Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2020

Đông Triều Tảo Phát 東潮早發 - Thái Thuận



Đông Triều Tảo Phát

Thần kê do vị báo,
Khách trạo khởi giang tâm.
Nguyệt đạm sơn tà thuý,
Triều hàm thuỷ dược câm (kim).
Sa âu phong lãnh lãnh,
Ngư phố thụ âm âm.
Thuỳ vịnh Thương Lang khúc,
Tiền thôn kinh thuỵ cầm.

Thái Thuận
***
Dịch nghĩa:

Sớm ra Đông Triều


Gà sáng chưa báo tin,
Chèo khách đã động lòng sông.
Ánh nguyệt nhuộm lợt ngàn non xế biếc,
Thủy triều ngậm tràn làn nước nhẫy vàng.
Gió lành lạnh thổi đoàn sa âu,
Cây rậm rậm nơi bến đánh cá.
Ai hát khúc Thương Lang,
Khiến bầy chim đang ngủ ở trước thôn giật mình

Dịch Thơ:
(1)
Gà sớm chưa xao xác


Khách chèo đã khuấy sông.
Núi nhuộm trăng tà nhạt
Vàng ngấn triều mênh mông
Gió lạnh cò phiêu bạt
Bến cá cổ thụ lồng
Khúc Thương Lan ai hát?
Chim muông tỉnh giấc nồng.

(2)
Còn tinh mơ gà thôn chưa gáy,
Khách thuyền sông khua mái trên dòng.
Trăng tà núi nhạt mông lung
Vàng gieo sóng biếc mênh mông nước triều.
Gió sớm lạnh phiêu phiêu cò trắng,
Cổ thụ lồng im ắng chài thôn.
Thương Lan giọng hát ai buồn,
Giật mình ríu rít chim muông gọi bầy.

Mailoc
***
Sớm Ra Đông Triều


Gà thức khuya chưa gáy
Khách chèo khuấy nước sông
Xế bóng ánh trăng nhạt
Vàng gợn lăn tăn dòng
Gió thổi chim cò lạnh
Cổ thụ bến cá lồng
Hát ngâm Thương lan khúc
Chim muông tĩnh thức không

Mai Xuân Thanh
***
Sớm Ra Đông Triều

Gà chưa gáy sáng ở đầu thôn
Thuyền đã khua chèo động khúc sông
Ánh nguyệt mờ soi non bát ngát
Thủy triều vàng ánh nước mênh mông
Gió lành lạnh thổi đàn âu giạt
Cây rậm rạp in bến cá lồng
Vẳng khúc Thương Lang sầu khắc khoải
Lao xao, chim tỉnh giấc say nồng.

Phương Hà
***
1. Bản chữ Hán cổ của bài thơ Đông Triều Tảo Phát:

東潮早發          Đông Triều Tảo Phát 


晨雞猶未报, Thần kê do vị báo,
客棹起江心。 Khách trạo khởi giang tâm.
月淡山斜翠, Nguyệt đạm sơn tà thúy,
潮鹹水躍金。 Triều hàm thuỷ diệu câm(kim).
沙鷗風冷冷, Sa âu phong lãnh lãnh,
漁浦樹陰陰。 Ngư phố thọ âm âm.
誰詠滄浪曲, Thùy vịnh Thương Lang khúc ?
前村驚睡禽。 Tiền thôn kinh thụy cầm.

Thích Chú:

Tảo phát: là Khởi hành xuất phát sớm.
Thần kê : là Gà buổi sáng.
Triều hàm thủy diệu kim: Nước mặn nên gợn sóng lắp lánh như những gợn vàng.
Ngư phố: là Bến cá. Ở đây chỉ bến câu của các thuyền câu thường đậu.
Thương lang khúc: là Khúc hát Thương Lang, tên của một khúc hát của các Ngư phủ trong sách Khuất Nguyên nước Sở xưa.
Kinh: là Sợ. Ở đây có nghĩa là Giật mình.

3. Dịch Nghĩa:

Khởi hành sáng sớm ở Đông Triều

Tiếng gà buổi sáng còn chưa kịp gáy thì mái chèo của khách đã quẩy động lòng sông rồi. Ánh trăng nhàn nhạt chiếu lên triền núi nghiêng nghiêng xanh biếc và làm dậy lên những dợt sóng do nước mặn lắp lánh tựa những gợn vàng lăn tăn. Gió sớm thổi lành lạnh trên bãi cát của chim hải âu và trên bến của các ngư ông hàng cây còn âm u im lìm đứng lặng. Văng vẳng xa đưa tiếng của ai đang hát khúc Thương Lang làm cho các con chim đang ngủ ở xóm trên giật mình thức giấc.

4. Diễn Nôm

Gà còn chưa gáy sáng,
Chèo khách đã khua vang.
Trăng mờ non xa biếc,
Nước xanh sóng gợn vàng.
Gió lạnh bờ cát vắng,
Cây mờ bến cá ngang.
Ai hát Thương Lang khúc,
Giật mình chim đầu làng.

Lục bát:

Tiếng gà sáng chửa gáy vang,
Mái chèo khách đã sẵn sàng bến sông.
Núi xanh trăng chiếu mênh mông,
Nước xanh gợn sóng lăn tăn ánh vàng.
Lạnh lùng gió sớm thổi sang,
Âm u cây bến mơ màng ngư ông.
Thương Lang ai hát giữa dòng,
Giật mình chim bến bên sông thôn ngoài.

Đỗ Chiêu Đức
***
Khởi hành ở Đông Triều


Trời chưa sang,gà thôn đã gáy
Chèo đà khua,thuyền động nước sông
Trăng tàn nhuộm núi mênh mông
Thuỷ triều vàng ánh,xuôi dòng sóng chao
Gió lành lạnh,phao phao cò trắng
Bến cá lồng im vắng cổ thôn
Thương Lan khúc hát u buồn
Trước nhà chim chóc véo von gọi đàn

songquang 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét