Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Đề Thơ "Thi Tập Ngất Ngưởng Một Đời Mây"


Thơ & Thơ Tranh: Kim Oanh

Trăng Lặng Nghiêm


Lung linh trầm đáy nước
Tha thướt một bóng trăng
Trăng Lăng Nghiêm vằng vặc
Soi sáng cả từ tâm

Ánh trăng tròn vành vạnh
Soi bóng liễu cành trâm
Đêm nay trăng vẫn đến
Tôn đất trời cao thâm

Trăng nghiêng ôm vách núi
Sóng sánh đổ tuôn tràn
Muôn ngàn tia sáng chiếu
Lấp lánh cả thế gian

Trăng rơi trên tóc em
Ve vuốt những sợi mềm
Em hay trăng huyền hoặc
Giữa một bầu trời đêm

Trăng mãi đẹp muôn đời
Cho nhân thế vui tươi
Đêm nay rằm tháng tám
Trăng thêm đẹp tuyệt vời...

Hoàng Kim Mimosa

Bài Hổng Có Tên Số 1 (Ái Hữu 72)

Những người thân yêu của tôi ơi! Giờ đây mình thật sự xa nhau rồi đấy nhé, còn rất ít dịp để chúng mình ngồi chung nhau mà phá phách, mà đùa nghịch, chọc nhau, để rồi giận hờn, tức tối.

Đến giờ này mình mới cảm thấy thương thật thương con đường mà hằng ngày cả bọn mình cắp sách đến trường, mặc dù đầy ổ gà lầy lội, nhớ những phút giây nhảy cửa sổ lang thang ngoài đường chẳng biết để làm gì? Nhiều và rất nhiều nhớ không hết những hình ảnh đã ăn sâu thật sâu vào tiềm thức của bọn mình nó chỉ chợt xuất hiện lại vào những khi tâm hồn trống rỗng, ngồi một mình trong những khung cảnh buồn thật buồn. Nếu, nếu, nếu….bọn mình (Tôi và Lộc) nghe mấy lời trách móc của mấy chị thì giờ đây đâu đến nổi thê thảm như vầy. Lộc à, khi những giòng chữ này đến tay mầy thì có lẽ mầy đã thụ huấn ở quân trường rồi, thân thể đen mun và hy vọng sâu thêm vài cái răng nữa. Những hình ảnh yêu dấu của lớp học cũ, của bọn mình và nhất là trong những giây ứng chiến gần những thành phố xa lạ mầy thoáng nghe qua những nhạc phẩm viết về Noel về Tết, trái tim này sẽ như đứt ra từng đoạn và từng giọt, từng giọt nước mắt lăn dài lăn dài trên mặt lúc nào không hay (nhờ tài nhắm độn của Ích mủ truyền cho). 

Tương lai sao mà tối thui, thôi thì đừng nói đến hay hơn, quá khứ êm đẹp quá nhưng cũng đừng hồi tưởng lại vì hồi tưởng lại để mà làm gì, để khóc à, thôi thì (lần thứ 2) quên đi, quên và quên tất cả những gì liên quan đến mình để chỉ sống và cố sống cho hiện tại mà hiện tại thì cũng chẳng vui gì mấy, thôi thì (lần thứ 3) cố gắng vậy./. 

…., Hòa,……,A.H.8 Quang,A.H 6 Hùng,A.H 9 Tùng ,Khanh ,….., Bửu Hội (Hội chợ Bến Xuân)
Vui quá món nào của Bến Xuân cũng bán sạch, làm tụi này đói muốn chết nè.

Nguyễn Văn Tùng
(Trích Từ Nội San 2 - Hội Ái Hữu 72)

Trăng Thu


Trăng của mùa thu, trăng của em
Vì sao trăng đến muộn bên thềm
Thoáng nghe tiếng lá rơi ngoài cửa
Thấp thỏm mơ màng bước chân quen

Gặp em trăng sáng mùa thu trước
Đêm về ngơ ngẩn mối tương tư
Hình như ta đã từng hẹn ước
Mà cũng chưa khi nói tạ từ...

Biện Công Danh

Nỗi Sầu Riêng


Em đi bỏ lại bến đò
Mái chèo lở nhịp câu hò bặt tăm
Mưa đêm hạ rớt âm thầm
Nghe như lá đổ trên tầng mộ xưa.

Từ khi nhặt chút hương thừa
Nắng phai màu tóc bốn mùa buồn tênh
Tôi về tìm chút lãng quên
Em đi còn nhớ gọi tên trong lòng ?

Thôi đành nhặt lá trầu không
Quết chung với tép cau hồng màu vôi
Quấn tròn thân phận đơn côi
Tội cho màu nắng ngăn đôi não nề.

Phương trời cười nói vui ghê
Chừng nào trở gót dặm về hàn huyên?
Sợ người năm cũ ưu phiền
Nên tôi nép gốc sầu riêng bên đường.


Dương hồng Thủy
(Tháng 06/2015)

Thu Tịch - Đỗ Mục

  ...... Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng nầy nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ, những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng cung nữ thời xưa, và thấp thoáng trong vườn nhà ai hoa phù dung buổi sáng nở trắng như một tâm hồn con trẻ. Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và tâm hồn tôi vẫn là tâm hồn tôi năm trước...

Đó là đoản văn của Thanh Tịnh nhớ về một buổi sáng mùa Thu, viết theo văn phong của văn học Âu Tây đầu thế kỷ 20. Bây giờ thì ta hãy đọc bài Đêm Thu của Đỗ Mục làm ở thế kỷ thứ 10 , mang đầy đủ tính chất dân gian và truyèn thống của văn hóa Á Đông....

杜牧《秋夕》            Thu Tịch - Đỗ Mục

銀燭秋光冷畫屏, Ngân chúc thu quang lãnh họa bình
輕羅小扇撲流螢。 Khinh la tiểu phiến phốc lưu huỳnh
天街夜色涼如水, Thiên giai dạ sắc lương như thủy
臥看牽牛織女星。 Ngọa khán Khiên ngưu Chức nữ tinh .

Chú Thích:
1. Ngân Chúc: Ngân là Bạc, ở đây là màu Bạc, màu trắng bạc. Chúc là đuốc. Hoa Chúc là Đuốc hoa, ở đây Chúc là cây Đèn Cầy, Cây Nến. Ngân chúc : là Cây Đèn sáp màu trắng bạc.
2. Họa Bình: là Bức bình phong có vẽ tranh của các nhà quyền quý thời xưa.
3. Khinh La : Khinh là nhẹ, La là Là, Lụa là, là Vải The. Khinh La : là loại vải the nhẹ để làm quạt. Trong bài " Khinh La Tiểu Phiến " : Là chiếc quạt con làm bằng lụa là của các tiểu thơ xưa thường cầm trên tay.
4. Phốc: Là chụp bắt.
5. Lưu Huỳnh: Lưu là Lưu động, là xẹt. Lưu Tinh : là Sao xẹt. Huỳnh : là con Đom đóm.
6. Thiên Giai: Giai là con đường. Thiên Giai : không phải là đường ở trên trời, mà là đường trong kinh thành, trong cung vua.
7. Lương Như Thủy: là Mát như nước.

Dịch Nghĩa:
Ánh sáng lung linh từ ngọn bạch lạp tỏa ra hòa với hơi thu làm cho tấm bình phong đẹp rực rỡ cũng nhuốm hơi lạnh lẽo, nàng phe phẩy chiếc quạt the để chụp bắt những con đom đóm đang lặp lòe bay lượn trong đêm. Đêm đang xuống trong những con đường của Kinh thành, hơi thu mát lạnh như nước trong đêm thanh vắng lặng, nàng ngữa nhìn sao trời để tìm ngắm hai sao Chức Nữ và Ngưu Lang.

Diễn Nôm:
Lung linh nến trắng bình phong lạnh,
Quạt lụa vờn theo đóm lượn thu.
Lấp lánh sao trời trong như nước,
Nằm xem sao Chức gặp sao Ngưu .
Lục bát :
Bình phong thu lạnh se se,
Quạt là nến trắng lặp lòe đóm bay
Trời thu như nước mát thay,
Ngưu Lang Chức Nữ đêm nay tương phùng!

Đỗ Chiêu Đức.


Đêm thu với khí trời trong mát, với đom đóm bay lượn lặp lòe, rồi nằm mà ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.... Rất bình dị và rất nên thơ ! . Có ai ngờ được đây lại là một bài thơ Cung Oán !... Này nhé
... Ngọn bạch lạp đặt trên giá bằng bạc, bình phong có tranh họa rực rỡ, rõ ràng là cuộc sống của nhà quyền quý vương hầu, ta càng xác định hơn với từ Thiên Giai : là đường trong Kinh thành , trong Cung Vua, và ai mới rảnh rổi mà nằm ngắm sao trời ?. Chỉ có những nàng cung nữ nhàn nhã, tội nghiệp trong lãnh cung mới rảnh rổi như thế mà thôi, và... một điểm tâm lý rất quan trọng nữa là, chỉ có những nàng cung nữ với tình xuân phơi phới, với nhựa sống tràn trề, mà phải giam mình trong chốn lãnh cung cô thân chiếc bóng, mới hâm mộ và ước ao được như Ngưu Lang Chức Nữ, mặc dù mỗi năm chỉ hội ngộ có một lần. Một lần, có còn hơn không !. Một số cung nhân may mắn... suốt đời mới gặp được vua một lần ! Lắm cô suôt cả cuộc đời, hết cả thanh xuân, cũng chưa được nhà vua một lần triều kiến... So với Ngưu Lang Chức Nữ thì còn đắng cay chua xót hơn nhiều ! Nên chi, mới ngưỡng mộ và ước ao được như Ả Chức và Chàng Ngưu, chớ còn đối với cuộc sống bình thường, thì có ai lại hâm mộ chuyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ bao giờ ? ! ... Duy chỉ có nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mới ...
Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên .... mà thôi !
" Bách niên " mà chỉ gặp nhau vào đêm " Thất Tịch " hằng năm, thì có ai ao ước mà làm gì !!!
Phải tinh ý lắm, ta mới cảm nhận được cái " Oán " trong bài thơ nầy, vì nó quá nhẹ nhàng và bình dị. Phải chăng cái oán đeo đẳng dai dẵng miên man lâu dần nên đã hòa vào cuộc sống và được chấp nhận như một sự tự nhiên tội nghiệp ! Nhưng ... nàng cung nữ của Ôn Như Hầu đã :
..... Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !...

Khi ..... Cái oán đã lên đến cực điểm và trở thành bạo động ! 

Đỗ Chiêu Đức.
***
Đêm Thu
(1)
Đêm thu nến chiếu lung linh mành
Quạt lụa xua bầy đóm liệng quanh
Đêm mát sắc trời dường nước lạnh
Nằm nhìn Ngưu-Chức khóc thương mang
Mailoc
(2)
Nến thu soi bình phong lạnh ngắt
Quạt lụa mềm xua bắt đóm bay
Trời trong như nước đêm dài
Nằm nhìn Ngưu-Chức thương thay cuộc tình 

Mailoc
Cali 8-27-15
***
Đêm Thu

(1 )
Hơi thu, ánh nến lạnh bình phong
Quạt lụa xua đom đóm lượn vòng
Đường vắng cung thành sương ướt đẫm
Nhìn sao Ngưu Chức quặn đau lòng!

( 2 )
Bình phong lạnh, ánh nến vàng hiu hắt
Quạt ơ hờ xua bắt đóm bay quanh
Đường cung thành sương đẫm, sáng long lanh
Ngắm Ngưu Chức, thương thân mình phận bạc.

Phương Hà phỏng dịch

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Thành Kính Phân Ưu Cùng Hồng Điệp Và Tang Quyến

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


Chúng tôi được tin trể  Cụ Bà Phạm Thị Huỳnh là Thân Mẫu của Hồng Điệp,
Cựu học sinh Tống Phước Hiệp, niên khoá 1962-1969 đã mãn phần tại Sài Gòn Việt Nam,
hưởng thọ 87 tuổi

Chúng tôi xin Thành Kính chia buồn cùng bạn Hồng Điệp và Tang quyến. 
Nguyện cầu cho Hương Linh Cụ Bà Phạm Thị Huỳnh sớm về Cõi Vĩnh  Hằng.

Đồng Kính Phân Ưu

Giản Kim Dung
Lê Thị Tuyết
Mạc Tích Đức



Thơ Tranh: Em Xưa

Trời mưa dầm dề. Nhớ và nhớ!

Thơ: Yến Hồng & An Nguyen
Thơ Tranh: An Nguyen

Rừng Thu



Vô rừng hái nấm cùng con
Bước đi trên những lối mòn rêu xanh
Lá thu xao xác lìa cành
Trời cao vời vợi long lanh nắng vàng
Rêu xanh trải thảm mịn màng
Nấm xúm xít đứng xếp hàng đợi ai
Rừng thu xoải bước chân dài
Ở đây một góc thiên thai giữa đời
Người dạo rừng với nụ cười
Chào nhau như thể là người quen thân
Theo con tìm lại dấu chân
Thời con thơ ấu những lần qua đây
Một mai giữa cánh rừng này
Gọi nhau chỉ thấy cỏ cây đáp lời

Khánh Hà

Càn-thát-bà


Gửi bạn hiền Mỹ Hòa

Đàn hát, ta ru nhạc cõi trời
Nhưng lòng hoài vọng diệu âm thôi
Mười phương vũ trụ ta đi mãi
Tìm kiếm không ra, chân rã rời.Ngày kia ta lắng tâm sâu thẳm
Tự đáy lòng vang khúc tuyệt vời
Mới hiểu diệu âm ta có sẵn
Thôi đừng phiêu bạt kiếm bên ngoài.

Hồ Trường An


Nhẫn Nhục Nếm Phân: Việt Câu Tiễn

Câu "Sĩ khả sát bất khả nhục" đã nói lên tiết tháo của kẻ sĩ ngày xưa. Tuy nhiên vẫn còn đó những tấm gương nhẫn nhục lưu danh hậu thế.
Chúng ta cùng đến với Việt Vương Câu Tiễn, một trong ngũ bá vào cuối thời Xuân Thu.

Việt Vương Câu Tiễn

Vào thời Xuân Thu, nước Việt một nước láng giềng và luôn có bất hòa với nước Ngô cũng dần dần trở nên lớn mạnh, đã tạo thành mối uy hiếp đối với nước Ngô. Năm 496 trước công nguyên, Vương Doãn vua nước Việt bị bệnh qua đời, vua Ngô nhân lúc nước Việt bận việc tang, bèn phát động tấn công, hai bên mở trận kịch chiến ở Huề Lý, rút cuộc quân Ngô bị thất bại thảm hại, Ngô vương Hạp Lư do bị thương, lại vì tuổi già sức yếu nên khi trở về đến nửa đường thì mất, con là Phù Sai lên nối ngôi. Phù Sai luôn luôn ghi nhớ lời cha dặn trước lúc qua đời. Nhằm tự răn mình, nhà vua đã cử một người đứng trước cửa cung, mỗi khi mình ra vào thì người này đều hô to lên rằng; " Phù Sai, người đã quên mối thù nước Việt giết cha rồi ư ?". Phù Sai liền khóc nói: "Không, không dám quên, ba năm sau nhất định báo thù". Nhà vua ra lệnh cho Ngũ Tử Tư và Bá Hi khẩn trương thao luyện binh mã, để chuẩn bị tấn công nước Việt.

Hai năm sau, Ngô vương Phù Sai vì nóng lòng muốn báo thù, liền thống lĩnh đại quân tiến đánh nước Việt. Đại phu Phạm Lãi nói với Việt vương Câu Tiễn rằng: " Nước Ngô đã luyện tập binh mã trong hai năm, họ nóng lòng muốn báo thù, nên khí thế rất lớn mạnh, chúng ta chỉ nên giữ thành, chứ không ra nghênh chiến". Câu  Tiễn không chịu nghe theo, liền dẫn quân ra Tiêu Sơn mở một trận kịch chiến với quân Ngô, rút cuộc quân Việt bị thất bại, Câu Tiễn chạy trốn lên núi Cối Kê, quân Ngô thừa thắng đuổi riết rồi bao vây chặt núi Cối Kê. Câu Tiễn cuống cuồng liền cùng Phạm Lãi bàn cách đối phó, Phạm Lãi nói: "Đã đến nước này, chúng ta chỉ còn cách cầu hòa mà thôi". Câu Tiễn nghe theo, liền cử đại thần Văn Chủng sang dinh trại quân Ngô cầu hòa.

Vua Ngô sắp xếp cho hai vợ chồng Câu Tiễn đến ở trong một ngôi nhà đá bên cạnh mộ Hạp Lư, họ hàng ngày chăn ngựa, quần áo lam  lũ, ăn toàn cám và rau dại. Câu Tiễn ngày ngày đi chăn ngựa, vợ ở nhà giặt giũ nấu cơm, còn Phạm Lãi thì kiếm củi, họ tỏ ra rất an phận, nền nếp, một lòng một dạ cung kính đối với vua Ngô.
Mỗi khi Phù Sai đi chơi hay đi đâu, đều bắt Câu Tiễn cầm roi ngựa đi chân đất trước đầu xe. Người nước Ngô đều trỏ mà bảo nhau:
- Đấy là vua nước Việt.
Câu Tiễn chỉ lặng lẽ cúi đầu mà đi.
Một hôm, được tin Phù Sai bệnh, Phạm Lãi bàn với Câu Tiễn xin vào thăm bệnh, vừa lúc Phù Sai vừa đi ngoài, theo lời Phạm Lãi khuyên, Câu Tiễn nếm phân của Phù Sai để phán đoán bệnh tình, nhằm tỏ lòng trung.
Sau khi nếm phân xong, Câu Tiễn thưa với Phù Sai những gì Phạm Lãi đã căn dặn:
- Chúc mừng Đại Vương, bệnh Đại Vương đến ngày kỷ tỵ thì bớt, sang tháng ba ngày nhâm thân thì khỏi hẳn.
- Sao ngươi biết?
- Tôi nghe y sư nói phân là cốc vị, hể thuận thời khí thì sống, trái thời khí thì chết. Nay kẻ tù này nếm phân của Đại Vương, thấy vị đắng và chua, chính hợp cái thời khí phát sinh, bởi thế mà biết.

Chính việc làm này khiến Phù Sai rất cảm động và cho rằng Câu Tiễn đã thực lòng quy thuận mình, nên ba năm sau phóng thích vợ chồng Câu Tiễn về nước.

Sau khi về đến nước Việt, Câu Tiễn liền gắng công xây dựng đất nước, chờ đợi thời cơ để rửa hận, nhà vua lo mình thỏa mãn với hiện trạng, mà làm nhụt ý chí báo thù rửa hận của mình, nên đã tự sắp xếp cho mình một môi trường sống rất gian khổ, ông treo một chiếc mật ở giữa nhà ăn, trước khi ăn cơm đều nếm vị đắng của mật và tự nhắc nhở mình "Chớ quên nỗi nhục ở Cối Kê", còn ban đêm thì ngủ trên đống củi rơm. Đây chính là xuất xứ của câu thành ngữ "Nếm mật nằm gai".
Câu Tiễn hàng ngày đi làm ruộng, vợ ở nhà dệt vải, khuyến khích nông dân ra sức phát triển sản xuất, tăng thêm của cải cho nước, quy định trong 7 năm không thu thuế, giảm gánh nặng cho nông dân. Đồng thời còn đặt ra chính sách dân số, người già không được lấy vợ trẻ, thanh niên không được lấy vợ già, sinh đẻ được nhà nước chiếu cố, sinh con trai từ một đứa trở lên đều do nhà nước nuôi dưỡng. Do đó, chỉ trong mấy năm mà dân số nước Việt tăng lên nhanh chóng, nước cũng từ yếu chuyển sang mạnh. Câu Tiễn lại ra lệnh cho Phạm Lãi huấn luyện binh mã, Văn Chủng quản lý việc lớn và không ngừng tiến cống cho nước Ngô, loại trừ được sự hoài nghi của Phù Sai, buông lỏng việc phòng bị đối với nước Việt, tình hình vẫn trong trạng thái hòa bình, nhưng nước Việt đã nhân cơ hội này trở nên ngày càng lớn mạnh.

Sau 10 năm phục hưng và cải cách chính trị, Việt Quốc đã trở nên hùng mạnh. Câu Tiễn được sự tin tưởng của Phù Sai, không chú ý tới sự phục hồi của nước Việt mà mang quân lên trung nguyên giao tranh với nước Tề, nước Tấn.
Đầu năm 483 TCN, Phù Sai họp chư hầu ở Hoằng Trì, muốn tranh ngôi bá chủ của nước Tấn . Trong khi hội chư hầu chưa xong thì tháng 6 năm đó, Câu Tiễn mang quân đánh úp nước Ngô. Thế tử nước Ngô là Hữu ra cự bị quân Việt bắt sống và tự sát. Quân Việt tiến vào nước Ngô.
Phù Sai mang quân về nước. Quân Ngô theo Phù Sai đi đường xa mỏi mệt, bị quân Việt đánh bại. Phù Sai phải mang nhiều của cải sai sứ sang giảng hòa với nước Việt. Câu Tiễn cho giảng hòa.
Năm 478 TCN, Câu Tiễn lại mang quân đánh Ngô. Hai bên giáp trận ở Lập Trạch. Quân Ngô đại bại. Năm 476 TCN, Câu Tiễn lại tấn công đánh bại Ngô lần thứ ba. Năm 475 TCN, Câu Tiễn lại mang quân đánh, vây nước Ngô. Đến tháng 11 năm 473 TCN, quân Việt đại phá quân Ngô. Ngô Phù Sai sau nhiều lần bại trận không còn khả năng kháng cự, xin quy phục như nước Việt trước đây. Câu Tiễn định chấp nhận nhưng Phạm Lãi can không nên. Vì vậy Phù Sai phải đâm cổ tự sát.
Cuối cùng Câu Tiễn đã tiêu diệt được Ngô Phù Sai, rửa được cái nhục ở Cối kê. Phù Sai tự vẫn không đầu hàng, Câu Tiễn sai chôn Ngô vương tử tế và giết thái tể Bá Hi phản chủ.
Sau khi Câu Tiễn đã bình định được nước Ngô, bèn đem quân về hướng bắc, vượt sông Hoài cùng các nước chư hầu là Tề Tấn, họp ở Từ Châu, nộp cống cho nhà Chu. Vua Bguye6n Vương nhà Chu ban thịt đến Câu Tiễn, cho ông làm bá.

Sau khi đã vượt qua phía nam sông Hoài, Câu Tiễn bèn lấy đất trên sông Hoài cho nước Sở, trả cho nước Tống đất Ngô đã lấy của nước Tống, trả cho nước Lỗ dải đất một trăm dặm ở phía đông sông Tứ. Bấy giờ quân của Việt làm bá chủ ở phía đông sông Giang, sông Hoài. Chư hầu đều mừng gọi Câu Tiễn là bá vương.

Sự nhẫn nhục phi thường của Việt Câu Tiễn đã giúp ông trả được mối thù, đồng thời đạt được danh hiệu Bá Vương, đứng trong Ngũ Bá thời bấy giờ.

Huỳnh Hữu Đức biên soạn
(Theo: Đông Châu Liệt Quốc - vikipedia.org - maxreading.com).

Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Người Dưng



Thơ: Lâm Hảo Khôi
Thơ Tranh: Kim Oanh

Bài Thơ Haiku Nhật Bản


Ghi vội cảm xúc một chiều ở Kyoto (Japan) trước một cảnh chùa xưa

Lưng núi xanh cổ tích
Bóng chiều đá trắng lối chùa xưa
Suối tiễn nước về đâu


Phạm Khắc Trí
4-7-2015
***
Phù Du


Đường đời dâu bể
Nhân sinh ba vạn ngắn hay dài?
Có còn chăng?

Quên Đi
***
Quê hương còn khó nhọc
Thời gian ba vạn đang sắp hết
Làm gì không?


Nguyễn Đắc Thắng
20150713

***
 Chùa Xưa Thắng Cảnh

Núi xanh vươn vách đứng,
Tà dương thắng cảnh chứng chùa xưa.
Tri kỷ nữa tìm đâu ...


Mai Xuân Thanh
***
 Chim Chiều

Lẻ bạn mỏi cánh bay
Chập chùng đồi núi sương mờ ảo
Tổ ấm nào biết đâu

Kim Phượng

Đôi Điều Về Đại Hội XIX Tại Toronto, Canada


Sau Đại Hội Thế Giới XVIII tại thành phố Phượng Hoàng ở Arizona gần một năm, Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trường Trung Học Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ Vùng New England của chúng tôi chuẩn bị một số anh chị em đi tham dự Đại Hội XIX tại thành phố Toronto, Canada vào dịp lễ Độc Lập Hoa Kỳ năm 2015. Toronto là thành phố đông dân nhất tại Canada và là tỉnh lỵ của Ontario với dân số ngót nghét 2 triệu 7 trăm ngàn. Tuy thuộc nước Canada nhưng Toronto rất gần tiểu bang Massachusetts thuộc vùng New England của chúng tôi vì từ Springfield hay Boston, MA qua Toronto chỉ mất tối đa khoảng 9 giờ lái xe hơi. Vì khá gần như vậy nên anh CHS/Bác sĩ Thái ngọc Ẩn và phu nhân là CHS/Dược sĩ Nguyễn thị Gấm đề nghị mướn xe minivan để nhóm cựu học sinh chúng tôi đi phó hội bắt đầu từ sáng ngày Thứ Năm, 2 tháng 7 năm 2015 (và trở về Massachusetts vào Chủ Nhật, ngày 5 tháng 7 năm 2015) hầu có dịp ngắm cảnh dọc đường và nghỉ đêm gần thác Niagara (Niagara Falls) trước khi vượt biên…giới qua Canada sáng sớm ngày hôm sau. Tham dự đại hội lần này, Hội chúng tôi có 14 người, riêng toán đi minivan gồm 9 người, cộng thêm 4 người dùng phương tiện riêng bằng đường bộ và một CHS bằng đường hàng không). 

Đến thác Niagara trên lãnh thổ Hoa Kỳ vào khoảng 3 giờ trưa nên chúng tôi cùng nhau đi thăm ngọn thác nổi tiếng chung của cả nước Mỹ và Canada, dĩ nhiên không thiếu việc đi tàu để có cái cảm giác thích thú khi mặc cái áo mưa màu xanh dương, trong khi ở phía bên kia du khách Canada mặc áo mưa màu đỏ để dễ phân biệt. Thật thú vị khi nghe âm thanh những giọt nước nhỏ li ti như hơi sương nhỏ tí tách trên đầu chúng tôi qua chiếc áo mưa mỏng dính, tuy thế hai nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp trong đoàn là cặp uyên ương CHS Ánh và Liên vẫn không quên ghi lại những hình ảnh đẹp trong khoảnh khắc tuyệt vời này. 

Thác Niagara 

Sáng sớm hôm sau, Thứ Sáu, 3 tháng 7 năm 2015, chúng tôi “vượt biên” sang lãnh thổ nước Canada láng giềng trên cây cầu biên giới không quên mang theo hộ chiếu kẽo bị cho quay về cố hương thì phiền phức. Thời gian qua cầu cũng khá lâu nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đến Canada bình an vô sự. Để tự tưởng thưởng, nhóm chúng tôi dùng điểm tâm tại một tiệm Dim Sum khá lớn trong vùng, thường được gọi nôm na là Điểm Sấm, do người Hoa quản lý trong khi chờ đợi đáo nhậm đơn vị mới, ủa quên, trong khi chờ đợi đến khách sạn Sandman Signature Missisauga Hotel ở Toronto để nghỉ ngơi.

Năm nay, Đại Hội Thế Giới XIX được luân lưu tổ chức tại Toronto, Canada trong 3 ngày: 

· Thứ Sáu, 3 tháng 7 năm 2015 (Tiền Hội), 
· Thứ Bảy, 4 tháng 7 năm 2015 (Đại Hội) và
· Chủ Nhật, 5 tháng 7 năm 2015 (Du Ngoạn).

Ngoài chương trình chánh thức 3 ngày kể trên còn có thêm chương trình Hậu Đại Hội (không bắt buộc) từ ngày Thứ Hai, 6/7/2015 đến ngày Thứ Sáu, 10/7/2015 trong đó có thăm viếng thủ đô Ottawa, Montreal và trở về Toronto, Canada. Montreal (hay tiếng Pháp là Montréal) là thành phố lớn nhất của tỉnh bang Québec, một thành phố đông dân thứ nhì của Canada và là thành phố nói tiếng Pháp đứng thứ nhì trên thế giới sau thủ đô Paris của Pháp, đặc biệt tọa lạc ngay giữa thành phố là ngọn núi nhỏ Mont Réal, từ đó tên Montréal được ra đời.

Đại Hội lần thứ 19 năm 2015 được quy tụ khoảng hơn 300 cựu học sinh đồng môn/thân hữu và trên 20 giáo sư từ Âu Châu, Úc Châu, Hoa Kỳ và Canada.

Chương trình đêm Tiền Hội (Thứ Sáu, 3/7/2015) được long trọng bắt đầu từ 7 giờ tối đến 12 giờ đêm tại Applewood Hill Auditorium gồm thành phần MC rất sáng giá và hùng hậu với CHS/GS rất hùng biện Nguyễn Công Danh đến từ Houston, TX nắng ấm tình nồng cùng sự hiện diện của vị GS đẹp trai, trẻ trung, nói năng lưu loát như thác Niagara và có vẻ “điệu dễ sợ” đến từ thành phố nóng lạnh bất thường với con “kangourou kềnh càng” là GS Bùi Hữu Việt. Ngoài hai cây cổ thụ MC đực rựa này cò một nữ MC rất duyên dáng phụ trách phần văn nghệ là phu nhân của vị giáo sư Nguyễn văn Lễ vừa qua đời tại Canada. Ngoài ra sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến anh CHS Trưởng Ban Tổ Chức Nguyễn Văn Phép đã phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng với hai MC, nhất là với người đồng môn tài ba Nguyễn Công Danh, nên đã đem đến kết quả tuyệt vời cho đêm Tiền Hội. Điều đặc biệt trong đêm Tiền Hội là thầy trò ngồi chung lẫn lộn để tâm sự với nhau chứ không xếp chỗ ngồi theo thứ tự giáo sư và đồng môn/thân hữu..

Toronto Harbour Front

Qua ngày thứ hai vào Thứ Hai, 4/7/2015, ngày Đại Hội và cũng là ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ, chương trình được bắt đầu từ 9 giờ sáng đến 2 giờ trưa với cuộc thăm viếng Toronto Harbour Front và Central Island nên phải qua phà để đến điểm hẹn. Tại đây, quý vị giáo sư và các đồng môn/thân hữu tự do lựa chọn hoặc đi xe đạp hai chỗ ngồi (như anh chị Bùi Hữu Trạng), đi tàu thuyền (boat), đi tàu hỏa mini (không có ống khói) hay đi bách bộ cho giản gân cốt (như thầy Nguyễn Trung Quân và tôi). Rời bến phà lúc 2 giờ trưa, các thầy trò quay về khách sạn để chuẩn bị ăn mặc chỉnh tề cho đêm Đại Hội sẽ dự trù bắt đầu từ 6 giờ chiều đến 10 giờ đêm tại nhà hàng Kinsley Restaurant.

Đêm Đại Hội chính thức được diễn tiến một cách tỉ mỉ và long trọng qua 12 tiết mục từ phần Giới Thiệu Thành Phần Tham Dự, Nghi Lễ Khai Mạc (chào cờ, niệm và dâng hương, cung nghinh linh ảnh cụ Lương Khê Phan Thanh Giản và linh vị Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm) với việc trao plaque luân lưu Đại Hội cho CHS Nguyễn Văn Phép, Trưởng Ban Tổ Chức cho đến phần cuối cùng chương trình là Chụp Ảnh Lưu Niệm. 

Sau phần tuyên bố khai mạc ĐH XIX của đồng môn Trưởng Ban Tổ Chức là phần trao quà cho từng GS được kết nối qua lời phát biểu của GS Nguyễn Như Hùng, đại diện quý vị giáo sư và phần phát biểu của các phái đoàn tham dự Đại Hội. 

Tiếp theo phần phát biểu của đại diến các phái đoàn Úc Châu, Pháp là phần phát biểu của CHS//BS Thái ngọc Ẩn, đại diện Hội Ái Hữu Vùng New England: sau lời chào mừng, đồng môn Ẩn trình bày dự kiến (đã được GS Nguyễn trung Quân cùng vài vị GS khác khởi xướng trong ĐH XVIII tại Arizona) về việc thành lập Hội Văn Hóa Giáo Dục Phan Thanh Giản (Phan Thanh Gian Foundation/ Culture & Education) nhằm trở thành một tổ chức bất vụ lợi (non-profit organization) được hưởng quy chế miễn thuế (tax-exempt). Ý kiến này sẽ được tham khảo sâu rộng trước khi đem ra áp dụng.

Sau lời phát biểu của các phái đoàn khác là phần văn nghệ (với phần họat cảnh Hòn Vọng Phu và cải lương thật xuất sắc) được tiến hành đồng thời với việc dùng cơm tối. 

(Ảnh của Phượng Trắng ghi lại)

Ngoài phần ngâm thơ rất truyền nhiễm, ủa quên, là truyền cảm chớ bộ, của GS Bùi Hữu Việt cùng lời phát biểu của các phái đoàn khác là một tiết mục rất độc đáo do các chị trong Gia Đình PTGĐTĐ HOUSTON, TX thực hiện áo dài khi tham dự Đại Hội mà năm nay CHS/MC Nguyễn Công Danh đã mời các anh chị ra trình diễn lại những mẫu áo dài đủ màu sắc từ những năm 1997, 1998, 1999 đến các năm 2000, 2007, 2011, 2012, 2014 và 2015 trông thật đẹp mắt không chê vào đâu được.

Chương trình được tiếp nối với phần bán đấu giá tranh “Tình Hoài Hương” của ĐTĐ Họa sĩ Nhã Phương để giúp các thầy cô và đồng môn già yếu trong hoàn cảnh ngặt nghèo tại quê nhà và nghi thức Phát Hành Đặc San 20 cùng với phần tường trình của thủ quỹ về chi, thu cho Đại Hội.

Phần tuyên bố về Đại Hội XX vào năm 2016 đã được chuyển hướng về Châu Đại Dương (Brisbane, Queensland, Úc Châu) sau khi Nam, Bắc Cali khước từ tổ chức.

Đại Hội chính thức bế mạc sau lời Cảm Tạ của Ban Tổ Chức cùng với việc thông báo cho chuyến Du Ngoạn Hậu Đại Hội (Niagara Fall cùng Montreal/Québec), việc phân phối Đạc San 20 và tiển đưa quan khách.

Để thay lời kết, người viết xin chân thành cám ơn đồng môn niên đệ Trưởng Ban Tổ Chức Nguyễn văn Phép và niên đệ Nguyễn công Danh đã cung cấp những thông tin cần thiết đồng thời xin mạn phépbắt chước quý thầy cô và đồng môn/thân hữu được ghi nhận cảm nghĩ của mình về Đại Hội XX trong chữ ngắn gọn “TUYỆT VỜI”.

CHS Trần Bá Xử
Springfield, MA, mùa hè 2015

Chuyện Sau Vườn

Con chó nhà tôi được đặt tên là Vẹm. Tôi không nhớ là cha mẹ tôi có lý do gì trước khi đặt tên cho nó hay không. Nhưng tôi chỉ biết và quen gọi nó là Vẹm. Bộ lông nó ngắn và đen từ đầu xuống đến ngực, còn lại thì nơi trắng nơi đen. Thường thì nó rất hăng sủa. Cứ mỗi khi đàn gà của chúng tôi ồn ào thì nó sủa ồn lên từ trong nhà vì bị nhốt . Có một điều lạ là khi nó sủa thì con chó bên hàng xóm cũng ngầu ngầu sủa theo. Mà khi con chó hàng xóm sủa thì con Vẹm tôi lại nín bặt và xuôi lơ không còn hứng thú để sủa. Đối với thằng con nít như tôi thì chuyện chó mèo chả đâu mà tìm hiểu tại sao.

Nhà tôi ở một tỉnh nhỏ, một mảnh sân trước mở rộng ra con lộ chính, liên tỉnh, còn mảnh sân sau có hàng rào tre rất khít khao bao bọc chung quanh mà chúng tôi gọi là vườn. Tuy chẳng phải nhà tôi kín cỗng cao tường chi, mà chỉ để phòng ăn trộm và giữ bầy xúc vật mẹ tôi nuôi khỏi đi lạc. Cũng vì thế tôi hay ra sau vườn nhìn đàn gà và ném thóc cho chúng ăn . Những buổi trưa hè oi ả, tôi thường hay ra đung đưa trên chiếc võng cột giữa hai gốc cây mận mà lim dim theo gió nhẹ .

Hôm đó tôi cũng ra ngồi và con Vẹm cũng quanh quẩn bên tôi. Trong lúc đang lim dim vì gió hiu hiu thì tiếng kêu quang quác của mấy con gà làm tôi bừng tỉnh. Ôi thôi! Con gà nòi cưng của ông anh đã bay lên đậu tận đỉnh cây chùm ruột ở cuối vườn, còn đám gà mái, gà con thì chạy tán loạn tránh sự đuổi bắt của con Vẹm .

- Vẹm! Vẹm! Hê Vẹm!

Cũng may là con chó của tôi còn biết nghe lời và tôi bắt nó vào nhà đóng then cửa lại rồi trở ra tìm cách dụ con gà nòi của ông anh xuống. Tôi cứ thấp thỏm lo sợ là lỡ nó nhảy ra khỏi rào đi mất là ông anh sẽ mắng cho tôi một trận. Rải mấy hạt thóc và gọi cái đám gà mái, gà con lại ăn để con gà nòi thấy mà nhảy xuống. Thấy bọn gà gom lại ăn có vẻ bình yên, con gà nòi cũng nhảy vèo xuống . Gà nòi là loại gà đá nó không bay cao, chỉ vì sợ con chó mà bay cao đến thế. Còn con Vẹm thì ít khi thấy nó hung hăng với mấy con gà như vậy.

Tôi chỉ là một đứa con nít nên chuyện rồi cũng quên đi vì mọi sự đã trở về nề nếp cũ . Nhưng ba tuần sau đó, một chú gà con vừa thay lông đã bị xé xác nằm trong bụi sã . Mẹ tôi nói .

- Con gì nó vào vườn nhà mình mà giết chú gà kia, không biết. Hay là diều hâu?! Nhưng diều hâu chỉ sớt gà con ăn chứ đâu có giết chú gà đã lớn thay lông . Mà nó giết thì nó đã mang xác đi ăn chứ đâu bỏ nguyên lại đó.

Tôi đâm ra tò mò như một nhà trinh thám trong mớ truyện tôi đọc . Tôi bắt đầu điều tra dấu vết . Tìm vết máu loang . Tìm lông rơi rụng . Tìm vết cỏ bị dẫm . Tuy cỏ hơi xây sát và chút lông chút máu gần đó nhưng tôi chẳng tìm ra được gì khác hơn . Tuần sau một con gà trổ mã nữa cũng bị phanh xác nơi cuối góc vườn, sau cây chùm ruột . Và nhà thám tử bé con tôi cũng chả tìm được thủ phạm nào .

Một hôm ngồi trong nhà nhìn cái khe cửa mà nghĩ ngợi lung tung và nhớ bạn bè ở trường học. Lúc đi học thì muốn được nghỉ nhưng nghỉ hè thì lại nhớ trường. Tôi lẩn thẩn thế. Đang lơ đãng nhìn, thì cái khe cửa bỗng phụt tối đi rồi sáng lại. À! Thì ra, khi chòm mây đi ngang. Tôi lại muốn đóng cái tuồng làm thám tử tí hon của tôi. Tôi nhón nhén như đóng vai một tay trinh thám đang tiến đến cửa để chỉa súng vào một địch thủ đang đi tới, địch thủ đó là bóng mây. Tôi đến sát bên cửa rồi chờ. Bóng mây vừa che khuất mặt trời thì khe cửa cũng tối lại. Tôi giả vờ như giương súng, rồi ghé mắt nhìn qua. Nắng cũng vừa trở lại. Thế là tôi định ngưng cuộc đóng tuồng của mình nhưng qua khe cửa tôi thấy con Vẹm ở đàng sau vườn. Nó không hùng hổ đuổi bầy gà thì tôi yên tâm. Bầy gà tìm ăn đến bên cái tô thức ăn còn thừa vài hạt cơm của nó mà tranh nhau mỗ lia. Con Vẹm dường như đang ngủ. Nhưng xoạt. Cái mõm nó đã cắn nát một chú gà không kịp kêu. Những con khác chỉ kêu quác một tiếng rồi chạy ra xa. Yên lặng trở về như chẳng có chuyện chi xảy ra. Con Vẹm lần vào đám môn ngọt, bạc hà rồi trở ra như chẳng có chuyện gì. Mõm nó không còn chú gà chết nữa.

Tôi kéo then cửa chạy vọt ra, kéo mõm con Vẹm vẫn còn dính máu. Thì ra thủ phạm là nó mà tôi có bao giờ ngờ được. Vì thế cái tài thám tử của tôi vẫn còn con nít. Tôi rẽ những lá môn và bạc hà vào gần sát hàng rào và lôi ra xác con gà đã chết. Tôi báo cho mẹ hay là đừng thả con Vẹm ra ngoài.

Từ đó mỗi lần thả con Vẹm ra cho tiểu tiện là chúng tôi phải lùa đàn gà vào chuồng để tránh tổn thất . Con Vẹm thì như biết thân cũng ngoan ngoản và vẩy đuôi tíu tít khi được chạy rong bên ngoài .

Một hôm cũng như thường lệ, con Vẹm đòi đi làm chuyện của nó mà kêu i ỉ. Tôi gom đàn gà vào chuồng rồi thả nó ra . Nó chạy loắn xoắn quanh chân tôi và liếm liếm như cảm ơn . Rồi chạy vụt ra góc vườn, ngứi ngửi rồi giỡ chân sau lên làm chuyện của nó . Tôi vẫn chờ cho nó làm xong chuyện kia mới bắt nó vào . Nó thì tung tắng chạy từ trái qua phải, từ cuối vườn trở lại tôi . Bỗng nhiên nó chui vào bụi mồng tơi rồi không thấy trở ra . Con chó bên nhà hàng xóm cất tiếng gừ gừ sủa và giống như cắn nhau . Xen lẩn trong tiếng con chó hàng xóm, tựa như có tiếng của con Vẹm . Chó nhà hàng xóm gầm gừ, ồn ào như thế là thường, mà rào nhà tôi kín bưng thì con Vẹm làm sao qua bên kia, nên tôi chẳng để ý chuyện bên hàng xóm . Chờ thêm mươi phút cũng chẳng thấy con Vẹm trở ra . Tôi ngạc nhiên và lần mò đến tìm nó .

Thì ra dưới đám mồng tơi rậm rạp kia, có một lỗ hỏng. Hàng rào đã bị gãy mấy thanh phía gần mặt đất . Tôi nghĩ chẳng lẻ con Vẹm nó chui qua hàng rào. Nếu không thì sao không thấy nó nữa . Tôi dán mắt qua khe rào. Ô kìa! Con Vẹm đang liếm liếm vào ngực con chó nhà hàng xóm . Trong lúc con chó hàng xóm thì gừ gừ như còn chút tức bực, cũng như chút được ve vãn . Tôi kiễng chân lên gọi con Vẹm trở về. Nó nghe tiếng tôi cụp đuôi chạy thoắt về hàng rào và chui tuột qua lỗ hỏng . Con chó nhà hàng xóm thì sủa lồng lộn, chạy sát lại hàng rào để sủa với theo .

Kéo con Vẹm ra để dẩn vào nhà. Máu. Máu rướm một bên hàm dưới của nó. Tôi lật lên xem cho kỷ thì ra nó bị con chó nhà hàng xóm cắn. Thế mà tại sao lúc tôi nhìn qua thì con chó kia đứng im cho nó liếm. Lạ thật. Có lẻ nhờ vậy mà nó chưa chết vì con chó kia to hơn nó gấp ba lần .

Đó là câu chuyện sau vườn của nhà tôi, thời còn nhỏ . Bây giờ nghĩ lại thì câu chuyện cũng chẳng khác nào chuyện cuộc đời tôi đã đi qua .

Hoài Tử  

Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2015

Ngập Ngừng Bước Xuân- Trăng Ơi! - Bâng Khuâng - Hương Chiều Diễn Ngâm


Mời nhấp vào Link thưởng thức:


Thơ: Ngập Ngừng Bước Xuân - Yên Dạ Thảo
Thơ: Trăng Ơi - Phong Tâm
Thơ:  Bâng Khuâng - Đỗ Hữu Tài
Diễn ngâm: Hương Chiều

Thơ Tranh: Tuyệt Cú Đỗ Phủ - Kim Phượng Dịch Thơ


Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Tình Hồng Vụt Bay


Chiều tàn tắt nắng
Lòng vắng mênh mông
Tình hồng vụt bay
Hoang phế lưu đày

Lần về trường cũ
Bàn ghế bụi mù
Trắng phủ bảng đen
Xoá dấu chân quen

Nhìn về quá khứ
Tìm chút dư hương
Áo trắng vấn vương
Lao xao cuối đường

Lục tìm ký ức
Môi mắt ai ngoan
Nụ hôn ngỡ ngàng
Hạnh phúc miên man

Giật mình đánh mất
Bóng dáng hương xưa
Tình cuốn theo mưa
Ngọn cỏ gió lùa

Gục đầu tiếc nhớ
Một thuở ngây thơ
Tình trần bơ vơ
Áo trắng phai mờ.

Kim Oanh
2-5-2010

Nàng Thơ

Tôi bắt đầu làm thơ ở tuổi mười lăm. Cái tuổi của mộng mơ, của kiếm tìm. Thực ra, mộng mơ điều gì đó? kiếm tìm điều gì đó? Với tôi, thuở đó –không thể giải bày được. Có lẽ, không thể giải bày được, nên tôi mới lao đầu vào thơ. Tập tành làm thơ. Tìm một “sư phụ” để cố vấn cho ước muốn của mình.
“Sư phụ” tôi chẳng ai xa lạ, là ông anh láng giềng – anh Lường – lớn hơn tôi khoảng vài ba tuổi. Nhà anh Lường ở mặt tiền. Cửa nhìn ra lộ. Nhìn thẳng phía bên kia, là cây me keo xanh biếc, lúc nào cũng soi bóng mơ màng xuống dòng kinh phẳng lì, nước trong leo lẻo. Nhà tôi nghèo, nằm đằng sau nhà anh, cách nhau bởi một lối đi nhỏ vòng vèo. Anh Lường thường bắt ghế trước hiên, hút thuốc liên miên. Mỗi lần hút thuốc, tôi thấy anh luôn ngó ra dòng kinh, như thả hồn theo gió mây, rồi loay hoay xé bao thuốc lá ra, hí hoáy viết lên trên đó. Mỗi lần viết xong, anh rung đùi liên hồi, đọc đi đọc lại, có vẻ thích thú lắm. Một hôm, sau khi hí hoáy xong, anh khoan khoái áp bao thuốc lá vào ngực, mắt lim dim như đang thả hồn vào cõi bồng lai sâu thẳm nào. Không dằn được tính tò mò, tôi nhẹ nhàng nín thở, lê bước đến gần…


Chưa kịp xác định được những dòng ngoằn ngoèo kỳ diệu trên bao thuốc, tôi đã bị anh chộp ngực la lớn:
- Mày…mày định…ám sát tau, phải không?
Tôi lính quính, đưa hai tay lên trời:
- Không, oan cho em! Em định đến gần anh để xem anh viết hay vẽ chi trên bao thuốc?
Anh đẩy tôi té nhào xuống nền đất, rồi dí bao thuốc vào mặt tôi:
- Tau vẽ bùa, viết phép. Mà không, những cái này còn thiêng hơn bùa phép. Mày còn con nít, chưa hiểu đâu?
- Em đã quá mười lăm. Lớn chồng ngồng rồi.
Anh Lường tát nhẹ vào mặt tôi một cái:
- Lớn chồng ngồng cũng chưa chắc hiểu được. Nếu kẻ đó không biết chi về Thơ!
Tôi lặng lẽ nhìn anh Lường một cách khâm phục:
- Thơ? Nhưng tại sao nó thiêng hơn bùa, hơn phép vậy anh?
- Bùa phép có thể dùng để kiếm tình yêu. Nhưng với Thơ, tự nhiên tình yêu sẽ tìm đến với mình.
Tôi hí hửng, tuôn trào:
- Em cũng thích thơ. Anh làm ơn dạy em đi!
Anh Lường làm thinh, lặng lẽ móc trong túi ra ít tiền, trao tôi:
- Này, mày đi mua dùm tau nửa gói thuốc!
Tôi lắc đầu, không nhận. Rồi ba chân bốn cẳng, chạy nhanh đến tiệm, hào phóng mua nguyên gói thuốc thơm cho anh Lường. Tôi hân hoan tặng anh. Hân hoan hối lộ một gói thuốc. Bởi tôi biết, làm thơ chẳng phải dễ. Rất hiếm hoi thi sĩ trên trái đất này, trên cõi đời này. 
Tôi ngồi bẹp xuống thềm nhà, bên anh Lường, chăm chỉ và chờ đợi những lời chỉ giáo vàng ngọc của anh. Nhưng anh vẫn im lặng, trầm tư nhìn lên cây me keo bên dòng kinh phẳng lặng. Lát sau, thật lâu, anh từ từ rút điếu thuốc ra, lặng lẽ đưa lên môi, bật diêm, khoan thai rít một hơi dài. Lúc làn khói trắng, từ mũi và miệng anh, ẻo lả bay ra, cuồn cuộn lan cao – anh mới thật sự thì thầm:
- Muốn làm thơ, mày phải có Nàng Thơ.
Tôi băn khoăn:
- Nàng Thơ? Em…kiếm ở đâu ra?
- Ở trong thế gian này, trong cõi đời này, trong xóm này, trong trường mày, trong lớp mày…Trong bất cứ nơi đâu…
Tôi vẫn băn khoăn:
- Xin anh nói rõ hơn. Em chưa hình dung được.
- Gần gũi với mày nhất, là lớp học. Mày nên tìm Nàng Thơ ở trong lớp mày học.
- Nhưng…Nàng Thơ phải ra sao? Hình dáng như thế nào?
- Dĩ nhiên nàng phải đẹp, phải mặt hoa da phấn. Dáng dấp phải kiêu sang. Nói năng phải dịu dàng.
- Nhưng con gái loại đó, làm sao em “cua” được?
Anh Lường “cốc” lên đầu tôi. Cái mu bàn tay anh cứng quá, làm đau nhói cả vùng thái dương.
- Mày ngu quá! Ai bảo mày “cua”? “Cua” được thì hết chuyện. Làm thơ chi cho mệt?
Tôi gãi đầu, xoa xoa chỗ đau:
- Vậy chớ…kiếm Nàng Thơ để làm gì?
- Ðể…trồng cây si, để…thất tình. Chỉ có đau khổ, người ta mới làm thơ được. Mày không thấy những thi sĩ nổi tiếng trên trái đất này, đều có trái tim rướm máu như nhau sao?
Chuyện kiếm Nàng Thơ theo tiêu chuẩn của anh Lường – đối với tôi – khó hơn chuyện mò kim dưới đáy biển. Phái nữ lớp tôi, đa số là dân ruộng, từ quê lên tỉnh học. Chị nào chị nấy đều trải qua quá trình lao động, dãi nắng dầm sương, suốt ngày ngoài đồng. Ðâu có ai còn giữ dáng dấp kiêu sang, mặt hoa da phấn? Vả lại, vì thời cuộc, vì chiến tranh, các chị phải đi học trễ. Nên tuy cùng lớp, họ đã thuộc thế hệ đàn chị, lớn tuổi hơn tôi nhiều.

Thời gian trôi qua, rất lâu, tôi vẫn chưa kiếm được Nàng Thơ một cách toại nguyện. Các bài thơ vẫn lỡ điệu thất vần. Có câu gượng ép. Có chữ sáo ngữ. Anh Lường hậm hực mỗi ngày, mặc dù trên môi anh, lúc nào cũng có điếu thuốc thơm của tôi thường trực đem đến.
Chợt một hôm, có chiếc xe Jeep cảnh sát chạy tới, đậu trước cổng trường. Vị sĩ quan trung niên vừa mở cửa bước xuống, lẽo đẽo theo sau là một cô bé tóc dài, thướt tha trong tà áo dài khuê các. Hai người khoan thai bước vào hiên trường, rồi dừng lại trước lớp tôi.
- Tôi xin giới thiệu. Ðây! Em Công Tằng Tôn Nữ Thư Há vừa theo ba mẹ từ Huế, thuyên chuyển về đây. Chúng ta vỗ tay, hân hoan chào đón bạn mới.
Thầy tôi vừa dứt lời, Thư Há bẽn lẽn bước đến chỗ ngồi, giữa những tràng pháo tay vang dội khắp lớp. Tôi biết, lời giới thiệu trịnh trọng của thầy tôi, chứng tỏ cô học trò mới thuộc gia đình có thế lực. Hay ít ra – cũng là một tiểu thư lá ngọc cành vàng.

Trong vườn hoa cằn cỗi, chỉ cần đóa hoa dại nào đó biết thắm sắc tỏa hương, cũng được thiên hạ tôn vinh là đóa hoa đẹp. Thư Há nằm trong tình trạng này. Nàng nghiễm nhiên trở thành thần tượng của bọn con trai. Nàng làm xôn xao trường học. Làm bọn đàn chị ganh tỵ. Làm các bậc tu mi điêu đứng. Làm tôi một phen phải quắt quay, xính vính. Cả lớp học từng có không khí nghiêm trang ngày xưa, bây giờ sôi động hẳn lên, như có giông tố, gió bão từ đâu thổi về.
Riêng tôi, mừng quá, vì đã kiếm được Nàng Thơ cho mình, theo đúng tiêu chuẩn của anh Lường. Tôi hí hửng tìm sư phụ, báo cáo kết quả.
- Anh ơi, em đã có Nàng Thơ. Nàng vừa từ xa đến, học lớp em.
Anh Lường lôi tôi ra cây me keo, ấn tôi ngồi xuống gốc, rồi mơ màng nhìn ra dòng kinh phẳng lặng:
- Em thế nào? Dung nhan ra sao? Nói rõ ràng đi!
Tôi cố nhớ hình ảnh Thư Há. Cố nhớ những điều làm tôi rung động, ngay từ lúc nàng rón rén, bước những bước đầu tiên vào lớp học. Nhưng tôi cứ lắp bắp, ấp a ấp úng, không thể nào diễn tả nhan sắc Thư Há một cách xuông xẻ, theo ước muốn của anh Lường.
- Mẹ, mày ăn nói úp úp mở mở như thế kia, làm sao tau hình dung được cái gì? Ðược rồi, ngày mai tau sẽ đến tận lớp, đứng bên cửa sổ nhìn vô. Mày chỉ nàng cho tau nhé!

Ngày mai, anh Lường đến lớp thật. Anh đứng tựa cửa, hút thuốc, nhìn chăm chăm về Thư Há, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng. Biết có người đang ngắm nghía mình, Thư Há vuốt nhẹ mái tóc, môi dưới trề ra, miệng nở nụ cười mím chi, đôi mắt chớp chớp như cố tình đá lông nheo với anh Lường.
Chiều về, anh Lường mò đến nhà, lẳng lặng kéo tôi ra sân, thân mật dúi vào tay tôi một điếu thuốc thơm.
- Nàng Thơ mày quả thật tuyệt vời! Tuy không đẹp như Tây Thi, nhưng có làn da trắng trẻo, đôi mắt lãng mạn, nụ cười đa tình. Ngần thứ ấy, đủ để mày làm thơ suốt đời.
- Ðôi mắt lãng mạn là thế nào? Nụ cười đa tình là ra sao, vậy anh Lường?
- Mẹ, mày ngu như bò. Mày không thấy khi nhìn trai, đôi mắt nàng lờ đờ như đôi mắt cá ươn sao? Và nụ cười, nụ cười lúc nào cũng nửa miệng. Như mời gọi, như đón chờ, như đưa người ta vào cõi thôi miên vô tận?
Tôi vỗ đùi, khoái trá:
- Ừ, em biết rồi! Như nàng có bùa, phải không? Bọn con trai lớp em mê nàng đến điên cuồng. Thằng nào thằng nấy cũng sẵn sàng nhào vô, chết vì nàng.

Từ khi có Nàng Thơ, tôi bắt đầu tư lự, bỏ học dài dài. Theo anh Lường, muốn làm thơ hay, phải trồng cây si, phải thất tình. Trồng cây si, với tôi, có khó chi đâu? Buổi sáng, chịu khó ôm cặp, lẽo đẽo theo Thư Há đến trường. Hoặc mỗi đêm, lòng vòng quanh nhà nàng, rồi len lén đứng núp sau hàng rào dâm bụt, nhìn trộm bóng dáng nàng , lung linh lúng lính dưới ánh đèn nơi bàn học. Anh Lường còn nói, thỉnh thoảng phải có chút rượu làm chất xúc tác cho thơ. Rượu là men đời, là thần sầu. Có nó, ta đi vào thơ một cách dễ dàng và kỳ diệu.
Tôi lại bắt đầu uống rượu. Cái gì, lúc bắt đầu cũng quá khó khăn, khổ sở. Nhưng sau đó, quen dần, quen đến độ như ghiền. Những ly rượu đế cay xè, được bè bạn chuyền tay nhau đưa lên môi, sao khó khăn hơn uống độc dược? Những ngụm rượu đụng vào lưỡi đã tê điếng các giác quan. Nuốt đến cổ, chưa chi đã nóng ran cả lồng ngực, cháy xé cả ruột gan. Vậy mà, chẳng bao lâu, hết xị này đến xị khác, tôi nốc lia chia, cho đến khi hình ảnh Thư Há hiện lên, chập chờn dẫn tôi vào cõi thơ.

Trong lúc tôi gắn bó với Nàng Thơ, say sưa với ước muốn đầu đời, thì anh Lường – bỗng dưng – biến đâu mất tăm. Nhà anh, suốt ngày, đóng cửa thin thít. Trước hiên, cái ghế anh thường ngồi làm thơ, bây giờ bụi đóng loang loáng. Vài mẩu giấy vụn, quanh đó, vung vãi. Lâu rồi, chúng vẫn còn nằm trơ, y nguyên một chỗ. Chỉ có buổi tối, thỉnh thoảng, rất khuya, bên nhà tôi nhìn sang, mới thấy bóng anh Lường nhấp nha dưới bếp. Anh nuốt vội những thìa cơm nguội muộn màng, để cho kịp giấc ngủ đang chực chờ lao nhanh đến. 

Cho tới một hôm, bất chợt, có tiếng con gái cười khúc khích, từ trong nhà anh vọng ra. Tiếng cười quen thuộc, thân thương – hình như tôi từng nghe loáng thoáng nơi đâu? Phải chăng, đôi lúc nó vút cao như tiếng chim họa mi cuống cuồng tìm bạn, rồi chợt rơi xuống đến tận cùng âm thanh, tiếng cười bỗng trầm đục như tiếng vỡ của chiếc bình cổ quí giá. Tôi cố lục dần trí nhớ. Ðúng rồi! Tiếng cười của Thư Há. Của thần tượng. Của Nàng Thơ tôi.
Tôi đứng chết trân trên lối đi vòng vèo, phía sau nhà anh Lường. Tôi cố áp tai vào vách, lắng nghe điều gì sẽ xảy ra, sau cái âm thanh khúc khích kiêu sa đó. Và tôi chỉ nghe hơi thở Thư Há quyện cùng hơi thở anh Lường, lúc dồn dập, lúc khắc khoải, như nhịp đập của trái tim sắp tung ra khỏi lồng ngực.

***
Tôi đợi con bé ở tầng dưới thư viện. Chắc chắn giờ này, con bé sẽ đến. Cái cầu thang thoai thoải, uốn cong như con rắn khoanh tròn, dường như, nó muốn xoải lưng cất cao, chờ mong bàn chân tiểu thư của con bé dẫm lên. Tôi đứng ở đây, mỗi chiều, vào giờ này, suốt hai tháng trời. Từ khi tôi bắt gặp con bé cầm quyển việt ngữ trên tay, chăm chú đọc từng trang. Từ khi con bé ngước lên nhìn tôi. Mái tóc buông lơi, phất phơ theo gió. Có những sợi tóc mai mỏng mảnh bám nhẹ vào môi. Vành môi đỏ hồng phía dưới trề ra, để lộ nụ cười nửa miệng, nhếch nhác. Cùng lúc, đôi mắt ngơ ngác, nghệch ngạc đến độ gượng gạo. Rồi thình lình, đôi mắt ấy ánh lên một màu vàng đùn đục, tương tự màu nắng hoàng hôn đang lồng lộn giẫy giụa giữa sóng nước trùng khơi. Thoáng chốc, tôi sửng sốt, bàng hoàng, muốn rơi rụng cả chân tay. Con bé như bản copy tuyệt hảo nhất của tạo hóa. Con bé giống Thư Há như đúc, như in.
- Chú ơi, cháu muốn ra biển với chú, chiều nay.
Cái cầu thang như lập cập động đậy. Con rắn uốn cong, trở mình. Bàn chân nõn nà vừa dẫm lên, một nấc, hai nấc. Tôi nghe tiếng phần phật từ vạt áo con bé, tự nhiên chạm vào tay tôi, rát rạt.
- Cháu không ở thư viện đọc sách sao?
- Ngưng một bữa chú ạ! Cháu vừa có tin vui. Má cháu ngày mai qua đây. Vui quá, cháu chỉ muốn đi lòng vòng, với chú.

Tôi bỗng muốn quỵ xuống, mừng rỡ đến run cả đôi chân. Mai này, tôi sẽ gặp lại Thư Há. Tôi sẽ thật sự đối diện với Nàng Thơ, mà 42 năm qua, đã có một thời làm ngôn ngữ tôi bật khóc. Rồi trong cơn chập choạng của trí nhớ, tôi luống cuống nắm chặt cánh tay con bé, chạy như bay ra bãi đậu xe.
Biển, chiều nay, không đẹp. Mây vần vũ bên kia, làm mù đục góc trời. Ngoài khơi, sóng tung tăng như bầy ngựa hung hăng, bờm dựng lên trắng xóa, đua nhau phi thẳng vào bờ. Âm thanh đì đục, đùng đùng, vang dội khắp đất trời, dường như phá tung cả hư không. Tôi cởi giày, chạy theo con bé. Cát mềm nhũn dưới chân. Nó lão nhão, sền sệt như lớp phù sa nào đó, trên đồng bằng Cửu Long ngày trước. Tôi cứ nhắm màu áo con bé chạy tới, cho đến khi con bé lăn đùng bên gờ một đụn cát. 
- Chú ơi, cháu có đọc thơ chú trên báo. Nhưng bài thơ nào chú cũng viết về biển. Tại sao biển luôn canh cánh trong lòng chú vậy?
- Ơ, dễ thôi! Vì ngày xưa chú là lính biển. Biển luôn bên cạnh chú, luôn thao thức với chú từng tháng rộng, năm dài.
- Riêng cháu, cháu ghét biển vô cùng.
Tôi nhìn vào mắt con bé. Biển lung linh trong đó. Giông tố, bão bùng khuấy động trong đó.
- Sao vậy cháu? Sao ghét biển đến vô cùng thế?
- Biển đã cướp mất người cha thân yêu của cháu, trên chuyến vượt biên. Mẹ cháu từng tuyệt vọng, hóa điên cuồng.
- Nhưng biển đã dẫn gia đình cháu đến bờ bến tự do…

Con bé gục xuống đụn cát. Cánh tay vươn ra phía trước. Ðôi vai nhô lên như miếng bánh tráng căng phồng trong ngọn lửa. Chiếc cổ nõn nà, phập phều theo tiếng nấc ràn rụa của con bé. Tôi bùi ngùi, loay hoay quỳ xuống đụn cát. Gió thốc tháo, cuồng bạo, hốt tung váy con bé lên cao. Tôi nhắm nghiến mắt lại, để không muốn nhìn thấy đôi chân trắng nõn lộ ra, mềm mại chạy dài lên đến đỉnh đùi. Bỗng dưng, con bé xoay lại, xoải hai cánh tay nuột nà ôm chầm lấy tôi. Hương tóc, hương da thịt…và hình như, cả hương nước mắt nữa…đua nhau xộc vào mũi tôi, khiến tôi cứ lềnh bềnh ngất ngây trôi trên vùng cảm giác tuyệt vời.

***

Tôi chọn mua bó hoa rực rỡ nhất, rồi lẽo đẽo theo con bé ra phi trường. Lối vào gate đầy người. Ðèn xanh, đèn đỏ nhấp nha nhấp nháy trên các máy rà soát hành lý. Những đôi giày tháo tung. Những chiếc vớ tụt xuống. Những bàn chân trần lộ ra, trước cặp mắt dò xét của security. Ngành du lịch Mỹ đã mất đi vẻ thú vị tự do, sau đại nạn khủng bố năm 2001. Tuy vậy, con bé vẫn lẩn vào đám đông, chen về phía trước, đứng nhấp nhỏm ở lối ra để đón mẹ.
Tôi co rúm như con sâu, ngồi thu lu nơi góc ghế, chăm chú nhìn theo con bé. Bó hoa hồng rực rỡ đang nằm trong tay. Tôi ôm nó vào lòng, siết chặt, như cảm thấy trái tim Thư Há bên cạnh trái tim mình. Ôi, ấm áp và thân thương biết bao! 42 năm trôi qua, sau cái đêm chợt nghe tiếng cười khúc khích kiêu sa của nàng, vọng ra từ nhà anh Lường. Chúng tôi biền biệt xa nhau. Không gặp nhau lần nào nữa. 42 năm mất Nàng Thơ, thơ tôi mãi đau đáu khơi dòng. Mỗi ý tưởng, mỗi vần điệu vẫn quằn quại bóng dáng nàng, vẫn phảng phất hơi hướm Thư Há. Tôi còng lưng vác túi thơ như vác thập giá đi khắp bốn phương trời. Thần tượng đã sụp đổ. Nhưng nỗi đau sụp đổ mãi còn nằm đó. Nằm trong từng con chữ, từng dấu ấn của thơ.

Con bé chợt kêu lớn, rồi nhào đến ôm chầm một người đàn bà lạ. Tôi luống cuống đứng dậy. Trái tim tự dưng đập liên hồi. Hai tay run rẩy, đến nỗi bó hoa muốn chực rơi xuống nền gạch. Trời ơi! Thư Há đây sao? Một lão già còm cõi đang khục khặc ho trong vòng tay nhỏ nhắn của con bé. Mùa này, trời đang nóng, thế mà Thư Há khoác trên mình cái áo ấm dày cộm. Ðã vậy, xung quanh cổ còn quấn thêm lớp khăn choàng màu rêu xậm. Tôi cắn chặt vành môi, mở to mắt để cố xác định sự thật phũ phàng. Ðâu rồi bóng dáng kiêu sa với mái tóc thướt tha ngày trước? Ðâu rồi nụ cười nửa miệng, đôi mắt lãng mạn thăm thẳm trời sầu? Tất cả cái đẹp mất hết. Tất cả đều lùi vào quá khứ, chôn kín, mất tăm, theo bóng ma kỷ niệm. Tôi buông bó hoa rơi xuống ghế, lảo đảo ngó Thư Há một lần nữa. Tôi chỉ nhìn thấy cái lưng khom khom của lão già nào đó. Cái khuôn mặt tan tác hom hem của thời gian khắc nghiệt. Và mái tóc bạc phếu xác xơ đang giãy giụa mỏi mòn trên vầng trán khô khan nhựa sống. Bỗng nhiên, tôi nấc lên một hơi dài, rồi ôm mặt chạy như điên ra khỏi phi trường.

Nắng hừng hực trên các ngọn cây, đổ hào quang xuống thềm đường, lấp la lấp lánh trong những lòng kính nơi parking lot. Chiếc xe, lúc này, nóng phừng phừng như có lửa đốt. Tôi chui vào ghế, gục đầu xuống tay lái, nghe quá khứ và hiện tại đua nhau cấu xé trong lòng. Thần tượng sụp đổ. Nàng Thơ già cỗi. Không lẽ đành để thơ tôi đi vất vưỡng vào ngõ cuối cuộc đời? Tôi chợt nhớ lời nói anh Lường năm xưa. Làm thơ phải có Nàng Thơ. Nàng Thơ phải đẹp, phải mặt hoa da phấn, dáng dấp kiêu sang…Ðúng rồi, muốn cứu thơ tôi ra khỏi cơn hấp hối, tôi đành đi tìm Nàng Thơ khác. Và tôi chợt nghĩ đến con bé. Chỉ có con bé là bản copy tuyệt hảo nhất của tạo hóa. Chỉ có con bé, trong lúc này, mới đủ tầm vóc lên ngôi thần tượng.

Như có sức mạnh ma quái nào đó kéo tôi bật dậy, tôi mở toang cửa xe, ngó thẳng lên trời cao thăm thẳm. Rồi dường đắc chí điều chi, tôi chợt vuốt râu, cười hào sảng với mình. Phải chi có thuốc cải lão hoàn đồng thật sự, tôi sẽ nhắm mắt tu một hơi, cho trẻ lại như cậu thiếu niên ngày trước.


Phạm Hồng Ân
(San Diego, 26/10/2007)

Phượng Hồng Tháng Bảy


Tháng Bảy về nghe đỏ tiếng ve
Phượng hồng nghiêng cánh nép bên hè
Con đường nhớ bước chân thon thả
Đôi tà áo lượn nón nghiêng che

Tháng Bảy về rơi giọt nắng vàng
Tiếng chim rộn rã đón hè sang
Sao lòng ta mãi rưng lưu luyến
Thương nhớ tình vương sợi tóc ngoan

Thuở ấy đôi ta chung mái trường
Cùng chung lớp học mái che thương
Hộc bàn em giấu lời âu yếm
Tôi giấu vần thơ chải tóc buông

Tình trót rơi vào đôi mắt nhau
Thơ tôi bơi giữa mắt huyền sâu
Từng đêm thao thức tràn nhung nhớ
Tà áo em bay trắng mộng đầu

Ép vào trang giấy cánh hoa tươi
Bài thơ ngần ngại chẳng trao người
Mối tình thầm lặng như sương khói
Lạc chuyến đò ngang, lạc nước trôi

Tháng ngày thơ mộng cũng phiêu bay
Mái tóc phong sương đã bạc đầy
Tháng Bảy lại về nhen lửa nhớ
Phượng rơi kỷ niệm đỏ đầy tay

Em ở đâu rồi, em ở đâu ?
Tóc buồn có rẽ lệch bờ ngâu?
Thơ tôi làm nắng hồng ve vuốt
Hong lại tình xưa tóc biếc màu


Trầm Vân

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Bịn Rịn


Thơ Quên Đi
Tranh Thơ Hữu Đức

Người Dưng


Khi không nhắm mắt thương người
Lên cao nhặt lá đốt trời buồn xưa
Khi không nắng lại làm mưa
Ai đi bỏ lại sương mờ áo phai
Khi không ngày ngắn đêm dài
Ai đi bỏ lại cơn say âm thầm
Khi không làm khuyết trăng rằm
Ai đi bỏ lại chổ nằm mình ên...

Lâm Hảo Khôi

Tản Mạn Về Ngôi Trường Khuất Dạng


 alt
         Rốp!     “bénissez nous seigneur, benissez nos parents, nos maitres et notre patrie”
     “Ngồi xuống!”
      Cả lớp cùng ngồi và bắt đầu vào tiết học. Buổi sáng cũng như buổi chiều, đầu giờ thì đọc lời nguyện. Bên lớp Anh văn thì đọc bằng tiếng Anh.

      Cả hai mùa mưa nắng, cho đến hết năm học, rồi lại sang năm lên lớp, bạn cũ vơi đi, bạn mới lại vào, luân chuyển như thời tiết. Cây me trước lớp cũng thả lá từng đám nhảy múa khi có cơn gió dẩu nhẹ thoảng đủ làm đám học trò đang ngồi học thấy mát. Rồi trái bắt đầu lớn dần, khoe thân đầy tán lá, không biết tụi bạn hái trái hồi nào, mà khi giờ ra chơi cầm trái me nhai rào rạo. Trời đất ơi, tui đứng gần, dầu nghe tiếng nhai đã cảm thấy ê răng rồi, mà tuyến nước bọt của tôi bỗng thức giấc bơm nước thả ga, có muốn ngưng nó cứng đầu không chịu ngưng, ôi ngượng.

      Chung quanh trường chúng tôi trồng khá nhiều me, trước lớp đệ lục đệ ngũ là hai cây me khá to chẳng biết được trồng từ bao giờ, sau nhà thờ lại có một cây vú sữa, có điều tôi chưa thấy được trái nào. Khi đến trường bằng xe đạp, bọn học sinh chúng tôi dựng xe quanh gốc cây, hoặc bên hông cửa lớp. Có lần tan học, các cô túa ra dắt xe, một cô bạn hai tay cầm gi-đông nâng xe cao lên để qua bậc thềm. Trời đất! Cái bánh trước lại chạy trước thân xe, cô nàng đứng bối rối, hai tay vẫn cầm cái gi-đông trống lỏng... phía dưới! Rồi một bạn nam đến, lấp lại giùm. Tôi độ chắc tay này muốn người đẹp khắc cốt ghi tâm (anh hùng cứu mỹ nhân), và rằng thủ phạm chính là đây... Cũng chợt nhớ chuyện tay Tiến nhà mình. Một hôm, tan trường về, Tuấn Tiến chơi rất thân nhau, hai cụ ôm cặp đi bộ về, gần đến ngã ba trước cửa trường, thì cô Nhi của Tiến bị ngã xe (bấy giờ còn là bạn chớ chưa phải sau nầy là nội tướng của Tiến), Tiến chạy vội đến galant đáo để, mau mau đở nàng Nhi lên, phủi tay chân áo sóng, rất ư quan tâm an ủi hỏi thăm (chỉ lo có bao nhiêu đó, mà không thèm thấy các việc khác mới ghê chớ!). Tui đi sau phải lo dựng xe lên, lại còn nhắc Tuấn nhặt cặp cầm giùm, rồi hai vị tướng tiếp tục phò cô Nhi đi tà tà về, khà...khà..
***
      Trước mặt nhà thờ là quãng sân, giờ nghỉ giải lao các học sinh tụ tập rất đông nơi đây, chiếm cả trước cửa và bên hành lang nhà thờ. Riêng tôi thích đứng nhìn qua hàng rào kẻm gai được căng rất thẳng, nhìn say mê bờ sông. Không biết kiếp xưa tôi có chơi thân với cụ Hà Bá không, mà khoái nhìn sông, nắng cũng như mưa, bất kể sáng hay chiều, vẻ đẹp luôn biến đổi. Mãi đến giờ tôi vẫn mê sức cuốn hút, cuối đầu sông nối cuối chân trời, cùng hàng cây xanh mờ xa xôi diệu vợi. Những ngày tàn xuân sang hạ, mây trắng từng đám nhỏ rong chơi đuổi nhau về hướng tây, nhìn lên tháp giáo đường, ngọn tháp giáo đường trôi ngược lại, (mây trôi hay giáo đường trôi nhỉ). TUYỆT!
      Bên trái nhà thờ, giữa hai cây me cùng cây vú sữa là lạch nước làm bến đậu cho hai chiếc canô dành cho Cha đi làm lễ ở họ đạo nhỏ (Cái Mơn và những nơi khác). Đến nay, quãng trường Vĩnh Long vẫn còn hai cây me đó (không tin các bạn có thể đến hỏi hai cây me đang đong đưa trái)
Trường có một kiosque bán thức uống cho học sinh phía bên trái nhà thờ, do một bà trung niên đứng bán, gọi là dì Bảy, trong giờ tạm nghỉ, các nữ sinh hay túm tụm nơi nầy, vừa uống đá bào si rộp, vừa (tám) inh ỏi, âm thanh vang đến nỗi gác chuông cạnh bên cũng muốn góp chuyện.
      Các nữ sinh xưa với áo dài truyền thống, trông nhu mì thướt tha, dịu dàng vô cùng, gọi là tiên nữ chắc cũng không quá cường điệu.
      Nói đến tiên thì cũng nên mông lung một chút: Bình sinh tôi chỉ thấy hình tiên qua hộp bánh trung thu, sau đó là tiên trong phim bộ (Tây du ký) của Tàu với áo nhiều lớp dài nhằng ẻo lã, có lẽ ai cũng khoái hình ảnh tiên nữ. Nhưng nếu chẳng may đêm có việc về khuya, đường vắng chỉ mình ta, đang rảo bước dưới hàng cổ thụ già, chợt nhìn lên ngọn cây, thấy tiên nữ áo trắng thướt tha tà tà trên đầu… Ôi thôi, co giò vọt cùng với sức phản lực phần hạ chi để (chạy trối chết). Nói hơi nhảm, song thắc mắc của tui thế nầy: Chuyện Tàu hay cáp đôi: tiên ông - tiên bà / tiên đồng - ngọc nữ / tiên cô (nhưng lại thiếu tiên cậu). Phải chăng là hiểu ngầm quý tiên ông muốn độc quyền luôn tiên cô?

***

      
      Trường mỗi năm có thông lệ làm Lễ Bổn Mạng (tựa như Ngày Truyền Thống).
      Trước đó vài hôm, mỗi chiều chúng tôi tập thánh ca để đến hôm lễ, vào nhà thờ cùng hát. Bài tập hát do thầy Ẩn hướng dẫn. Buổi sáng ngày lễ Bổn mạng trường, một dãy bàn dài đặt trước chính diện của nhà thờ. Ngồi giữa là cha Quang Hiệu Trưởng, bên trái là quí Cô, bên phải là quí Thầy. Thầy Ẩn dùng micro hướng dẫn buổi lễ cùng các trò vui sau đó: kéo co, đập nồi, xỏ kim, trèo cột thoa mỡ bò, nhảy bao bố, v..v..Tất cả học sinh của trường cùng tham dự. Môn đập nồi mới khổ cho tay tham dự, nồi treo lũng lẵng cách hàng năm người tham dự khoảng 5m, mắt bịt kín, lò mò đi dưới sự ó ré ủng hộ hướng dẫn từ xa, bên trái, rồi bên phải, năm ông tham gia không biết hướng nào mà đập, tay nào đập trúng nồi, vật thưởng văng tứ tung, bên ngoái quần hùng ào vào lượm sạch. Người chơi tháo vải mắt ra, tẻn tò chẳng thấy món quà của mình!

      Vui nhất là mục đọc thơ, mà tôi còn nhớ mãi đến giờ… Gồm bốn hàng, mỗi hàng có bốn bạn xếp đứng dọc cách nhau khoảng hai mét, bốn bạn cuối chụm đầu chú ý nghe thầy Sản đọc bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, thơ hán nôm mới ác liệt. Giọng của thầy là giọng rặc một địa phương miền Bắc, chứ không phải nhẹ như âm ngữ của Hà Nội, có lẽ thầy cố ý đọc khó nghe. Thầy đọc ba lần, các bạn vội đi nhanh đến người đứng trước mình, kề mỏ vô lỗ tai bạn nhóp nhép (sợ kẻ địch copy), đến phiên bạn cuối cùng thì bước lên bàn chủ tọa, viết vào giấy trình thầy. Sau đó bài thơ của mỗi hàng được tuần tư đọc lên. Sai tùm lum, mới đó đã tam sao thất bổn, sai lời mà cũng sai ý, khiến cứ mỗi bài đều có tiếng cười rộn rã.
      Riêng một bài tôi còn nhớ loáng thoáng, mà khi gặp chị Trân cũng có nhắc lại, đại ý như sau:
“ Bà Hạnh thì thầm gọi Ông Đức,
Chiều nay đúng bảy giờ tại Ngã Ba Ông Cảnh
Bà Nhan lãi bãi kêu dì Bảy đi bắt ghen ”
(Tuấn ơi chớ giận nghe, nhắc lại chuyện vui của trường mình thôi)

***
 
      Xem trên hình các Thầy Cô, thấy có cô Hương khiến tôi nhớ lại một chuyện không hay: Khi cô Hương mới vào dạy lớp Đệ ngũ, trong giờ cô dạy Hóa, cô gọi một bạn tên BH lên bảng viết phản ứng hóa học. Có lẽ trong lòng bạn này chê cô mới dạy, nên có phản ứng bằng cách viết công thức với nét chữ thiệt to trên bảng. Bạn nào cùng lớp còn trên đời này hoặc tình cờ đọc được chuyện này, nên thông cảm và tha thứ cho bạn BH, bởi sau đó cô Hương đã khóc, và cuối năm đó không thấy bạn BH nữa.
      Tôi đọc lại một câu cuối bài thơ lục bát, học từ những năm lớp Đồng Ấu:
      Những phường bội bạc sau nầy ra chi?
      Hiện giờ tôi cũng chẳng ra chi trong cuộc sống, có lẽ tôi cũng phạm điều bội bạc nào đó mà tôi không biết?
      Thỉnh cầu ơn trên cho chúng tôi được rõ những điều bội bạc mà tôi vô tình gây khổ cho người khác..........

Trương Văn Phú