Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Rồng Tiên Vào Hội


‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà’
(Việt Nam: Tân Huyết Sử diễn ca)

 Những giai đoạn lịch sử huy hoàng

1.a:

Thơ ta

Ðêm đêm lừng vang bốn biển
Thơ ta đen, đỏ, tím, vàng, lam, trắng, xanh, huyền nhiệm
Thơ vào lay động giấc Long Vương
Chốn thủy cung
Ðánh thức con rồng vàng đang ngủ
Lên khỏi đại dương
Về nằm lại bên sườn Ngũ Lĩnh
Ðể Rồng lại nói
Ðể Rồng lại thưa


Thưa rằng:

"Ta là Lạc Long
Nàng là Âu Cơ
Buổi đầu dựng nước
Vàng tươi màu cờ
‘Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư’ (thơ Lý Thường Kiệt)
Ðường lịch sử mưa điên vần vũ
Nòi Rồng Tiên thác lũ bao phen
Vuông tròn chung một khuôn thiêng
Ðuổi quân giặc nước, duyên tròn lại duyên.
Trăm con một bọc
Giống nòi Rồng Tiên
Nghìn năm sau trước một thuyền
Nghĩa thề non nước, tình nguyền nước non".

Dậy dàng qua núi qua sông
Vang vang chính khí
Rạo rực lòng công đức cha ông
Dựng Việt Nam giữa trời Ðông Á
Một Việt Nam anh hùng, chí cả
Một Việt Nam sắt son vàng đá
Nghìn muôn năm kết chặt bản tình ca
‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’.’’

I.b:

Thơ ta

Ðêm đêm trào lên ngọn bút
Ôn lị On Lịch sử mấy nghìn năm sau trước trước
Dạt dào tim, nghĩa nước tình nhà
Dạt dào tim, ơn Mẹ công Cha
Bao công đức dệt lời thơ bất tuyệt

Thơ rằng:

"Tuyệt vời thay ý chí đàn bà
Ðáp nghĩa nước, trả thù nhà trọn vẹn
Dòng chính khí trào dâng lên huyết quản
Cờ Vàng bay rực sáng cõi Mê Linh
Ðàn voi thiêng chung óng ả lời tình
Thế giới cổ kim, duy một lần, sau trước
Chí quần thoa trổi vượt cả nam nhân
Ba năm dài dựng nước
Ba năm dài nao nức bản hùng ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’.’’

‘’Nửa đêm thức giấc
Còn nghe vẳng tiếng Ngô Quyền
Soi vừng trăng lạnh
Gỏ nhịp ván thuyền
Hát bài thắng trận…lênh đênh
Ðầu Hoằng Thao lông lốc
Thuyền Bắc quân tan tác, dập dềnh
Từ đây dựng lập kỷ nguyên
Từ đây độc lập lưu truyền sử ca:
‘‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

‘’Một búp sen non nở bừng trang sử
Thời huy hoàng triều đại Lý hoàng kim
Ðạo hạnh lung linh sáng rỡ hương thiền
‘Tâm như’ thấm đượm lời tim
Từ ‘vô úy’ dệt niềm tin bất diệt
Thơ thần ướp ngọn gươm thiêng
Lý Thường Kiệt chận đầu quân giặc Tống
Cờ sắc thắm lên cao lồng lộng
Ðât cùng trời vang động khúc hoan ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

’’Một dòng sông! Có một dòng sông
Quân Nam tràn lên như bão tố
Vạn cánh tay thề ‘sát đát’ quyết không tha
Hội Diên Hồng trút lên đầu lũ giặc
Triệu rưỡi quân Nguyên ba lần tan tác
Mộng xâm lăng. Bạch Ðằng giang
Sông hùng dũng của nòi giống anh hùng
Sông lẫy lừng chiến tích
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

‘’Ai đi đó, có xuôi về Thanh Hóa
Tri ân người áo vải đất Lam sơn
Mười năm dài gian khổ
Ðẩy Thoát Hoan cùng đường mạt lộ
Liễu Thăng, Sầm Nghi Ðống,..bao tướng giặc tài ba
Bay đầu, phơi xác, qụy lụy xin tha
Bài Cáo Bình Ngô rúng động cả sơn hà phương Bắc
Bàn tay nông dân anh hùng dẹp giăc

Toàn muôn dân óng ả nhạc đồng ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’
‘’Nguyễn Huệ Quan Trung, một trận Ðống Ða
Quét sạch lũ gian tà
Ðẩy Sĩ Nghị vứt ấn kiếm, ôm đầu chạy bộ
Vạn vạn quân Thanh, cầu đổ, trôi sông
Càn Long, khiếp hãi, buộc lòng
Nghị hòa cho đỡ thẹn thùng bại binh
Nước non mình lại với mình
Bắc Nam, dân nước thanh bình
Bắc Nam lại trổi sử tình âu ca:
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’’

I.c:

Thơ ta

Đêm đêm nhìn Bắc Đẩu
Sớm sớm đón dương quang
Từng trang lịch sử̉ huy hoàng
Từng thuở ́ cờ vàng giữ nước
Dậy dàng tim thao thức, bâng khuâng
Dậy dàng tim nao nức, rưng rưng
Dệt lời thơ nhớ


Thơ rằng:

‘’Nhớ Văn Lang quê hương rục rỡ́
Nhớ Cổ Loa, nhờ nỏ Long Châu
Trống Đồng gỏ nhịp khoan mau
Lạc Hổng ruổi gíó bay vào sử xanh…
Nhớ từng buổi cha tần ngần buông cuốc
Mắt rạng ngời lúa mượt đồng xanh
Những hạt vàng long lanh
Những hạt vàng óng ánh
Nuôi dòng đời, nuôi mạch sống tinh anh

Nhớ mẹ già́ buông gánh hàng rong
Tay mân mê cô búp bê xinh xắn
Miệng tươi cười, lau chiếc trán mồ hôi
Chạy vào thăm cháu
Đứa cháu nhỏ đôi mắt tròn diễm lệ
Một nhoẽn cười, non bể vào xuân
Bao em ta, riu ríu chân chim
Nhảy dây, chơi bi, đánh đáo
Chân cò cò, la hét oang oang
‘Công cha như núi Thái Sơn..
Bầu ơi thương lấy bí cùng’..
(Hiểu nghĩa gì không? Chúng lắc đầu nguầy nguậy!)

Chị ta gập mình trên trang giấy
Bài học quá dài,
Phép tính vi phân, phương trình lượng giác
Khó làm sao ! Nhưng sáng ngời ánh mắt
Quyết một lòng son sắt chí cha ông

Các anh ta trùng trùng núi dựng
Trùng trùng mưa biển sóng dập dồn
Ghim súng chờ thù, miệng thầm lẩm nhẩm
Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Chuơng Dương, Hàm Tử
Mẹ và Cha, mõi mòn nơi hậu cứ
Xin yên tâm, vững chí đợi con về
Ngày hoà bình, lộng lẫy đất trời quê

Và, đôi ta,
Mắt em anh bảo xanh màu nước
Ôm trọn vừng trăng anh thả trôi
Tóc em anh bảo sợi mưa ngâu
Chải thơm cánh gió mấy từng cao
Mạch dài hơn cả tràng giang mộng
Tình mình ‘biển núi’ đẹp trăng sao!
Lòng ta là biển
Trí ta là non
Non lên cao nhìn vào biển rộng
Biển muôn trùng chở mộng non cao
Chữ tình rộng hẹp ra sao
Mà ôm trọn cả núi cao biển dài

Rồi cứ thế, tay trong tay,
Tiếp dòng lịch sử
Tay trong tay,
Ngôn ngữ mặn tình người
Ươm vào tim từng lời thơ chính khí
Ướp vào lòng từng nhịp bản trường ca

‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!"

I.d:

Thơ ta

Đêm đêm cỡi ngựa vàng lên đỉnh Sóc
Giục phi nhanh lên tận chín tầng trời
Lật sổ Nam Tào
Giở trang Bắc Đẩu
Xóa màu hư cấu
Tờ thiên thư chép vội mấy dòng thơ


Thơ rằng:

‘’Co ́ con sông nào không xuôi về biển
Có biển nước nào chẳng bốc thành hơi
Hơi lên kết đọng mây trời
Gió đưa mây đến từng nơi non ngàn
Mây kết thành mưa
Mưa tuôn ào ạt
Nước tinh tuyền tắm mát đầu non
Nước đi là để lại nguồn
Tình ta qua những trang buồn lại vui’’

Rồi ta đếm tuổ̉i cuộc đời
Trong ta cõi đất cõi trời giao nhau
Nghìn năm sau trước trước sau
Dễ ai dựng vách ngăn rào núi sông
Bao phen con Lạc cháu Hồng
Xóa trang dị sủ, dẹp dòng can qua
Thái bình ghi nỗ lực
Thủ tích dựng mùa hoa
‘’Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà!’’.

‘Nòi Rồng Tiên: Nam Quốc Sơn Hà’ 
 
Nguyễn Thùy

Chú thích:
1) Thơ cụ Phan Bội Châu, trích trong tập ‘Phan Bội Châu thi tuyển’ của Huyền Thanh Lữ, Thư Xã Nhượng Tống xuất bản, in tại Hoa Kỳ, CA 2002. Huyền Thanh Lữ dịch:

Nói Chí của mình

Tổ Quốc đắm chìm người có phận
Ngược xuôi gió bụi, cớ sao buồn
Kẻ thù trời đất không chung đội
Nhìn ngẫm non sông, chí chẳng mòn.


2) ‘Đức Phật đài sen nụ cười mở rộng’, do liên tưởng đến tượng Đức Di Lặc, nụ cười mở rộng, không như nụ cười vi tiếu nơi tượng Đức Thích Ca. Tượng Đức Di Lặc là hình ảnh ẩn dụ nói lên trạng thái sống hoàn toàn thanh thoát, an bình tự tại, không còn bị ‘điều kiên hóa’ bỡi hiện tượng, bỡi qui luật Nhân Duyên Sanh. Do cảm nhận Lẽ Tiến Hóa qua giáo lý Đức Thích Ca, người viết liên tưởng đến ẩn dụ nơi tượng Đức Di Lặc.

3) Lời vua Lê Thánh Tôn, ở buổi Hội Lục Đầu Giang, năm 1470, có nghĩa:
‘Trời Nam ngàn năm núi sông vẫn còn’.

4) Câu thơ của Nguyễn Du, tạm dịch
‘Vạn dặm sơn hà (non nước) chính khí chung’’

5) Hai câu thơ của vua Trần Nhân Tông sau ngày đánh tan quân Nguyên xâm lược. Cóngười đã dịch: ‘’Xa ̃ tắc hai phen bon ngựa đá, Sơn hà nghìn thưở vững âu vàng’’.

* Sự việc cô Phạm Thanh Nghiên cùng ông Vũ Cao Quận và nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa làm đơn xin Nhà Nước được phép tổ chức biểu tình theo như Hiến pháp và Luật pháp cho phép để nhân dân bày tỏ tâm tình và nguyện vọng trước hiện tình đất nước. Nhưng đơn bị bác. Cô khiếu tố, Tòa án không trả lời. Sự việc nầy khiến nhớ lời Winston Churchill : ‘’ Ở nước Anh, tất cả được cho phép, ngoại trừ những gì bị cấm. Ở nước Đức, tất cả đều bị cấm ngoại trừ những gì đã được cho phép. Ở Pháp, mọi thứ đều được cho phép, kể cả những gì bị cấm. Ở Liên Xô, tất cả đều bị cấm, ngay cả những gì đã được cho phép’’ (En Angleterre, tout est permis, sauf ce qui est interdit. En Allemagne, tout est interdit, sauf ce qui est permis. En France, tout est permis, même ce qui est interdit. En URSS, tout est interdit, même ce qui est permis). Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 100% theo đúng Liên Xô trước đây.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét