Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Tạ Ơn


Tri ân thiên địa tạ ơn đời,
Và cả thế nhân ở mọi nơi,
Đã chúc thân tôi luôn khỏe mạnh
Còn cầu nhà tớ thật vui tươi,
Với tình yêu mến xin nương vận
Cùng ý thân thương tạm mượn lời,
Kính chúc bà con ngày lễ nghỉ
Ngập tràn hạnh phúc xuống từ trời.

Thái Huy
***
Lễ Tạ Ơn

Chiều nay bỗng thấy phút yêu đời 
Lễ Tạ Ơn về rộn khắp nơi 
Đất khách bình an trời nắng đẹp 
Lòng người thắm thiết nụ cười tươi 
Tình nầy rộng mở không suy tính 
Ân ấy sâu xa khó thốt lời 
Nâng chén vui buồn cho thế giới 
Không quên mọi sự cũng do Trời 

Mailoc
11-25-15
***
Cám Ơn Đời Cám Ơn Người

Cảm tạ ơn người,cảm tạ đời
Đã cho cuộc sống đẹp muôn nơi
An vui thế giới và no ấm
Hạnh phúc trần gian lắm đẹp tươi
Cha Mẹ ân sâu nuôi dưỡng dục
Thầy cô nghĩa nặng dạy từng lời
Thaksgiving nầy xin ghi tac
Cảm tạ ơn người,cảm tạ Trời

Song Quang
***
Tạ Ơn Đời

Lễ lớn hàng năm cảm tạ đời
Tri ân Tạo Hoá ở muôn nơi
Đủ đầy cơm áo - ngày no ấm
Trọn vẹn niềm tin - trí sáng tươi
Sum họp gia đình luôn thoả nguyện
Giao lưu bạn hữu mãi chung lời
Trăm năm cõi thế lòng thanh thản
Khắc dạ ơn sâu của đất trời.

Phương Hà
***
Cám ơn quý Tỷ Huynh Vườn Thơ Thẩn

Hỏi chi đã được trả cho đời
Hay rặt vô tri rồi tránh nơi…
Xin nhận dùm đây tình ý thật
Xin cầm giúp đệ cánh hoa tươi
Gói nguyên trìu mến thay muôn việc
Ghi trọn cảm thương thế vạn lời
Kính chúc tỷ huynh ngày lễ nghỉ
Dồi dào sức khỏe,vượng ơn trời.

Thái Huy
11-26-15


Thanksgiving

Mượn bài viết này gửi đến thân hữu gần xa nhân ngày Thanksgiving sắp đến .
Cám ơn bạn vàng Hân Vu đã chia sẻ.


Tạ ơn Chúa _ hôm nay ta còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được i-meo
Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu 
Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả!

Tạ ơn Thân hữu gần xa
Hàng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều 
I-meo nhận được bao nhiêu
Là bao tình cảm thương yêu chan hòa!


THANKSGIVING

T -  is for being Thankful for so many things in our life.
H - is for the Happy thoughts that carry us through each day.
A - is for living in the United States of America with all the freedoms that we have.
N - is for the New and old friends that we are fortunate to have.
K - is for the Kindness that we do to one another.
S-   is for the Suffering and unpleasant things which strengthen us in the spiritual life.
G - is for the Great family and relatives whom we were fortunate to have had in our life.
I -   is for the Interesting lessons that we have learned throughout the year.
V -  is for the Voice that we have used to spread the words of God.
I -   is for the Ideals that we were taught when we were growing up and that we still have today.
N -  is for the New knowledge that we gain each day.
G -  is for the Goodness that we find in the people whom we meet.


THANKSGIVING

T ...Tạ ơn mọi sự trên đời
H .. Hạnh thông phúc lộc đầy vơi mỗi ngày
A ...An cư Mỹ quốc vui thay
N ...Người tuy tứ xứ nhưng đầy thân quen
K ...Khoáng tâm, tử tế chẳng quên
S ... Sa cơ, thất bại... cũng nên vững lòng
G ...Gia đình, thân quyến vui đông
I ...  Ít nhiều cũng học, gắng công nên người
V ...Vãi gieo Lời Chúa mọi nơi
I ... In sâu tâm khảm, sáng ngời Thiện Chân
N ...Nhận thêm kiến thức xa gần
G ...Giữa nơi thiên hạ muôn vàn quý hay!

Trần Ngọc sưu tầm

Thanks Giving - Lễ Tạ Ơn Lịch Sử Và Truyền Thống

Lễ Tạ ơn (tiếng Anh: Thanksgiving) là một ngày lễ hàng năm được tổ chức chủ yếu tại Hoa Kỳ và Canada. 
Có ý nghĩa lúc đầu là mừng thu hoạch được mùa và tạ ơn Thiên Chúa đã cho sống no đủ và an lành. Đây cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, cho tất cả người lao động theo luật định tại Mỹ và Canada. 

Ngày và nơi diễn ra lễ Tạ ơn đầu tiên là chủ đề của một cuộc tranh cãi nhỏ. Mặc dù lễ Tạ ơn sớm nhất đã được kiểm chứng diễn ra vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại khu vực ngày nay là Saint Augustine, Florida, nhưng "lễ Tạ ơn đầu tiên" theo truyền thống được coi là đã diễn ra tại khu vực thuộc thuộc địa Plymouth vào năm 1621. 

Ngày nay, tại Hoa Kỳ, lễ Tạ ơn được tổ chức vào ngày thứ Năm lần thứ tư của tháng 11 vì thế ngày này có thể không phải là ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 như nhiều người lầm tưởng (thí dụ năm 2012 có đến 5 ngày thứ năm). Tại Canada, nơi có cuộc thu hoạch sớm hơn, ngày lễ này được tổ chức vào ngày thứ Hai lần thứ hai của tháng 10. 

Lịch Sử 

Lễ Tạ ơn gắn liền với các lễ hội ngày mùa thường được tổ chức ở châu Âu từ xưa. 
Trong truyền thống Anh, ngày tạ ơn và nghi lễ tôn giáo tạ ơn đặc biệt trở nên quan trọng trong quá trình Cải cách Kháng Cách tại Anh trong thời kỳ trị vì của vua Henry VIII. 

Tại Bắc Mỹ, lễ hội này đầu tiên được tổ chức tại Newfoundland bởi Martin Frobisher và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578, để mừng tạ ơn Chúa đã cho sống sót, qua cuộc hành trình dài và nhiều bão tố từ Anh. Một lễ hội khác được tổ chức vào ngày 4 tháng 12 năm 1619 khi 38 người khai hoang từ giáo khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia và tạ ơn Thượng đế.

Tuy nhiên trước đó, cũng có thông tin về một buổi tiệc Tạ ơn tổ chức bởi Francisco Vásquez de Coronado (cùng với nhóm người da đỏ Teya) ngày 23 tháng 5 năm 1541 tại Texas, để ăn mừng việc họ tìm ra lương thực. Một số người cho rằng đây là cuộc tổ chức Tạ ơn thật sự đầu tiên tại Bắc Mỹ. Một sự kiện tương tự xảy ra một phần tư thế kỷ sau, vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại St. Augustine, Florida khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất liền; ông và những người trên thuyền đã tổ chức một buổi tiệc với người bản xứ. 

Sự tích về ngày lễ tạ ơn 


Bức tranh The First Thanksgiving của Jean Leon Gerome Ferris, người da trắng mời người da đỏ cùng ăn 
Vào khoảng thế kỷ 16-17, một số người theo Công giáo và Thanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành. Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh. 

Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hoà nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) sinh sống, và sau này thường được gọi là Người lữ hành (Pilgrims). Những người này đi trên một con thuyền tên là Mayflower, họ đặt chân đến Thuộc địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi đang mùa đông. Đói và lạnh, một nửa trong số họ không qua nổi mùa đông khắc nghiệt. Đến mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng và cho họ ít lương thực. Người da đỏ dạy họ những cách sinh tồn ở vùng đất này như cách trồng hoa màu, săn bắt,... Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Từ đó về sau, hằng năm con cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cảm ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống.

Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts, sau một vụ thu hoạch tốt. 

Tổ chức truyền thống

Bánh Pumpkin(Pumpkin pie) thường dùng trong mùa Lễ Tạ ơn tại Bắc Mỹ Lễ Tạ ơn thường được tổ chức với một buổi tiệc buổi tối cùng với gia đình và bạn bè với món thịt gà tây. Tại Canada và Hoa Kỳ, nó là một ngày quan trọng để gia đình sum họp với nhau, và người ta thường đi xa để về với gia đình. Người ta thường được nghỉ bốn ngày cuối tuần cho ngày lễ này tại Hoa Kỳ: họ được nghỉ làm hay học vào ngày thứ Năm và thứ Sáu của tuần đó. Lễ Tạ ơn thường được tổ chức tại nhà, khác với ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ hay Giáng Sinh, những ngày lễ mà có nhiều tổ chức công cộng (như đốt pháo hoa hay đi hát dạo). Tại Canada, nó là một cuối tuần ba ngày, người ta thường được nghỉ vào ngày thứ Hai thứ nhì của tháng 10 mỗi năm. 

Tại Hoa Kỳ, người ta thường tưởng nhớ đến một bữa ăn tổ chức trong năm 1621 giữa người da đỏ Wampanoag và nhóm Pilgrim đã di cư tại Massachusetts. Lễ Tạ ơn đã được thực hiện chủ yếu bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo tại New England cho đến năm 1682, và sau đó bởi cả hai nhà lãnh đạo chính quyền và tôn giáo cho đến sau Cách mạng Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa Kỳ George Washington đã công bố lễ tạ ơn toàn quốc đầu tiên ở Mỹ vào ngày 26 tháng 11 năm 1789, "là một ngày tạ ơn công cộng và cầu nguyện bởi sự công nhận với lòng biết ơn sự gia ân và tín hiệu tốt của Thiên Chúa Toàn Năng". Nhiều chi tiết của câu chuyện là truyền thuyết được đặt ra trong những năm 1890 và đầu thế kỷ 20 để tạo một biểu hiện sự đoàn kết quốc gia sau Nội chiến Hoa Kỳ cũng như để đồng hóa các người nhập cư. 
Tại Canada, Lễ Tạ ơn là một cuối tuần ba ngày. Trong khi ngày Lễ Tạ ơn nằm vào ngày thứ Hai, người Canada có thể ăn buổi tiệc trong bất cứ ngày nào trong ba ngày cuối tuần đó. Việc này thường dẫn đến việc ăn một buổi tiệc với nhóm người này hôm này, rồi với nhóm khác hôm kia. 

Từ cuối thập niên 1930, mùa mua sắm cho Giáng Sinh tại Hoa Kỳ chính thức bắt đầu khi ngày Lễ Tạ ơn chấm dứt. Tại Thành phố New York, cuộc diễn hành Lễ Tạ ơn của Macy (Macy's Thanksgiving Day Parade) được tổ chức hằng năm vào ngày này tại Manhattan. Diễn hành thường có nhiều khán đài với nhiều chủ đề, có bong bóng lớn hình các nhân vật trên Truyền hình và các ban nhạc từ những trường trung học. Diễu hành này lúc nào cũng kết thúc với một Ông già Nôen. Có nhiều cuộc diễn hành khác tại nhiều thành phố khác. 

Trong khi ngày thứ Sáu (còn gọi là Thứ Sáu Đen) sau ngày Lễ Tạ ơn là ngày mua sắm đông nhất trong năm tại Hoa Kỳ, nhiều cửa hàng đã bắt đầu chào đón khách hàng với các món hàng cho mùa lễ ngay sau Halloween. 

Bóng bầu dục (American football) thường là một phần quan trọng trong ngày Lễ Tạ ơn tại Hoa Kỳ cũng như tại Canada. Các đội chuyên nghiệp thường đấu nhau trong ngày này để khán giả có thể xem trên truyền hình. Thêm vào đó, nhiều đội banh trung học hay đại học cũng đấu nhau vào cuối tuần đó, thường với các đối thủ lâu năm.

Trần Ngọc Sưu tầm

Lễ Tạ Ơn - Thanksgiving


1/ Thanksgiving

Thời gian thấm thoát tợ thoi đưa,
Nghỉ lễ Tạ Ơn biết mấy vừa...
Lũ trẻ vui quà qua chú bác,
Ông bà chén rượu khách ăn trưa.
Gà tây, tục lệ, thơm ngon nướng
Quà cáp bao bì đúng điệu chưa!
Thịnh soạn cổ bàn, mua sắm rẽ,
Hân hoan họp mặt ấm cơn mưa!

Mai Xuân Thanh
Ngày 30 tháng 10 năm 2015



2/  Tạ Ơn Cha Mẹ

Tạ ơn cha mẹ đã nuôi con,
Vất vả bon chen để sống còn.
Mùa lễ quây quần vui thỏa thích,
Thanksgiving họp bạn bàn tròn.
Thương nhau hòa thuận tình huynh đệ,
Chớ ghét tan hàng mới biết khôn.
Cổ học tinh hoa đầy nghĩa khí,
Tôn sư trọng đạo giỏi chuyên môn

Mai Xuân Thanh
Ngày 30 tháng 10 năm 2015

Chào Thanksgiving 2015



Thanksgiving lễ đến rồi
Trái tim rộn đập bao lời biết ơn
Lời ru của mẹ yêu thương
Bên tai mãi thoảng ngõ hồn đơm hoa
Bàn tay thương của mẹ cha
Vỗ về con mãi như là ánh trăng

Công ơn dưỡng dục bao năm
Vai con nặng gánh tri ân ơn Người
Âm dương giờ cánh đôi nơi
Nhớ cha thương mẹ ngậm ngùi lòng đau

Ơn em tình nghĩa trước sau
Vòng tay tình khép hai đầu thời gian
Chiều qua lối cũ mơ màng
Cầm tay âu yếm lang thang cuộc tình

Ơn em sợi tóc mỏng manh
Mãi còn cột chặt bóng hình lứa đôi
Sẻ chia giọt lệ nụ cười
Tình anh trú ngụ trên môi thơm hồng
Bước đời bao nẻo long đong
Trái tim thương mãi ẵm bồng tình em

Ơn bè bạn, ruột thịt mềm
Chia vui xẻ khổ sớt niềm thương qua
Trường xưa mái ấm an hòa
Thầy trò tình nghĩa thiết tha ngọt ngào

Nhớ ngày đến lớp xôn xao
Học trò lễ độ cúi chào lời thưa
Thưa thầy quí mến thưa cô
Quí thương người lái con đò qua sông
Những ngày xưa đẹp bềnh bồng
Tiếng cười mãi lượn qua lòng trường xưa

Ơn tiền nhân nói sao vừa
Bước chân khai phá nắng mưa dãi dầm
Gian nan chống giặc ngoại xâm
Phá xiềng nô lệ bước chân oai hùng

Ơn đường gươm sáng bà Trưng
Chém Tô Định phá cùm gông nước nhà
Ơn người chiến sĩ xông pha
Hy sinh cho đất nước ta an bình

Phất cờ Nguyện Huệ anh minh
Mùng năm Tết đánh tan tành giặc Thanh
Đống Đa chiến thắng vang danh
Quân hò reo giải phóng thành Thăng Long

Ơn người Hưng Đạo đức Trần
Thắng Nguyên Mông , giặc ba lần tan hoang
Còn nghe tiếng sóng Bạch Đằng
Thét gào , máu đỏ giặc dầm nước trôi...

Thanksgiving nhớ ơn trời
Buổi mai thức dậy mình ngồi bình an
Ơn trời thêm một ngày vàng
Yêu thương bắc võng giăng ngang tâm hồn


Trầm Vân

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Tình Thu Quê Mùa


Bài Xướng: Tình Thu Quê Mùa

Ví dầu than nướng cá trê vàng
Chấm nước mắm gừng chả gọi sang
Xuồng đục lênh đênh con nước bạc
Cà rèm mát mẻ nắng thu tàn
Xuân tình bậu muốn nghe vài lớp
Vọng cổ qua vừa thuộc mấy trang
Gặp gỡ chung luồng câu dấu ó
Đồng không đâu có lá rơi vàng.

Cao Linh Tử
14.11.2015
***
Bài Họa: Cứ Vui

Đây rượu Đinh Lăng ánh sắc vàng
Ngâm vừa đủ độ bạn bè sang
Mang chài ra xẻo tìm mồi nhấm
Xuống bếp khều tro nhúm lửa tàn
Mừng gặp anh em cùng cạn chén
Xỉn say thơ phú khó đầy trang
Mặc cho thế sự này điên đảo
Ta cứ vui đi hởi bạn vàng.

Quên Đi

Phù Du


Mờ mờ chiếc bóng lẫn trong sương
Mộng thực phù du ấy lẽ thường
Ai đã yên nằm nơi huyệt lạnh
Hồn còn vương víu mối tơ vương
Trăm năm một kiếp chưa tròn kiếp
Hương lửa ba sinh đã trọn đường
Kẻ ở người đi âu mệnh số
Có còn hiện thực nắm tro xương

Kim Phượng

Chiều Chia Ly

( Cảm tác từ ảnh của Daniel Bien)

Bóng nhỏ ai qua để nhớ nhiều
Mây buồn lặng gió bến đìu hiu
Hình như đèn đứng mang tâm sự
Của lúc chia ly một buổi chiều.
Biện Công Danh
***
Bàng bạc trời mây xám giăng nhiều
Bao trùm cảm nỗi bóng quạnh hiu
Đèn chung tâm sự buồn không tỏ
Dòng khóc từ ly ngập bến chiều
KimOanh

Chờ Ai


Em chờ ai giữa cơn mê
Cho tôi lạc mất lối về phố xưa
Mưa từ cõi nhớ đong đưa
Còn không kỷ niệm như vừa chợt qua

Em ngồi đếm hạt mưa sa
Bao năm tình lỡ... ngỡ là còn đây
Tôi theo cơn gió đùa mây
Mà nghe tim vẫn đong đầy nhớ thương

Em tìm gì cõi buồn vương
Cuối thu lá úa bên đường tung bay
Tôi còn chưa tỉnh cơn say
Ngẩn ngơ ngày tháng lưu đày không em

Khiếu Long

Chân Chèo Bối Rối


(Mượn ý thơ chị Ngọc Hương)

Mái tóc cắt tém, khuôn mặt đen nhẻm, hốc hác với dáng người nhỏ thó. Từ đằng sau người ta dễ lầm em là một chàng trai nhỏ bé. Nhìn em rạp người kéo bạt cafe. Tôi xót lòng ghé vai vào phụ kéo, em đẩy ra 
- Thôi chị tránh đi, lôi một tí mặt tái nhợt rồi ngồi đó mà thở ... 
Tôi bật cười - Không thở thì chết à?
Đợi trải xong bạt tôi gọi các em lại uống nước. Em xà lại bên tôi cười cười hỏi .
- Chị có biết năm ngoái vô hái cho chị em ghét chị không? - Biết! 
- Chị có biết em cố tình hất cafe vương vãi cho chị lượm không? - Biết. 
Em tròn mắt - Biết sao chị không la mà năm nay vẫn nhận em làm?
- Vấn đề là chị thấy sự nhiệt tình của em trong công việc, làm có trách nhiệm, chị nghĩ nếu tức giận không kiềm chế được làm tổn thương em, lòng chị có thanh thản không mới là vấn đề. Chị thương chị chứ không thương em.
- Nhưng em thấy chị cũng có vẻ ghét em mà?
- Không ghét cũng không thương, hơi thiếu thiện cảm vì tóc tém, rít thuốc liên tục và chửi thề.
Em cười hì hì - Chị biết hút thuốc và uống rượu không? - Biết nhưng không thích - Ủa sao chị cũng biết?
- Vì ngày xưa khi còn là tình nhân, chị với ông xã hay đi rong mưa rồi chui vô quán cafe, lạnh , anh tập cho chị hút rồi hai đứa hút chung một điếu, thế là biết.
Còn uống rượu là lúc đi dạy làm công tác dân vận nên phải uống rượu Cần với đồng bào rồi quen, vui bạn bè quay ra uống rượu mía, uống cho vui chứ không thích lắm. 

Em hỏi lan man thêm vài chuyện đến lúc vô làm. Tôi đứng dậy đi theo phần việc của mình em gọi vói cười tinh quái - Chị L! - Gì? - Nghe nhạc suông chị có thấy hay không? – Không? - Em cũng vậy! Quen rồi, nơi không có “đệm” em khó chịu lắm. Mấy hôm nay nể chị em kìm giờ chị cho em nói nghe
Tôi nghiêm mặt - Tùy ở em, nhà chị ông xã với mấy cậu con trai đều không nói “đệm” chị nghe không quen, lúc nào em thích nói thì chị tránh đi chỗ khác
Em xịu mặt nhún vai. Có lần thoáng thấy tôi ở hàng café bên cạnh, em chạy qua lạu bạu “Chị coi, ai mà dễ ghét ghê, hái mà chừa lại vài chùm quả ở đầu cành không à !” - Chị hái đó, vì lúc đó hái bói, còn chùm xanh nhiều nên chừa lại.
Em ngúng ngoảy bước, dặm giày bình bịch vất lại câu nói - Chủ vườn mà cái gì cũng không biết, bán đây về PK đi nghe
Tôi vung nắm café trên tay theo lưng em - Kệ tui, tui cứ ở đây cho đến già, đến chết đó
Em khựng lại nhoẻn miệng cười - Vậy em cũng hái cho chị đến già, đến chết
Tôi nhấm nhẳng - Hôm nay biết hôm nay đi.

Về với công việc của mình tôi không thôi nghĩ về em. Hai mươi tuổi học xong Trung cấp lý luận, sẵn có năng khiếu em tham gia luôn theo ngành văn hóa nghệ thuật. Theo phân công của trường đi biểu diễn ở các đồn biên phòng và phong trào ở các buôn làng, cuộc sống khổ cực với những năm giao thời nhưng tươi vui với tuổi trẻ. Em sống hết mình với đam mê đàn hát, rồi lấy chồng, có con. Tính khoáng đạt, kèm theo chút ương bướng không thích nghi được với cuộc sống làm dâu gò bó. Vợ chồng chia tay, em đem con về vùng nông thôn cho gần cha mẹ, xin vào làm biên tập và phát thanh viên của xã. Ngoài giờ thu, phát em làm đủ mọi việc để nuôi con, lúc không còn việc em thu mua phế liệu và đến mùa thì đi hái café công nhật. Gái một con lại xinh xắn, em đấu tranh với những cạm bẫy và cám dỗ vây quanh. Những tiếng gõ cửa đêm, những lời tán tỉnh dung tục. Để bảo vệ mình em phải khoác bộ mặt đanh đá, bặm trợn, lâu dần thành quán tính, em nói năng bừa bãi làm tôi khó chịu nhưng tôi biết trong sâu thẳm em luôn thèm khát sự dịu dàng và chia sẻ. Tôi cảm nhận được tình cảm của em với mình qua những cử chỉ nhẹ nhàng lo lắng cho tôi khi thấy tôi cố làm những việc không hợp sức mình.

Cái dáng người nhỏ bé kia lại chứa một nghị lức quá lớn. Em miệt mài làm cũng xây được căn nhà cấp bốn vừa cho hai mẹ con ở, cũng leo lên lợp tôn, cũng đảo vữa trộn hồ như một thợ xây thành thạo. Không có tiền thuê đào giếng, ban ngày phải mưu sinh, đêm về em tự đào, hai cái bình ắc qui, một trên, một dưới. Cậu con trai mười ba tuổi phụ mẹ kéo đất bằng thùng sơn hai ký, cứ thế đêm đêm mẹ đào con kéo đến nửa đêm, ròng rã ba tháng trời. Cũng đường kính một mét hai, sâu xuống mười ba mét thì gặp nước. Em tự hào và sung sướng không còn phải đi xin từng thùng nước nữa.
Buổi trưa lúc nghỉ ngơi em không ngủ như mọi người mà ngồi lại gần tôi. Em dụi mái tóc ngắn vào vai tôi gọi - Chị L - Gì? - Em bật dậy xoay người lại nhìn tôi chằm chằm - Chị không dịu dàng được với em sao? - Được, nhưng không thích - Tại sao? À! Em hiểu rồi, chị sợ dịu dàng với em, em lại “phun“ ra phải không? Tôi bật cười, em lại dựa đầu vào vai tôi hỏi - Em kể cho chị nghe về em nhiều sao không kể về chị cho em nghe?
- Mọi cái qua rồi, khổ đau, hạnh phúc. Cơn ác mộng của cuộc đời cũng qua, có gì đâu mà kể
- Em không tin, mắt chị nói nhiều lắm, kể sẽ vơi đi mà chị .

Đẩy đầu em ra tôi búng mũi - Tò mò cô bé, chúa đã dạy “Đừng hỏi thì khỏi bị nghe nói dối” - Bộ chị không vui, không buồn gì sao? Khó tin quá 
Sao lại không! Nhưng biết dung hòa nó thì nhẹ nhàng thôi. Ví như chị rất sợ làm tổn thương người khác, vì một lý do không mong muốn lỡ làm ai đó tổn thương chị dằn vặt và ray rứt mãi, nhưng khi biết những ray rứt của mình vô nghĩa bởi ai đó đã hoan hỉ với niềm vui mới, chị lại thấy nhẹ nhàng. Vì cuối cùng họ cũng đã trở thành tầm thường và nhỏ bé trong mắt mình mất rồi. Chị ích kỷ và hẹp hòi thế đó, chỉ muốn mình được vui thôi. Có lần chị đã nói với em câu này chị không nhớ của ai  “Không ai thương mình bằng mình cả, mọi người tìm đến mình vì họ thương chính thân họ đấy thôi”, em nghiệm đi.
Đột nhiên mặt em xịu xuống, buồn tênh. Tôi đã nghe em kể, em đang yêu, chàng là đại úy bộ đội, cố nhân của thời em là cô bé nhỏ nhắn, duyên dáng ôm đàn biểu diễn nơi đồn biên giới. Họ quen nhau rồi vì nhiều lý do đành thất lạc nhau, giờ gặp lại tình yêu sống dậy. Chàng đang có một gia đình hạnh phúc với hai con gái, vợ là giáo viên cấp ba nhưng vẫn buồn vì không có con trai. Chàng mong em sẽ sinh con trai và sẽ bảo bọc mẹ con em suốt đời. Em choáng ngợp trong tình yêu, tin vào lời hứa nhưng còn băn khoăn vì vợ con chàng yêu chàng tha thiết nên em muốn liều.

Tôi đã nhăn mặt nghe em kể và hỏi - Vậy nếu em cũng sinh ra một đứa con gái nữa thì sao, liệu anh ta có bảo bọc em không? Em bây giờ đâu còn là cô bé xinh xắn của ngày xưa nữa. Tại sao phải cúi mặt trước vợ anh ta khi em xứng đáng ngẩng cao đầu tự hào với những điều em đã làm được. Phụ nữ mình quả là có sức chịu đựng mà khi nhìn lại mình cũng giật mình, không ngờ mình đứng vững được trước bão tố cuộc đời. Dù bây giờ cái mơ ước, cái hạnh phúc nhỏ nhoi nhất mình vẫn không thể nắm được vì nó không phải của mình, em tỉnh táo lại đi.
- Em khổ tâm và bối rối lắm chị, nhưng em yêu anh ấy quá, em phải thế nào đây?
- Tùy, chị nói rõ rồi em tự quyết định, còn muốn liều chị không cản “Chúa đã tạo ra sự đau khổ ắt sẽ ban cho sức chịu đựng”
Nói chuyện với chị chán quá, những người như chị sống giả dối lắm, mơ mơ hồ hồ. Yêu không dám nói yêu, tại sao phải tự làm khổ mình, chối từ điều mình mong muốn, em ghét mấy người như chị. Chị có biết lúc nghỉ trưa em hay nhìn lén chị không? Cái mặt chị ác lắm! Tôi cười thích thú - Không ác sao chống chọi với cuộc đời, chả phải vấn đề để chị quan tâm, em cứ nghĩ và nói những gì em thấy
Bực bội em quay ra ôm đàn hát nghêu ngao.

Rồi mùa cũng xong, em bin rịn chia tay, dặn dò băn khoăn - Ở một mình đau ốm gì phải gọi em nghe! - Ừ - Đi đâu xa tê tay không chạy xe được thì gọi em nghe! - Ừ - Em cáu - Cái gì cũng ừ, chị thì lì phải biết, giờ biết chị rồi em cứ thấy không an tâm sao ấy 
Tôi cười đẩy em ra - Tại em rảnh quá mắc gì lo cho chị?
Nhìn dáng em liêu xiêu trong chiều muộn. Lòng dâng lên nỗi thương cảm khôn nguôi …. Ôi em ……phận người.

Hoàng Thị Viễn Du 
23-12-2014

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Khiển Hoài 遣懷 Đỗ Phủ

Nhắc đến Đỗ Mục là người ta nghĩ ngay đến một chàng thư sinh đẹp trai phóng đãng lạc phách giang hồ, xuất khẩu thành thơ, phong lưu rất mực " văn chương nết đất, thông minh tính trời ", hợp cùng với Lý Thương Ẩn  ( Lý Nghĩa Sơn ) thành một cặp LÝ ĐỖ tài hoa của buổi Tàn Đường.
        ĐỖ MỤC  ( 803-852 ), tự Mục Chi, hiệu Phàn Xuyên Cư Sĩ, người đất Kinh Triệu  ( Tây An thiểm Tây ngày nay ). Ông là con của Đỗ Tùng Úc, cháu nội của Tể Tướng Đỗ Hựu, đậu tiến sĩ năm 26 tuổi đời Đường Văn Tông Đại Hòa năm thứ 2.
        Đỗ Mục là nhà thơ, nhà tản văn kiệt xuất đương thời. Ông từng giữ các chức vụ Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang, Giang Tây Quan Sát Sứ Mộ, Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Quốc Sử Quán Tu Soạn, Ngự Sử Hoàng Châu, Trì Châu, Mục Châu ... Vì cuối đời ông ở Nam Phàn Xuyên Biệt Thự xứ Trường An, nên người đời gọi ông là Đỗ Phàn Xuyên. Ông trứ tác Phàn Xuyên Văn Tập, nổi tiếng với các bài Thất ngôn Tứ tuyệt, người đời gọi ông là Tiểu Đỗ đê phân biệt với Lão Đỗ là Đỗ Phủ của buổi sơ Đường. Đỗ Mục cùng với Lý Thương Ẩn hợp xưng " Tiểu LÝ ĐỖ " để phân biệt với " Lão LÝ ĐỖ " là Lý Bạch và Đỗ Phủ .
        Sau đây là một trong những bài Thất ngôn Tứ tuyệt nổi tiếng của ông với nội dung như Thầy CDM đã diễu:



遣懷                         Khiển Hoài

落魄江湖載酒行, Lạc phách giang hồ tải tửu hành,
楚腰纖細掌中輕.    Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
十年一覺揚州夢, Thập niên nhất giác Dương châu mộng,
贏得青樓薄倖名。 Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh !

杜牧             Đỗ Phủ   

CHÚ THÍCH :
      KHIỂN HOÀI: Khiển là Điều động, như Điều khiển,khiển dung. Khiển là Giải bày, Bày tỏ. Hoài là Lòng dạ. Nên KHIỂN HOÀI là Bày tỏ nổi lòng, là Giải bày tâm sự.
       LẠC PHÁCH : là Sa cơ thất thế, là Lụn bại. Lạc Phách Giang Hồ là Thất thểu, lang thang trong chốn giang hồ.
       SỞ YÊU : Chỉ chung cái eo rất thon rất nhỏ của phái nữ. Theo điển tích : Sở Linh Vương rất thích những người đẹp có cái eo thon nhỏ, nên tất cả cung nữ trong cung đều thắt eo và nhịn ăn cho có được cái eo thon để được vua thương !
       TIÊM TẾ : Nhỏ nhắn gọn gàng dễ thương.
       CHƯỞNG TRUNG KHINH : Chưởng là Lòng bàn tay. Chưởng Trung Khinh là Nhẹ nhàng trong lòng bàn tay. Theo tích : Hoàng hậu của Hán Thành Đế là Triệu Phi Yến có thân hình nhẹ như chim én, có thể ca múa ở trên lòng bàn tay của lực sĩ.
       DOANH : là Thắng, là Lời, là Gặt hái được.
       BẠC HÃNH : là Bạc tình, là ... Sở Khanh. Bạc Hãnh Lang là Chàng họ Sở !
NGHĨA BÀI THƠ :
                            GIẢI BÀY TÂM SỰ
        Bất đắc chí, lang thang lưu lạc giang hồ với một bầu rượu trong tay. Ta lăn lóc trong đám người đẹp eo thon ẻo lả của thanh lâu. Suốt mười năm trường thoáng qua như một giấc mộng dài chìm đắm trong tửu sắc ở Dương Châu. Kết cuộc, được gì đây ? Chỉ được tiếng là gã bạc tình nổi tiếng nhất lầu xanh mà thôi !
        Cảm khái thay lời tâm sự của một thư sinh lạc phách ! Tự mình nhìn lại mình, tự mình đánh giá mình, để thấy được sự tự huỷ hoại mình trong ăn chơi trác táng khi bất đắc chí, khi thất cơ lở vận ... cũng chẳng giải quyết được gì, chỉ tổ làm cho mình càng trụy lạc chìm đắm hơn mà thôi !
        Câu cuối của bài thơ đã được cụ Nguyễn Du mượn lời để nói về anh chàng Sở Khanh trong Kiều là ...
                       Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
              ( Một tay chôn biết mấy cành phù dung ! )

DIỄN NÔM :
      Khiển Hoài
Bầu rượu lang thang khắp lữ trình,
Eo thon mình nhẹ khéo là xinh.
Mười năm tỉnh giấc Dương Châu mộng,
Nổi tiếng lầu xanh kẻ bạc tình!

Lục bát:
Đắm chìm tửu sắc lang thang,
Eo thon mình én dạ càng ngẩn ngơ.
Dương Châu giấc mộng ơ hờ,
Mười năm được tiếng ai ngờ Sở Khanh!
Đỗ Chiêu Đức
***
Diễu Đỗ Mục
Kẹp tay bầu rượu rong chơi,
Eo thon đùi đẹp ngất cười lẳng lơ!
Mười năm vùi mộng vừa chưa?
Lừng danh chàng Sở thôi vừa đi cha!!!

Chân Diện Mục
***
Nhìn Lại Mình
Thất chí lang thang rượu một bầu
Bê tha trụy lạc chốn thanh lâu
Mười năm thoáng chốc như cơn mộng
Tiếng xấu bạc tình rửa được đâu!
Phương Hà

***
Nhắc Lại Chuyện Cũ

Lưu lạc sông hồ với rượu cay
Lưng thon gái Sở bế trên tay
Dương Châu giấc mộng mười năm chẵn
Tình phụ lầu xanh được tiếng này.
Quên Đi
***
Khiển Hoài
Cao khoa danh sĩ vẻ vang đời,
Bầu rượu túi thơ nức tiếng chơi.
Hoài bảo mười năm lầu kỹ nữ,
Lơ mơ trả giá Sở Khanh rồi !
Mai Xuân Thanh


Ca Dao 2


Đề tài: 
Càng lâu càng lắm mùi hay
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm

Bài làm:

Tháng lại ngày qua vẫn thế thôi
Sống lâu từng trải hết mùi đời
Điều hay vẫn chắc còn tồn tại
Cái dở đeo hoài chán ngấy ôi
Vẫn biết thùng chàm tay trót nhúng
Hẳn còn bám chặt chút hương thôi
Gằn lòng đeo đẳng cho xong chuyện
Hoa thải hương thừa thật khó coi

Thái Hanh(Viên Ngoại)

Lòng Biết Ơn

Có một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp Đại học loại xuất sắc nộp đơn dự tuyển vào một vị trí quản lý tại một công ty lớn.
Anh ta vượt qua các vòng đầu tiên. Đến vòng cuối cùng, đích thân ông Giám đốc phỏng vấn để đưa ra quyết định cuối cùng.

Ông Giám đốc phát hiện ra một điều từ CV của chàng trai trẻ rằng trong suốt các năm học, anh ta luôn đạt thành tích học tập một cách xuất sắc. Từ trường Trung học cho đến khi vào Đại học và thi tốt nghiệp, không năm nào mà chàng trai này không đạt được danh hiệu xuất sắc.
Ông Giám đốc hỏi, “Anh có bao giờ nhận được học bổng từ trường không”. “Không bao giờ”, chàng trai trả lời.

Ông Giám đốc bèn hỏi tiếp,”Vậy là cha anh đã trả toàn bộ học phí cho anh phải không?”. Chàng trai trẻ trả lời:” Cha tôi đã mất từ hồi tôi được một tuổi, toàn bộ số tiền học phí là do mẹ tôi gánh vác”.
“Vậy mẹ anh làm việc ở công ty nào?” Ông Giám đốc hỏi. Chàng trai trẻ bèn trả lời, “Mẹ tôi làm công việc giặt quần áo”.
Ông Giám đốc nghe vậy bèn đề nghị chàng trai trẻ đưa hai bàn tay ra cho ông xem. Hai bàn tay chàng trai khá đẹp và mềm mại.

Ông Giám đốc hỏi:” Vậy trước đây có bao giờ anh giúp đỡ mẹ anh trong việc giặt quần áo chưa?”. “Chưa bao giờ”, chàng trai trẻ trả lời, “Mẹ tôi lúc nào cũng chỉ muốn tôi học và đọc thật nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi có thể giặt quần áo nhanh hơn tôi.”
Ông Giám đốc nghe thấy vậy bèn nói: “ Tôi có một yêu cầu. Hôm nay lúc anh về nhà, hãy đi và rửa hai bàn tay của mẹ anh. Rồi hãy đến gặp tôi vào sáng ngày hôm sau”.


Chàng trai trẻ cảm giác rằng cơ hội trúng tuyển của mình vào công ty này rất cao. Anh ta liền vui vẻ về nhà gặp mẹ và nói với bà hãy để anh ra rửa hai bàn tay của bà ngày hôm nay. Bà mẹ nghe vậy cảm thấy rất lạ, trong lòng bà dấy lên những cảm xúc vui buồn lẫn lộn, bà bèn đưa hai bàn tay mình ra cho chàng trai.

Chàng trai trẻ chầm chậm rửa sạch bàn tay của mẹ mình. Từng giọt nước mắt của chàng trai rơi xuống khi anh ta thực hiện công việc của mình.Lần đầu tiên chàng trai nhận ra rằng đôi bàn tay của mẹ mình thật là nhăn nheo, hơn nữa hai bàn tay còn chằng chịt những vết sẹo và chai sạn. Những vết sẹo này hẳn là rất đau đớn vì chàng trai cảm nhận được bà mẹ khẽ rùng mình mỗi khi chàng trai rửa chúng trong nước.

Đây cũng là lần đầu tiên chàng trai trẻ nhận ra rằng chính đôi bàn tay này hàng ngày làm công việc giặt quần áo để có thể trang trải đủ tiền học phí của anh ta ở trường học. Những vết sẹo trên đôi bàn tay của bà mẹ cũng là cái giá cho kết quả đậu tốt nghiệp, cho những bảng điểm xuất sắc và cho cả tương lai của anh ta.
Sau khi rửa sạch đôi bàn tay của bà mẹ, chàng trai trẻ lặng lẽ giặt nốt luôn chỗ quần áo còn lại trong ngày.
Tối hôm đó, bà mẹ và chàng trai đã nói chuyện với nhau rất lâu.

Sáng ngày hôm sau, chàng trai trẻ quay lại công ty phỏng vấn.
Ông Giám đốc nhận thấy nước mắt còn đọng trên khóe mắt của chàng trai trẻ bèn hỏi:” Anh có thể cho tôi biết anh đã làm gì và học được những gì ở nhà của anh ngày hôm qua không?”
Chàng trai trả lời:” Tôi đã rửa đôi bàn tay của mẹ tôi, và tôi cũng đã giặt nốt chỗ quần áo còn lại.”
Vậy anh hãy cho tôi biết cảm giác của anh như thế nào?” Ông Giám đốc hỏi.
Chàng trai trẻ bèn trả lời trong nước mắt:
Thứ nhất: Tôi hiểu được nhờ có mẹ mà tôi có được ngày hôm nay.
Thứ hai: Tôi hiểu được kiếm tiền vất vả đến như thế nào.
Thứ ba: Tôi đã nhận thức được sự quan trọng và giá trị của tình cảm gia đình.

Ông Giám đốc nói:” Đó chính xác là những gì tôi cần tìm ở một nhà quản lý. Tôi muốn tìm những ứng viên có thể nhận thức được sự giúp đỡ của những người khác, người có thể hiểu được sự khó nhọc của người khác khi hoàn thành một công việc nào đó, và là người không đặt tiền bạc là mục đích sống duy nhất của mình. Xin chúc mừng. Anh đã được tuyển.”

Sau đó, chàng trai trẻ làm việc rất chăm chỉ và nhận được sự nể trọng của các nhân viên của mình. Mỗi thành viên trong nhóm làm việc rất cần cù và đoàn kết. Tình hình kinh doanh của công ty phát triển đạt mức doanh thu cao một cách đáng kinh ngạc.

St
Mailoc sưu tầm

Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Bến Đỗ


Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Tiếng Đàn Xưa

(Thân kính tặng Thầy Nguyễn Bá Nguyên )


Năm học ấy tất cả học sinh lớp Đệ Tứ được miễn thi Trung học đệ nhất cấp (Tốt nghiệp PTCS), chỉ cần đủ điểm được lên lớp Đệ Tam và có quyền chọn ban. Vừa đủ điểm lên lớp, lại do ngán cảnh nhai chữ hàng đêm nên không theo khoa học xã hội, tôi vội quyết định chọn ban B (Ban Toán Lý). Khổ nỗi năm qua, tôi là học sinh kém nên rất vất vả mới theo kịp bạn cùng lớp. Còn thời khoá biểu tôi vạch ra cho mình chẳng có gì thay đổi, từ bảy đến chín giờ đêm học bài cho ngày mai, bốn giờ sáng phải nhồi bột làm bún và bánh lọt, khi thay đồ đi học, phải chở hai thúng bún ra chơ cho mẹï. Lúc ấy tôi mắc cỡ với bạn bè (nhất là bạn gái). Mình chẳng giống ai, mặc áo nhốt vạt vào quần mà chạy chiếc xe đòn dông cũ kỹ và đèo hàng như xe thồ, trong lúc bạn gái tôi đến trường đỏng đảnh trên chiếc xe gắn máy hiệu Velo Solex. Nhưng riết rồi cũng quen, bất chấp bạn bè xa lánh, tôi cứ sống trong nỗi cô đơn vì thiếu bạn.

Một buổi chiều bán ế ẩm như vài buổi chiều tôi đã gặp, mẹ mang về nhà gần mười ký bún. Hôm ấy, chúng tôi không ăn cơm. Mẹ nấu canh chua tép rong ăn với bún thay cơm. Mẹ bảo tôi mang một bọc bún đến trường cho bác Mười bảo vệ. Tôi chạy vào trường trước khi bác Mười ăn bữa cơm chiều. Khi tôi đến, thầy Nguyên đang ngồi uống trà đối ẩm vơi bác Mười. Thầy gọi tôi lại bảo:
- Em học yếu lắm, cần phải cố gắng nhiều hơn nữa.
Bác Mười vừa nhận bọc bún vừa nói đỡ lời tôi:
- Gia đình nó nghèo khó lắm, thầy giúp đỡ cho nó.

Năm nay, thầy Nguyên làm Giáo sư hướng dẫn (GV chủ nhiệm) lớp tôi. Bác Mười bảo tôi ngồi chơi một chút rồi khuấy cho tôi một ly nước chanh. Nếm một chút nước chanh tươi, nó vừa chua vừa ngọt như cuộc đời mình. Bác Mười quay lại nói chuyện với thầy Nguyên:
- Hồi đó, bà ngoại nó mất sớm, ông ngoại nó đi lưu lạc giang hồ, má nó phải đi ở cho nhà ông giáo Thìn. Bà giáo thấy thương quá mới làm đám cưới cho má nó lấy cháu bà giáo, cha nó bây giờ đó! Má nó đâu có nhà để tổ chức đám cưới. Còn tôi cũng là dân lang bạt sống kiếp thương hồ trên sông nước. Má nó mới mượn chiếc ghe của tôi làm “nhà” đàng gái để có chỗ cho đàng trai tới rước dâu. Đám cưới đó do bà giáo làm mai mối cũng làm chủ hôn luôn. Vậy mà hai đứa nó sống với nhau đã tám chín mặt con vẫn ngọt như nồi canh bầu nấu với râu tôm. Bây giờ ba má nó học được cái nghề làm bún nên sắm khuôn, sắm cối xay, mua gạo tự làm mang ra chợ bán kiếm sống cũng tạm được. Nó là con trai cả, đỡ đần cho má nó cũng tốt. Bữa nào bán ế nó mang bún qua cho tôi ăn trừ cơm. Bỏ hư tội chết thầy ơi!...
Thầy Nguyên ngồi gật gù phụ hoạ theo bác Mười:
- Ừ! Bỏ hư tội chết…

Từ lâu nay, tôi không hề nghe ba mẹ nói chuyện mình, chỉ thấy hai người lao vào việc buôn bán kiếm tiền nuôi một bầy con ăn học. Không ngờ ba mẹ tôi gặp gỡ nhau trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó. Tôi lén nhìn thầy Nguyên dò xét. Thầy cứ ngồi trầm ngâm lặng lẽ. Còn tôi phải quay mặt đi nơi khác để giấu những giọt nước mắt thương cảm cho cảnh đời ba mẹ tôi phải đi qua. Không gian chung quanh chìm xuống nặng nề. Bổng thầy nói với tôi:
- Em chịu khó chạy ra phố mua cho thầy nửa lít rượu trắng và nem nướng về ăn với bún. Bác Mười có trồng mấy liếp rau sau trường em khỏi phải mua rau…


Thầy Nguyên với tay lên vách lấy cây guitar phím lõm dạo lên một khúc nam ai buồn da diết. Tôi chẳng thạo nhạc lý nhưng nghe tiếng đàn của thầy khi trầm khi bổng như bày tỏ một nỗi niềm thương cảm. Không ngờ thầy Nguyên đàn cổ nhạc hay như vậy. Bác Mười bảo:
- Cây đờn nầy nó theo tôi lang thang nữa đời trên sông nước đó thầy. Nhờ nó mình cũng đỡ buồn trong những ngày tha phương cầu thực.

Sau hôm ấy, thời khoá biểu của tôi đổi khác theo đề nghị của thầy. Từ sáu đến tám giờ tối, tôi mang tập đến nhà bác Mười ngồi học bài cho ngày mai. Thầy Nguyên từ Sài Gòn về tỉnh dạy học nên ở nội trú trong trường với bác Mười. Những ngày ấy, thầy dạy tôi cách học bài theo đề cương, cách nhớ bài theo những câu thiệu không cần ngồi nhai chữ. Vách nhà tôi bắt đầu xuất hiện chi chít những công thức toán. Không ngờ bức vách tầm thường của một lò bún trở thành nơi chứa đựng quá nhiều công trình trí tuệ của những nhà toán học. Khuya, tôi vừa nhồi bột vừa nhìn lên vách nghiền ngẫm những công thức toán.

Mỗi tuần, thầy Nguyên có hai buổi tối đi dạy luyện thi Tú Tài cho các anh chị lớp Đệ Nhị A (Ban sinh vật), thầy bảo tôi theo học dự thính không cần đóng học phí. Ban đầu, tôi sợ mình không theo nổi lớp trên nên rất e dè. Nhưng khi thầy giảng có chút pha trò, tôi hoàn toàn nắm được bài. Những ngày học ở lớp luyện thi, thầy chẳng hề kiểm tra hoặc thăm hỏi gì , chỉ bỏ mặc tôi ngồi lặng lẽ ở cuối lớp giống như một người cha dẫn con theo khi ở nhà không ai chăm sóc. Tôi nghe trong tôi bừng lên tình thầy hoà với tình cha vô cùng hạnh phúc. Nhưng có một niềm hạnh phúc tôi không thể quên trong suốt cuộc đời mình.

Đêm ấy, thầy dạy đến bài Tam Thức bậc hai. Sau khi giảng bài xong, thầy cho thử một bài kiểm tra tại lớp và yêu cầu tất cả xét dấu phân tách một Tam thức bậc hai có tham số m trong một thời gian giới hạn. Mặc dù tôi không bị kiểm tra nhưng vẫn làm thử khả năng mình. Hết giờ, tôi và cả lớp chưa làm xong, chưa kể một số anh chị còn ngồi cắn bút trước trang giấy trắng. Thầy nói với cả lớp:
- Bài nầy trình độ một học sinh lớp Đệ Tam có thể giải được. Tôi tin mình chứng minh được điều vừa nói.

Vừa dứt lời, thầy vẫy gọi tôi lên bảng. Trước quyết định quá đột ngột của thầy, trống ngực tôi đập liên hồi. Vừa mừng vì được tín nhiệm, vừa lo sợ làm mất uy tín của thầy, tôi ngập ngừng đứng lên theo lời động viên của thầy:
- Khỏi lấy tập, thầy tin em giải được bài nầy.

Câu nói ấy như ra lệnh tôi phải bình tĩnh giải quyết bài toán thật chính xác để không phụ lòng thầy dạy dỗ lâu nay. Tôi tự tin hơn và thong thả bước lên bảng giải hết bài toán. Lúc ấy, thầy đứng sau lưng tôi quan sát thỉnh thoảng gật đầu. Mọi hành động của thầy bây giờ trở thành niềm động viên an ủi tôi rất lớn. Cuối cùng, thầy quay lại nói cùng cả lớp:
- Bài giải nầy hoàn toàn chính xác và mạch lạc. Chỉ có trình bày chưa đẹp vì thiếu thước kẻ bảng xét dấu. Các em có thể chép về tham khảo.

Tôi thở phào sung sướng vì chứng minh được lời nói của thầy trước lớp.

Năm học ấy, dù vượt qua được hoàn cảnh và đứng đầu lớp học, tôi vẫn ôm tập đến nhà bác Mười mỗi tối như thời khoá biểu thầy đã vạch. Những buổi tối cuối năm học, tiếng đàn vọng cổ của thầy vang ra đón tôi bằng điệu Xuân tình rộn rả.

Mãi đến mấy năm sau tôi lên học ở Sài Gòn. Nghe nói thầy Nguyên trước đây có dạy ở trường Hoàng Nguyên, tôi đến đó tìm thầy. Hỏi mãi, chẳng ai biết thầy đang sống nơi nào. Tôi đứng thẩn thờ trong con hẻm nhỏ gần trường, radio nhà ai vọng lại tiếng guitar độc tấu bài Dạ cổ hoài lang nghe buồn da diết.

Ngọc Hiệp 
Vĩnh Long

Ô Y Hạng 烏衣巷 - Lưu Tích Vũ

Một thời danh vọng, nhưng rồi cũng chẳng mãi cùng năm tháng.
Ô Y Hạng là con đường nhỏ ở phía nam sông Tần Hoài thuộc thành phố Nam Kinh. Con đường này vốn chẳng tên tuổi gì, nhưng kể từ khi có bài thơ của Lưu Tích Vũ, con đường nhỏ trở nên nổi tiếng. Từ đó, người đời sau có các cách giải thích khác nhau về ý nghĩa, xuất xứ tên gọi Ô Y Hạng:

- Theo sách "Trung Quốc Lịch Đại Danh Thi Phân Loại Đại Điển" do Hồ Quang Chu và Chu Mãn Giang chủ biên đã viết như sau: Con đường nhỏ phía Nam sông Tần Hoài, thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô. Thời Tam Quốc, là nơi Đông Ngô từng lập doanh trại quân đội tại đấy, binh sĩ đều mặc áo đen nên gọi ngõ hẻm đó mới có tên là Ô Y Hạng. 

- Cũng theo cách giải thích của người Tàu, có truyền thuyết rằng: vào thời Tấn, đây là nơi ở của hai danh gia vọng tộc Vượng Đạo, Tạ An. Con cháu những nhà này thường mặc áo đen, từ đó có tên gọi ngõ Ô Y.

- Theo Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh (trang 88), Ô Y là tên gọi riêng của Chim Én . Nếu ta đối chiếu với ý nghĩa trong bài thơ của Lưu Tích Vũ thì quả thật vẫn không sai.

(tham khảo: Bài viết của An Chi và "Hán Việt Tự Điển" Đào Duy Anh)

Người Tàu có hai cách giải thích, trong khi đó theo giải nghĩa của Đào Duy Anh cũng hợp lý.

Như vậy Ô Y Hạng ( 烏衣巷 ) có hai nghĩa: Hẻm Áo Đen và Hẻm Chim Én.

Và Ô Y (烏衣) cũng sẽ có hai nghĩa là Áo Đen; Chim Én 


Bản Hán Tự Phiên Âm Hán Việt

烏衣巷                         Ô Y Hạng

朱雀橋邊野草花        Chu Tước kiều biên dã thảo hoa 

烏衣巷口夕陽斜       Ô Y hạng khẩu tịch dương tà. 

舊時王謝堂前燕       Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến 

飛入尋常百姓家      Phi nhập tầm thường bách tính gia.
               劉禹錫                                          Lưu Tích Vũ

Dịch Nghĩa Nôm: Ngõ Hẻm Ô Y

Bên cầu Chu Tước đầy những hoa cỏ hoang dại 
Nơi hẻm Ô Y trời đã về chiều
Thuở trước, chim én thường xuất hiện trước nhà Vương Đạo, Tạ An
Nay bay vào những nhà bình thường của trăm họ.

Dịch Thơ:

Hẻm Ô Y

1/
Chu Tước cầu cỏ hoa bít lối 
Hẻm Ô Y bóng tối dần lan 
Lầu Vương Tạ én từng đàn 
Giờ tìm đến chốn dân gian tầm thường

2/
Chu Tước bên cầu hoa cỏ hoang
Ô Y ngõ hẻm ánh chiều vàng
Một thời én lượn lầu Vương Tạ
Nay dẫu nhà thường cũng phải sang.

Quên Đi

***
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây :


1.Nguyên bản chữ Hán của bài thơ:

烏衣巷                      Ô Y Hạng 

朱雀橋邊野草花, Chu tước kiều biên dã thảo hoa,
烏衣巷口夕陽斜。 Ô y hạng khẩu tịch dương tà.
舊時王謝堂前燕, Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
飛入尋常百姓家。 Phi nhập tầm thường bách tính gia.

                 劉禹錫                                      Lưu Vũ Tích
2.Chú Thích:

Ô Y HẠNG 烏衣巷 : Ô là Màu đen, Y là Áo, Hạng là Con Hẻm. Ô Y Hạng là Con hẻm áo đen. Có tích như sau :
Ô Y Hạng là một con hẽm của TP Nam Kinh nằm ở phía nam của sông Tần Hoài, con hẽm nầy có từ đời Tam Quốc, thuộc nước Đông Ngô, nơi độì Cấm quân Áo Đen trú đóng mà thành tên. ( Một điều thú vị mà văn nhân thi sĩ không biết tới, đội Cấm quân Áo Đen chính là đội Thuỷ quân Người Nhái được huấn luyện bên bờ sông Tần Hoài và Trường Giang chuyên đục lủng thuyền của quân địch. Chiếu theo ngũ hành, Thuỷ thuộc màu Đen, nên đội Người Nhái nầy toàn mặc quân phục màu đen là vì thế !).
Sau, vào đời Đông Tấn, là nơi ở của 2 danh gia vọng tộc Vương Đạo và Tạ An. Gia nhân, ngưòi ăn kẻ ở của 2 nhà nầy đều mặc đồ đen, ra vào nườm nượp trong con hẻm nầy, nên Ô Y Hạng càng nổi tiếng " Ô Y " hơn. Con em của 2 nhà nầy được gọi là " Ô Y Lang ", có nghĩa là : Các Chàng của hẽm Áo Đen ( Ý chỉ là con em của hẽm nhà giàu, chớ chưa chắc là họ thích mặc màu đen đâu !). Nhưng đến đời Đường thì Ô Y Hạng bị bỏ phế, và cho đến hiện nay, thì ....Ô Y Hạng là khu tập trung sản xuất công nghệ phẩm của dân gian.
CHU TƯỚC KIỀU 朱雀橋 : CHU là Màu đỏ, TƯỚC là Chim sẻ, KIỀU là Cầu. CHU TƯỚC KIỀU là Cây cầu bắt ngang sông Tần Hoài qua Thành phố Nam Kinh đưa đến Ô Y Hạng, giữa cầu có lầu canh được trang trí bằng 2 con chim sẻ bằng đồng là kiến trúc của Tạ An xây nên.
DÃ THẢO HOA : DÃ 野 là Hoang dã. DÃ THẢO HOA là Hoa cỏ mọc một cách hoang dã, không được trồng trot, chăm sóc.
3. Nghĩa Bài Thơ:

Bên cầu Chu Tước ( lẽ ra rất phồn vinh tấp nập người qua kẻ lại, thì nay...) cỏ hoang hoa dại phủ đầy, và ở đầu con hẽm Ô Y ( không còn nườm nượp gia nhân ra vào như xưa, mà nay ...) chỉ thấy nắng chiều nghiêng nghiêng buồn bã. Những con én ngày xưa chít chiu ríu rít trên rường nhà cuả Vương Đạo và Tạ An, nay đã bay hết ra nhà của bá tánh thường dân rồi !
Chim én là biểu tượng của mùa xuân, của ấm êm hạnh phúc. Theo tập tính thì chim én chỉ làm tổ trên những rường nhà có người ở, còn nhà bỏ hoang thì chim én cũng... bay luôn !
Lưu Vũ Tích đã khéo dùng hình ảnh hoang dại cuả cỏ hoa, cái nghiêng nghiêng sắp tắt của nắng chiều, và sự vắng lặng trơ vơ không một bóng chim lai vãng để gợi nên sự tiêu điều hoang phế của các danh gia vọng tộc đã từng vang bóng một thời, nay thì ..." thời oanh liệt nay còn đău !!!"
Qủa là một bài thơ hoài cổ não lòng, làm ta chợt nhớ đến 4 câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương! 
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương!!!

4. Dịch Thơ:
Hẻm Ô 
1/ 
Bên cầu Chu Tước cỏ hoa hoang,
Trước hẻm Ô Y ánh nắng tàn.
Chim én trên rường Vương Tạ trước,
Nay đà bay đến với dân gian!

2/ 
Cỏ hoang hoa dại bên cầu,
Chiều nghiêng nắng xế thêm sầu Ô Y.
Én xưa cũng hết rù rì,
Bỏ nhà Vương Tạ bay đi dân thường!

Đỗ Chiêu Đức
***
Các Bài Dịch Thơ:
Hẻm Ô Y

Cỏ hoa ngập lối cầu Chu Tước
Trước ngỏ Ô Y nắng sắp tàn
Vương Tạ lầu cao thời én lượn
Chim đàn sang ở chốn dân gian

Kim Phượng
***
Hẻm Ô Y

Cầu Chu Tước cỏ dại hoa hoang
Hẻm vắng Ô Y bóng xế tàn.
Soái phủ Tạ, Vương chim én tựu,
Nay bay hòa nhập cửa dân làng.

Mai Xuân Thanh
Ngày 17 tháng 11 năm 2015
***
Hẻm Ô Y

Chu Tước - cạnh cầu ngập cỏ hoang
Ô Y - trước hẻm nắng phai tàn
Nhạn xưa ríu rít nhà VươngTạ
Rã đám bay vào chốn thế gian

Phương Hà