Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014

Thói Quen Trễ Giờ


      Viết về đề tài này cũng giống như món ăn dễ nhai nhưng khó nuốt, hoặc y như mình tình nguyện bước chân vào ổ kiến lửa, bởi nó không dễ dàng được người khác “cảm tình”.
Người Việt Nam nào cũng than phiền về tình trạng trễ giờ của “phe ta”, nhưng ngay những người than phiền về điều này cũng không tránh khỏi thói quen mà chính họ không… ưa. Người viết cho rằng đây là một “thói quen”, vì nhiều bằng chứng cho thấy những ai “trễ hẹn” là vì họ muốn như thế chứ không do hoàn cảnh khiến họ phải trễ giờ. Khi cần, người Việt Nam rất đúng giờ. Ít ai thấy người Việt Nam đến muộn trong những vụ hẹn hò có tính cách ảnh hưởng đến “nồi cơm” của họ.
      Ngay người bản xứ cũng biết cái “bệnh trễ giờ”, hay “thói quen trễ giờ” của người Á đông hay người Việt Nam chúng ta. Có một thành ngữ  bằng tiếng Anh: “Better late than never, but never late is better”. Tạm dịch: “Trễ giờ vẫn còn tốt hơn không bao giờ, nhưng không  bao giờ trễ giờ vẫn tốt hơn trễ giờ.”
Trong những cuộc hẹn hò giữa đôi tình nhân, người trễ giờ thì không sao, nhưng người chờ đợi thấy thời gian nó dài lắm. Cho nên Thi Sĩ Hồ Dzếnh có mấy câu Thơ:

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé.
Để lòng buồn anh dạo khắp quanh sân.
Trên tay anh điếu thuốc cháy lụi dần.
Anh khẻ bảo: gớm, sao mà nhớ thế.

      Đó là sự trễ giờ giữa đôi trai gái yêu nhau, và sự trễ hẹn đó không sao, có khi còn là chuyện hay hay, nhưng trong sinh hoạt của con người, tình trạng trễ giờ cần phải được xem lại. Vì sự trễ giờ thật sự đã tạo thêm nhiều rắc rối, có khi là những hệ lụy khôn lường. Trong những cuộc vượt biên tìm tự do, người đến điểm hẹn không đúng lúc, đã bị bỏ lại và phải mất hằng chục năm mới gặp lại người thân, hoặc họ chẳng bao giờ gặp nhau sau lần trễ hẹn đó.
Tại hải ngoại, sự trễ giờ một cách triền miên của người Việt Nam đã làm mất thì giờ của nhau một cách vô lý trong những tiệc cưới hay những buổi hội họp. Có người kể cho tôi nghe, tại Oregon (nơi người viết đang cư ngụ) có một vị Mục Sư Việt Nam làm tiệc cưới cho con ông. Có lẽ ông muốn làm một cuộc thay đổi về tình trạng trễ giờ, nên ông nói trước với những tín hữu mà ông là mục sư của họ rằng: Ông sẽ tổ chức đúng giờ, nếu anh chị em nào đến trễ giờ, ông xin lỗi trước, bởi ông sẽ không chờ. Kết quả, tiệc cưới không thể tiến hành đúng giờ, vì đã trễ hơn một tiếng mà chỉ có vợ chồng ông và xe của cô dâu chú rể có mặt, còn hầu hết những người thuộc nội, ngoại, xa gần cùng tín hữu vẫn chưa thấy tăm hơi. Trước hoàn cảnh đó, tiệc cuới không thể tiến hành và xem như hoài bảo làm một cuộc “cách mạng” về việc đúng giờ của vị mục sư khả kính đó đã trở nên thất bại “thê thảm”.
      Có lần tôi tổ chức tiệc vui trong ngày “Tết Nguyên Đán” tại Salem, Oregon, nơi tôi khởi sự mục vụ rao giảng về sự cứu rỗi của Chúa. Trong bữa tiệc này, có khoảng 30% quan khách là người bản xứ. Vì biết cái tật của “phe ta” nên trong thư mời, tôi ghi giờ mời người Mỹ trễ hơn người Việt Nam một tiếng đồng hồ. Dù đã ghi trong thiệp như thế nhưng tôi vẫn chưa an tâm. Gần đến ngày tổ chức, tôi đích thân gọi từng gia đình Việt Nam và xin họ cố gắng đến đúng giờ để ban tổ chức khỏi phải áy náy với người bản xứ. Vì thấy tôi “năn nỉ” tha thiết quá nên có khoảng 40% khách Việt Nam đến trước giờ khai mạc khoảng 15-30 phút, và 60% còn lại đến rất đúng giờ. Rốt cuộc, tất cả người bản xứ đều đến sau người Việt Nam. Nhưng lần chờ đợi đó, phe ta vui lắm, vì đó là lần đầu tiên “bất chiến tự nhiên thành”.
Như đã nói, người Việt Nam nào cũng than phiền về tình trạng trễ giờ của những người Việt Nam khác, nhưng tại sao nhiều người Việt Nam vẫn cứ trễ giờ? Thực tế thì người Việt Nam rất đúng giờ, có khi còn đến sớm cả giờ để ngồi chờ, trong những trường hợp sau đây:

      Hẹn thi quốc tịch hay tuyên thệ trở thành công dân Hoa Kỳ. Ra phi trường đón người yêu hay đón vợ từ Việt Nam mới sang. Hẹn phỏng vấn cho công việc làm. Hẹn phỏng vấn xin tiền trợ cấp xã hội…
Nếu vì thiếu giờ nên trễ giờ thì không nói chi, nhưng còn dư giờ mà cũng trễ giờ một cách triền miên thì phải tìm cách thay đổi. Nhiều trường hợp cho thấy, không ít người bị tai nạn xe cộ chỉ vì hối hả trong lúc lái xe. Có những trường hợp người ta gây ra hoả hoạn chỉ vì hối hả ra khỏi nhà, nên quên kiểm soát điện đài hoặc không nhớ tắt đèn, tắt bếp.
      Trở lại câu hỏi, tại sao người Việt Nam hay trễ giờ? Xin thưa, tại vì người Việt Nam muốn trễ giờ trong các tiệc cưới hay sinh hoạt trong cộng đồng. Người viết từng thăm dò về tình trạng này thì hầu hết ai cũng nghĩ, mình có đến trước cũng phải chờ người khác, nên việc gì phải đúng giờ? Mặt khác, thì giờ dự trù ra khỏi nhà để đến điểm hẹn quá khít khao nên luôn luôn trễ.

      Đi chơi trễ giờ, tham dự những buổi tổ chức trong cộng đồng, các tiệc cưới hỏi trễ giờ đã đành, mà đến đến Nhà Thờ hay Thánh Đường để thờ phượng Chúa cũng trễ giờ. Tôi từng sinh hoạt tại một nhà Tin Lành tại Portland, Oregon. Tôi chứng kiến, có người vào nhà thờ đã trễ cả nửa tiếng. Họ bước vào nhà thờ  trong lúc ông mục sư đang giảng luận. Đáng lẽ họ phải giữ im lặng và tìm cho mình một chỗ ngồi thì họ lại đi “tà”, “tà” như không chuyện gì xảy ra. Chưa hết, họ còn ung dung tấp bên này bắt tay người này, tấp qua bên nọ bắt tay hay chào hỏi người kia thật lớn tiếng, khiến người giảng luận và người nghe giảng luận cũng phải giật mình.
      Thử hỏi, là con dân Chúa, chúng ta có một cuộc hẹn với thị trưởng thành phố hay thống đốc tiểu bang chúng ta có dám trễ giờ không? Vậy mà hằng tuần đến nhà thờ ra mắt Chúa, chúng ta luôn hay thường trễ giờ là sao? Nếu chúng ta mong đợi và vui mừng cho việc chờ đến ngày Chúa Nhật để được đến nhà thờ thờ phượng Chúa thì khó trễ giờ lắm.
      Tôi thấy trong các mùa lễ lớn tại Hoa Kỳ, có người vì muốn mua cho bằng được hàng hoá “on sales” nên phải đến trước xếp hàng cả giờ. Có người đến trước tiệm, dựng lều để chờ sáng sớm vào trước mua được món hàng giá rẻ, nhưng khi cần đúng giờ cho những việc khác thì lại không quan tâm. Nói chung, tất cả sự trễ nải là do chúng ta mà thôi. Trước khi kết luận bài viết “dễ mích lòng” này, tôi xin kể câu chuyện về sự “trễ giờ” của tôi.

      Khoảng năm 1998, tôi tham dự một buổi nói chuyện và giải đáp thắc mắc về chương trình “cải cách an sinh xã hội” (welfare reform) của chính phủ Mỹ tại Portland, Oregon. Tôi đến địa điểm tổ chức trước giờ khai mạc khoảng ba mươi phút. Đây là thói quen của tôi. Trong các buổi sinh hoạt cộng đồng, tôi luôn cố gắng đến trước giờ tổ chức để quan sát và tạo dịp tâm tình, xã giao với đồng hương mình. Lần đó đến địa điểm tổ chức vừa đậu xe xong, bước ra khỏi xe tôi gặp ngay một vài đồng hương Việt Nam gồm những vị rất cảm tình và luôn ủng hộ các việc làm của tôi. Các vị giữ tôi lại và hỏi han nhiều vấn đề, từ chuyện cộng đồng cho đến chuyện cá nhân. Khoảng mười phút chuyện trò tôi mới nói với các vị ấy rằng: “Thôi chúng ta cũng nên vào trong cho ấm hơn và để tiếp tay với ban tổ chức nếu họ có điều gì cần giúp…”. Khi chúng tôi bước vào hội trường thì tôi mới “té ngửa” là mình lại trở thành kẻ “trễ giờ” so với hằng trăm người ngồi chật nít trong hội trường. Lần đó tôi nhìn thấy những khuôn mặt thật xa lạ, hoặc những người tôi từng quen biết trong sinh hoạt cộng đồng, trong nhà thờ Tin Lành, ngay cả những người từng tuyên bố “không thích chuyện chính trị” cũng đến đó trước tôi. Họ quá đúng giờ và đến thật đông vì buổi nói chuyện đó thật sự có liên quan đến nồi cơm của họ. Tôi không nói điều này tốt hay xấu, nhưng tôi chỉ muốn nói, trễ giờ hay đúng giờ đều cho chúng ta quyết định cả.


      Kết luận: Luật pháp không đó điều khoảng nào buộc tội người “trễ giờ” nhưng sự trễ giờ thường tạo ra nhiều điều tiêu cực cho chính người đó và những người chung quanh. Ai không tin, cứ thử đến trễ trong vụ hẹn thi quốc tịch Mỹ, hoặc tuyên thệ trở thành công dân Hoa Kỳ, hoặc có mặt trong một phiên Tòa, hoặc cuộc phỏng vấn tìm việc làm… thì biết. Tôi cũng từng trễ giờ, và nếu tôi phải đến trễ, tôi cố tìm cách thông báo cho ban tổ chức hay người mời tôi rõ hoàn cảnh của tôi. Tôi càng ý thức rằng, không thể chỉ vì sự trễ nải của tôi mà làm ảnh hưởng đến nhiều người khác.
      Đừng nên trễ giờ trong các sinh hoạt chung và cũng đừng nên trễ nải trong đức tin nếu người đó đang tìm kiếm một nơi vĩnh cửu cho linh hồn sau khi lìa trần. Ý tôi muốn nói là đừng trễ nải cho quyết định tiếp nhận sự cứu rỗi của Chúa. Đừng chờ ngày mai, vì ngày mai có khi không đến với chúng ta. Chỉ cần một trận động đất, sóng thần, một tai nạn, một cơn bệnh, chúng ta sẽ không còn cơ hội để đạt được những gì đáng lẽ chúng ta phải đạt được khi còn hơi thở. Chúng ta có thể chậm trễ điều gì chứ việc chung, hay công việc Chúa thì không nên trễ nải.

Huỳnh Quốc Bình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét