MỞ ĐẦU:
Cứ mỗi độ Xuân về
là mỗi độ hoa đào nở rộ để chào đón Tết Nguyên Đán đầu năm, Năm nay cũng như những
năm khác hoa đào vẫn nở để cháo đón Chúa Xuân về vui Tết như xưa. Người dân Việt Nam chúng ta có tục lệ Cổ truyền
từ những thời xa xưa của Cha Ông để lại là cuối năm giáp Tết thì gói Bánh Chưng
giã Bánh Dầy để Mừng Tết Đón Xuân kính cáo
Tổ tiên ngày đầu năm mới.
VÀO ĐỀ:
Tập tục ấy xuất
phát từ đâu, nguyên cớ nào, và ý nghĩa của hai chiếc Bánh này, có những động lực
nào thúc đẩy trong lòng người dân chúng ta,mà đã bao đời mưa gió đổi thay thu tàn
đông lụi mà mọi người vẫn còn ghi nhớ mãi mãi không quên, đến nay thì lại càng
phổ biến hầu như khắp hoàn cầu, bởi chỗ nào có người dân Việt Nam sinh sống là nơi
ấy có Bánh Dầy Bánh Chưng vào dịp đón Xuân đầu năm Âm lịch. Xin thưa : Vào đời Vua Hùng Vương thứ sáu,
thiên hạ thái bình.dân giầu nước mạnh, ngũ cốc phong đăng, mọi người dân ai nấy
đều an cư lạc nghiệp, nhà Vua lúc ấy muốn kén chọn một người con nào có tài đức
biết yêu nước thương nòi, chăm lo mọi việc cho dân, để truyền ngôi cho, Ngài mới
định ra một cách tuyển chọn khá ly kỳ độc đáo, để tránh sự tranh giành ngôi báu
cao sang của các người con sau khi được Vua truyền ngôi cho, Ngài bèn ra lệnh
cho tất cả mọi người con trai ở trong gia đình đều phải tham dự “Cuộc Thi Làm Bánh
Khéo”, để Vua Cha kính Ông Bà Tổ tiên, cùng Vui Xuân Chúc Tết Ngyên Đán đầu Năm
Mời, ngày Thi vào đúng lúc Giao thừa, dưới sự Chủ toạ của Vua Cha cùng Bá quan
Văn Võ làm giám khảo chấm điểm và định đoạt, ai hội đủ điều kiện trúng giải sẽ được
Vua truyền ngôi cho.
Điều kiện Thi Làm
Bánh Khéo như sau:
1- Chiếc Bánh phải
bao hàm cả Âm Dương Vũ Trụ, và nói lên rõ nét Tứ Tượng vã Ngũ Hành
2- Chiếc Bánh phải
bao hàm cả Bốn mùa Tám tiết và sự trồng
cấy hoa mầu Chính, Phụ của nhân dân.
3- Chiếc Bánh phải
nói lên được sự bao hàm của phép Tỉnh điền cho mọi người nhìn thấy.
4- Trong Chiếc Bành
phải có một bài thuốc đặc biệt của dân gian đã kinh nghiệm trị bệnh.
5- Chiếc Bánh phải
làm hoàn toàn bằng những vật liệu thực phẩm cây nhà lá vườn của đất nước Việt Nam
6- Chiếc Bánh phải
nói lên được sự yêu nước thương nòi mô tả đựợc bốn chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tam
Cương Ngũ thường của đạo Khổng phu tử.
Người con nào đạt
được những yêu cầu trên sẽ được công nhận tài năng đức độ và tuyên bố trúng giải
Thi Bánh, người ấy sẽ được Vua cha truyền ngôi cho, thay Trời trị nước an dân.
Ý THỨC RIÊNG:
Lệnh nhà Vua ban
ra người con nào cũng hớn hở ghi danh dự thi trong bầu không khí hoan hỷ trang
nghiêm,
Nhưng mỗi người đều
có một ý nghĩ riêng, kẻ lên rừng tìm sơn hào, người xuống biển kiếm hải vị,người
thì lại đi khắp bốn phương thu mua những của ngon vật lạ đem về làm bánh những
mong kết qủa được như ý muốn của Vua Cha.
Trong đám người con ấy có một người tên là Lang Liêu
con của bà thứ
phi đã qua đời từ lúc Lang Liêu hãy còn nằm nôi, khi lớn lên Ngài rất hiếu thảo
với Cha Mẹ, Mẹ Ngài tuy đã khuất bóng non xanh, mỗi khi nhìn lên bài vị Mẹ Ngài
lại bùi ngùi than thở cho số phận hẩm hiu của mình, Ngài thường nói với mọi người
trong nhà rằng, thờ Vua không hết lòng là bất trung, thờ cha mẹ không tròn bổn
phận làm con là bất hiếu, ăn ở như thế thì con người còn ra thể thống gì nữa, đối
với mẹ khi tối đến thí chăng màn quạt muỗi bữa thì đích thân dâng cơm không bữa
nào biếng nhác cả, Nay theo lệnh Vua Cha Lang Liêu cũng phải ghi danh tham dự lễ
thi bánh
như mọi người
con.
NỖI BUỒN RIÊNG
Ngài thầm nghĩ điều
kiện thi bánh của Vua ban ra thì chỉ riêng làm bánh đã thấy khó mà chi tiết thì
lại càng khó hơn, nên ngày đêm lo âu buồn bã, thường ngày trông lên hình mẹ mà
khấn vái cầu nguyên xin mẹ phù hộ cho mong sớm nghĩ ra được một đường lối làm bánh
dễ dàng, nhưng thời gian đi nhanh như thoi cửi, sáu bẩy tháng trời chôi qua mà
Lang Liêu vẫn chưa nghĩ ra được một ý kiến nào hay, và cũng chưa nghĩ ra làm
chiếc bánh như thế nào để đạt yêu cầu, bỗng một đêm Lang Liêu nằm mộng thấy mẹ
ngài hiện về nói rằng con là người hiếu thảo trên trung Vua cha dưới hiếu kính
cha mẹ, hoà thuận với anh em, lòng hiếu thảo ấy đã lọt đến tai Thượng Đế ở cửu
trùng, rồi đây mẹ sẽ chỉ dẫn cho con cách làm bánh để kịp ngày dâng lên Vua Cha
dự thí, Lang Liêu nghe nói mừng qúa dạ lên một tiếng thật to, giật mình tỉnh dậy
hoá ra một giấc chiêm bao, Lang liêu từ đêm ấy trở đi lòng càng phân vân nghĩ ngợi
nửa lo nửa mừng, may ra mẹ sẽ có ý kiến gì hay chỉ bảo, ví chiêm bao mộng mị vẩn
vơ, người đời thường nói Đêm Dài Lắm Mộng cũng có thường, biết đâu là sự thật mà
đợi chờ!
HỒN MẸ HIỂN LINH
Đang lúc vui buồn
luẩn quẩn trong lòng, bỗng ngoài cửa có một ông lão già đầu râu tóc bạc dáng điệu
mảnh mai đứng trước cửa xin ăn, Lang liêu liền mang đồ ăn ra cho, vừa nhìn thấy
chủ nhà ông Lão già nói, Người đang có việc gì bận tâm mà qúa ưu tư đến nỗi nét
mặt hiện ra điều lo lắng vui buồn, thấy ông lão nói đúng tâm trạng của mình bèn
nói, chính ta đang bận tâm về việc Thi Làm Bánh Khéo của Vua Cha đặt ra mà hiện
ra nét vui buồn đó, Lão ông nói Người có thể cho lão biết được không may ra lão
có phương cách giúp người được phần nào chăng, Lang Liêu nghe nói bèn mời ông lão
vào trong nhà đem việc Thi bánh ra nói cho ông lão nghe, những điều kiện Thi làm
bánh, ông lão nghe xong trầm ngâm xuy tư một hồi lâu rồi bảo Người đem dấy bút
ra đây ta chỉ cho, chép lấy rồi thực hiện làm bánh, Lang Liêu nghe ông lão nói
thủng thỉnh nửa như đang xuy tư nửa như có ý dè dặt thì trong lòng lại càng bối
rối nôn nao, nhưng đã chót nói ra thì chi bằng hãy cứ bình tâm biên chép, biết đâu
lại có điểm nào hay chăng, Ông Lão hiểu ý nói Bánh không cần làm nhiều mà chỉ
hai chiếc là đủ Lang Liêu nghe nói dạ càng bối rối xuy tư cả một Triều đình to
lớn dưới Vua còn có hàng trăm bá quan văn võ lẽ nào chỉ có hai chiếc Bánh mà đạt
được yêu cầu hay sao, càng nghĩ càng bối rối tay cầm bút chép run rẩy như bị gió
lay, Ông Lão nói chép đi:
BÁNH DẦY
1- Làm môt chiếc
Bánh hình tròn to bằng cái mâm, tượng trưng cho hình Thái Cực tên là Bánh Dương
Âm vì nó bao hàm cả Âm Dương và Vũ trụ gọi nôm là Bánh dầy, vì nó dầy hơn các bánh
khác.
Sự tác động của
bánh Dầy là nếu gặp hơi nóng của lửa là bánh phồng to lên khác thường.
Vật liệu bằng gạo
nếp thơm giã kỹ cho gạo trắng nõn rồi chọn lấy những hạt nguyên không gẫy không
có hột khác lẫn vào, cân đủ 10 kí, đem vo đãi cho sạch hết bụi cám bám vào gạo,
rồi đem ngâm vào nước lạnh thật trong một đêm, sáng mai vớt gạo ra vo lại để
cho ráo hết nước đi ,rồi đem hấp chín nhừ thành xôi, cho vào cối giã cho thật
nhiễn. dùng một trái trứng gà con so luộc lên lấy lòng đỏ trứng đem nghiền ra với
rượu rồi dùng rượu trứng mà coa tay trở bánh thì tay đỡ nóng của hơi xôi bốc lên,
mà bánh sẽ lên hương, khi giã được bánh thì đùng lá chuối tươi lau rửa sạch đặt
lên môt cái mâm lớn để lót bánh cho khỏi rính xuống mâm, bên ngoài đùng thân cây
chuối trẽ ra khoanh tròn to bằng hình cái mâm, rồi lấy Bánh ra đặt vào khuôn ấy,
đùng tay thấm rượu trứng mà xoa lên mặt Bánh bánh sẽ nổi mầu bóng loánng như ánh
mặt trời toả ra hào quang buổi bình minh, chờ một lát sau Bánh ráo hơi lấy tấm
lụa Hà đông phủ lên mâm bánh cho khỏi bụi bay vào, chờ ngày giờ dự thí.chiếc Bánh
nói trước mà làm sau.
PHẦN DẪN GIẢI:
Lang Liêu xin Ông
Lão chỉ cho những tác dụng của chiếc bánh có những điển nào nói lên được những điều kiện dự thi không ?
Ông Lão nói :
Tất cả mọi điều
lệ đều nằm gọn trong chiếc Bánh này. Lang
Liêu càng không hiểu, xin chỉ dẫn kỹ cho, Ông lão nói được rồi ta chỉ đây lắng
nghe cho kỹ để ngày dự thi sẽ tường tấu Vua Cha :
Chiếc Bánh hình
tròn là tương trưng cho Thái Cực mà Thái Cực tức là mặt trời, trong Thái cực
bao hàm cả hai khí Âm, Dương, Lưỡng nghi, Tứ tượng, và Ngũ hành, Bốn mùa Tám tiết
xoay quanh vòng Ngũ hành sinh khắc mà tạo nên bốn mùa Xuân qua Hạ tới, Thu lụi Đông
tàn, với những thời tiết ấm lạnh mưa gió sấm chớp của mỗi chu kỳ, người xưa thường
ví: Nếu không có cảnh đông tàn, thì sao có cảnh huy hoàng mùa xuân, chiếc Bánh
còn bao hàm cả tám quẻ Bát Quái của Vua Phục Hy, mà ông Thiệu Khang Tiết nói: Ly Nam Khảm Bắc Thiên Địa trung chính chi
giao, Chấn đông Đoài Tây, thời lệnh xuất nhập chi tự, có nghĩa là: Qủe Chấn ở
phương Đông Nam là lúc mặt trời mọc, Quẻ Khảm ở Tây Bắc là lúc mặt trời lặn, quẻ
Ly ở chính Nam qủe Khảm ở chính Bắc là hai chỗ Trời Đất giao hợp,Tiết Đại hàn là
lúc trời đất không giao nên lạnh nhiều hơn nóng, Bánh dầy còn là một phương thuốc
bồi dưỡng cho Tỳ Vị của con người hay làm lương khô để dành cũng được, Bánh dầy
còn chứa một bài thuốc chữa chứng ho độc đáo mà dân gian đã kinh nghiệm lâu năm
là dùng Bánh dầy còn giẻo để chà lông đào trước khi ăn cho khỏi ho vì lông đào
làm ngứa phổi mà sinh ra ho, gạo nếp là thứ hoa mầu chính, lá chuối là hoa mầu
phụ, chiếc bánh hình tròn chia tứ tuợng là chữ Điền đó là bao hàm phép tỉnh điền,
thân chuôi lá chuối lụa hà đông dệt bằng tơ tằm đều là những vật liệu sản phẩm
của dân gian, Chiếc Bánh làm xong dâng lên kính cáo Thiên Địa và các vị Thần
linh, sau kính ông bà cha mẹ, sau chia cho mọi người là tỏ lòng yêu nước thương
nòi, Bánh còn dùng làm lễ để đón Xuân tặng thân nhân bạn hữu là nói lên bốn chữ
Nhân Nghĩa Lễ Trí đấy. mỗi độ xuân về tết đến là vợ chồng cha con anh em xúm
nhau lại để gói bánh đón xuân thế là thuận vợ thuận chồng, nền tảng từ một gia đình
hoà thuận trở lên, trong sách Khổng Mạnh có câu :Tự thân nhi gia nhi quốc nhi
Thiên hạ, thứ đệ tương thừa: nghĩa là Tự
sửa mình đến lo việc nhà rồi lo việc nước việc thiên hạ theo thứ tự mà đi lên đấy
là Đạo của Khỗng Phu Tử, rõ ràng là đủ cả sáu điều lệ trong chiếc Bánh d0ủ rồi.
BÁNH CHƯNG
2- Chiếc Bánh thư
hai: Gói chiếc Bánh thứ hai hình vuông to như một cái khay lớn bự. (Bánh này làm
trước vì nhiều thì giờ làm hơn nên gói trước ).
Vật liệu Gao nếp
Hương 5 ký vo sạch ngâm một đêm sáng mai vớt ra để cho ráo nước, Thịt heo 2 kí,
hột tiêu cay I gam, hành củ 50 gam, đậu canh bõ vỏ hấp chín dã nhiễn 2 kí , muối
trắng 3 gam, lá dong rừng tửa sạch lau khô, lạt dang nhuộm đỏ một bó, dùng một
cái khuôn gỗ vuông to đặt lá dong vào mà gói ngoài dùng lạt dang mà buộc cho chặt
rồi cho vào nồi mà chưng môt đêm hay một ngày là được, bánh vớt ra dùng khăn
tay thấm nước lạnh mà lau khô nắn góc lại cho vuông vắn, chỉnh tề, là được, Người
xưa ví von chiếc bánh:
Nhà xanh, cùng với đỗ xanh,
Chung quanh trồng hành, giữa thả heo con,
Muối, Tiêu, tán nhiễn, rang ròn,
Dân hai nhăm triệu vẫn còn nhớ rai
Khi chiếc bành đã
hình thành thỉ đem bánh đặt vào nồi lớn đổ nước cho ngập bánh mà luộc trong mười
tiếng là chín.
PHẦN GIẢI THÍCH
Chiếc Bánh này tên
là Phương Bính, gọi nôm là Bánh Chưng vì nó phải đun lâu mới chín nhừ được, Gạo
nếp, Thịt heo thuộc âm, hành củ, và Hột tiêu, hai thứ này thuôc Dương như vậy là
chiếc Bánh đã bao hàm hai khí Âm Dương, trong Vũ trụ, Hình vuông là một ô trong
chữ Tỉnh, đó là bao hàm phép Tỉnh điền. Lá dong, Đậu xanh là những hoa mầu phụ
của dân gian, thịt heo là vật nuôi trong nhà, lạt dang và lá dong là vật liêu lấy
trong rừng khắp nước nơi nào cũng có.
Bánh chưng hình
vuông có bốn góc là Đông Tây Nam Bắc, trục giữa là hành thổ đó là bao hàm cả Ngũ
hành, Ngũ hành xoay quanh bốn phương mà tạo ra bốn mùa tám tiết là Xuân Hạ Thu Đông
nằm trong 24 tiết khí mỗi tiết 15 ngày tạo thành mưa gió sấm sét ấm lạnh, trong
bánh có sẳn một bài thuốc giải tửu độc mà dân gian đã bao đời kinh nghiệm, là ngày
xuân qúa chén thì ăn một vài miếng Bánh Chưng là hết say bởi lá dong là vị thuốc
giải tửu độc đấy, Ngày Xuân gói Bánh Chưng kính cáo Thiên Địa Thần linh và tổ
tiên là có lòng yêu nước nhớ cội nguồn, Bánh chưng đem kính biếu bè bạn là tỏ lòng
thương nòi giống Lạc Hồng, thực hiện những chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí, trong nhà thụân
vợ thuận chồng vui việc nhà nông cha con hòa thuận anh em kính mến thế là tam cương
ngũ thương ở đấy, trong sách Khổng tử có câu Tự thân nhi Gia nhi Quốc, nhi Thiên
hạ thứ đệ tương thừa, có nghĩa là trước hết là sửa mình lo việc nhà, sau lo việc
nước rồi bình thiên hạ thứ bậc mà học lên, thế là nói lên cái đạo Khổng Mạnh đấy.
Lão ông nói hết
cho Lang Liêu nghe và chép xong thì cáo từ Lang Liêu cố giữ lại nhưng Lão ông từ
chối đứng lên chào mà lui ra Lang Liêu theo tiễn khách ra đến ngoài sân bỗng
tai nghe tiếng gió vi vu như có tiếng nói thôi mẹ đi đây lang Liêu quay lại thì
Lão ông cũng vụt mất.
PHẦN THỰC HIỆN
Lang Liêu trở vào
nhà bắt tay thực hiện xắp xếp những vật liêu làm Bánh sẵn sàng chờ ngày giáp Tết
là thực hiện: Lang Liêu theo lời Ông Lão
chỉ dậy bắt tay thưc hiện vật liệu làm Bánh trước, Thực hiện chiếc Bánh Chưng
trước vì làm Bánh phải mất thời gian lâu dài giờ hơn chiếc Bánh Dầy, lại phải nấu
chưng kỹ tới 10 tiếng đồng hồ, Chiếc Bánh Chưng (Phương Bính) hay là Bánh Âm Dương
được thực hiện vào sau lễ tiễn Táo Quân chiều Thiên Ba ngày (28-29 tết) lúc gió
đông về hoa đào chớm nở, bánh nấu một đêm cho tới sáng, Chiếc Bánh Dầy ( tên là Bánh Thiên Can ) hay là Bánh Dương Âm, Thực
iễn vào chiều ngày Ba mươi, Lang Kiêu thực hiện xong, hoàn tất mọi thủ tục hai chiếc Bánh Thi thì cũng đúng vào lác giờ
Tuất tức là 9 giờ tối ngày Ba mươi,nên Bánh vẫn còn hơi nóng ấm.
PHẦN DỰ THI:
Vào lúc nửa đêm
Ba mươi lúc sắp Giao Thừa giữa năm cũ và năm mới, đón Tết Nguyên Đán của Nước Việt Nam khởi đầu
cuộc Thi Làm Bánh Khéo .
Ba hồi chiêng trống
vang động kinh thành, cửa thành mở rộng mở để các người con đem Bánh vào Cung Đình
Dự Thí,
Lúc ấy các người
con ai cũng vui mừng hớn hở vói những công trình và kỹ thuật làm Bánh của mình,
Lang Liêu liếc mắt
nhìn thấy:
1- Có mâm Bánh tượng
hình: Hồng Lạc Thiệu Cơ,
2- Có mâm Bánh
Nhan đề: Văn Lang Kiến Quốc.
3- Có mâm Bánh hình
tượng Phong cảnh Hồ Động Đình
4- Có mâm Bánh
nhan đề: Long Phụ Tiên Mẫu,
5- Có Mân Bánh đề: Nhất bào sinh Bách Tử,
6- Có mâm Bánh đề: Hình tượng Núi Tản Viên,
7- Có Mâm Bánh để: Đồ hình Vịnh Hạ Long,
8- Có mâm Bánh
nhan đề: Đế Đô Bạch Hạc,
9- Có mâm Bánh đề: Thành quách Phong Châu,
10- Có mâm Bánh
nhan đề: Thổ dân vẽ mình
11- Có maâm Bánh
tưa đề: Chữ Đồng Tửa ẩn mình
12- Có mâm Bánh đề
tích: Phù đổng Thiên Vương
13- Có mam Bánh đề: Mam dân quăng chài.
14- Có mâm Bánh đề: Nhuộm răng ăn trầu
15- Có mâm Bánh đề: Trầu cau sính lễ
16- Có mâm Bánh
có hình đồ chia ruộng hình chữ Tỉnh
17- Có mâm Bánh
nhan đề: Tiên Dong Du Thuyền
18- Có mâm Bánh
nhan đề: Lạc hầu, Lạc tướng,
Ôi biết bao là cái
lạ cái tài cái khéo được đem ra phô bầy dưới hình thức mâm bánh dự thi, không
sao tả hết.
Lang Liêu nghĩ mình
phận mỏng cánh chuồn, bánh đã nhỏ đã ít lại thiếu cách trưng bầy, nhưng biết làm
sao được đây, thôi xũng đành liều cho số phận rủi may,
Đúng giờ Tý giữa
lúc Giao thừa loa truyền cuộc Thi Bánh bắt đầu, ai nấy đều hồi hộp lo âu, mắt
nhìn đăm đăm vào mâm Bánh chờ đến lượt mình,
Loa truyền đến lượt
Lang Liêu đệ trình Bánh thi, Bánh vừa được mở ra trên từ Vua cha dưới đến văn võ
bá quan ai cũng ngạc nhiên, sao mâm bánh lại không có trưng bầy hoa lá chim muông
và đề tài của mâm Bánh, như mọi người, mà chỉ có hai chiếc bánh một hình vuông
và một hình tròn trơ trọi Vua tức thời cho đòi Lang Liêu lên tấu trình về lai lịch
bánh và dẫn chứng những điều kiện Vua đã đinh ra.
Lang Liêu đựôc lệnh liền buớc ra sân rồng qùy tâu :Muôn tâu Phụ
Hoàng
Chiếc Bánh hình
tròn kia là tượng trưng của hình Thái cực, tên là Âm Dương Bính, gọi nôm là Bánh
Dầy, vì nó có chiều cao dầy hơn những bánh khác, bánh này có đủ Sáu điều kiện của
Vua Cha đã đặt ra .
Phần Giải Thích;
Điều lệ thứ nhất.
Chiếc Bánh phải
bao hàm cả âm dương và vũ trụ
Muôn tâu: Hình
tròn là tượng hình của Thái cực (Tức là mặt Trời), Khi Thái cực được ông Châu
Diễn chia Âm Dương, và Tứ tượng, thì Thái cực bao hàm Thiên can, là
Giáp Ất Bính Đinh
Mậu Kỷ Canh Thân Nhâm Qúy. Khi Thái cực
chia ra lưỡng nghi,Tứ tượng, thì nủa phải
là Âm nửa trái là Dương, cho nên gọi tên là Âm Dương Bánh,Tứ tương, là Đông
Tây Nam Bắc bốn phương trời,và trung ương, Tứ tượng là Môc Hoả Kim Thủy trung ương
là Thổ, thế là chiếc Bánh đã bao hàm cả Âm Dương (Can, Chi) trong Vũ trụ.
2- Điều thứ hai:
Chiếc Bánh phải
bao hàm cả bốn mùa tám tiết và sự trồng cấy hoa mầu chính,phụ của nhân dân,
Muôn tâu Phụ Hoàng.
Trong Bánh có Ngũ
hành tứ tượng Can & Chi theo lối tương sinh xoay tròn thành ra bốn mùa tám
tiết và hai mươi bốn hậu, gió hoà mưa thuận, ứng dụng cho nhà Nông trồng trọt
hoa mầu (Phụ) và cấy lúa (Chính) cùng chăn nuôi gia súc trong sách Tứ thư có nói
“ Kê Đồn Cẩu Trệ chi súc, bất thất kỳ thời, thất thập giả khả dỉ ý bạch thực nhục”
nghĩa là các vật chăn nuôi trong nhà và trồng ngô khoai lúa mạ, nuôi Chó gà trâu
dê heo bò cùng trồng cấy không mất mùa thì những người trong nhà bẩy mươi tuổi đều
mặc lụa ăn thịt dư giả,
Tám Tiết:
Lấy Bát quái của
Phục Hy mà tính thì:
Tiết Đông chí ứng
với quẻ Khảm thàng 8, 9, nông lịch,
Tiết Lập Xuân ứng
với quẻ Chấn tháng 10 nông lịch,
Tiết Lập Xuân ứng
với qủe Khôn tháng 11,12 nông lịch,
Tiết Lập Hạ ứng
với quẻ Cấn vào tháng 1 nông lich
Tiệt Hạ chí ứng
với quẻ Ly vào tháng 2,3, nông lịch
Tiết Lập Thu ứng
với quẻ Đoài tháng 4, nông lịch
Tiết Thu Phân ứng
vào quẻ Càn tháng 5, 6 nông lịch
Tiết Tiết Lập Đông
ứng vào quẽ Tốn tháng 7 nông lịch
Phân tách một tiết
hậu Lập xuân làm điển hình:
5 ngày đầu của
tiết - Gió đông thổi làm tan băng giá
5ngày giữa tiết
- Cá ngôi lên mặt băng
5 ngày cuối tiết
- Chim oanh hót líu lo
Phần Gió Mùa:
Gió Mùa Chính
Phong:
Tiết Đông chí gió
bắc ( thường gọi là gió heo may, lạnh giá )thổi sang nam (Từ Khảm sang Ly) 45
ngày
Gió Phụ:
Tiết Lập xuân có
gió Tây bắc thổi sang Đông nam 45 ngày (Quẻ Chấn sang quẻ Đoài, thánh 10 âm lịch)
Gió Mùa Chính
Phong:
Tiết Xuân Phân
gió Đông thổi sang Tây 45 ngày ở quẻ
Càn sang quẻ Ly
vào giữa tháng 11- 12
Gió Phụ:
Tiết Lập Hạ có
gió Đông Nam thổi sang Tây Bắc trong 45 ngày ứng tháng 1 cung Dần (Từ Cấn sang
Tồn) tương truyền rằng khổng Minh cầu gió Đông giúp Chu Du ở vào thời tiết này .
Gió Mùa Chính
Phong
Tiết Hạ Chí có
gió Nam Nóng từ quẻ Ly thổi sang quẻ khãm lạnh trong 45 ngày vào giữa tháng 2, 3
nông lịch)
Gió Phụ :
Tiết Lập Thu, có
gió Đông Nam
thổi sang Tây Bắc trong 45 ngày (tháng 4-10 quẻ Đoài sang Chấn) (dương cực)
Gió mùa Chính
Phong:
Tiết Thu Phân vào
khoảng tháng 5-6 thì có gió chính Tây thổi từ tây sang Đông (ấm- nóng) (Qủe Càn
sang Khôn).
Gió Phu:
Tiết Lập Đông ứng
vào tháng 7 nông lịch có gio Tây Bắc thổi sang Đông Nam trong 45 ngày từ Tốn
sang quẻ Cấn, (Nóng ấm)
Những gió mưa này
mà theo thứ tự tuần hành đều đặn thì gọi là mưa thuận gió hoà nhân dân an lạc ít
bệnh tật ngũ cốc phong đăng người người no ấm thiên hạ tháu bình quốc gia thịnh
trị,
Điều Ba (3)
3- Chiếc bánh phải
nói lên được sự bao hàm củ phép Tỉnh điền.
Muôn tâu Phụ Vương.
Chiếc Bánh hình
tròn lại có có Tứ tượng ở giữa vòng tròn bọc lại tức là chữ Điền , ai ai cũng đều nhận thức được
thế là nói lên sự bao hàm của phép Tỉnh Điền, (+)
Điều Bốn (4)
4- Chiếc Bánh phải
có một Bài thuốc trị bệnh có hiệu qủa đã được kinh nghiệm phổ biến khắp dân
gian từ lâu đời.
Muôn tâu Phụ Vương.
Trong bánh có chứa
một bài thuốc đôc đáo mà dân gian kinh nghiệm đã lâu đời là Bánh Dầy còn giẻo dùng
để chà cho hết lông trái đào trước khi ăn để khỏii ho vì lông đào làm cho ngứa
cổ mà sinh ra ho bài thuốc ngừa ho độc đáo này đã được phổ biến khắp dân gian từ
bao đời ông cha truyền lại đến nay, chứng nghiệm là Hội Bàn đào của Tậy Vương Mẫu
trên Đế đình đã dùng Bánh dầy còn giẻo để chà sạch lông đào trước khi quần Tiên
thưởng thức. Ngoài phố phường những người bán Đào đều có bán những cặp bánh dầy
nhỏ để chà lông đào
5- Điều Năm.
Chiếc Bánh phải
làm bắng những vật liệu và thực phẩm cây nhà lá vườn ở trong nước ,
Muôn tâu Phụ Vương:
Bánh Dầy làm bằng
Gạo nếp Hương cấy vào mùa tháng Mười hàng năm, bên ngoài Bánh dùng thăn cây chuối
tẻ ra làm đai bọc chung quang giữ bánh cho tròn, lá chuối lót đáy bánh, đều là cây nhà lá vuờn, trong dân
gian nhà nào cũng có trồng, lại dùng một trái trứng gà con so luộc chín lấy lòng
đỏ trứng hòa với chút rượu để xoa tay trở bánh, nặn bánh, xoa mặt bánh cho đở nóng
mà bánh sẽ lên hương, những thực phẩm và vật liệu này toàn dùng cây nhà lá vườn
mà hết thẩy dân gian trong nước nơi nào cũng có cả. Dân miền Nam có câu hát du con ngủ: À à ơi ! Gió đưa tầu chuối sau hè, Cha ham vợ
bé bỏ bè con thơ, Ù ù ơ,……….
6- Điều lệ thứ Sáu
(6)
Chiếc Bánh phải
nói lên được lòng yêu nước, thương nòi và tôn kình các bậc tiền nhân, cùng với 4
chữ Nhân nghĩa lễ trí và tam cươg ngũ thường của Khổng Mạnh.
Muôn tâu Phụ vương:
Bánh được làm ra
trước là Dự Thi sau để Vua kính tế Trời Đất và các Linh Thần cùng Tổ tiên trong Văn Miếu, khi kính tế xong chia cho
mọi ngừoi dùng thử như vậy là Tôn kính các bậc Tiền nhân cùng yêu nước thương nòi,
đó là Nhân Nghĩa, Lễ, Trí có đủ, Nơi đồng quê chồng cầy vợ cấy con tát nước be
bờ, trong lối xóm đến mùa cấy cấy người ta thường đổi công nhau có khi bè bạn
thân quyến cũng giúp nhau để xuống đồng cho đúng với thời tiết của mùa cấy gặt mới
có gạo làm Bánh Dầy này, và các thứ bánh khác, thế là nổi lên ý nghĩa tam cương
ngũ thường, với lòng yêu nước thương nòi.
Phần Giải Thích
chiếc Bành thứ hai
Muôn tâu Phụ vương:
Chiếc Bánh hình
vuông này là tượng hình của Đồ Hình Địa chi có 12 ô vuông, gọi là Phương Bính
hay Bánh Chưng, vật liệu gồm có Lá dong Gạo nếp Thịt heo Đậu xanh, Hành hoa, và
muối, hột tiêu, dùng một cái ô vuông bằng gỗ làm khuôn rồi đặt lá dong vào, gao
nếp vo sạch để cho ráo nước rồi đổ vào khuôn trải đậu xanh cho đều đặt thịt heo
và hành hoa vào giữa rồi rắc muối tiêu lên trên lại đổ thêm một lần gạo nữa rồi
hgói lại ngoài dùng lạt dang nhuộm đỏ mà buộc mỗi bên hai lạt Hình như chữ tỉnh,
buôc xong nhấc bánh ra khỏi khuôn nắn lại cho mịn rồi xếp vào nồi đổ nước cho
ngập bánh mà đun một đêm hay một ngày là chín.
Bánh được xếp vào
nồi đồng to (Kim), đổ đầy nước lạnh cho ngập bánh (Thủy), lại dùng ba cục đất lớn
bác làm bếp, (Thổ) dùng củi khô để đun (Mộc) dùng lửa (Hỏa) để nấu chín bánh, đó
là sử dụng Ngũ hành để nấu Bánh khác gì Thái thượng Lão Quân dùng lò Bát Quái của
Phục Hy nấu thuốc trường sinh.
Phân Tách
Muôn tâu Phụ Hoàng
Điều lệ thứ Nhất
(1):
Chiếc Bánh phải
bao hàm cả Âm Dương cà Vũ Trụ
Chiếc Bánh hình
vuông lạt buộc hình chữ Tỉnh, tượng hình của Địa chi, bao hàm cả, Tiên Thiên Hậu
Thiên đồ, bánh này gồm đủ Âm Dương và Vũ trụ.
Gạo nếp, Thịt heo, Đậu xanh thuộc Âm, Hành hoa, Muối Tiêu sọ thuộc Dương,
Tượng hình Địa Chi là Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, Đem Thiên
Can là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, Can Chi hợp lại thành
ra Năm tháng, ngày, giờ. (Năm Tý, Tháng
Tý, Giờ Tý… Năm Sửu tháng Sửu Ngày Sửu Giờ Sửu …..) Bốn mùa ở cả trong can chi,
Trong sách có câu : Thiên Khai ư Tý, Địa
tịch ư Sửu Nhân sinh ư Dần, Trời mở Hội từ Tý, Đất mở ra từ Sửu, Người sinh ra từ
Dần,
Trong Bánh có chứa
cả Ngũ vận(Dương) Lục khí (Âm) âm dương này được phân chia ra Chủ Vận và Khách
vận, Chủ Khí và Khách khí, Chủ vận thì Giáp Ất thuôc Mộc Bính Đinh thuộc Hoả……..Khách
vận thì Giáp Kỷ hoá Thổ, Ất Canh Kim, Chủ khí thì Đại hàn Mộc vận thủy hành sơ,
Thanh minh tiền tam Hỏa vận cư…………Khách khí, Tý Ngọ Thiếu Âm Quân Hỏa Thiên,
(coi sáu tháng đầu năm) Dương Minh Táo Kim ưng tại Tuyền (coi sáu tháng cuối năm)
năm nào khách trên chủ thì hòa bình chủ trên khách là nghịch thế là bánh bao hàm
cả Âm Dương Vũ Trụ,
Điều lệ thứ Hai
(2):
Chiếc Bánh phải
bao hàm đủ ý nghĩa bốn mùa tám tiết và sự trồng cấy hoa mầu chính và phụ, của
nhân dân.
Muôn Tâu
Trong Bánh đã có
năm tháng ngày giờ có bốn mùa tám tiết và 24 hậu như sau: Bốn Mùa,
Đầu mùa xuân là
tháng Giêng(1) đầu mùa Hạ là tháng Tư (4) đầu mùa Thu là Tháng Bẩy, đầu mùa Đông
là tháng Mười (10)
Tám tiết là: Lập
Xuân - Xuân phân, Lập Hạ - Hạ chí,
Lập Thu - Thu phân, Lập
Đông- Đông chí.
Hai mươi bốn Hậu
khí như sau:
Lập xuân, Vũ thủy,
Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập Hạ, Tiểu Mãn, Mang chủng, Hạ chí,
Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập
đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết ,Đông chí,
Tiểu hàn, Đại hàn.
Nằm cả trong đồ hình Địa chi này. Nhân dân
theo mùa tiết đó mà trồng cấy hoa mầu chính như lúa nếp, lúa tẻ, ngô khoai, đậu
mè… Ngoài những việc cầy cấy trồng hoa mầu
ra, dân gian còn dựa theo thời tiết mà nuôi các gia súc trong nhà như trâu bò gà
heo chó dê, lấy thịt làm thức ăn hàng ngày.
Đem Bát Quái đồ
của Phục Hy mà đặt vào Địa chi thì qủe Càn ở cung Hợi, quẻ Khảm ở cung Tý, quẻ
Cấn ở cung Dần, quẻ Chấn ở cung Mão, quẻ Tốn ở cung Tị,
quẻ Ly ở cung Ngọ,
quẻ Khôn cở cung Thân, quẻ Đoài ở cung Dậu, ông Thiệu Khang Tiết nói: Ly Nam Khảm
Bắc, thiên địa trung chính chi giao, Chấn đông Đoài Tây
thời lệnh xuất
nhập chi tự nghĩa là quẻ Ly ở Nam quẻ Khảm ở Bắc là nơi trời đất giao hợp, quẻ
Chấn ở Đông là lúc mặt trời mọc (Sáng), quẻ Đoài ở Tây là lúc mặt trời lặn (Tối)
bốn mùa tám tiết thay đổi ở hai chỗ này.
Bát quái còn ứng với thời tiết mưa gió sấm sét như sau:
Gió chính cung:
Hàng năm lấy quẻ
khảm làm tiết Đông chí, thời tiết này có Gió Bắc thổi sang chính Nam trong một
chu kỳ 45 ngày (quẻ Khảm thổi sang quẻ Ly) vào tháng 8 và 9, N.L.
Gió phụ:
Quẻ Chấn ứng vào
tiết Lập Xuân lúc này gió từ quẻ Chấn thổi sang quẻ Đoài 45 ngày, vào tháng 10
Gió Chính Cung :
Tiết Xuân phân
gió từ quẻ Khôn thổi sang quẻ Càn thời gian 45 ngày vào tháng 11-12 nông lịch.
Gió Phụ:
Tiết Lập Hạ gió Đông
nam thổi sang Tây Bắc trong 45 ngày từ qủe Cấn sang quẻ Tốn vào tháng Giêng nông
lịch
Gió Chính cung
Thời tiết tháng
1-3 có gió Chính Nam
thổi từ quẻ Ly sang quẽ Khãm trong 45 ngày
Gió Phụ:
Thời tiết tháng
4 nông lịch có gió Đông nam thổi sang Tây bắc thời gian 45 ngày từ quẻ Đoài
sang Chấn
Gió Chính cung :
Thời tiết thàng
5 và 6 có gió chính tây thởi sang chính Đông thời gian 45 ngày từ quẻ Khôn sang
quẻ Đoài
Gió Phụ :
Thời tiết tháng
bẩy gúi tây bắc thỗi sang Đông Nam
trong 45 ngày quẻ tốn sang quẻ Cấn,
Nói tóm lại tám
thứ gió là Gió la đông tây Nam Bắc và Đông nam tạy nam Đông bắc Tây bắc, gío này
mà thuận hành thì nhân dân ít đau ốm bệnh tật súc vật sinh nở nhiều hoa trái thóc
gạo nhiều nhân dân no ấm thiên hạ thái bình muôn phương an lạc,
Điều lệ thứ Ba
(3):
Chiếc bánh phải
nói lên được sự bao hàm của phép Tỉnh Điền; Muôn tâu
Chiếc Bánh gói hình
vuông, ngoài dùng 4 sợi lạt giang nhuộm đỏ buộc mỗi chiều hai sợi thành ra chữ
Tỉnh, thế là bao hàm cả chữ Tỉnh và chữ Điền mà mọi người đều dễ nhìn thấy rõ
(Bốn chiếc lạt buộc Bánh chập lại thành hai thì là chữ thập ở trong hình vuông
bánh là chữ Điền Không chập lại là chữ Tỉnh ).
Điều lệ thứ Bốn
(4):
Chiếc Bánh phải
bao hàm một bài thuốc trị bệnh độc đáo của dân gian đã từng kinh nghiệm.
Muôn tâu
Bánh dầy còn là
một bài thuốc ngừa chứng Ho độc đáo mà dân gian đã bao đời kinh trị, là dùng Bánh
Dầy còn giẻo để chà hết lông trái đào trước khi ăn cho khỏi ho, vì lông đào làm
cho ngứa cổ mà sinh ho,phương thuốc trị ho này dân gian đã bao đời kinh nghiêm
truyền lại đến nay, người bán đào là có bán cả Bánh dầy còn giẻo, để lau chùi
cho đào sạch lông và phấn. Khi xưa hội nghị Bàn đào của Bà Tây Vương Mẫu ở trên
Đế đình đã dùng Bánh Dầy còn giẻo để lau lông đào trước khi quần Tiên thưởng thức.
Điều lệ thứ Năm
(5):
Chiếc Bánh phải
làm hoàn toàn bằng vật liệu thực phẩm cây nhà lá vườn, của đất nước Việt Nam ,
Muôn tâu
(Phương Bính= Chưng)
Bánh này gói bằng gạo nếp hương, gặt vào tháng Mười Nông lịch, giữa bánh có thịt
heo, đậu xanh hành hoa và mối tiêu ngoài dùng bốn lá
dong lạt dang rừng
mà buộc lại cho chặt, rồi xếp vào nồi to đổ nước cho ngập bánh mà luộc một ngày
là chín
Gạo nếp, Thịt
heo, đậu xanh thuộc âm, hành hoa muối tiêu thuôc dương,như thế là chiếc bánh đã
bao hàm cả âm dương, trong lòng đất có hoả diệm sơn thì trong lòng bánh cũng cò
hành hoa tiêu sọ là hai thứ dương phục trong âm như thế là bao hàm cã vũ trụ và
không gian, những thực phẩm và vật liêu làm chiếc bánh này hoàn toàn bằng hoa mầu
chính phụ và cây nhà lá vườn của nhân dân, khắp trong nước nơi nào cũng có cả.
Điều lệ thứ Sáu
(6):
Chiếc Bánh phải
nói lên được sự yêu nước thương nòi, tôn trọng các bậc tiền nhân, và luôn luôn
giữ vững bốn chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí, và Tam cương Ngũ thường của đạo Khổng Mạnh.ai
trúng giải sẽ được truyền ngôi báu cao sang để thay trời trị nước an dân
Muôn tâu Phụ Vương:
Chiếc Bánh vuông
này trong lòng bánh có nhân bằng đậu vàng, ngoài dùng lạt dang nhộm dỏ để buộc,
đó là tượng trưng cho Máu Đỏ Da Vàng, tỏ lòng yêu nước thương nòi, Bánh thi
xong dâng lên Kính tế Trời Đất Thần Linh và Tổ Tiên như vậy là tôn kính các bậc
tiền nhân, Bánh còn làm qùa biếu tặng cho thân quyến bạn bè xa gần thế là nhân
nghĩa lễ trí, trong gia đình cha con chồng vợ anh en hoà thuận chăm lo việc trồng
cấy thì hoa mầu được tăng trưởng thu hoạch nhiều, thực hiện câu dân dĩ thực vi
tiên. quốc dĩ dân vi bản, nghĩa là Nước lấy dân làm gốc, dân no cơm ấm áo là
vui, trong sách Khổng tử có nói tự thân. nhi gia nhi quốc, nhi thiên hạ, thứ đệ tương
thừa, nghĩa là tự mình phải biết lo cho mình, lo cho gia đình cha mẹ vợ con mình,
sau đo mới lo đến việc nước, và việc thiên hạ từng bước từng bậc mà lên thế là
thực hiện Đạo Khổng Mạnh ở trong bánh. Xin
hết.
Nhà Vua cùng bá
quan văn võ nghe Lang Liêu tấu trình. Cặp
Bánh Âm Dương xong nhà Vua phán Lang Liêu đệ bản tấu trình lên để ban Giám khảo
cuộc Thi xét duyệt, Lang Liêu tức thì trình diện Thánh, Sau một khắc thì nhà
Vua và Quần thần cùng Ban Giám khảo đồng lọat ra tuyên bố Lang Liêu trúng giải
Thi Bánh Khéo, những tràng pháo tay lẫn tiếng reo hò vui mừng vang đông cả kinh
thành, cùng lúc ấy thì tiếng chuông trống chùa đình khắp trong kinh thành báo
hiệu năm mới đã về, mọi người đều hân hoan đón chào năm mới, sau một phút đón
Xuân về Vua bèn sai thị thần dâng Bánh trúng giải lên bàn thờ để Vua Kính tế Trời
Đất Thần Linh và các bậc Tiền Vương trong Văn Miếu. Bánh kính tế xong Vua truyền đem cắt ra để mọi
người cùng nếm thử, ai cũng khen ngon và khéo Vua bèn truyền lệnh cho dân gian
từ đây về sau nên làm bánh này để đón mừng năm mới và kính cáo Tổ tiên, từ đấy
dân gian thành tục lệ ngày Tết là giã bánh dầy và gói bánh chưng đón xuân. Sau đó Vua truyền cho Bộ Lễ chọn ngày lành tháng
tốt thực thi lời cam kết trong điều lệ thi Bánh cho Lang Liêu.
Để kết thúc Sự tích
Bánh Dầy Bánh Chưng ,Viên Ngoại cảm tác như sau:
Tết mà thiếu cặp Bánh Chưng
Là quên nòi giống con Rồng cháu
Tiên
Khắp Trung Nam Bắc ba miền
Dân hai nhăm triệu còn truyền
đến nay
Ăn quả thì phải yêu cây
Uống nước thì phải nhớ đây
là nguồn
Ngoài trời gió giật mưa tuôn
Tết về, vẫn giữ y nguyên Bánh
Dầy.
PHIẾM LUẬN:
Tại sao Bánh chưng
ngày Tết ăn lại ngon hơn những ngày thường, Xin thưa Bánh Chưng phải có gió Đông
nam, hoa đào nở rộ, Hoá công về, thì ăn mới ngon năm nào Hoá công tới trễ, hay
qúa sớm, thì bánh chưng ngày tết ăn thường không ngon, ngoài chợ bán không mấy
người mua.
Tại sao Bánh chưng
khi vớt ra đem rửa nước lạnh mà nước không ngấm vào Bánh. Theo truyền thuyết thì xưa kia ngày đầu năn
kinh thành có giặc nhà vua sai cất giấu lương thực bánh Chưng lúc ấy đem quăng
xuống ao để dấu, khi giặc lui rồi dân gian trở về tìm lại lương thực đã cất dấu,
bánh Chưng vớt lên thì lạ thay bánh ngâm đã mấy ngày mà nước không thấm vào Bánh,
thấy có sự lạ sau này dân gian nấu Bánh khi vớt ra đem rửa nước lạnh phải chăng
cũng là ghi nhớ lại tích cũ ngày xưa đó chăng.
Mùa Hạ tháng 12
ngày mồng 7 - năm 2010
Tháng 11 năm
Canh Dần mồng 2 tại nước Úc
Viên Ngọai Thái Hanh - sưu tầm & Biên soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét