy, hớn hở tươi tốt cỏ cây 
Chuộng được mùa dành cho vạn vật. Cảm đời mình xuất-xử xưa nay 

Thôi hết rồi 
Hình hài ngụ bao lâu trong vũ trụ, sao không để lòng thỏa chí ở-đi 
Sao còn tất tả, ước mong gì? 
Giầu sang không ước nguyện, cảnh tiên chẳng hẹn kỳ 
Khi đẹp trời một mình dạo bước, dùng gậy vun cỏ lúa từng khi 
Lên bãi đông giọng cao đọc sách, đến suối trong làm mấy bài thi 
Mặc mọi điều tận cùng biến hóa, vui với mệnh trời chẳng hề nghi! 

Lộc Bắc 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét