Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Trời Mưa Cali


Thơ: Phạm Tín An Ninh
Thơ Tranh: Kim Oanh

Cuộc Rong Chơi


Xin giấu chua cay, xẻ ngọt bùi
Đường đời còn được mấy ngày vui?
Dẫu sa lệ tủi, đừng ôm hận
Lỡ nhận tình phai, chớ trách người!
Lòng tựa lá vàng trong bão tố
Thân như thuyền nhỏ giữa trùng khơi
Thảng hoặc gió yên và biển lặng
Êm đềm tận hưởng cuộc rong chơi.

Phương Hà

Em Dáng Xưa




Ai vẫn âm thầm mơ dáng xưa!?
Chiều thu lối cũ gió giao mùa
Phương trời cách biệt hồn thu chết
Từ độ thu về một nỗi riêng

Lỗi hẹn đôi tim chuyện chúng mình
Chôn vùi hồi ức bụi thời gian
Ngổn ngang nhung nhớ dần phai nhạt
Tiếng khóc bạc lòng vơi đớn đau

Bước vội tìm nhau để mất nhau
Bài thơ dĩ vãng của hôm nào
Hương thu áo não tình thu chết
Mộng dệt khung sầu những tái tê

Mỗi độ thu về một nỗi riêng
Làm sao chôn chặt lấp ưu phiền
Chiều thu lối cũ còn mong mỏi!?
Thầm hỏi ai chờ em dáng xưa

Kim Phượng


Ai Trộm Xâu Chuỗi




Có một ngôi chùa, nhân vì thờ một sợi chuỗi Phật Tổ từng đeo mà nổi tiếng.
Nơi thờ phụng sợi chuỗi chỉ có thầy trụ trì và 7 đệ tử biết.

Bảy người đệ tử đều rất có ngộ tính, thầy trụ trì cảm thấy tương lai đem y bát truyền cho bất kỳ người nào trong bọn họ, đều có thể làm rạng rỡ Phật Pháp. Không ngờ, sợi chuỗi đột nhiên biến mất.
Thầy trụ trì bèn hỏi 7 đệ tử: “Các ngươi ai đã lấy sợi chuỗi, chỉ cần trả về vị trí cũ, ta sẽ không truy cứu,
Phật tổ cũng không trách tội.” Các đệ tử đều lắc đầu.

Bảy ngày trôi qua, sợi chuỗi vẫn không được trả về. Thầy trụ trì lại nói: ”Chỉ cần ai đó thừa nhận,
sợi chuỗi sẽ thuộc về người đó.“ Lại trải qua 7 ngày, vẫn không ai thừa nhận.
Thầy trụ trì rất thất vọng: “Ngày mai các người hãy rời khỏi chùa xuống núi hết đi, riêng kẻ đã lấy sợi chuỗi ta cho phép ở lại đây.“
Qua ngày hôm sau, 6 đệ tử thu dọn xong hành lý, thở nhẹ một hơi dài, nhẹ nhàng ra đi. Chỉ có một người ở lại.
Thầy trụ trì hỏi đệ tử ở lại :
– Sợi chuỗi đâu ?
– Con không lấy.
– Vậy tại sao chịu mang lấy tiếng trộm cắp?
– Mấy ngày nay các huynh đệ đều nghi ngờ lẫn nhau, nếu có người đứng ra, mới giải thoát cho chuyện này.
Lại nói:
– Sợi chuỗi tuy mất , Phật vẫn còn đây.
Thầy trụ trì cười, lấy sợi chuỗi từ tay áo mình ra, đeo vào tay người đệ tử.

Đây là câu chuyện làm tôi cảm ngộ rất lâu.
Không phải mọi việc đều cần nói rõ ràng, cái quan trọng hơn nói rõ ràng đó là: có thể gánh vác, có thể hành động,có thể hóa giải, có thể sắp xếp, có thể thay đổi, nghĩ về mình, càng phải nghĩ cho người khác, đây chính là Pháp.
Người hiểu bạn, không cần phải giải thích, người không hiểu bạn, giải thích cũng vô ích.
Đây không chỉ là một loại cảnh giới mà hơn hết là một loại đại trí huệ.

Yên Đỗ sưu tầm


Tháng Sáu Trời Mưa



Tháng Sáu trời mưa chẳng suốt ngày
Mà ly rượu cạn vẫn tràn say
Cơn mưa bất chợt đi rồi đến
Giấc ngủ không dài những phút ngây.

Mưa cứ rứt ray tận cõi lòng
Hết còn đợi đếm hoặc chờ đong
Mưa rơi mưa vẫn rơi từng hạt
Phương ấy môi xưa có nhạt hồng?

Canh lụn dần tàn hạt vắng rơi
Im lìm thức giấc mắt ngơ rồi
Tiếng gió giao mùa lùa qua cửa
Nỗi buồn ngấm lạnh nỗi đơn côi.

Còn lại gì không những sắc mầu
Một đời thất bại xót niềm đau
Lời thơ khắc khoải từng con chữ
Từng khối vận lòng tiếp nối nhau.

Nguyễn Đắc Thắng
20150622

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Tình Quê


Thơ: Cao Linh Tử
Thơ Tranh: Kim Oanh

Tôn Nữ


Cành vàng lá ngọc ánh trân châu
Hồng phấn, xiêm y, vọng nguyệt lầu
Tôn nữ mơ màng vườn thượng uyển
Âm thầm đãi hến bến Vân Lâu

Lê Kim Thành

Mộng Đường Thi


Mộng Đường Thi
(Xướng - NĐT)

Gom từ, góp vận - ngỡ là thơ
Lụy cả đò xưa lẫn bến chờ
Những tưởng ươm nồng câu ước thệ
Hay còn sưởi ấm chuyện hoài mơ
Vô tình khổ độc càng áo não
Ngộ nhỡ thanh trùng luống ngẩn ngơ
Nhọc lử chân trần tơ vẫn rối
Đường Thi - cõi mộng, tít xa bờ


TiCa Nguyễn Xuân Hòa
July 4th, 2015
***
Mộng Đường Thi
(Họa - NĐT)

Lạc cả cung đàn trĩu ý thơ
Sầu dâng quãng vắng, thẹn sông chờ
Chừng như nét chữ se hoài vọng
Hoặc giã câu vần tủi ước mơ
Giục kẻ quan hà tim mãi luyến
Xui người lữ thứ dạ càng ngơ
Nghìn năm dễ mấy lần tương ngộ
Chợt tỉnh, Đường Thi đã khuất bờ

Tú_Yên
(10.7.2015)

Nắng Đồng Quê


"Chiều đi bán nắng xong tay
Chợ về đủng đỉnh sum vầy hoàng hôn"
(Hoa Đất)

Có một cơn mưa giữa lòng phố thị
Từ lưng chừng trời phơi phới rụng êm
Nhưng dạt dào như hóa đá trái tim
Để u uất đi tìm ngày tháng cũ.

Nghe tiếng gió thét gào như dã thú
Luồng qua song xâm chiếm mảnh hồn đơn
Giọt sương nào còn đọng lại đầu non
Khi nắng chiều chứa chan niềm u uất.

Em dấu mình từ mịt mùng xa khuất
Rừng lá ẩn mình chờ dịp hồi sinh
Ta xa nhau đã mấy chục mùa Xuân
Dấu tâm sự bần thần trong nỗi nhớ.

Sáng hôm nay anh về qua phố chợ
Nắng lung linh hong hơi thở nặng nề
Em ở đâu ? Bao giờ em trở về ?
Cho mùa xuân - nắng đồng quê ngập lối.


Dương Hồng Thủy 


Hai Giòng Sông Lạ



Giòng sông như mạch con tim
Của em bình thản chảy êm hài hoà
Của tôi sóng cuộn bình sa
In người xõa bóng một tà dương say
Mạch tim dồn dập tháng ngày
Giòng sông hừng hực dấu ai chợt về
Xin ôm chiếc bóng đam mê
Tưởng chừng cọ sát bốn bề giác quan
Chiều rơi . Mặc kệ! Chiều tàn
Sóng xô xát tim bàng hoàng phù sa
Hương em bồi lấp trời ngà
Vòng tay cuồng đỗ chảy oà mênh mông

Hoài Tử

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

Thành Kính Phân Ưu Cùng Gia Đình Anh Trần Việt Hải & Tang Quyến




Trang Blog Long Hồ Vĩnh Long, vừa được tin buồn Cụ Bà Trần Phước Dũ, Pháp Danh Phổ Liên Trì là Thân Mẫu của anh Trần Việt Hải, đã mãn phần tại West Hills Cali, Hoa Kỳ.
Toàn thể anh chị em Long Hồ Vĩnh Long Thành Kính Phân Ưu cùng anh Việt Hải, Chị Hoa và tang quyến.
Thiết tha nguyện cầu Hương Linh cụ bà Trần Phước Dũ, Nhũ danh Lâm Thị Bích, Pháp danh Phổ Liên Trì được an nghỉ thảnh thơi và sớm về Cõi Niết Bàn.

Thành Kính 

Anh chị em Blog Long Hồ Vĩnh Long 

Thơ Tranh: Tình Thu


Thơ: Quên Đi
Thơ Tranh: Kim Oanh

Nga


Nga nầy, Chúng mình yêu nhau rồi phải không? 
Sao mỗi lần vắng em, anh lại hiu hắt lòng, 
Và mỗi lần vắng anh, em thấy buồn mênh mông... 
Chúng mình yêu nhau từ ngày tháng mấy? 
Có phải từ một đêm mùa Xuân trở mình thức dậy? 
Có phải từ một trưa mùa Đông nghe gió heo may? 
Có phải từ một sáng mùa Thu mây giăng đầu ngỏ? 
Có phải từ một tối mùa Hè đom đóm thi nhau bay?
Chúng mình gọi tên nhau Từng ngày, từng buổi... 
Đi bên nhau mà lạnh hơn trời Đông... 
Có phải tình mình không đủ ấm? 
Hay còn những gì cách ngăn???

Lincoln, Nebraska 1986 

Mặc Thái Thủy

Mời Em Về - Việt Dzũng

Ở xứ người ai cũng nhớ quê hương, nhớ ruộng đồng làng quê, nơi ấy có bà mẹ già mái tóc đã bạc, luôn trông chờ bước chân con mình trở về trong vòng tay yêu thương. Tất cả hình ảnh ấy, tôi muốn cùng em về chốn đó để trải lòng yêu thương quê mẹ. Thời gian có lúc tưởng không bao giờ về lại được quê hương yêu.


Sáng Tác: Việt Dzũng
Ca Sĩ: Khánh Hà
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình


Dòng Sông


Con người triết lý với dòng sông,
Thác đổ non cao nước trắng vòng.
Thạch nhũ nước nguồn qua núi thẳm,
Tro bùn  ngòi lạch độ vôi nồng.
Lá vàng lũ cuốn theo dòng suối,
Lụt lội phù sa chảy thẳng đồng.
Đất lở bên bồi thêm cửa biển,
Ai ơi! Gẫm lại thấy mênh mông...


Mai Xuân Thanh
Ngày 07 tháng 06 năm 2015

Đành Vậy Thôi


      Sau hai mùa hè "Bỏ Lửa" tôi không được mặc áo long bào để ra trước sân ngồi, nghe chim hót, hít thở không khí trong lành vào buổi sáng sớm mỗi Chủ Nhật như thường lệ. Tôi phải giải thích về hai chữ "Bỏ Lửa", bởi vì chỉ có ba tháng mùa hè tôi mới được ra ngoài để tìm lại những giọt nắng như lửa đốt của cái thời lăng xăng không sợ nắng.
Bây giờ thì trốn lạnh, tránh mưa. Cho nên đối với tôi ánh nắng rất là hiếm hoi mà bây giờ tôi đã có dịp để hưởng thụ nó.
     Vậy mà "Lực Bất Tòng Tâm". Sau hai mùa hè tôi lặng lẽ bùi ngùi trong cung điện , âm thầm hát bài "Hai Năm Tình Lận Đận" không thể ra ngoài chỉ vì "Long Thể Bất An". Sáng nay mới thấy bầu trời rộng hơn, tươi mát hơn và dĩ nhiên ánh mắt của tôi được nhìn xa hơn.

     Đang miên man nhìn những làn mây trắng lơ lửng trên trời, tôi thả hồn lan man để nhớ về cái thuở rong chơi ngày nào. Tuy nhiên, tôi vẫn phải gật đầu bật cười trả lễ khi có người hỏi han. Dầu sao thì cũng đã hai năm mới trở lại trước sân nhà ... cũng có bạn mới, bạn cũ chào hỏi mình.
     Tôi thấy xa xa chiếc xe hơi thân quen của người bạn đến để giúp đỡ tôi đi nhà thờ. Gặp nhau thật là vui mừng, tôi phải vận dụng hết tất cả vốn liếng để trả lời và nói chuyện với người bạn không cùng ngôn ngữ này. Có lẽ vì đã thân quen từ lâu cho nên rất hiểu ý nhau , nếu tôi có một vài câu (thiếu chữ) thì người bạn cũng gật đầu. Sau một lúc hàn huyên tâm sự thì chiếc xe Express Metro Bus đến đậu trước cổng , thế là tôi lái chiếc xe của mình ra ngoài đường để lên xe bus đi đến nhà thờ . Vẫn thường lệ như những năm về trước tôi gài số de để lên (ram bus) nâng xe tôi vào trong xe bus.
     Tài xế mới, cho nên ông muốn giúp tôi đưa chiếc xe đến chỗ an toàn để buộc dây nhưng với tôi sau 15 năm kinh nghiệm ...Tôi xoay vòng chiếc xe rất là ngoạn mục dễ dàng. Người tài xế xít xoa khen mãi và người bạn của tôi cũng nói "Amazing!!! ".
     Sau một hồi cột dây an toàn, chiếc xe bus lăn bánh đưa tôi đi trên con đường quen thuộc mà hai năm qua tôi đã lỡ bỏ quên .

    Nhìn hai hàng cây bên đường dường như đang rung lá đón chào tôi. Trên mặt đường cũng có lúc gập ghềnh nên thân mình tôi có dịp chao qua chao lại.
Chiếc xe ngừng đã đến nhà thờ. Tôi lại một lần nữa biểu diễn xuống ram bus rất là điệu nghệ, không một chút sơ sót .
      Ông tài xế chào tôi. Tôi cũng cám ơn & chúc lành đến ông và hẹn gặp lại ông ngày khác.
Tôi đến nhà thờ trước giờ lễ 15' để gặp lại những người đã quen, mới quen. Họ đến chào hỏi với những nụ cười thân thiện. Tôi cũng lấy hết sức mình để gật đầu chào hỏi như mọi lần. Sau khi tan lễ, tôi trở về nhà ...lúc này mới chính là giây phút ngọt ngào của tôi.

      Vừa về tới nhà ...cái nóng mùa hè nó nóng hừng hực, gió thổi mà tôi phải chịu đựng hít vào muốn nghẹt thở luôn . Người bạn và người tài xế khác cũng phải lắc đầu "too hot !!!". Tôi chào tạm biệt người bạn đã đồng hành với tôi buổi sáng đi nhà thờ rồi lái xe vào qua 3 cánh cửa kiên cố.
      Bây giờ tôi phải chờ tới giờ ăn trưa, ăn xong rồi cũng phải chờ "Mỹ Nữ" đưa trở về long sàn.
     Đây mới là những giờ phút thê thảm nhất của ông vua không ngai này, bởi vì những ngày thường tôi thức dậy lên ghế ngồi khoảng 11:00 sáng cho đến 2:00 trưa. Sáng Chủ Nhật hôm nay tôi phải thức từ 8:00 sáng, có nghiã là ngồi trên ghế gấp đôi giờ qui định và buổi sáng lúc ngồi trên xe bus còn phải chịu đựng đong đưa khi chiếc xe quẹo trái, quẹo phải là cả một khối thịt của tôi phải nghiêng theo chiều gió.

     Các bạn của tôi ơi, không phải tôi viết ra để đánh động lòng trắc ẩn hay lo lắng của các bạn mà tôi viết cũng như là đang tâm sự với chính mình, gửi cho những người bạn thân quen để tường trình một buổi sáng Chủ Nhật tôi đi đến nhà thờ như thế nào, bằng cách nào vì tôi biết có những người bạn chỉ hiểu là tôi đi nhà thờ nhưng không hiểu làm sao để được đi.
     Dù lắm mệt mỏi hay có nhiều vấn đề khó khăn, nhiêu khê trong đó... nhưng trong tâm hồn tôi đã có một mùa hè đỏ lửa (không bỏ lửa) để hơ ấm lại ba mùa Xuân Thu Đông mà tôi cũng tìm lại được bản thân mình trong lúc ngồi xem lễ nghe cha giảng, được rước Mình Thánh Chúa ...
     Bao nhiêu đó đã làm tan biến được những điều mà tôi đã nghĩ "không có thể" giờ đã được thành "có thể".

      Một vài hàng tâm sự đến với những người bạn thân thương lúc nào cũng lo nghĩ, quan tâm.
Nếu tôi có gặp phải những điều gì không như ý trong cuộc sống thì buổi sáng sau khi đi nhà thờ về ... tôi cảm thấy an bình trong tâm linh.
     Còn nếu tôi không được: "Mỹ Nữ" săn sóc kỹ lưỡng , giúp đỡ hay trễ giờ ngự long sàn. Có mệt mỏi đôi chút thì ... cũng đành thôi.

Virginia, Chủ Nhật ngày 14/06/2015
Đỗ Hữu Tài

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Thành Kính Phân Ưu Cùng Gia Đình Bân Hồng Điệp Và Tang Quyến


Chúng tôi vừa được tin buồn Cụ Bà Phạm Thị Huỳnh-Pháp danh Diệu Niệm, là Thân Mẫu của Hồng Điệp, Cựu học sinh Tống Phước Hiệp, niên khoá 1962-1969 đã mãn phần.

- Bà sinh năm 1929
- Mất ngày 07-07-2015 nhằm ngày 22-05 năm Ất Mùi.
- Lúc 7g45
- Tại 439 Phan Văn Trị, Phường 7, Quận 5, Sài Gòn
- Hưởng thọ 87 tuổi.

Tang lễ cử hành tại Chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh, Sài Gòn
- Động quan lúc 2h ngày 09-07.
- Hỏa táng tại Bình Hưng Hoà, Sài Gòn
Chúng tôi xin Thành Kính chia buồn cùng bạn Hồng Điệp và Tang quyến. 
Nguyện cầu cho Hương Linh Cụ Bà Phạm Thị Huỳnh-Pháp danh Diệu Niệm sớm về Cõi Vĩnh  Hằng.
Đồng Kính Phân Ưu

Bùi Thị Ngọc Điệp
Lê Ngọc Điệp
Hoàng Thị Thơ
Lê Thị Kim Phượng
Hoàng Xuân Khải
Huỳnh Hữu Đức

Thơ Tranh: Bến Đỗ - Cầu Ơn Trên - Đò Ngang Trở Về

1/ Bến Đỗ - Kim Phượng


2/ Cầu Ơn Trên - Dương Hồng Thủy


3/Đò Ngang Trở Về - Kim Oanh


Thơ Tranh: An Nguyen

Đêm Trăn Trở


Bài Xướng:
Làn Thu gợi nhớ mắt em xanh
Tha thiết trong tim một mối tình.
Đêm chửa vào mơ đang dỗ giấc
Gối chưa đắm mộng đã tàn canh.
Tha phương lạc lỏng đời ly khách
Viễn xứ bơ vơ gót độc hành.
Bên ngọn đèn khuya sầu lẻ bóng
Đàn lòng ta khảy khúc vô thanh.


Los Gatos đêm 5/4/2015
Quang Tuấn
***
Bài Họa:Ly Khách

Lầu sông cảnh cũ nước trời xanh
Quán lạnh về đây khóc mối tình
Dằn dặt chinh nhân sầu mấy độ
Não nùng tiếng cuốc hận năm canh
Đèn khuya thao thức hồn ly khách
Gà sáng giục mau bước lữ hành
Ngán ngẫm gió thu chiều buốt giá
Một mình một ngựa ruổi trăng thanh 

Mailoc
Cali 5-4-15
  

Sắc Thu Màu Nhớ


Tình yêu như lá thu rơi
Xót xa k niệm một thời đã yêu
Thương chi lắm tiếc chi nhiều
Trăm năm rồi cũng theo chiều gió lay!
Em đi ôm mộng bao ngày
Anh về mang kiếp đọa đày thiên thu.

Biện Công Danh
* Hình phụ bản của tác giả chụp

Hà Hoàng Cựu Tốt 河湟舊卒 - Trương Kiều

Để nối tiếp theo cái hào khí " Túy ngọa sa trường " của Vương Hàn, TRƯƠNG KIỀU cũng người của thời Vãn Đường nói lên cái vô tình tàn khốc của chiến tranh bằng một bài tứ tuyệt thật đơn sơ bình dị mà dễ làm xúc động lòng người ! Xin mời đọc bài HÀ HOÀNG CỰU TỐT...




河湟舊卒                 HÀ HOÀNG CỰU TỐT
少年隨將討河湟, Thiếu niên tùy tướng thảo hà hoàng,
頭白時清返故鄉。 Đầu bạch thời thanh phản cố hương.
十萬漢軍零落盡, Thập vạn Hán quân linh lạc tận,
獨吹邊曲向殘陽。 Độc xuy biên khúc hướng tàn dương !

張喬                         Trương Kiều

TRƯƠNG KIỀU, thi nhân đời Tàn Đường, không rõ năm sanh năm mất, tự là Bá Thiên, người đất Trì Châu ( thuộc huyên Quí Trì, tỉnh An Huy hiện nay ). Khoảng giữa năm Hàm Thông ( 860-874 ) đậu Tiến Sĩ, sống ở đất Trường An, cùng với Hứa Đường, Trịnh Cốc... xưng là HÀM THÔNG THẬP TRIẾT. Khi loạn Hoàng Sào, ông ẩn cư ở Cửu Hoa Sơn và mất ở nơi đó. Ông làm thơ giản dị nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người, thiên về Ngũ Ngôn Luật Thi. Trong TOÀN ĐƯỜNG THI còn lưu lại 2 quyển thơ của Ông.

CHÚ THÍCH:
1. HÀ HOÀNG 河湟 : là sông Hoàng Thủy, phát nguồn từ tỉnh Thanh Hải, chảy về đông đổ vào sông Hoàng Hà ra biển. Hà Hoàng trong thơ chỉ vùng đất Lũng Tây do Thổ Phồn chiếm giữ từ thời Đường Túc Tôn, bao gồm Qua Châu, Y Châu... mười châu quận luôn chìm ngập trong khói lửa chiến tranh do hai bên Hán Hồ luân phiên cát cứ ròng rã suốt cả trăm năm, dân chúng sống trong cảnh điêu linh đồ thán.
2. CỰU TỐT : Cựu là Cũ, Tốt là Con Chốt, là Lính. CỰU TỐT là Người lính cũ, là Cựu Chiến Binh.
3. THẢO : là Thảo Phạt, từ chỉ nước lớn đem binh đi đánh nước nhỏ, hoặc đi dẹp loạn.
4. THỜI THANH : Thời cuộc trở nên thanh bình, không còn giặc giã nữa. THẬP VẠN : Mười Vạn là Một Trăm Ngàn.
5. LINH LẠC : Do Thành ngữ THẤT LINH BÁT LẠC 七零八落 Có nghĩa như " Thất Điên Bát Đão " để chỉ thua trận, " Tơi Bời Hoa Lá " nếu dùng để chỉ cỏ cây, " Ba Chìm Bảy Nổi " nếu dùng để chỉ hoàn cảnh....Nói theo bình dân Thất Linh Bát Lạc là Xất Bất Xang Bang !
6. ĐỘC : là Đơn độc có một mình. XUY ; là Thổi ( Tiêu, hoặc Sáo ).
7. BIÊN KHÚC: là Những khúc nhạc ngoài biên cương được thổi bằng Tiêu hoặc Sáo.
8. TÀN DƯƠNG: là Ánh nắng tàn của buổi chiều tà.


Dịch Nghĩa:
Khi còn trẻ ta đã theo các tướng đi đánh giặc ở đất Hà Hoàng. Kịp đến lúc thanh bình thì đầu đã bạc mới được về lại cố hương. Mười vạn quân lính của người Hán khi xưa giờ đã tan tác gần hết (may mà ta còn sống sót). Một thân đơn độc ta cảm khái mà thổi lên khúc sáo của vùng biên tái trong ánh nắng chiều tàn thoi thóp!

Diễn Nôm:

Người Cựu Chiến Binh Đất Hoàng Hà

Trẻ đi đánh trận ở Hà Hoàng,
Đầu bạc mới về lại xóm làng.
Mười vạn Hán binh tan tác hết,
Một mình thổi sáo lúc chiều tàn!
Trẻ đi đánh giặc Hà Hoàng,


Lục bát:

Thanh bình đầu bạc về làng lang thang.
Trăm ngàn quân Hán tan hoang,
Một mình thổi sáo chiều tàn biên khu!

                                                  
Đỗ Chiêu Đức
***
Người Lính Cũ Ở Hà Hoàng

Trẻ theo quan dẹp giặc Hà Hoàng 
Đầu bạc khi yên trở lại làng 
Mười vạn Hán quân tan rã hết 
Một mình thổi sáo ngắm chiều hoang 

Mailoc
***
Cựu Chiến Binh Về Vườn

Lệnh đi dẹp loạn ở Hà Hoàng,
Đầu bạc về làng giặc giả tan.
Lính Hán trăm ngàn phơi chiến địa,
Một mình thổi sáo lạnh chiều hoang...

Mai Xuân Thanh
Ngày 27 tháng 04 năm 2015


Thanh Bảo Kiếm Của Việt Vương Câu Tiễn

Năm mươi năm trước, một bảo kiếm được tìm thấy trong một ngôi mộ ở Trung Quốc. Mặc dù đã hơn 2.000 tuổi, thanh kiếm của Việt Vương Câu Tiễn này không có một dấu vết của sự rỉ sét.


Kiếm của Câu Tiễn. (Liu Tao/Flickr)

Lưỡi kiếm đã làm đứt tay một nhà khảo cổ học khi dùng ngón tay kiểm tra độ bén của nó, hầu như nó không bị thời gian tác động. Bên cạnh chất lượng kỳ lạ, tài nghệ thủ công cũng được thể hiện rất chi tiết trên thanh kiếm từ hàng nghìn năm trước. Thanh kiếm được xem như một kho báu ở Trung Quốc ngày nay, nó như một huyền thoại đối với người Trung Quốc cũng như thanh kiếm huyền thoại của vua Arthur ở phương Tây.

Năm 1965, các nhà khảo cổ học đang tiến hành một cuộc khảo sát ở tỉnh Hồ Bắc, chỉ 7 km ( 4cm) từ đống đổ nát của Tế Nam, kinh đô nhà Chu, họ phát hiện ra năm 50 ngôi mộ cổ. Trong quá trình khai quật lăng mộ, các nhà nghiên cứu đã khai quật được thanh kiếm của Câu Tiễn cùng với 2.000 hiện vật khác.

Khai quật kiếm của Câu Tiễn
Theo trưởng nhóm khảo cổ chịu trách nhiệm về việc khai quật, nó đã được phát hiện trong một ngôi mộ, trong một hộp gỗ kín khí bên cạnh một bộ xương. Nhóm nghiên cứu đã kinh ngạc trước thanh kiếm bằng đồng hoàn toàn nguyên vẹn với bao kiếm được gỡ ra từ chiếc hộp. Khi thanh kiếm được rút ra khỏi vỏ, người ta thấy lưỡi kiếm không hề bị gỉ mặc dù bị chôn trong điều kiện ẩm trong hai thiên niên kỷ. Một thử nghiệm được các nhà khảo cổ học tiến hành cho thấy lưỡi kiếm có thể dễ dàng cắt một chồng hai mươi miếng giấy.


Kiếm của Câu Tiễn, Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc 

Thanh kiếm của Câu Tiễn là một trong những thanh kiếm sớm nhất được biết đến và là kiếm hai lưỡi sử dụng trong suốt 2.500 năm qua ở Trung Quốc. Kiếm hai lưỡi là một kiếm sớm nhất tại Trung Quốc và nó có sự liên kết chặt chẽ với thần thoại Trung Quốc. Trong dân gian Trung Quốc, nó được gọi là “Vương giả trong các loại binh khí” và là một trong bốn loại binh khí lớn cùng với côn, thương, và đao.

Kiếm của Câu Tiễn tương đối ngắn khi so sánh với các thanh kiếm lịch sử tương tự, nó là một thanh kiếm đồng với hàm lượng đồng cao, có thể uốn cong và rất khó gãy. Các cạnh được làm bằng thiếc sẽ cứng hơn và duy trì được độ sắc bén.
Ngoài ra còn có một lượng nhỏ chất sắt, chì và lưu huỳnh trong thanh kiếm, và nghiên cứu cho thấy có một lượng cao lưu huỳnh và hợp chất của lưu huỳnh và đồng, thứ làm cho thanh kiếm không bị gỉ. Hình thoi đen được khắc hai bên mặt của lưỡi kiếm, men màu xanh và màu lam bao lấy chuôi kiếm. Chuôi kiếm được bọc trong lụa và núm chuôi kiếm gồm 11 vòng tròn đồng tâm gộp lại. Thanh kiếm dài 55,7 cm (21,9 inch), bao gồm 8,4 cm (3,3 inch) cán kiếm, và lưỡi kiếm rộng 4,6 cm (1,8 inch). Nó nặng 875 gram (30,9 aoxơ).


Có thể thấy màu lam ngọc bao bọc lấy tay cầm kiềm (Wikimedia Commons)

Giải mã các dòng chữ
Trên một mặt của lưỡi kiếm, hai cột văn bản gồm tám chữ, nằm gần chuôi kiếm, chúng là chữ viết thời Trung Quốc cổ đại. Chữ viết “鸟虫文” (nghĩa từng chữ là “điểu trùng văn”) được trang trí phức tạp với các nét xác định, và là một biến thể của chữ zhuan rất  khó đọc. Phân tích ban đầu đã giải mã sáu trong tám ký tự. Ký tự “越王” (Việt Vương) và “自作用剑” (thanh kiếm sử dụng cho cá nhân). Hai chữ còn lại có khả năng là tên của nhà vua.



Giải mã các chữ trên thanh kiếm của Việt Vương (Wikipedia)

Từ khi vương triều sáng lập vào năm 510 TCN đến khi sụp đổ rơi vào tay nhà Chu vào năm 334 TCN, có chín vị vua trị vì nước Việt, gồm cả Câu Tiễn, Lộc Dĩnh, Bất Thọ, Chu Câu, và những người khác. Danh tính của vị vua sở hữu thanh kiếm làm dấy lên cuộc tranh luận của các nhà khảo cổ học và học giả ngôn ngữ Trung Quốc. Sau hơn hai tháng, các chuyên gia đi đến đồng thuận rằng chủ sở hữu ban đầu của thanh kiếm là Câu Tiễn (496-465 TCN), điều này làm cho thanh kiếm có tuổi lên đến 2.500 năm.
Các nhà phân tích đã phân tích những mảnh đồng cổ với hy vọng tìm kiếm ra một cách để tái tạo công nghệ chế tạo ra thanh kiếm này. Họ tìm ra rằng thanh kiếm không bị oxy hóa là do lớp …. bọc trên bề mặt thanh kiếm. Điều này, kết hợp với một vỏ bao kiếm vừa khít giúp cho thanh kiếm huyền thoại này bảo tồn được tình trạng nguyên sơ như vậy.
Những thử nghiệm cũng cho thấy rằng những thợ rèn kiếm trong vùng đất của nhà Ngô và Việt ở miền Nam Trung Quốc trong thời Xuân Thu đã đến một mức độ cao trong kỹ thuật luyện kim, hốc thể kết hợp các hợp kim không gỉ vào lưỡi kiếm, giúp chúng tồn tại qua thời gian mà không có tì vết. Thanh kiếm được Bảo tàng Cung điện Quốc gia tại Đài Bắc mượn, nơi nó được trưng bày cho đến hết năm 2011, cùng với các miếng đồng khác từ cuộc khai quật. Nó hiện đang thuộc sở hữu của Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc.
Thanh Phong, dịch từ Ancient Origins


Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm

Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

Gọt Xoài Hợp Vệ Sinh Và Mỹ Thuật



Mời nhấp vào Link xem:  Gọt Xoài Họp Vệ Sinh và Mỹ Thuật

Hoàng Trần sưu tầm

Le Murmure Du Vent - Gió Thì Thầm

                
                       

Le murmure du vent                              Gió thì thầm bên tai 
apporte le chant                                    Mang tiếng ca u hoài 
des terres                                              Từ những miền  xa vắng,
lointaines                                               Xao xuyến ngập hồn ai!
Le murmure du vent                             Trong tiếng gió thì thầm 
apporte le chant                                   Mang về bao dư âm 
d’un pays lointain                                Từ nơi đâu vô định 
incertain                                               Bay về một chử “ tâm “!
Il va                                                      Qua ruộng đồng bao la  
de plaine en plaine                               Gió thì thầm thiết tha 
apaisant                                                Đem tình thương gieo khắp 
toute peine                                            Lau mắt ai lệ nhòa!
Le murmure du vent                             Gió thì thầm vi vu 
apporte le chant                                   Buồn như tiếng hát ru  
d’un pays lointain                                Từ một nơi xa  lắm 
 incertain                                              Trong sương khói mịt mù!
Bertrand Sachs                                   Mailoc phỏng tác     
***  
Các bài Phỏng Dịch khác:

Gió Thì Thầm

Vẳng nghe tiếng gió thì thầm
Mang theo lời hát chứa ngầm bi ai
Xuyến xao hồn lụy khóc vay
Từ xa xôi lắm có hay tất lòng

Gió đưa tha thiết ruộng đồng
Gieo mầm thương nhớ mênh mông khắp miền
Thì thầm gió gợi u phiền
Xa ru nức nở triền miên nỗi sầu

Gió ơi! Gió hát từ đâu
Có nghe tâm sự xót đau chốn này?


Kim Oanh phỏng dịch
5/7/2015
***
 Lời Thì Thầm Của Gió

Vẳng trong cơn gió từ xa
Thì thầm tiếng hát lời ca dạt dào
Hỏi rằng gió tận phương nao
Dịu dàng mang đến biết bao nhiêu tình
Gió ơi sao mãi lặng thinh
Thì ra tiếng tự lòng mình vọng vang.

Quên Đi dịch 
  

Thì Thầm Tiếng Gió


 Gió thì thầm bên tai
 Mang tiếng ca u hoài
 Từ những miền xa vắng, 
Xao xuyến ngập hồn ai!

 Trong tiếng gió thì thầm
 Mang về bao dư âm
 Từ nơi đâu vô định
 Bay về một chữ "tâm"!

 Qua ruộng đồng bao la
 Gió thì thầm thiết tha
 Đem tình thương gieo khắp
 Lau mắt ai lệ nhòa!

 Gió thì thầm vi vu
 Buồn như tiếng hát ru
 Từ một nơi xa lắm
 Trong sương khói mịt mù!

 Mailoc 
***
Cảm Tác: Thì Thầm Tiếng Gió

Gió thì thầm cùng thơ
Thơm hương cánh đồng mơ
Hạ sang hoa phượng vĩ
Tình đẹp buổi ban sơ!

Gió thì thầm với sông
Thương hoa tím bềnh bồng
Ngược xuôi theo dòng chảy
Ra biển đời mênh mông....

Gió thì thầm cùng cây
Nắng hiu hắt thềm tây
Vườn chiều hoa khép cánh
La đà chiếc lá bay....

Gió thì thầm đêm nay
Trăng non say... ngủ say
Mây tầng hợp tan hợp
Lặng lẽ bóng thuyền ai!

Yên Dạ Thảo
05/07/2015

Thì Thầm Bên Tai


Vẳng nghe tiếng gió thì thầm
Mang theo lời hát chứa ngầm bi ai
Xuyến xao hồn lụy khóc vay
Từ xa xôi lắm có hay nỗi lòng
Gió đưa tha thiết ruộng đồng
Gieo mầm thương nhớ mênh mông khắp miền
Thì thầm gió gợi u phiền
Xa ru nức nở triền miên nỗi sầu

Gió ơi! Gió hát từ đâu
Có nghe tâm sự xót đau chốn này?

Kim Oanh phỏng dịch


5/7/2015
***
Thì Thầm Bên Tai

(Từ thơ phỏng dịch của Kim Oanh qua " Le Murmure du Vent ")

Gió ru thoang thoảng thì thầm,
Lời êm rót mật nghe lầm tưởng ai.
Người sao khóc mướn thương vay.
Khéo mau nước mắt đổi thay nỗi lòng.
Gió mây xanh ngát ruộng đồng,
Chồng cày vợ cấy bến sông đôi miền.
Mùa khô hạn hán ưu phiền,
Heo may rớt giọt, triền miên u sầu.
Trưa nồng gió mát về đâu,
Bâng khuâng niềm nhớ đêm thâu chốn này...

Mai Xuân Thanh
Ngày 07 tháng 07 năm 2015

Mùa Thu Nhớ Nấm

(Vigeland-Park-Statue-Bridge-Oslo-Autumn)
Mùa thu ở Na-uy có những ngày trời đầy sương và mây mù nhưng cũng có những ngày trời trong như thủy tinh, nắng vàng như hổ phách. Lá cây bắt đầu nhuốm vàng, ửng đỏ rực rỡ trên sườn núi, dưới chân đồi. Mùa thu tô vẽ thiên nhiên thành bức tranh tuyệt mỹ. Mùa thu cũng là mùa của những cuộc đi dạo chơi trong rừng; mùa của dâu, của nấm.

Vào những ngày cuối tuần trời đẹp, con đường dẫn vào rừng tấp nập người đi. Kẻ chạy bộ, người thong thả dắt chó dạo chơi; người mang giỏ, kẻ xách xô đi hái dâu, hái nấm. Rừng ở đây là rừng thông bao la, bát ngát, thỉnh thoảng chen vào vài cây phong, cây bạch dương. Thông mọc không dày lắm nên trong rừng khô ráo và sáng sủa. Dưới bóng những cây thông già cao vút là thảm rêu xanh mịn màng, là những con đường mòn quanh co, những bụi dâu rừng mọc san sát, trái đơm đầy cành. Rất nhiều loại dâu.Từ loại dâu tím, trái tròn bằng mút đũa, thân thấp, lá nhỏ, vị ngọt ngọt chua chua đến loại dâu đỏ ngọt thanh, mỗi trái gồm nhiều trái nhỏ kết thành. Đó đây, trên thảm rêu, mọc rải rác hoặc xúm xít những tai nấm. Có bao nhiêu là loại nấm, nấm độc, nấm lành, nấm ngon, nấm dở.

( Amanita muscaria)
Loại nấm độc dễ nhận ra nhất là nấm thuốc ruồi(amanita muscaria).Thân nấm trắng muốt, nón nấm màu đỏ rực rỡ có điểm thêm mấy chấm tròn trắng xinh đẹp, trông xa giống như chiếc dù đỏ lấm tấm hoa. Nấm này hái về ngâm với sữa, ruồi nhặng đậu vào sữa sẽ chết ngay, người ăn phải sẽ bị hư thận. Loại nấm ngon dễ nhận ra nhất là nấm mồng gà (cantharellus). Nấm có hình dáng giống như chiếc mồng gà, màu vàng nghệ. Nấm này rất thơm ngon, có nhiều vào giữa mùa thu. Cuối thu, vào lúc trời chuyền lạnh và sắp đổ tuyết, một loại nấm khác (cantharellus tubeaformis) xuất hiện. Nấm này màu nâu nhạt, thân mảnh, nón mỏng, chóp nấm hũng xuống như hình cái phễu, mọc thành từng đám nổi bật trên thảm rêu xanh. Đôi khi màu nâu của nó lẫn lộn với màu lá khô. Đây là loại nấm rất ngon, có thể hái được rất nhiều, phơi khô để dành ăn quanh năm.

Một loại nấm ngon khác là nấm nâu(boletus edulis). Thân nấm thấp, rất to ở gốc, nón nấm thật dày, tròn trịa, màu nâu hồng. Nấm khói (lycoperdon) màu trắng, thân và nón dính liền nhau, thịt nấm mềm như đậu hũ; khi nấm sắp tàn, ruột nấm biến thành chất bụi đen. Nấm này không ngon lắm.

(Boletus edulis)
Trong vườn hoặc trên những cánh đồng cũng có vài loại nấm ăn được khác. Như nấm mật ong màu vàng (armillariella mellea) mọc từng chùm trên thân cây bạch dương mục; nấm mực (corprinus comatus) màu trắng,mọc từng đám trên đồng cỏ, khi nấm tàn rụi hóa đen như mực. Hai loại nấm này ăn ngon không khác gì nấm rơm.

Ngoài ra còn bao nhiêu loại nấm khác đủ màu sắc như ngàn hoa kỳ bí trổ ra từ đất, tô điểm cho những cánh rừng mùa thu. Rừng ở đây như một góc vườn địa đàng còn sót lại cho con người tìm tới, một góc thiên nhiên êm đềm để ai cũng có thể đến đó nghỉ ngơi. Ở đây có sẵn bao nhiêu là tặng phẩm của thiên nhiên: tiếng gió rì rào, tiếng suối róc rách, tiếng chim véo von, thỉnh thoảng có tiếng leng keng từ những chiếc lục lạc đeo trên cổ bò, vẳng đưa trong gió…. Vào đây, con người trờ nên thân thiện hơn. Hai người lạ gặp nhau ngoài phố, thường không ai chào hỏi ai, nhưng trên con đường rừng người ta thường tặng cho nhau những nụ cười và những lời chào hỏi. Người nọ có thể hồn nhiên mở giỏ khoe với người kia những loại nấm mình vừa hái được và trao đổi với nhau những kiến thức về nấm.

Một lần người bạn cùng đi rừng hái nấm với tôi lắng tai nghe tiếng gió thu thổi lao xao trong những vòm lá thông, hỏi tôi có nhớ gió nâm mối ở quê nhà. Ôi! Gió nấm mối, làm sao tôi có thể quên được. Vào khoảng tháng năm ở quê nhà, một hôm chợt nghe tiếng gió thổi rao rao ngoài vườn. Gió thổi về dây từ phương bắc hay phương nam mà nghe rao rao rất lạ tai. Tháng năm trời nắng nhẹ với nhũng cơn mưa nhỏ đầu mùa. Mưa xuống rồi nắng lên. Gió, mưa và nắng như thế để từ đất, nơi gần những gò mối trong vườn, nứt ra môt loài nấm.

(Nấm Mối)
Mối là một loại côn trùng nhỏ, thân trắng và mềm, miệng cứng và khỏe, có thể gậm được cả gỗ.. Mối rất thích ăn sách vỡ, áo quần. Ở nhà quê, nếu làm nhà bằng những loại gỗ tạp như so đũa, tre, mít, xoài thì thỉnh thoảng phải kiểm soát xem cột kèo có bị mối ăn. Sách vỡ, áo quần đưng trong rương cây cũng phải trông chừng. Nếu không chỉ cần một đêm, mối gậm rào rào là mọi thứ thành hư nát. Mối xây nhà trong đất, làm thành những ổ mối, có khi cao đến cả thước, bên trong vô số ngăn và hàng triệu con mối sinh hoạt rộn ràng. Như loài kiến, mối cũng có mối chúa, mối thợ. Mối lấy đất làm ổ nên quanh ổ mối, đất thường rỗng chân. Nhiều khi đang đi trên đường, bỗng đất dưới chân bị sụp thành lỗ hổng, nhìn xuống thấy bao nhiêu là con mối đang bò nhốn nháo. Chỗ lỗ hổng như vậy chỉ qua đêm là mối lại đùn đất lấp lại.

Nấm mối thường mọc ở cạnh những gò mối lâu năm. Cứ vào mùa nấm, mỗi khi nghe tiếng gió rao rao, trời chợt mưa xuống nắng lên, ra vườn tìm đến những chổ từng có nấm mọc những mùa trước, thường là gặp được nấm. Đôi khi nấm mọc lên ở những chỗ mới. có thể là trong bụi tre, bên bụi chuối, trên đường đi, có khi ngay cả trong góc nhà.

Đi quanh quẩn trong vườn tìm nấm, gặp được đã là điều thích thú, ai cũng ham. Nhưng còn gì vui mừng bằng nhiều lúc đang đi trên đường, nhìn xuống chợt thấy một vạt nấm mối đang nằm sẵn đơi chờ. May mắn thì gặp được nấm đúng cỡ, có khi gặp nấm sắp tàn hoặc vừa mới nhú khỏi mặt đất. Gặp nấp quá búp như vậy chỉ có cách chờ hôm sau trở lại sau khi đã khéo léo dùng là khô phủ lên mong người khác đừng thấy. Đang ngồi hái nấm cũng rất là hồi hộp vì nếu có người đi qua ,người đó có thể tự nhiên ngồi xuống hái. Không ai có thể xí phần đối với của trời cho này. Người đi đường thấy nấm mọc trong vườn nhà người khác cũng có thể vào hái, chủ vườn bắt gặp cũng không rầy rà chi.

Nấm mối có chóp nón nhọn màu xám nhạt, thân trắng và mập mạp, cắm sâu vào đất. Khi hái nên dùng dao để đào lên cả phần chân nấm vì phần này rất ngon và dòn, khi nấm còn búp. Đây là loại nấm ngon nhất, vị ngọt, hương thơm ngào ngạt, nhất là khi đem nấu canh hoặc xào với nước cốt dừa. Nấm mối cũng rất ngon nếu đem kho mắm, làm nhân bánh xèo.


Không phải ai cũng hưởng được cá thú hái nấm mối hay nếm qua nấm mối vì loại này hơi hiếm, chỉ mọc vài ngày trong năm, hiếm khi thấy bán ở chợ. Một loại nấm khác cũng ngon mà dễ mua hơn là nấm rơm. Nấm rơm thiên nhiên thường mọc dưới chân những cây rơm; hoặc được gieo trồng với meo nấm ủ trong những líp chất rơm. Với meo nấm, chỉ cần một diện tích ủ rơm nho nhỏ cũng thu hoạch được nhiều nấm. Nấm rơm có thân mập hơn nấm mối và nón nấm tròn; lúc còn búp, nấm được bọc trong một màng bao tròn trịa. Nấm búp ăn rất ngon, đem nấu canh với hẹ là một món thanh cảnh tuyệt vời.

Nấm mèo hay mục nhỉ là là loại nấm được dùng trong nhiều món ăn. Nấm này không có phần thân, tai nấm màu nâu nhạt,mọc xoắn xít trên những thân gỗ mục. Những cây cầu ở nhà quê bắc ngang mương lạch thường dùng cây so đũa. Vào mùa mưa, nấm mèo hay mọc trên những chiếc cầu này, hoặc trên những gốc sung, gốc vông mục. Nấm mèo cũng trồng được nhiều và dễ dàng với meo nấm bán sẵn.. Nấm đông cô cũng vậy. Loại nấm hiếm quí như nấm linh chi chỉ tìm thấy ở một vài vùng rừng núi. Ở Pháp có loại nấm truffel mọc sâu dưới mặt đất hàng nửa thước, phải dùng heo đi ngửi để tìm ra và đào đất lấy lên

(Nấm Mèo)
Trong thiên nhiên có bao nhiêu là loại nấm. Nấm có đời sống ngắn ngủi, mọc lên âm thầm ở một góc vườn, một xó rừng, trong vài ngày rồi tàn rụi; để lại những bào tử để mùa sau lại mọc, lại tàn. Những mùa nấm mối ở quê nhà ngày xưa, những mùa thu ở Na-uy vào rừng hái nấm bây giờ…Ở đâu và thời nào cũng có những niềm vui nho nhỏ để người ta sống với và nhớ về.

Khánh Hà

Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

Thành Kính Phân Ưu Thân Mẫu Của Chị Nhung Lê Quang Vừa Mãn Phần Tại Vĩnh Long


Chúng tôi vừa hay tin Cụ Bà  Bà Maria Vũ Thị Huê là Thân Mẫu của chị Nhung Lê Quang đã được Chúa gọi về.
Ngày 08-7-2015, nhằm 23-5- Năm Ất Mùi.
Lúc 7g25
Hưởng thọ 91 tuổi.
Lễ an táng lúc 4 giờ ngày 10-7-2015 nhằm 25-5 Ất Mùi 
Tại Đất Thánh Tân Ngãi - Vĩnh Long, Việt Nam
Xin Chúa nâng đỡ gia đình Chị Nhung, trong lúc đau buồn này.
Xin Chúa nhân từ đón nhận Linh Hồn Cụ Bà Maria Vũ Thị Huê sớm hưởng Nhan Thánh Chúa.

Cùng Hiệp Nguyện:

Bùi Thi Ngọc Điệp
Hoàng Thị Thơ 
Lê Ngọc Điệp
Nguyễn Thị Ngọc Sương, 
PhạmThanh Xuân
Huỳnh Hữu Đức
Lê Thị Kim Phượng
Lê Kim Hiệp
Lê Thị Kim Oanh

Cựu Giáo Sư & Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp, Lớp B1 - Niên Khóa 1962

1-Cao Khải, 2-Kim Minh, 3-Phước, 4-Ban, 5- Bảy Hoàng, 6-Kỳ Duyên, 8-MaiVăn Kỷ
9-Quách Văn Thiện, 10-Lộc, 11-Phạm Hồng Thoại, 12-Chị Kim Anh, 13-Chị Ba Secour 

Hoàng Trần

Phố Chiều - Hoàng Thi Thơ

Buổi chiều một mình trên phố chợt ngắm những tà áo dài tung bay theo gió, đẹp biết bao. Mong tìm được một bóng hồng với chiếc áo dài tha thướt để có niềm hạnh phúc, để không khỏi lạc loài một mình trong chiều mưa và để không lạc lối về . . .


Sáng Tác: Hoàng Thi Thơ
Ca Sĩ: Thanh Thúy
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Chiều Thu


Chiều thu hong mảnh nắng vàng 
Trời hong mấy mảnh thời gian nhọc nhằn
Anh hong mảnh gấp băn khoăn
Em hong mảnh vá vết hằn lòng anh.

Chiều thu ngọn gió lay mành 
Hoàng hôn lay mảnh trăng thanh đêm dài
Tình em lay bóng đêm say
Gió mang hương mát để lay đêm buồn.

Chiều thu nhỏ giọt mưa tuôn
Giọt rơi thềm vắng giọt luồn vào tim
Giọt lăn theo vết chân chim
Giọt chui vào núp lòng em dỗi hờn.

Chiều thu hong sợi nhớ thương
Sợi dài sợi vắn sợi vương mắt chờ
Sợi len vào cuốn vận thơ
Sợi say mộng đẹp giấc mơ an lành.

Nguyễn Đắc Thắng
20150708

Lời Đó Còn Đây


Hạ nóng nung nồng bao nỗi nhớ:
Những lần ba tháng tạm xa trường
Rời thầy cách bạn luyến lưu thương
Bâng quơ sợ chia tay vĩnh viễn.

Háo hức hết hè quay lại lớp
Vui khi bè bạn trở về đây
Còn người ấy chẳng thấy sum vầy
Để có dịp tôi trao lời định nói.

Lời đó còn đây, còn mãi mãi
Thời gian thêm óng ánh long lanh
Là tình kết nụ rất chân thành
Mong gởi em ngày nào gặp lại.

Anh Tú
July 7, 2015

Dừng Bước




Kính mến gửi chị Vi Khuê

Cho tôi được buổi trở về thăm lại 
Những con đường tiền kiếp đã đi qua 
Từ vô thỉ, đường gian truân khổ ải 
Đêm kéo dài đầy bóng quỷ hình ma.

Cho tôi thấy đứng trên bao ngả rẽ 
Tâm tròn trăng treo sáng 
Đỉnh Thiên Thu Từ lâu mệt vì chính tay mình vẽ 
Những vườn hoa, những lăng miếu, lao tù...

Trên ác đạo ngát nụ cười hỷ xả 
Sương dịu lành, hơi mát tỏa lâng lâng 
Địa ngục, thiên đường ta chủ trương tất cả 
Chính là ta, tác nhân cũng nạn nhân.


Hồ Trường An

Báu Vật Quốc Gia 32 Vẻ Đẹp Tượng Phật Đồng Dương

 Tượng Phật Đồng Dương nặng 120 kg tìm thấy cách đây đúng 100 năm (vào 1911) tại Đồng Dương (Quảng Nam), hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Sagon là tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu cho kỹ thuật đúc đồng tinh xảo kết hợp với nghệ thuật tạo hình do nền văn hóa Chăm Pa để lại.


Tượng cao 119 cm, chỗ rộng nhất 38 cm, chỗ dày nhất 38 cm, đứng trên một bệ tròn hai tầng có tạc hình các cánh sen bao quanh. Phần trên của bệ là khối bán cầu ở thế ngửa lên. Phần dưới bệ lớn hơn, cũng hình tròn như miệng chuông úp xuống.

Bệ và toàn thân tượng đồng được đóng chặt vào nhau bởi những chiếc mộng đặt dưới lòng đôi bàn chân bằng phẳng. Đôi bàn chân này của tượng thể hiện tướng tốt đầu tiên trong “tam thập nhị tướng” (32 tướng) của Phật là chấm sát đất và khít khao với mặt phẳng của đất đến nỗi “cây kim cũng không thể lọt qua”. Từ chân tượng trở lên, thể hiện diệu tướng thứ 17 của Phật là: hai tay, hai chân, hai mắt và giữa cổ (có khắc 3 ngấn chìm) gộp lại thành “7 chỗ đầy đặn”. Vai bên phải để trần thể hiện tướng thứ 21: tròn và đẹp. Lên chút nữa là gương mặt tượng thể hiện tướng thứ 25 với hai má phẳng và rộng như sư tử chúa; đúng theo kinh chép: khi Phật mở miệng thuyết pháp ví như tiếng “sư tử hống” làm tắt tất cả âm thanh của mọi loài trong rừng (tướng âm thanh Phạm thiên).


Mắt Phật Đồng Dương không nhắm hẳn lại, mà đang mở nhìn, thể hiện diệu tướng thứ 29 là đôi mắt đẹp như cánh hoa sen xanh. Giữa trán có khắc một vòng tròn tiêu biểu cho tướng thứ 32 mang tên “bạch hào”, tức tướng lông trắng xóa và trong sạch như bọt nước đứng yên trên ngọn triều cường. Đáng lưu ý, các nghệ sĩ Chăm Pa đã thể hiện một tướng hết sức tôn nghiêm nằm ở vị trí cao nhất của tượng Phật Đồng Dương là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu với một cục u nổi lên giữa búi tóc cuộn quanh. Sa môn Huệ Thiện cùng đi với chúng tôi đến Bảo tàng Lịch sử TP.HCM để chiêm ngưỡng tượng đã giải thích: “Đây là tướng mà bất cứ nhà nghiên cứu mỹ thuật nào hoặc nhà điêu khắc tượng Phật nào từ xưa đến nay cũng đều cần biết đến để bắt tay chế tác hoặc giới thiệu cho thật chính xác. Tướng này có hình một khối thịt tức là “nhục”, nổi cao lên như một búi tóc tức là “kế”, gọi là “nhục kế”, được tựu thành và xuất hiện trên đỉnh đầu Phật do nhân duyên bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và khai mở trí huệ trong nhiều kiếp. Hào quang của Phật Thích ca đã phóng xuất từ đỉnh đầu đó trước khi đọc thần chú Lăng Nghiêm. Ngoài tượng Đồng Dương này, các tượng Phật khác thể hiện diệu tướng “nhục kế” theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn căn cứ vào kinh Quán Phật tam muội để khảm thêm lên tượng một viên đá quý màu hồng, hoặc tô hồng ở khoảng không có tóc ở trước đảnh đầu, hoặc đặt một viên kim cương to tròn đa sắc để biểu hiện tướng ấy”.


Nếu nhìn từ trước mặt tượng và để tâm quan sát sẽ thấy toàn thân tượng Đồng Dương thể hiện vẻ đẹp của một loạt ba diệu tướng khác, gồm tướng thứ 14 và 15: thân kim sắc (ánh sắc vàng) có sức tỏa hào quang minh tịnh - và tướng thứ 16: da mịn trơn bóng như hoa sen buổi sớm, dầu cho cuồng phong thổi mạnh khiến núi đá lăn lóc va chạm vào nhau vỡ nát thành bụi thì không một hạt bụi nào có thể dính được vào thân kim sắc ấy.

Tượng do Viện Viễn Đông Bác Cổ đăng ký với số hiệu D22.1 và từng được ghi nhận qua: Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême Orient, Bulletin de la commission archéologique de l’Indochine, cũng như các ấn phẩm giới thiệu hiện vật Việt Nam trưng bày ở nước ngoài. Đã có đông đảo các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới như Ananda Coomaraswamy, Douglas Barret, Pierre Dupont, Alecxander Griswold, Diran Kavrk Dohanian, Jean Boisselier, Ulrich von Schroeder quan tâm tìm hiểu về nguồn gốc và giá trị của tượng. Tượng đã từng được đưa đi trưng bày ở Mỹ, Pháp, Áo, Bỉ với giá bảo hiểm ở mức 5 triệu USD.

Giao Hưởng 
Tống Ngọc Nhan sưu tầm