Thứ Hai, 16 tháng 2, 2015

Tôi Cưới Vợ


      Hồi học lớp đệ tứ (lớp 9 bây giờ), tôi có đọc đâu đó truyện ngắn tựa là "Lấy vợ miền quê", của tác giả nào tôi quên. Tôi rất khoái truyện ngắn nầy và định bụng lớn lên mình cũng “lấy vợ miền quê” như tác giả kia. 
      Nói thì hơi xấu hổ, vừa đậu Tú Tài phần hai, lúc đó tôi mới 18 tuổi tây, tức 19 tuổi ta, mà tôi đã..."muốn vợ"! Con trai mà “muốn" chuyện gì thì thường vòi vĩnh với mẹ, như chiếc xe đạp, đồng hồ, quần áo mới, kể cả chiếc solex cáu cạnh tôi đang chạy, mà chỉ hàng “thiếu gia”... ở tỉnh như tôi mới có. 

      Những thứ đó tôi đều manh dạn nói với mẹ, và lần nào cũng vậy, mẹ tôi không cần suy nghĩ mà “ô kê” liền. Còn cái vụ "muốn vợ" nầy, tôi có miệng mà chẳng thốt nên lời! Tôi định bụng lúc nào mẹ vui và khi chỉ có hai mẹ con ở nhà thì tôi "tâm sự" liền. Mẹ lúc nào lại không vui! 
Vả lại tôi là con một trong gia dình, chỉ cần ba tôi đi uống cà phê hay đi đâu đó thì có biết bao nhiêu dịp… may! 
Thế mà khi thấy mẹ ngồi, tôi vừa xề lại thì bao dũng khí đã tiêu tan! 
Bao lần như vậy, dường như bà để ý, giọng ngọt ngào cố hữu: 
- Gì đó con trai cưng? Muốn gì nữa phải không? 
Lúc đó tôi chỉ cần một “gờ-ram” dũng khí, thêm một tiếng "vợ" sau tiếng "muốn" của me tôi thì đòn cân cục diện đâu lại vào đấy rồi. 
Đàng nầy tôi lại nhút nhát, rụt rè! – Điều nầy, vốn không phải là bản tính của tôi: 
- Dạ... có "muốn" gì đâu mẹ! 
      Trả lời xong tôi thấy ấm ức, giận mình sao quá yếu gan! Thì may thay, vợ chồng anh hai Trân tới chơi. Anh với tôi là chú bác ruột tôi. Hai Trân là con trai trưởng của bác hai, còn cha tôi đến thứ chín, nên ảnh nhỏ hơn cha tôi chẳng bao nhiêu. Anh rất vui tính, cởi mở, lẹ làng, sốt sắng. Cái gì cũng chịu hoạch toẹt, không chịu úp úp mở mở, nên có khi hơi lố lố. Vậy mà tôi lại quý mến anh ở điểm nầy nhất, mới lạ! 
Chưa chào hỏi mẹ tôi, anh nhìn tôi bôm bốp: 
- Đậu (Tú Tài ) rồi hả mậy? Là người lớn rồi, cưới vợ được rồi đó nghen! 
Thuở đó đậu Tú Tài cũng oai lắm, kiếm việc làm dễ như chơi. Trong thân tộc có người đậu tú tài là niềm hãnh diện chung. Nghe anh nói, tôi khoái chí tử, nhưng cũng làm bộ: 
- Mới bây lớn mà có vợ gì anh ơi! 
- Sao lại “bây lớn"? Hồi tao cỡ mầy là con cu biết gáy rồi. Mầy hỏi chú chín.... 
Chị hai thúc mạnh vào hông chồng: 
- Nói bậy không hà! Thím chín kìa!.. Chú nó còn nhỏ... 
- Nhỏ nhỏ cái gì? Cỡ tuổi nó tôi có con rồi! 
Tôi mỉm cười, thấy thích anh lạ! Anh hai quay sang mẹ tôi: 
- Thím chín! Em lớn rồi nghen thím. “Nam đại bất hôn như liệt mã vô cương”đó thím. Em nó đẹp trai, học giỏi, nhà giàu, mà thím không chịu cưới vợ cho nó là có ngày có người bồng cháu nội về cho thím nuôi đó! 
Chị hai nạt: 
- Nói bậy không hà! Cái tật không bỏ! 
Anh hai nói chuyện thường chêm vào mấy câu chữ nho, những lần đó tôi cũng bực mình, vì có câu tôi cũng không hiểu nghĩa rõ ràng. 
Câu anh vừa nói tôi hiểu, xem ra nó cũng hay đó chứ! Còn chị hai, là người phụ nữ nết na, đẹp lại hiền, hay kìm chế chồng những khi anh quá trớn. Đặc biệt lần nầy tôi lại thấy chị hơi… quá trớn! 
Mẹ mỉm cười: 
- Biết nó chịu không mà cưới? 
Tim tôi đập thình thịch. Không ngờ diễn tiến lại thuận lợi như vậy. Mẹ nói thế tức là nếu tôi "chịu" thì mẹ cưới chứ gì? Ôi con đường... cưới vợ sao mà hanh thông như vậy! 
Anh hai quyết liệt: 
- Sao lại hổng chịu thím? Hỏng lẽ nó muốn vợ nó lại la làng lên sao? 
Hồi trước con muốn vợ, con cũng đâu dám nói cho má con mà phải nhờ chú chín mở hơi giùm. Thím quên rồi sao? 
Quay qua tôi, anh dịu giọng: 
- Nè cưng, anh hai hỏi thiệt nghen, cưng có muốn cưới vợ không? 
Phải nói là nhờ anh hai mà lòng tôi tràn dũng khí. Tôi quyết không bỏ lỡ cơ hội. Chỉ cần tôi nói một tiếng "muốn" là bài toán có đáp số ngay, và bao nhiêu đè nén trong lòng bấy lâu chắc chắn giờ đây tan biến! 
Nhưng như vậy xem phàm phu quá! Tôi cười cười, đợi cho mọi người chờ một lát, thần khẩu xui tôi phát ra một câu quá tuyệt vời: 
- Thì hồi trước anh hai sao thì giờ em vậy thôi! 
Mọi nghười cười rần và mang ý nghĩa khác nhau. Tôi cười cho... đở mắc cở. Chị hai cười xòa góp phần vui; anh hai cười ngất, cười sặc sụa của người thích chí; còn mẹ thì cười hiền hòa, sung sướng, lấy tay áo chậm hai khóe mắt rưng rưng. Tôi thấy thương mẹ vô cùng, sà vào lòng mẹ. Dù 
là một cậu tú, nhưng với mẹ, tôi vẫn thường thích mẹ vuốt ve như thuở lên ba. Mẹ vò tóc tôi, nói với anh chị hai: 
- Bây thấy hôn? Nó làm còn như nhỏ lắm vậy! 
Mẹ hỏi tôi: 
- Bộ con có để ý bạn gái nào ở trường hả? 
Tôi lắc đầu. Mẹ bảo: 
- Vậy thì mẹ biết ai mà cưới cho con? 
Anh hai nhanh nhẩu: 
- Thì làm mai! Hồi trước chú chín cũng vậy, con cũng vậy. Có ai thương yêu ai trước đâu? (liếc sang chị hai) Chừng về ở chung cũng khoái thấy mồ... 
Anh phủi bàn tay chị hai định nhéo vào hông anh: 
- Vậy chớ hỏng phải sao? 
Rồi quay sang tôi, anh lại ngọt ngào và xôm tụ: 
- Nè, bây giờ em chưa quen ai phải không? E hèm! Hồi trước anh cũng vậy thôi. Có sao? Nhưng em phải cho thím chín và anh chị hai đây biết mẫu người em ưng thế nào thì ở đây mới kiếm cho em được chứ! Thí dụ, hồi trước anh ra tiêu chuẩn là phải vừa đẹp, vừa hiền, vừa có chút học vấn. 
Em thấy hôn, chị hai đúng bon tiêu chuẩn đó, Anh thấy là khoái liền. 
Hề hề…! 
Tôi thấy mặt chị hai đỏ lên vì sung sướng: 
- Nói không biết mắc cở.... 
Sẵn đà, tôi tiếp: 
- Mà phải ở miệt vườn nữa em mới chịu. 
Anh hai có vẻ cụt hứng, còn mẹ thì có vẻ vui: 
- Phải đó à bây, con gái ở vườn nó nết na, thùy mị, giỏi giang. 
Anh hai cười. lại xông xáo: 
- Trúng tủ bả rồi! Mà cũng dễ thôi! Thím bán tạp hóa lớn, mối mang miệt vườn biết bao nhiêu, nhờ họ mối lái giùm. 
Chị hai: 
- Sao hăng hái dữ! Mai mốt anh hai chịu lạy đó nghen! 
- Tất nhiên! tất nhiên! 
Thói thường người ta tin tưởng vào những gì mình hy vọng, và sợ mất những gì mình có. Mẹ đã xong rồi, còn ba thì sao? Ba thường hay chìu ý mẹ dù đôi khi ý mẹ có đôi chút ông chẳng hài lòng, nhưng đó là những việc nhỏ đời thường, còn đây là "hôn nhân đại sự", liệu ba có còn chìu 
mẹ hay không? 
Ngày hôm sau, tôi thấy ba có vẻ khác khác - vậy là mẹ nói với ba rồi! 
Ba ít nói, có chiều nghĩ ngợi. Khi giáp mặt tôi, ba mỉm cười khó hiểu. Phúc hay là họa đây! 
Rồi ngày tôi chờ đợi cũng đến. “Phái đoàn” gồm ba mẹ, anh chị hai và tất nhiên có vai chánh là tôi. Thật khó tả được bao cảm xúc bồn chồn lo lắng, hồi hộp, đủ thứ lộn xộn trong lòng tôi. Mẹ tôi cứ dặn dò đủ mọi việc, hết chuyện nọ tới chuyện kia, đến nỗi khó mà nhớ hết; còn anh hai thì cứ lải nhải bên tai "bình tỉnh, bình tỉnh, đừng có run". Nhà ông nhạc tôi (tạm gọi vậy) ở xã Ngũ Hiệp, cách thành phố Mỹ tho 30 
cây số về hướng tây. Chợ Ngũ Hiệp nằm bên kia sông, muốn qua phải nhờ một phà nhỏ. Từ chợ, theo lời bà mai, chúng tôi phải đi bộ thêm gần ngàn mét nữa. Nghe vậy anh hai nói với tôi: 
- Như vậy là "vườn trong vườn" rồi phải không cưng? Tiêu chuẩn một đạt hai trăm phần trăm rồi hén! 
Chị hai cau mặt: 
- Cái ông nầy lúc nào cũng đùa được. 
Thật vậy, đây là vùng trù phú đất đai, cây lành trái ngọt. không biết cơ man nào là cây trái quả mọng trĩu cành! Cam, bưởi, sa bô, dừa, vú sữa, nhãn, chôm chôm... nhất là sầu riêng cây nào cây nấy chân tay đeo đầy nghẹt quả, theo gió thơm lừng. Bà mai chỉ tay về căn nhà ngói kiểu 
xưa (kiểu "chữ đinh") nói: 
- Nhà đó đó. 
Tất cả dừng lại “hội ý”. Mẹ khẩn trương thấy rõ, lại dặn dò: 
- Nhớ những gì mẹ dặn nghen con!” 
- Dạ! 
Anh hai cũng thì thào: 
- Nhà cất kiểu nầy mà gặp ông già củ tỏi thì mệt lắm à nghen! 
Chị hai nạt nhỏ: 
- Ông lo cái miệng ông đó. Vô đó nói bậy đi! 
Bà mai vô trước, mẹ sửa lại áo quần tôi chưa xong thì có người ra mời vào. Giờ phút nầy tôi càng thấy tình mẫu tử bao la như thế nào. Mẹ hồi hộp như sắp bước vào nơi hang hùm nọc rắn không bằng, lại điệp khúc "Nhớ nghe con!" lại phát ra! 
Vừa vào cỗng, tôi bị hốt hồn vì hơn hai chục cặp mắt, đủ hạng tuổi, nhiều nhất là trẻ em chăm chú vào tôi, một bà trạc tuổi mẹ có lẽ thông cảm được điều ấy, bèn rầy đám nhỏ: 
- Nè, mấy đứa làm gì tụ tập lại đây dữ vậy? Có đi hết không? 
Đám trẻ tản đi vài bước rồi bẽn lẽn đứng nhìn. Phòng khách được bài trí hai bàn. Bàn giữa gồm ba mẹ tôi, bà mai, ông 
bà nhạc và hai vị cao niên. Bàn bên có anh chị hai tôi và bốn người bên gái cùng trang lứa. 
Phần tôi nghe lời mẹ là không được ngồi, mà đứng sau ghế cha mẹ, hai tay xếp lại để dưới bụng (nếu đã mời trà xong), tư thế y như lính hầu ở phủ huyện, hay các thái giám ở cung đình hầu hạ đức vua! 
Theo cách nói chuyện… lại có dịp đứng trước nhạc phụ mẫu; tôi biết ông bà là người cởi mở, dễ tính. Câu chuyện của hai "sui" càng lâu càng khởi sắc tốt đẹp. Dần dà khách khí không còn, mà như đã quen nhau từ trước vậy. 
Bỗng Ông nhạc gọi: 
- Con hai đâu, châm trà mới đi con! 
Một tiếng "dạ" thảnh thót không kém Điêu Thuyền thời Tam Quốc từ nhà dưới vọng lên làm tim tôi rộn ràng. “Phái đoàn” nhà trai ai cũng hồi hộp chờ đợi. Bởi ai cũng biết bảo “châm trà” chẳng qua là lời nói khéo cho con mình ra chào để nhà trai “coi mắt” đó thôi! 
Mẹ quay lại nhìn tôi mỉm cười, thầm bảo ”hãy xem kỹ vì thời gian không lâu”. Tôi chưa kip mỉm cười với mẹ thì rèm hoa lay động, một kiều nữ vận bộ bà ba, không phấn không son mà má phấn môi hồng.Tóc dài phủ long gọn gàng bởi chiếc kẹp vàng có đính bông hồng chói lọi. Thoạt trông, tôi giật nẩy người, đến nỗi bố vợ nhìn thấy. Đợi giai nhân chăm 
trà xong, ông vội bảo: 
- À quên nữa, cháu qua bên ngồi uống nước, hay cứ ra ngoài dạo cho thoải mái. 
Mẹ lại quay ra tôi, nhướng mày, thầm bảo “hãy đi đi con”, vì thực ra, ông nhạc cũng ngầm ý cho tôi và vợ tôi gặp nhau để “tìm hiểu”, dù thời lượng ít oi, nhưng nếu tri túc ắt tiện túc mà thôi! Mọi sự đều được người lớn sắp xếp có bài có bản và, có màn có lớp hẳn hoi! 
Không khí bên ngoài thực thoải mái. Nhiều loại cây trái lớn nhỏ thi nhau che rợp ánh mặt trời làm mát rượi cả một không gian rộng. Vài tia sáng yếu ớt cố gắng chen vào đất tạo thành những đóm trắng lưa thưa đây đó tựa rãi hoa. Mùi sầu riêng thơm lừng. Hàng sa-pô thẳng tắp trái nặng sai oằn. Mấy nhánh ổi cho trái bóng láng no tròn, rục mềm rơi rụng tứ tung, tỏa hương thơm bát ngát. Chim hót líu lo, bướm vờn thẳng cánh. 
Đàn ong tranh nhau hút mật của trăm ngàn hoa đủ sắc đủ màu. Rõ ràng là vùng đất lành thừa mứa cây lành trái ngọt. 
Bên sau một giọng êm đềm: 
- Biết người ta ưng hay không mà dám đi hỏi vậy? 
Tôi quay lại, thì ra là vợ tôi, (tạm gọi vậy), mà cũng là Vi, người đã làm tôi kinh ngạc đến đánh thót cả người khi nãy! 
Vi là bạn học cùng lớp với tôi hồi năm đệ tứ. Hồi đó lớp đệ tứ được xem là cái “móc” của sự chia tay. Bởi con trai, nếu thi rớt thì cha mẹ thường cho nghỉ để học nghề, còn thi đậu (cấp bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp) thì cũng mỗi người một hướng đi: Vào sư phạm hoặc gành nghề nào đó, hoặc học tiếp ba năm nữa để lấy Tú Tài rồi lên đai học. Con gái thì ít người được học đến chốn đến nơi. Rớt hay đậu cũng th ường bị cha mẹ cho nghỉ mà lo phụ việc nhà, viện lẽ con gái “học cao” khó có chồng! Vi cũng nằm trong số phận nầy. Bởi vậy cuối năm đệ tứ, chúng tôi thường trao nhau lưu bút, mọi người đều nắn nót tuồng chữ cho trang mình thường tặng cả ảnh, dán vào giữa trang viết, dưới đề: 
"Thương nhau mới tặng ảnh nầy, 
Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau' 
Dù cho ảnh có phai màu, 
Cũng đừng xé bỏ mà đau lòng người!” 


Không biết bốn câu thơ ấy là của tác giả nào, sáng tác tự bao giờ, mà đến nay, thỉnh thoảng tôi lại thấy sau bức ảnh ”tặng nhau” của các em cũng có đề như vậy. 
Hơi lạc đề, nhưng nói thêm cho vui: Hồi đó tôi cũng có quyển lưu bút, tất nhiên khi ai nhận thì cũng nắn nót từng chữ và giữ sạch sẽ như nói ở trên. Khi tôi đưa cho thằng Nhứt, ngày sau nó trả (thường thì vậy), nó viết vào trang đôi mấy chữ tổ bố: “Lưu niệm làm cái xê bình phương 
gì?" (2), rồi láu cá ký tên giáp cả hai trang giấy! 
Tôi xem giận run. Cự nó. Nó cười: “Để sau nầy mầy nhớ tao”. 
Tôi nghe cũng xìu lòng. Quả thật, đến giờ, nó là người tôi nhớ nhất. 
Và đến ngày cuối, chúng tôi tổ chức tiệc liên hoan cuối khóa tại lớp. 
Văn nghệ xung quanh các bài hát về “mùa chia tay”, “tạm biệt”, “nỗi buồn hoa phượng”... Tôi có sở trường ngâm thơ, ngâm hai bài thơ Đường luật, bài đầu của thầy H.C, giáo sư sử địa (3), bài nầy tôi chỉ nhớ hai câu cuối: 
“... 
Rồi đây nếu chẳng sau mùa phượng, 
Tất cũng mai kia ở chợ đời!” 

Và bài họa của tôi: 
"Việc cũ, ngàn sau vẫn đổi dời. 
Chút tình tâm huyết nói sao vơi? 
Luyến lưu kẻ ở đôi dòng lệ, 
Tiếc nhớ người đi một góc trời 
Chín tháng vui buồn trong một lớp, 
Vài giây ly biệt rẽ ngàn khơi, 
Đường mây một kẻ hanh thông bước, 
Một kẻ lang thang giữa chợ đời! 
(Thơ Kha Tiệm Ly) 

      Đám con gái mắt đỏ hoe, có đứa khóc thành tiếng. Chúng tôi lai tặng quà lưu niệm cho các bạn “nghỉ luôn”. Tôi tặng Vi cái kẹp tóc bằng vàng 14 (tôi là... “thiếu gia” mà! Vàng hồi đó rẻ lắm, đàn bà con gái chẳng thấy ai đeo, có đeo thì cũng sơ sài, đeo nhiều mắc cở, bị coi là “quê”; không thấy ai đeo cục cục như giờ. Vi tặng lai cho tôi cây bút Pilot nắp vàng, loại cao cấp nhất thời ấy. 
- Sao không trả lời? 
Vi nghiêm trang như thuở nào, tôi hơi chột dạ: 
- Thật lòng tôi không ngờ mình đi hỏi cưới Vi. Đã bao năm rồi, vả lại lúc đó mình còn nhỏ cả mà! 
- Bộ mấy năm qua không nhớ chút gì về Vi sao? 
- Vẫn nhớ về người bạn nhỏ hiền lành, nhiều nước mắt. 
Vi vừa đưa tay rút cây viết trên túi áo tôi, vừa nói: 
- Xin lỗi nghe, cho Vi mượn. 
Rồi xoay cán viết, nhìn những dòng chữ khắc trên ấy, Vi có vẻ xúc động: 
- Vẫn còn giữ của Vi à? 
Tôi không đáp, nhìn hai rèm mi chơm chớp, tôi thấy Vi đẹp não nùng. 
Tôi nắm lấy tay Vi: 
- Không ngờ lại gặp lại Vi. Chẳng phải không có duyên số hay sao? Vi đồng ý nhé! 
Vi tủm tỉm cười: 
- Nếu em không ưng thì sao? 
- Thì anh về, nhưng xin gởi trái tim anh lại. 
Lại cười: 
- Rõ là thi sĩ! Em đã đồng ý từ khi bà mai nói chuyện với ba mẹ, đâu phải đến bây giờ. 
- Không biết mặt làm sao ưng? 
Vi kéo mái tóc về phía trước ngực: 
- Khờ quá đi! Mọi người ở đây ai không biết con trai một của tiệm tạp hóa Vạn Phát, chứ em thì rành lắm. Vị “công tử” ấy còn tặng cho em chiếc kẹp xinh đẹp nầy nữa phải không? 
Trên đường về, mẹ luôn miệng với ba: 
- Con nhỏ xem nết na và lịch sự (4) ghê ông há?". 
Lại lo ngại: 
- Hổng biết nó có ưng thằng con trai cưng tôi không nữa?” 
Nãy giờ tôi lặng thinh, nhớ lại những lời nói của Vi mà thấy lòng hân hoan lạ. Nhưng thấy mẹ cứ lo lắng mãi, tôi mói nói: 
- Chắc ăn rồi mẹ ơi! Mẹ đừng lo! 
Mẹ nghi ngờ. Anh hai nói: 
- Hồi nãy ngoài vườn tụi nó nói chuyện, chỉ cần khi về, đá lông nheo một cái là kể như xong. Thím lo gì! 
Ba châm vào: 
- Hồi trước bả cũng vậy, sao bả mau quên quá! 
Không biết mẹ đánh hay phủi bụi cho ba:: 
- Cha già mất nết! 
oOo 

      Thế là chậm lắm khoảng một tuần, mươi ngày tôi đều đến tham nhạc gia, nhạc mẫu. Ba mẹ vợ tôi đều nhân hậu, nghiêm khắc với con cái nhưng xem chừng ”dễ” với thằng rể tương lai. 
Trước khi đi, ba tôi dặn. Con đến đó thấy cái gì làm được thì làm, chứ đừng lấy mắt ngó là không được! Ngày xưa trước khi cưới, phải làm rể ba năm: Chẻ củi, vác lúa, cày bừa, làm đủ thứ nặng nhọc, chứ chẳng phải chơi đâu! 
      Nhưng tôi biết cái gì mà làm, mà phụ? Lần đầu đến, tôi thấy ba vợ tôi đang chài cá, thấy tôi sựng rựng, ông hiểu ý, nói: 
- Con đứng chơi, ba vãi vài chài nữa ba vô. 
Thế coi sao được! Đợi mỗi khi ba kéo chài lên, tôi phụ gỡ cá, mà có được đâu! Tôi đụng tới con nào thì con ấy giãy rồn rột, rách cả tay, có khi phóng lại xuống mương; trong lúc ông bỏ vào giỏ lia lịa như bỏ đá vào vậy! 
      Một lần thì thấy ông đang chiết nhánh cây, cái nầy tôi càng mù tịt, nhưng cũng có việc làm là... đưa dây cho ba tôi cột “bầu”; cái công việc không cần người phụ tá! 
Ba vợ tôi rất điệu đời, ông thường bảo vợ tôi dắt tôi ra vườn xem có “cái gì nó thích thì hái nó ăn”. Tôi biết ba tạo điều kiện cho chúng tôi chuyện trò. Ông dư hiểu, bởi nói tiếng là thăm cha mẹ vợ, nhưng chủ yếu của chàng rể tương lai nào cũng là thăm... vợ cho đở nhớ mà thôi. 
Nếu không, tại sao mỗi lần đến thăm mà cha mẹ vợ đi vắng thì chàng rể lại hớn hở trong lòng!? 
Vườn nhà vợ tôi đủ loại cây nên có trái quanh năm, chúng chen chút nhau nên chỉ cách hơn mười thước là không thấy dáng người. Tôi có cảm tưởng như hoàng tử gặp công chúa trong rừng vậy! Đến hàng dừa tơ, quày ôn trĩu trái màu vang rực, sai oằn đụng tới mép mương, Vi đưa tôi dao, 
bảo: 
- Chặt dừa uống nhé! 
- Trái nào đây? 
- Thì tùy chọn 
      Khổ sở lắm tôi mới đem được hai trái dừa rời quày được. Dùng dao chặt phần đầu có cuống. Dao bén ngót mà tôi phạt năm bảy nhát liền mà vỏ dừa chỉ dập dập, trầy trầy, tung mấy miếng văm! Vi cười khoe hai hàm răng đều như hạt bắp: 
- Để nô tì giúp cho, thưa công tử! 
Giành lấy dao, Vi chỉ phập ba nhát nhẹ nhàng mà vỏ dừa tách ra từng mảng lớn, nhát thứ tư, nhẹ hơn, chạm vào gáo, Vi thuần thục lách nhẹ lưỡi dao, để lộ phần “cái” trắng bóc mịn màng, bao quanh phần nước sóng sánh trong veo! Một tay đưa dừa cho tôi, tay kia chỉ chỉ vào trái dừa 
bảo: 
- Chặt dừa phải chặt đầu lớn nầy nầy, Lưỡi dao phải để hơi xiêng. Ai đời ở trên bổ xuống... 90 độ. Làm sao đứt được? 
Lợi dụng tôi nắm lấy cổ tay tròn trịa mịn màng của Vi, ghé mũi xuống hít một hơi dài. Vi vẫn để yên nhưng bặm môi: 
- Có thấy con dao ở đây không thì bảo? 
Rồi cùng cười, tôi hít mũi chọc: 
- Còn ngọt hơn cả nước dừa! 
Đến địa phận chuyên canh sầu riêng. Ôi! hàng hàng thẳng tắp. Không biết cơ man nào là trái đậu trên cành! Toòng teng nhỏ to đủ cở, lủng la, lủng lẳng tầng thấp tầng cao, xem vô cùng ngoạn mục. Tôi hỏi: 
- Nghe nói sầu riêng chỉ rụng về đêm, phải không? 
- Sao lạ vậy? 
- Thì ... trời khiến để đừng bể đầu người! 
Vi cười ngoặt ngoẽo: 
- Sao trái dừa vẫn rụng ban ngày? Bộ trái dừa không làm bể được đầu người? Chủ vườn nòi vậy để cho mấy thằng ăn trộm không dám lẻn vào đó thôi! 
Rồi chỉ vào phía trước, bảo: 
- Có hai trái rụng kìa! Anh lại lượm đi! Coi chừng nó "bịch" một cái là hết có vợ đo.o..ó! 
Tôi nhìn lên, thấy hàng trăm trái lòng thòng, gai tua tủa, giống như những quả chùy của các võ tướng ngày xưa. Nói dại, nếu nó mà"phịch" xuống một cái như lời Vi nói thì dù không bể đầu, thì mặt mũi chắc cũng khó coi! Dợm chạy đi, bỗng luồng gió quái ác từ đâu lùa tới, bèn chột dạ, tôi dừng lại. Vi cười ngất: 
- Coi vậy mà cũng sợ mất vợ hén! 
Tôi chữa thẹn: 
- Vậy chớ vợ như Tây Thi thì chết sao dành! 
Má Vi càng đỏ thêm, nắm tay lại giá giá vào tôi: 
- Cái tật nịnh....... 
Tôi vừa dặt hai trái sầu riêng xuống thì Vi bảo: 
- Tách ra đi! 
Nói đoạn lại bờ rào tìm hái những nhánh bông. tôi lui cui lấy dao chặt phình phịch vào đầu lớn trái sầu riêng, dao cũng để xiêng một góc mà xem ra vỏ sầu riêng còn dai hơn cả vỏ dừa. Thật tình, sầu riêng tôi ăn có hàng trăm nhưng mỗi lần đều được mẹ bóc sẵn bỏ vào tủ lạnh, nên có biết gì đâu! 
Tôi lật qua, lật lại, chợt nhớ tới cái vỏ sầu riêng mẹ bóc xong đâu có trầy trụa, hay mất một góc đàng đầu trái, mà xem ra nó còn nguyên vẹn giống như một chiếc xuồng! Tôi sửa lại rồi dùng dao bổ theo chiều dọc, cũng chẳng ăn thua! Mệt, tôi định gọi cầu cứu, thì Vi đã đứng sát bên tôi bụm miệng cười tự lúc nào... 
Rõ ràng là Vi biết tôi không làm được mà cố chọc chơi! Bèn ngồi xuống, lấy dao, vừa làm vừa dạy đời: 
- Hồi nãy em bảo công tử “tách” ra chứ có bảo “chặt” đâu mà làm như bửa củi vậy? Đây nè, chỗ nầy lúc nào cũng có một khe hở. Chỉ cần để mũi dao vào đây rồi dùng đòn bẩy Ạc-Shi-Met là xong. Làm rể kiểu nầy mất vợ như chơi. 
Tôi bá lấy cổ Vi: 
- Giỏi quá, để anh thưởng cho một cái. 
Vi nhắm mắt, lắc đầu quầy quậy: 
- H..ô..ông..! 
Đợi khi tôi “chụt” xong, Vi mới mở mắt ra, chỉ tay vào vỏ sầu riêng, nói: 
- Cái vỏ sầu riêng nầy mà vô mặt thì còn hơn té thùng đinh nữa đó! 
Lần nào cũng có chuyện tương tự như vậy, thử hỏi sao tôi không khoái về thăm... ông bà nhạc? 
Gần tới ngày cưới, tội nghiệp Vi gầy thấy rõ. Sau nầy tôi mới biết, là con gái trưởng trong gia đình, Vi lo lắng sắp xếp mọi thứ, lại nghĩ tới ngày theo chồng, xa mẹ bỏ em nên đủ thứ tình cảm ray rức trong lòng. Vậy mà trò chuyện với tôi một hồi, mặt hoa lại rạng rỡ, nói nhỏ cho tôi vừa nghe, như một chuyện gì quan trong lắm: 
- Làm rể mà lỏng nhỏng không động móng tay, cứ đeo sát con gái người ta hoài không sợ bà con họ nói sao? 
Ba vợ tôi thường bảo tôi: “Con ở chợ không quen việc ở vườn. Con cứ về thăm, khỏi làm gì hết, đừng ngại, cứ coi như ở nhà con”. 
Tôi đem lời nầy nói cho vợ nghe, rồi châm thêm: 
- Vậy chứ anh có việc gì để làm? 
- Em chỉ cho. Gần tới ngày cưới rồi, phải có củi để nấu chứ! Hay là anh chịu khó ra chẻ một mớ.... 
- Ở đâu? 
Vi chỉ tay về một hàng củi được chất ngay ngắn từng ô một, dài chừng... vài chục mét, khúc nào khúc nấy cở bắp đùi... voi. Tôi chột dạ: 
- Chẻ hết sao? 
Vi làm mặt nghiêm: 
- Ừa!... thì tới đâu hay tới đó! Ngày còn dài mà!.... 
      Tôi xách búa đi mà tác phong rời rã như Hạng Võ tại bến Ô Giang! Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp, muốn cưới được vợ thì phải bửa củi, cày bừa… Thì ra lời ba tôi nói chẳng sai, bằng chứng là tôi cũng không ngoại lệ! 
      Tôi cởi áo sơ mi máng trên cành bưởi, còn lại chiếc áo thun ba lỗ trắng tinh, vốn là mô đen của con nhà giàu mới có áo lót bên trong. Dù là “công tử”, nhưng tôi thường tập tạ nên bắp thịt coi cũng ngon lành. 
      Tôi đếm thầm: Một, hai, “phập!”; một, hai “phập!” Có cái “phập” làm củi vỡ ra, có cái “phập” thì búa lại dính khắn vào củi, gỡ ra cũng tróc vải trầy vi! Khi độ mệt đã choáng váng mặt mày, nhưng còn đủ để nhận được tiếng ông nhạc ở sau lưng: 
- Bây làm cái gì vậy? 
Tôi quay lại chào ông bà vừa đi xóm về, rồi trả lời với giọng điệu của người vừa lập nên công trạng: 
- Dạ, vợ con biểu chẻ củi để khi đám cưới có mà xài! 
- Thôi, thôi! Bây “bị” nó rồi! Đi vô! Đi vô uống nước con! 
- Dạ, để con chẻ thêm một mớ nữa, ba! 
- Củi nầy ba để bán cho lò bánh mì, đâu cần chẻ! Còn củi dùng cho đám cưới thì để trong nhà kho kia, có xài mười đám cũng không hết! 
Bà nhạc lắc đầu: 
- Cái con nhỏ nầy… 
Vào nhà bà nhạc rầy Vi: 
- Chồng của mầy nó không quen làm việc nặng. Xúi dại rũi nó trợt chân trợt cẳng thì sao? 
      Bà nhạc dùng tiếng “chồng mầy” tôi thấy ấm áp lạ lùng! Còn vợ tôi thì chúm chím cười, còn liếc qua tôi với ánh mắt còn bén hơn... lưỡi búa, lại chu đôi môi đỏ ao chế nhạo. 
Thế là bao mệt mỏi trong tôi biến mất tiêu! 
      Phải nói trong đời thường, về sự thông minh, lúc nào vợ cũng hơn tôi một phép. Khi về làm dâu vợ tôi đã chứng minh đầy đủ điều đó. Ngoài sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, vợ tôi còn nhiều đức tính như hân hậu, cần kiệm... 

      Thuở đó, ở thành phố “nhà giàu” mới có tủ lạnh (ti vi chưa có), còn dưới quê thì tuyệt đối không, bởi có điện đâu mà xài! Nên những ngày đầu, tủ lạnh đối với vợ tôi là một phát minh khoa học lớn lao, nó đủ công năng, nên có cái gì cũng “thồn” vô trong đó. Có lần mẹ tôi mở tủ lạnh, rồi nói với vợ tôi: 
- Tô mắm nêm nầy, con đừng có để vào đây, nếu không tất cả cái gì trong nầy đều có mùi mắm nêm hết. 
Chỉ chờ có dịp nầy, tôi cười hí hí: 
- Trái cây mà có mùi mắm nêm ăn càng ngon chứ sao mẹ? 
Mẹ cười, còn vợ tôi cứ đem cái sở trường là bắn nửa mắt vào tôi. 
Tôi khoái chí, nói theo kiểu đá banh thì “gỡ” được một, nhưng dường như chỉ có một mà thôi! 
Khi con chúng tôi đã lớn, tuổi có thể về quê thăm ngoại một mình, thế mà một tối cả nhà xem ti vi, không phải nhằm đoạn hài mà vợ tôi cười ngất. Con hỏi, “sao tự nhiên mẹ cười?” Một lát vợ tôi mới trả lời được: 
- Mẹ thấy bộ tướng ông thái giám đứng khúm núm kia giống"mấy thằng cha“ lần đầu coi mắt vợ quá!” Hi! Hi! 
Biết bị xỏ ngọt nhưng tôi biết gì hơn ngoài làm...thinh! May sao đến chương trình quảng cáo, quảng cáo tủ lạnh, tôi nói tỉnh bơ: 
- Tủ lanh đời mới coi bộ tốt à nghen! Nó tự khử mùi, dù “mấy con mẹ” ở vườn có để mắm nêm vô đó cũng không sợ hôi. Ha! Ha!... 
Tức thì vành tai tôi bị kéo ra cả thước, tiếp theo là một giọng tru tréo, muốn nổi da gà: 
- Trời..u.u..i! Chuyện cũ nhắc hoài! Nhắc hoài! 

     Vậy đó, “chuyện xưa” thì vợ tội nhắc được, còn “chuyện cũ” tôi nhắc thì như bị muốn nhai xương! 
      Có vợ miệt vườn, miệt quê là vậy đó!

Thái Quốc Mưu
Mailoc chuyển

Câu Đối: Tân Xuân - Việt Hải


Câu Đối: Việt Hải
Trình Bày: Kim Oanh

Chúc Mừng Xuân Ất Mùi 2015 - Anh Tuấn Chị Yến

 


Anh Chị Đặng Anh Tuấn

Xướng Họa: Chiều Xuân - Xin Mãi Là Xuân


Xướng: Chiều Xuân

Cành tre bên cạnh đóa mai thơm
Gió chướng đưa xuân đến nhẹ hồn
Lặng lặng mây bay về xứ xứ
Nguồn thơ trong trẻo trước chiều hôm

Có phải ngàn hoa đợi tối nay
Trao hương đổi sắc, đón xuân đầy
Để nghe mỗi tiếng lòng bung vỡ
Tình khúc duyên đời đâm đẫm say

Dòng sông bóng nước gợn sương mờ
Nhịp sóng thời gian vỗ bến xưa
Lắng đợi giờ vàng năm cũ mới
Và nghe khởi động tiếng giao thừa

Xuân vẫn là xuân của tuổi xuân
Vui buồn tiếc nhớ lẫn bâng khuâng
Tre già măng mọc, mai tàn nở...
Đưa đón dìu nhau mỗi bước dừng.

Phong Tâm
17/10/2014
***
Họa: Xin Mãi Là Xuân


Trúc xanh lá biếc cạnh hoa thơm
Lay nhẹ làm xao xuyến mảnh hồn
Thăm thẳm mây ngàn trời viễn xứ
Chợt buồn man mác đến đầu hôm

Ai đợi chờ ai đến sáng nay
Ngắm xuân khoe sắc, mộng xuân đầy
Tìm trong mùa mới hương mùa cũ
Để nhớ về nhau phút đắm say

Sông thương chiều thoảng khói lam mờ
Sóng nhớ xô bờ bến đổ xưa
Chiếc lá thời gian rơi lặng lẽ
Đêm chìm, vọng tưởng pháo giao thừa

Xuân đến bên thềm lộng sắc xuân
Vườn hương hoa bướm mộng buâng khuâng
Mai vàng rộn nở bên cành trúc
Xin mãi là xuân bước chẳng dừng!

Yên Dạ Thảo

Sầu Kinh Giã Biệt



Con ngồi giữa cõi đi, về
Lần kinh theo lá bồ đề lung lay
Hai vầng nhật nguyệt trên cây
Một trang nhân thế đôi tay ngỡ ngàng

Từ con bập bẹ dưới chân
Đến khi nước mắt ly tan đoanh tròng
Tình con nén lại trong lòng
Bây giờ muốn nói, mẹ còn biết không?

Bửa cơm về muộn thật ngon
Trẻ ham chơi, mẹ không buồn . Mắng yêu
Những đêm đèn sách rong rêu
Mẹ hay nhắc nhở lúc thiu gục đầu

Ngày con bỏ nước lên tàu
Giữa đôi mắt mẹ tiễn, sầu tái tê
Ngày đoàn viên, tưởng chẳng về
Trùng phùng trong cõi bốn bề gạo cơm

Tình con nấu mãi không thơm
Mẹ ôi! Có hiểu? Cọng rơm nun. Gầy
Chỉ là đóm lửa gió xoay
Mồi hoài một mối tình này nhỏi nhoi

Giờ đây đóm lửa lẻ loi
Con mồi châm lại cuộc đời bơ vơ
Phù vân! Con biết! Đôi bờ
Mà sao nước mắt mịt mờ câu kinh

Hai vầng nhật nguyệt lặng thinh
Mẹ ơi! Độ lượng lần xin cuối cùng
Mặt trăng nước mắt mịt mùng
Mặt trời mắt đỏ giữa vùng tà dương

Mai này trên mọi nẻo đường
Người ta còn mẹ còn con. Hết rồi!

Hoài Tử

Liễn Tết 2015

Mỗi năm gom giấy bút,
Tạo dáng ông đồ già.

Nhưng lòng người không cũ,
Dửng dưng lại đi qua!



      Mỗi năm cứ gần Tết đến là tôi đều chuẩn bị sẵn giấy hồng đơn, giấy màu đỏ, mực Tàu, nhũ vàng, bút lông lớn nhỏ, cọ viết chữ Việt chữ Hoa... để viết Liễn Tết gây qũy cho Hội Cựu học sinh Trung Học Phan Thanh Giản& Đoàn Thị Điểm, Hội Ái Hữu Cần Thơ, Hội Cao Niên của Trung Tâm Việt Mỹ tại Thành Phố Houston TX. Đặc biệt năm rồi lại viết thêm 2 ngày để gây qũy cho chùa Tinh Luật.
Rất nhiều thân hữu, đồng hương, đồng môn đều muốn biết những CHỮ và CÂU ĐỐI mà tôi viết để trình bày và tạo dáng chung quanh mình. Xin được trình bày lần lượt như sau:

      Đó chính là những câu đối Tết, bình dân thì gọi là Liễn Tết, truyền thống của người Việt và người Hoa. Đầu tiên là câu đối mà cả Hoa Việt đều rất ưa chuộng, đó chính là câu:
                 Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ            天增歲月人增壽 
                 Xuân mãn càn khôn phước mãn đường      春满乾坤福满堂
Có nghĩa:
            1: Trời thì thêm năm thêm tháng, người thì thêm tuổi thọ. 
            2: Xuân về đầy cả đất trời, phước lộc đầy cả nhà.
      Hai câu nầy bao gồm cả trời đất, cả bầu trời đều chìm ngập trong không khí của mùa xuân, người thì thêm phước thêm thọ...Nên được cả người Việt lẫn người Hoa ưa chuộng. Có một điều hơi khác là chữ cuối cùng của Câu đối, chữ ĐƯỜNG, là cái phòng rộng ở trong nhà, tiếng Anh là HALL, tiếng Việt không có từ để gọi. Cái phòng rộng nầy là nơi thờ phượng Ông Bà Tổ Tiên ( Từ Đường ), cũng là nơi Cha Mẹ hay ngồi để cho con cháu hằng ngày đến vấn an, ra mắt, nhất là vào các dịp lễ hội, Tết nhứt ( Cho nên gọi cha là Xuân Đường, gọi mẹ là Huyên Đường là vì thế ). Dĩ nhiên, nhà giàu mới có được cái " ĐƯỜNG " nầy, cho nên nhà nghèo thì đổi chữ ĐƯỜNG thành chữ MÔN 門, là cái Cửa, cũng có nghĩa là cái NHÀ,( Từ kép của ta gọi là NHÀ CỬA mà )...  
        Xuân mãn càn khôn phước mãn MÔN....là ...Xuân về đầy cả đất trời và phước cũng tràn ngập cả nhà. Sự thật thì ĐƯỜNG hay MÔN gì thì cũng là một bộ phân tiêu biểu cho CÁI NHÀ mà thôi. Tôi nói để  khỏi thắc mắc là tại sao có người viết là ĐƯỜNG, mà có người lại viết là MÔN, thế thôi.!... 
          Còn câu đối sau đây là câu đối thuần túy của người Việt. Lúc nhỏ, gần Tết, tôi hay ra Chợ Cái Răng xem các Ông Đồ VN viết liễn, thường thì các bàn viết liễn hay đặt ở bên hông Nhà Lồng Chợ, phía trước tiệm thuốc bắc Mã Chi Trung, Quảng Tài Lợi... hay bên kia đường là Dân Hòa Hưng, Vạn Trường An... Các ông Đồ cũng mặc áo dài bằng the đen, khăn đóng đàng hoàng, năm nào tôi cũng đọc được câu đối sau đây:
             Phước lộc thọ tam tinh củng chiếu             福禄壽三星拱照 
             Thiên địa nhân tứ hải đồng xuân                天地人四海同春
Có nghĩa:
             1: Ba sao Phước Lộc Thọ cùng chiếu về( Củng chiếu là  ở 3 góc cạnh khác nhau cùng chiếu về một nơi ).
             2 : Trời, đất và người, bốn bể cùng đón xuân về.
      Sẵn đây tôi nhắc luôn , ai có học Tam Tự Kinh thì sẽ biết : Tam Tài giả : Thiên Địa Nhân. Tam Quang giả : Nhật Nguyệt Tinh ( Trời, đất và người, gọi là Tam Tài. Mặt trời, mặt trăng và ngôi sao thì gọi là Tam Quang : ba cái nguồn sáng ở trên đời theo quan niệm của người xưa ) Còn Phước, Lộc, Thọ thì gọi là Tam vị Các Tinh 三位吉星, gọi tắt là Tam Tinh.
      Câu đối nầy cũng rất hay, bao gồm cả trời đất con người và Phúc Lộc Thọ cùng hội tụ đầy đủ bốn biển để mừng xuân..... Nhưng câu đối được ưa chuộng nhất, phổ biến nhất vẫn là câu đối sau đây:
                    Nhất thất thái hòa chơn phú quý            一室泰和真富貴  
                    Mãn môn xuân sắc thị vinh hoa              满門春色是榮華
Có nghĩa: 
           1: Một nhà thật là hòa thuận, đó mới là cái phú quý thật sự ,
            2: Đầy cửa đầy nhà đều tràn ngập vẻ xuân( vui tươi, rộn rã ), đó mới chính là cái vinh hoa thực sự.
       Vinh Hoa Phú Quý có nghĩa là gia đình trên thuận dưới hòa và luôn luôn vui vẻ như mùa xuân, chớ không phải có nhiều tiền, làm quan lớn, mới là Vinh Hoa Phú Quý. Câu đối ý nghĩa và mang tính xây dựng thực tế biết bao!
      Đó là những câu đối xung quanh bàn của tôi đó. Ngoài ra, còn có các câu chúc như : " Nghinh Xuân tiếp phúc ", " Ngũ phước lâm môn ", " An Khang thịnh vượng ", " Vạn sự như ý",....v.v....


       Sẵn đây  tôi muốn nói luôn cho mọi người biết về những câu đối kỳ cựu, cố hữu của người Hoa cũng như người Việt ta từ xưa đến nay.

       Câu đối mà hầu như người Hoa nào cũng biết khi nhắc đến Tết , đó chính là câu :
                    Bộc trúc nhứt thanh trừ cựu tuế  
                          爆 竹 一 聲 除 舊 歲
                     Đào phù vạn hộ cánh tân xuân 
                         桃 符 萬 户 更 新 春
 Có nghĩa: 
              1:- Pháo nổ đùng một tiếng, năm cũ đã đi qua ,
              2 :- Lá bùa nêu dán lên, mùa xuân mới lại đến.
        Ghi Chú:
                     Bộc trúc: Bộc là nổ, trúc là tre. Bộc trúc là tiếng tre nổ, nói đúng hơn là " tiếng mắt tre nổ ". Ngày xưa, chưa có pháo, người ta đốt các mắt tre già ở dưới gốc cho nó nổ thành tiếng để xua tan những xui xẻo, buồn lo... của năm cũ cho nó qua đi. Sau nầy, khi chế tạo được pháo rồi, nhưng vì tập quán ngôn ngữ đã quen, người ta vẫn dùng từ Bộc Trúc để chỉ pháo luôn. Cho nên khi dịch từ Bộc trúc,  phải biết đó là PHÁO, chứ không phải tiếng tre nổ nữa ! OK.
                      Đào Phù: Phù là lá bùa. Đào phù là Lá bùa dán lên cành cây đào. Tương truyền, cây đào là loại cây có thể trừ được tà ma, nên vẽ lá bùa dán lên cành đào trước cửa có thể làm cho tà ma sợ mà tránh xa... Lâu dần thành tục lệ ngày Tết, Dùng cành đào để vẽ bùa, hoặc dán lá bùa lên một cành đào , rồi treo trước cửa để trừ tà ma trong những ngày Tết. Ỡ VN gọi là bùa Nêu, và được treo lên trên một ngọn tre còn chừa đọt trồng ở trước cửa nhà, gọi là Dựng Nêu. Chắc mọi người cũng đã nghe qua câu hát Ca dao sau đây:
                             Cu kêu, ba tiếng cu kêu,
                            Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè  ....rồi chứ ?
 cũng vì vậy mà chữ Đào Phù phải được dịch là " Lá bùa Nêu ", chớ không phải là Lá Bùa đào.
      Đó là câu đối phổ cập rộng rãi trong dân gian, cao hơn một chút, có tính chất văn học và các nét chấm phá của hội họa, câu đối mang tính nghệ thuật mà phổ biến rất rộng rãi không kém gì câu vừa nêu ở trên. Đó chính là câu đối sau đây:
                             Bộc trúc tam lưỡng thanh, nhân gian thị tuế, 
                              爆 竹 三 两 聲, 人 間 是 歲
                             Mai  hoa   tứ  ngũ   điểm, thiên hạ   giai  xuân.
                              梅 花 四 五 点, 天 下 皆 春
           Tạm diễn nôm như sau:
                        Hai ba tiếng pháo đì đùng, nhơn gian đón mừng năm mới,
                        Bốn năm đóa mai lấm tấm, thiên hạ đều biết xuân sang
              Còn nói về câu đối truyền thống của Việt Nam trong ngày Tết , thì chắc mọi người cũng đã biết rồi. Đó chính là:
                          Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ,
                          Cây nêu tràng pháo, bánh chưng xanh.

               Ý nghĩa đã rõ ràng, đầy đủ thú tiêu khiển vui chơi và " Ăn " Tết. Để cho Hoa Việt được đề huề, tôi đã dịch câu đối nầy sang tiếng Hán cổ như sau:
               Phì nhục, toan thông, hồng đối liễn         肥肉,酸葱,红對联
               Đào phù, bộc trúc, lục phương tung.       桃符,爆竹,绿方粽
         Những cái mà tôi vừa nói ở bên trên được áp dụng liền đây. Tôi đã dùng từ " Đào phù " để dịch từ " Cây nêu ", và từ " Bộc trúc " để dịch từ " Tràng pháo " và từ mà tôi đắc ý nhất là từ " Lục phương tung " là " Bánh ú vuông màu xanh lá cây " để dịch từ Bánh Chưng xanh. Bánh ú của người Hoa và bánh chưng của người Việt đều có nguyên liệu gần giống nhau : Nếp bao lấy nhưn thịt, đậu, nấm ... và đều được gói bằng lá chuối rồi đem hấp chin, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi,một cái là khối vuông còn một cái là hình lăng trụ. Nên Bánh Chưng dịch là Lục Phương Tung ( Bánh Ú vuông màu xanh lá ) là người Hoa biết ngay là cái bánh đó như thế nào.
     
             Để kết thúc bài viết nầy, mời mọi người cùng đọc một câu đối Ngũ Ngôn ( 5 chữ ), nhưng rất hay, rất xúc tích và nêu bật được nắng Xuân, mùa Xuân đã về ngập tràn khắp đất trời vũ trụ:
                           Hữu thiên giai lệ nhật,            有天皆麗日,
                           Vô địa bất xuân phong!          無地不春風!
Có nghĩa:
       - Hễ nơi nào có trời là nơi đó có nắng đẹp của mùa xuân chiếu đến.
       - Không nơi nào trên mặt đất là không có gió xuân thổi tới cả!

         Cầu mong cho tất cả mọi người ở mọi nơi của trái đất nầy đều hưởng được một mùa xuân vui tươi, như Ý và bình an hạnh phúc! 
                                                                                           
                
Đỗ  Chiêu Đức 

Thơ Tranh: Đợi Xuân


Thơ: CHS Nguyễn Trường Tộ
Thơ Tranh: Kim Oanh


Xuân Cũ


Mùa Xuân tôi mãi đi tìm lại
Một thuở xa xưa phố núi nầy
Bên cha gần mạ cùng thầy
Hạnh phúc hy vọng đong đầy tuổi thơ

Mùa Xuân vẫn mãi đi tìm lại
Kỷ niệm ngày xưa thuở thiếu thời
Cơm cha áo mạ ơn trời
Ngàn năm tôi nguyện một đời khắc ghi

Nguyễn Đức Tri Ân
19-01-2015

Tết Xuân Sang

Nắng Xuân ấm áp, tiết Đông hàn,
Mai búp ngòai sân sắp nở vàng.
Dê núi về đây tô điểm sắc,
Ngựa già mãn hạn chạy băng ngàn.
Nam nhân khí thế đương sung sức,
Nữ phái hăng say khỏe sẵn sàng.
Chờ đợi trăm hoa khoe sắc thắm,
Vang rền pháo nổ Tết Xuân sang.

Mai Xuân Thanh
Ngày 06 tháng 01 năm 2015

Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015

Nhớ Tết Việt Nam



 Lập đông gió bấc lạnh về
Làng thôn bánh tráng phơi kê khắp đường
Dòng sông quê đẹp thân thương
Nâng ghe chở khẩm hoa vườn,trái cây...


Nhà ai ngói mới vừa xây
Mừng xuân đám cưới vui say họ hàng
Tơ duyên trời khéo buộc ràng
Nàng trầu ôm mãi thân chàng cau cao

Tháng giêng gió thở ngọt ngào
Hồng, lài, bưởi, nhãn...hương sao tuyệt vời
Trạng nguyên môi đỏ rạng ngời
Mai, đào khoe sắc cho đời thêm xuân

Ngày qua Tết đến thật gần
Cây nêu ngất ngưởng trong sân vẫy chào
Người người áo mới khoe màu
Bầu cua cá cọp, bài cào... vui chơi

Điệu hò, khúc hát yêu đời
Một năm ăn Tết thảnh thơi ba ngày
Quê người Tết vẫn đi cày
Mùa đông nước bạn cùng ngày xuân ta

Chạnh lòng viễn khách xa nhà
Xuân ơi! Tết Việt thật là nhớ thương...

Phượng Trắng
Winnipeg, đầu năm 2012

Câu Đối: Ông Đồ Đỗ Chiêu Đức


Nét viết: Đỗ Chiêu Đức
Trình Bày Kim Oanh

Chúc Xuân


Xuân sang ta chúc cho người
Xiêm y lộng lẫy sáng ngời hài hoa
Yêu nhau thêm dấu tình ta
Tìm nhau dẫn lối vườn hoa sắc đào

Đông qua xuân đến rạng ngời
Tình nồng vui thắm sắc mời gợi hương
Đón chào ngày mới muôn phương
Tâm tình đây đó đượm vương tháng ngày

Đầu năm chúc mọi điều may
An bình thịnh vượng lộc tài phát nhanh
Ngày xuân hoa thắm tươi xanh
Trai thanh gái lịch dạo quanh phố phường


Rượu nồng hạnh phúc tơ vương
Lễ Chùa cầu nguyện  an khương cửa nhà
Đến đây xin chúc quê ta
Trường tồn vĩnh cữu thái hòa nơi nơi


Lục Lạc

Xuân Vãn 春晚 - 陳仁宗 Trần Nhân Tông


春晚                        Xuân Vãn


年少何曾了色空     Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
一 春心在百花中    Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
如今勘破東皇面     Như kim khám phá đông hoàng diện,
禪板蒲團看墜紅     Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.

陳仁宗                 Trần Nhân Tông
* * *
Dịch Nghĩa: Chiều Xuân

Lúc nhỏ chưa hề biết thế nào là Sắc với Không
Nên mỗi khi xuân về, khiến lòng xao động gởi vào trong trăm hoa .
Ngày nay đã hiểu rõ được bộ mặt của chúa xuân,
Khi ngồi trên tấm thảm cỏ nơi thiền phòng, tâm vẫn lặng khi thấy cánh hoa rụng.

Dịch Thơ: Chiều Xuân

Lúc trẻ nào tường sắc với không
Xuân về hoa nở ngất ngây lòng
Nhưng nay mặt Chúa xuân đà rõ
Tâm tịnh dù rơi mấy cánh hồng.

Quên Đi
* * *
Các Bài Dịch Khác:

1/ Chiều Xuân Cảm Tác
Ông Vua trẻ nói sắc và không,
Nào thấu hoa Xuân ngắm thật lòng.
Hoàng Thượng nhìn ra Xuân rõ mặt,

An nhiên, rả cánh đóa hoa hồng!

Mai Xuân Thanh 

Ngày 10 tháng 01 năm 2015

2/ Lại Chiều Xuân
Tuổi ngọc hồn nhiên chẳng sắc,không
Trăm hoa rực rỡ cũng xao lòng
Chúa Xuân xuất hiện vua liền hiểu
Tịnh tọa an nhiên,rớt cánh hồng


Mai Xuân Thanh
Ngày 11 tháng 01 năm 2015
* * *
1/ Chiều Xuân
Sắc không lúc trẻ chẳng tinh tường
Xuân đến hoa cười dạ vấn vương
Mặt thật chúa xuân nay khám phá
Thiền phòng tịnh tọa ngó rơi hường

Mailoc

2/ Chiều Xuân

Sắc không niên thiếu chưa rành lắm
Xuân đến rộn rã cánh hoa lòng
Chúa xuân mặt thật nay thông
An nhiên tịnh tọa nhìn hồng rụng rơi!


Mailoc
Cali 01-10-15
* * *
Chiều Xuân

Lúc nhỏ hiểu gì sắc với không
Trăm hoa xuân thắm gửi tâm lòng
Chúa xuân hiện mặt cho đời hiểu
Thảm tịnh nhìn xuân rụng cánh hồng.


Nguyễn Đắc Thắng 
20150111
* * *
1/Chiều Xuân
Thơ dại hiểu gì sắc với không
Hoa xuân hé nở xuyến xao lòng
Chúa xuân ngự đến nay tường tận
Tâm lặng chẳng dao bởi sắc hồng

Kim Oanh
11/1/2015

2/Chiều Xuân 
Sắc không thơ dại hiểu gì đâu
Xuân đến lòng hoa đẹp sắc màu
Bản chất Chúa xuân nay đã rõ
Hoa rơi tĩnh tọa chẳng vương sầu


Kim Oanh
12/1/2015
* * *
Cuối Xuân

Tuổi trẻ sắc không sao khỏi vướng,
Lòng xuân quyến luyến mãi trăm hoa.
Nhưng nay đà tỏ nàng xuân muộn,
Hoa rụng lòng thiền chẳng xót xa!


Đỗ Chiêu Đức
* * *
Chiều Xuân

Sắc Không nào hiểu thiếu niên thời
Xao xuyến hoa lòng xuân lả lơi
Mặt thật Chúa xuân nay đã tỏ
Thiền phòng tâm tịnh mặc hoa rơi


Kim Phượng
* * *
Phỏng dịch: Chiều Xuân

Trẻ chẳng am tường chữ sắc không
Xuân sang rạo rực ngắm muôn hồng
Nay đà thấu hiểu trong tâm thức
Hoa rụng kề bên chẳng động lòng.


Phương Hà

Lục Bát Ngày Xuân


1- 
Ngày Xuân bên áo lụa hồng
Em về chợt nhớ hừng đông hoa quỳ
Chiều tàn nhẹ gót chân đi
Sạch mùi cay đắng, nghe thì thầm hương.

2- 
Mai vàng rực rỡ đơm hoa
Nụ cười bát nhã đang là búp sen
Trăng nghiêng trải bóng bên rèm
Chữ tâm, chữ nhẫn.. từ phen luân hồi.

3- 
Ai người đã dệt vần thơ
Gió Xuân vừa mới tới bờ nguyệt minh
Chân chồn, dừng bước đăng trình
Tiếng chuông chùa gọi, tự mình thiện tâm..

4- 
Giọt sương lấp lánh tơ trời
Xuân đi còn lại nửa đời u minh
Muôn trùng là cõi tâm kinh
Hư không rồi cũng.. như hình bóng trôi..

5- 
Đêm Xuân ủ mộng quỳnh hương
Có còn hay mất diệu thường xót xa
Nàng Xuân phơi phới ngọc ngà
Đời người một thoáng.. rồi ra bụi trần ...

Nguyên Hậu Bùi Thanh Tiên





Câu Đối: Đất Khách,Trời Quê - Phong Tâm

Nhà Thơ Phong Tâm tặng Kim Oanh

Câu Đối: Phong Tâm
Trình Bày: Yên Dạ Thảo

Mời Em Đón Xuân


Mời em đến đây thăm
Nhìn hoa mai mới nở
Bên nắng vàng rực rỡ
Đón mừng sáng đầu năm
   
Đường đâu có xa xôi
Căn nhà luôn mở ngơ
Chờ bàn chân cô nhỏ
Mang nụ cười tinh khôi

Mời em đón xuân sang
Nghe oanh vàng thỏ thẻ
Gió giao mùa mát mẻ
Giữa bầu trời thênh thang

Xuân này nếu có em
Dòng đời thêm rộn rã
Lòng người vui như đã
Có mùa xuân ấm êm

Đừng để một dòng sông
Giang đầu chia hai khúc
Sóng xô dài hun hút
Bến bờ vắng mênh mông

Đừng để xuân chờ lâu
Mỏi mòn cho cánh én
Cát vàng nằm rón rén
Biển buồn đợi hải âu
Mời em đến xuân nay
Cho khúc giang gần lại
Mai vàng luôn mềm mại
Chim oanh hót mê say

Mời em đến chơi xuân
Xuân tràn trề mơ mộng
Xuân cho tim rung động
Xuân kề cận tình quân


Đỗ Hữu Tài
 (Feb.4,2015)

Cho Tôi Hoài Ở Tuổi Năm Mươi


Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi
Để tôi thấy tôi còn xuân sắc
Mây vẫn chở khoảng trời xanh ngan ngát
Tôi sợ rồi ai gọi tiếng buồn ôi

Tôi cô đơn ôm bóng tối cuộc đời
Tôi kinh khiếp đếm thời gian lặng lẽ
Tôi còn trẻ nghìn năm tôi vẫn trẻ
Đừng mang tôi rời bỏ tuổi năm mươi

Đêm quạnh quẽ tưởng chừng như lắng đọng
Tiếng tôi rên từng nhịp thở rung đều
Tôi cứ chờ triệu ngàn năm ánh sáng
Một bóng hình tôi ghét gọi người yêu

Cho tôi hoài ở tuổi năm mươi
Tôi thấy có thiên đường và địa ngục
Tôi bật cười đâu hay tôi sắp khóc
Tình yêu ơi tôi chối bỏ lâu rồi

Thế là tôi lừa dối chính tôi thôi
Thế là tôi chôn sống trái tim người

Lâm Hảo Dũng

Và Màu Xuân Đó - Bùi Giáng


Ở chân trời chim có ngó mây bay 
Vườn mông lung hoa lá hẹn bên này 
Hường mỏng mảnh khóc mờ trên trang giấy 
Ta cũng định sẽ cùng nhau sẽ thấy 

Thu trên trời soi nước lạnh phai trôi 
Nàng mang xa mộng cũ vỡ lâu rồi 
Châu Đốc Trà Vinh đi về kiếm lại 
Thông Đà Lạt sẽ thì thào hỏi mãi 
Hồ gương kia bờ liễu đợi anh đào 
Gió đi về mang quan ải dâng cao 
Từ thao thiết ngàn xuân kia đã phụ 
Chào Lục Tỉnh thu một lần chưa đủ 

Chiều hôm nay em có nghĩ thế nào 
Đời dại khờ như một giấc chiêm bao 
- Ừ thế sao? em hãy rủ ta vào.

Bùi Giáng
Suối Dâu sưu tầm

Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2015

Gợi Lòng Năm Cũ - Gợi Lòng Năm Cũ


Gợi Hương Mùa Cũ

Phố phường nhộp nhịp sắc reo vui
Ngày Tình Nhân hoa nụ mỉm cười
Trao nhau rượu thấm bờ môi ấm
Riêng một góc xưa kẻ ngậm ngùi

Thôi thế mùa xuân lại đến rồi
Tự tìm hương cũ thuở xa xôi
Gợi lòng yêu dấu trong thoáng vội
Dẫu phút đơn côi vẫn nhớ đời...

KimOanh
14/2/2015
* * *
Cảm Tác: Gợi Lòng Năm Cũ

Valentine đến có gì vui
Một đóa hoa thơm, một nụ cười
Mấy lúc bên nhau vòng tay ấm
Rồi phút chia ly quá ngậm ngùi

Valentine đến nữa đây rồi
Gợi lòng thương nhớ thuở xa xôi
Tình xưa nghĩa cũ sao đành vội
Đánh mất con tim, mất cả đời...

Biện Công Danh
14/2/2015
* * *
Họa Gợi Hương Mùa Cũ

Mượn cành hoa thắm sắc hoa vui
Ta gửi đến em tạo nụ cười
Mượn men rượu nhạt hong môi ấm
Mảnh đất xa xôi chẳng ngậm ngùi

Mùa xuân nữa cũng đến nơi rồi
Khoảng trời xa cách chẳng xa xôi
Gửi hương mùa cũ theo làn sóng
Em hẳn như ta sẽ nhớ đời!

Đắc Thu
20150214

Ngày Chúng Mình


 (Valentines Day, 14-2-15)

Trải qua những mối tình,
khổ đau lẫn hạnh phúc,
thời niên thiếu và gần đây
tất cả đều quay lưng
thành dĩ vãng.
Chỉ có em
không chối từ anh
không thắc mắc quá khứ
đến với anh thật lòng
hy sinh và chung thủy
Ngày tình nhân
ngày chúng mình
Tặng em đóa hồng
thay lời cám ơn EM
đã đến với cuộc đời anh.


Nguyễn Đức Tri Ân

Thơ Tranh: Hương Nguyền


Thơ&ThơTranh: KimOanh
14/02/2015

Ngày Ấy...Ngày Ấy...


(Như một quà tặng Valentime 2015 cho một người em gái)

Ngày ấy...
đã xa rồi
tối vẫn nhớ,
vẫn hình dung người em gái lên năm:
Mắt ngây thơ, khuôn mặt sáng trăng rằm,
Tóc cắt ngắn chạy tròn xoe quanh cái đầu quả bóng.

Người em nhỏ có hàm răng cửa cổng
mỗi khi cười chui lọt cả đoàn xe,
luôn dỗi hờn khi bé bị chọc quê
và dai dẳng khóc nhè hơn đỉa đói.

Người em nhỏ mặc chiếc quần lính tẩy
khoét một vòng cho gió thoáng hương bay
có một lần leo chót vót lên cây
một cậu bé dưới thang đùa quơ bàn tay táy máy.

Người em nhỏ và người anh hơn mấy tuổi
như mọi trẻ thơ hay chơi trò đi-ẩn-đi-tìm
cũng rải-gianh, kim-mộc-thuỷ-hoả-thổ, ném thia lia
cũng tam-cúc, ô-quan, nhảy-lò-cò...ôi vô cùng thích thú!

Nhưng giờ đây...
người em nhỏ và người anh thuở đó
trải thời gian nay đã lớn lên rồi
Chuỗi ngày xưa thơ-ấu nhớ không thôi,
Kỷ niệm ấy trong hồn tôi mãi mãi.

Rồi ngày ấy...
sẽ chẳng còn xa lắm,
tôi hình dung người em gái hăm-ba
trong lễ cưới tưng bừng tôi sẽ thấy
cả trời vui đổ lại cửa xe hoa;
Từ buổi ấy trong nhà tôi chẳng thấy
bóng người em_em gái nhỏ ngày qua!

ChinhNguyen/H.N.T
SG,5/62-2011

Gửi Người Đang Yêu


Người yêu ta hẹn với người yêu.
Một góc phố quen một khoảng chiều.
Một nụ cười riêng còn bỡ ngỡ.
Chẳng nói gì đâu, chẳng nói nhiều.

Người yêu ta hẹn_có gì đâu!
Một thoáng qua thôi, ngả mái đầu.
Đừng hỏi gì nhiều hơn em nhé.
Hãy giữ cho ta buổi ban đầu.

Người yêu ta hẹn_có gì hơn!
Một chút thôi em, phút giận hờn.
Một giọt lệ trào qua ngấn mắt.
Hãy để riêng ta lặng lẽ buồn.

Người yêu ta hãy nói cùng nhau.
Năm tháng qua đi buổi ban đầu.
Vẫn sống trong ta cùng cái chết.
Người yêu em nhé, mãi chờ nhau!

Hhai.
14/2/12

Ngày Tình Nhân Của Bạn


      - Tâm chỉ muốn mình là con trai.
     Câu nói bất ngờ vừa thốt ra từ cô gái trời cho đẹp, khiến người nghe không khỏi ngạc nhiên, sửng sốt.
      - Sao vậy Tâm? Tôi nhanh nhẩu hỏi.
      - Nếu là con trai, thương ai mình dám nói, còn con gái phải chờ đợi người ta tỏ tình.
     Tôi tròn mắt, nghĩ thầm..."Bạn táo bạo thật!".
     Tâm, cô bắc kỳ nho nhỏ, xinh xắn, ngồi cạnh bên tôi, người đã làm điên đảo bao chàng trai cùng lớp Đệ Tam B. Điên đảo, bởi giọng trầm mà thanh, tính nhu mì, dáng mỏng khoan thai và dễ thương hơn mỗi khi cô mỉm nụ cười duyên.
      Nhưng lý do nào thôi thúc bạn, mơ ước mình là người nam và được tự do ngỏ lời yêu thương?
     Cảm nghĩ "táo bạo" kia, tiềm ẩn trong tà áo trắng trinh nguyên tuổi học trò và những uẩn khúc trong lòng người con gái đang độ xuân thì được trải ra, qua lời tâm sự. Nỗi khao khát của tuổi dậy thì, tuổi biết buồn vui, lúc ra ngẩn, khi vào ngơ. Làm người tỉnh lẻ, môi trường sống, luân lý, lễ giáo, níu bước chân. Con gái không được tự tiện, phải chờ đợi. Nhưng, cô Tâm nhà ta, khi có người ngỏ ý yêu, nàng lại...Người mở lời ấy, không ai xa lạ, là Thầy dạy Toán của chúng tôi.

    Thầy được bố mẹ Tâm nể vì. Bởi khoảng thập niên 60-70, được giáo sư để mắt xanh đến, là niềm hãnh diện cho người con gái nơi tỉnh lẻ và sự may mắn ấy chỉ đến với những nàng nữ sinh có nhan sắc mà thôi. Nhưng Tâm thờ ơ trước đón đưa chìu chuộng.
     Đã biết Tâm hững hờ, Thầy vẫn cố công, nuôi hy vọng biến ước mơ thành hiện thực.   Mãi đến một ngày...
      - Em xin lỗi Thầy, má em thương Thầy chứ em không thương Thầy.
      Câu nói thật lòng của người con gái ở tuổi dại khờ đã làm trái tim Thầy tan nát. Và giờ đây chuyện tình "không suy tư", được Thầy mang theo xuống tuyền đài. Thầy đã đi vào cõi thiên thu và cô học trò muốn trở thành con trai, không biết ra sao, đã nghĩ gì. Bởi, mấy mươi năm qua, tôi chưa một lần gặp lại. Nhưng mỗi năm, đúng vào Ngày Tình Nhân, hình bóng cô với cặp mắt sũng ướt, len lén đi vào tâm tưởng. Tôi tự hỏi, bạn có được Ngày Tình Nhân trong đời không? Và dù có hay không, bạn đã nghĩ gì?



    Ngày xưa, có bước chân rón rén theo vội, có ánh mắt trao ban hướng về, tim đã đập loạn xạ, vừa run, vì bồi hồi xao xuyến, vừa  lo, sợ bạn bè trông thấy, người thân bắt gặp. Quà trao yêu, đơn sơ, không đắt giá, chẳng lớn lao, nhưng có nhau là ở tấm lòng, vẫn đằm thắm, bền lâu đến trăm năm, kỷ niệm đằng đẵng theo nhau suốt cả cuộc đời. Ngày xưa, không cần Ngày Tình Nhân, nhưng Thâm Tình luôn nồng nàn, chan chứa.

     Và ngày nay, thử hỏi trong chúng ta...trong ngày hay sau ngày Ngày Tình Nhân, có bao người vui, có bấy nhiêu kẻ buồn... Nếu có chăng...người vui nhất chỉ là những thương buôn mà thôi.

Kim Phượng
Valentine 14/2/2015