Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

Xóm Nhỏ Chờ Ai


Xóm nhỏ mờ xa vắng lam chiều
Núi rừng vây phủ nét đìu hiu
Giữa trời lộng gió nhiều sương lạnh
Quạnh nhớ năm xưa cũng chốn này

Vui buồn ấp ủ chín từng mây
Thời trai phiêu bạt gây thương nhớ
Vở kịch đời khoe sắc vạn hương
Đường trở lại xóm buồn vắng bếp

Xếp tàn y quên lãng điều gì
Thâm tình đợi năm dài khổ lụy
Có còn chi nát mãnh sơn hà
Nhà không bếp lam chiều vắng bóng

Xóm nhỏ ơi! Lòng này ân hận
Hứa cận kề gợi giấc mơ xưa
Thiêng đàng cũ đưa người về lại
Lạnh mưa chiều thực tại ấm êm

Đếm Thu qua....lòng già nuối tiếc
Hẹn đêm ngày trồng riết rừng mai
Dựng lại bếp hồng xưa sưởi ấm
Tâm tình lữ khách vướng chiều lam!

Tương lai xóm nhỏ rời ảm đạm
Cảm ơn đời! Tình cũ trời ban!

Pleiku 21-8-2010
Lê Kim Hiệp

Lời Viên Sỏi


Lời hứa như viên sỏi ném ra sông
Từ trọng tâm xoay tròn lăn tăn sóng
Tợ chiếc nhẫn đính hôn chẳng có gút
Thì đời mình không có lúc rời nhau

Nhưng vòng xoáy loang xa xa rộng mãi
Không đứt ngang mà mờ nhạt theo dòng
Viên sỏi chìm nghỉm dưới đáy bám rong
Đôi mắt lệch nên mong gì ai thấy

Nước lớn nước ròng sỏi nằm yên đấy
Người ném đi làm khuấy cả đại dương
Vô vàn xáo động bao nỗi tổn thương
Trả một giá mà ta không tưởng tượng

Kim Oanh

Thơ Tranh: Hạt Cát

Cảm tác từ Lời Viên Sỏi của Kim Oanh

Thơ: Dương Hồng Thủy
Thơ Tranh: Kim Oanh


Sơn Hành 山行 - Đỗ Mục

          山行                        Sơn Hành
                  杜牧                             Đỗ Mục 
遠上寒山石徑斜,    Viễn thướng hàn sơn thạch kính tà,
白雲生處有人家。     Bạch vân sanh xứ hữu nhân gia.
停車坐愛楓林晚,     Đình xa toạ ái phong lâm vãn,
霜葉紅於二月花。     Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.

Dịch Nghĩa : Đi Đường Núi

Núi lạnh đi lên theo đường nhỏ đá thoai thoải
Nơi vùng mây trắng này lại có nhà ai
Vì thích cảnh chiều của rừng phong nên dừng xe ngồi ngắm
Đẫm sương lá trở nên màu đỏ như những bông hoa vào tháng hai.

Dịch Thơ: 


           Đi Đường Núi
(1)
Núi dốc đường mòn đá lạnh vây 
Trong mây thấp thoáng mái tranh gầy 
Dừng xe chiều ngắm rừng phong quạnh 
Sương nhuộm lá hồng vượt tháng Hai 
                                          Mailoc
(2)
Núi đá lạnh , chênh vênh đường dốc 
Mây lững lờ một nóc nhà ai.
Rừng phong dừng ngắm chiều phai 
Nhuộm sương lá đỏ tháng Hai hoa nhường 
                                              Mailoc

        Đi Đường Núi
Núi lạnh men theo đường đá dốc
Nơi vùng mây trắng thoáng nhà ai
Dừng xe say ngắm rừng phong xế
Lá đẫm sương dường hoa tháng Hai.

                              Quên Đi


                 Lên Núi
Đường lên núi lạnh triền thoai thoải
Mây trắng từ xa hiện mái nhà
Dừng xe ngắm cảnh chiều buông xuống 
Lá đẫm sương hồng tựa sắc hoa
Nguyễn ĐắcThắng  phỏng dịch

      Đi Trên Đường Núi
Xa tít núi cao lối đá bày,
Nhà ai thấp thoáng dưới mây bay.
Dừng xe ngắm rừng phong chiều xuống,
Lá đỏ còn hơn hoa tháng Hai!
                               Đỗ Chiêu Đức  

        Đường Lên Núi
Núi đá đường lên dốc thoải xa
Trong mây ẩn hiện một ngôi nhà
Rừng phong hiu quanh ,dừng xe ngắm
Sương lá đỏ màu tựa đoá hoa.
                               Song Quang

       Đi Đường Núi 
Con dốc núi phà hơi thở lạnh
Trắng mây trời ẩn hiện nhà ai
Rừng phong bóng xế dừng xe ngắm
Lá ngậm sương dường hoa tháng Hai
                              Kim Phượng

              Lên Núi
Nghiêng nghiêng đường lên núi lạnh
Trong mây thấp thoáng nhà ai.
Rừng phong trời chiều sương đẫm,

Đỏ như hoa thắm tháng Hai! 
                    Phương Hà phỏng dịch


            Lên Núi
Đi lên núi lạnh đường mòn
Nhà ai mây trắng gió luồn thong dong
Dừng xe chiều ngắm rừng phong
Đẫm sương lá đỏ như hồng tháng Hai
                                           Trầm Vân

Bệnh và Lỗi Trong Thơ Đường Luật - Phần 1

 Đường xưa gấm lụa Tiền Nhân trải
Lối mới chông mô Hậu Thế bày.
                                      Quên Đi

Thơ Đường Luật chỉ với 5 qui tắc : Vần, Luật Bằng Trắc (Thanh ), Niêm, Đối Ngẫu, Bố Cục, đã khiến cho người làm thơ phải khó khăn khi làm được một bài không phạm 5 qui tắc này. Cũng chính vì sự khó khăn của Chính Luật, nên chúng ta được thừa hưởng Kim Bài miễn tội, đó là "Nhất Tam Ngũ Bất Luận, Nhị Tứ Lục Phân Minh".
Thế nhưng trong thời gian gần đây, lưu truyền đầy dẫy trên mạng Internet những bài viết về "Bệnh và Lỗi Trong Thơ Đường Luật". Giờ có thêm tôi chắc cũng không làm cho mọi chuyện rối hơn lên.
Qua những gì đã đọc, tôi thấy có nhiều điều rất quen, có cái như quen mà lạ, có cái như lạ mà quen, cũng như không ít cái mới mẻ so với những gì mình học hỏi từ thuở trước.


 Bệnh Trong Thơ Đường Luật
 

Thơ Đường Luật là một thể thơ gây nhiều khó khăn nhất cho người tập làm thơ.
Ðể giúp cho người làm thơ khỏi lạc đường và tới đích mau chóng, các học giả Trung Hoa đã soạn nhiều bộ Thi Vận Tập Thành, thường gọi là sách Quan vận, là Vận thư. Ðời Tùy có sách Thiết Vận; đời Ðường có sách Ðường vận, Quảng Vận; đời Tống theo những bộ sách đời trước, soạn ra bộ Lễ Bộ Vận Lược, được triều đình dùng làm chữ an tắc cho thi vận trong việc khảo thí. Các đời sau cũng theo gương đời Tống, soạn ra những sách Quan vận mới. Nhà Nguyên có sách Trung Nguyên Âm Vận; nhà Thanh có sách Bội Văn Vận Phủ; Trung Hoa dân quốc có Trung Hoa Tân Vận ...Sách Trung Hoa Tân Vận chưa được đem ra áp dụng . Ðược thông dụng nhất là Bội Văn Vận Phủ.
Nước Việt Nam chưa có sách Quan vận. Các cụ ngày xưa đều dùng sách Tàu khi làm thơ chữ Nôm cũng như khi làm thơ chữ Hán.
Thầy  Dương Quảng Hàm có viết trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu:

"Thơ nôm ta làm theo phép tắc thơ Tàu, mà âm thanh tiếng ta cũng tương tự tiếng Tàu (cũng là thứ tiếng đơn âm và cũng chia làm tiếng bằng tiếng trắc). nên thi pháp của ta tức là thi pháp của Tàu và các niêm luật của thơ ta cũng phỏng theo thơ Tàu cả . Trong lối thơ Đường luật, có năm điều này phải xét 1) Vần; 2) Đối ngẫu; 3) Thanh; 4) Niêm; 5) Cách Bố cục "

Mãi đến thập niên 40 của thế kỷ 20 trở lại đây, vấn đề Thi Bệnh được các nhà Thơ Việt Nam đem ra bàn tán và mổ sẻ sôi nổi. Trong đó đáng chú ý nhất là quan điểm của Nhà thơ Quách Tấn.
 

Vậy Thi Bệnh là gì?
Theo cách nghĩ của các thi nhân từ xưa, Thi Bệnh là những khuyết điểm khi xướng lên sẽ làm bài thơ mất hay.
Người đầu tiên đề xướng là Thẩm Ước ( 441-513 ) sống vào thời Nam Bắc Triều (420-589), trước đời Nhà Tuỳ bên Tàu.  Ông đã đề xướng thuyết Tứ Thanh Bát Bệnh áp dụng cho các thể thơ Cổ Thể (những thể thơ có trước Thơ Đường  Luật ).


Tứ Thanh Bát Bệnh có nghĩa là những lỗi về âm thanh, khi đọc hay ngâm nga bài thơ nghe không hay hoặc chói tai. Mỗi Thanh có hai Bệnh :

1. Bình Đầu - Thượng Vỹ
2. Phong Yêu - Hạc Tất
3. Chánh Nữu - Bàng Nữu
4. Đại Vận - Tiểu Vận

Sau khi Thẩm Ước đề xướng thuyết Tứ Thanh Bát Bệnh, Thi sĩ hưởng ứng rất sôi nổi. Các Thi Nhân thời Sơ Đường dựa vào thuyết Tứ Thanh Bát Bệnh này bổ sung và dần hoàn chỉnh Luật Bằng Trắc, Luật Niêm trong Đường Luật Thi. Các thế hệ thi nhân đã hoàn chỉnh và ngày nay chúng ta đang sử dụng.


Ở Việt Nam từ những thập niên đầu của thế kỷ 20 trở về trước, các nhà thơ không quan tâm đến thi bệnh. Chỉ mãi đến thập niên 30-40 trở lại đây, thi bệnh được quan tâm rất kỹ. Hiện nay, đối với Thi Bệnh trong Thơ Đường Luật, mỗi người mỗi ý, có người cho là có 8 bệnh , có người 14 bệnh, cũng có người 17 bệnh, lại có người đề ra 34 bệnh...
Nhưng tất cả các bệnh mà các nhà Thơ Việt đưa thêm vào cũng chỉ là đào sâu vào Thanh (luật Bằng Trắc), Niêm và Vận, vì cả 3 quy tắc này trong Đường Luật đều liên quan đến Thanh âm.
Nhìn chung, những bệnh trong Thơ Đường Luật được đề cập nhiều chỉ
là 8 bệnh như của Thẩm Ước mà thôi.
 

8 Bệnh trong Thơ Đường Luật
 

1 - Bình Đầu : có nghĩa là bằng nhau ở đầu câu, 3 chữ đầu câu của 4 câu liên tiếp cùng tự loại như danh từ, động từ...
2 - Thượng Vỹ : Đuôi cao lên, 3 chữ cuối hoặc 3 chữ thứ 5 của 4 câu liên tiếp cùng tự loại
3 - Phong Yêu : eo con Ong, chữ thứ 2 và chữ thứ 7 trong cùng một câu cùng thanh(dấu)
4 - Hạc Tất : đầu gối chim Hạc, chữ thứ 4 và 7 trong cùng một câu cùng thanh (dấu)
5 - Chánh Nữu : phạm lỗi này khi trong 1 câu có 3 chữ
có phụ âm hay nguyên âm đầu giống nhau. Ngoại trừ các chữ láy, ghép.
6 - Bàng Nữu: trong 4 câu liên tiếp có từ 4 chữ 
có phụ âm hay nguyên âm đầu giống nhau  .Ngoại trừ các chữ láy, ghép.
7 - Đại Vận : Chữ thứ 4 và 7 trong cùng một câu trùng vần với nhau
8 - Tiểu Vận
: Chữ thứ 2 và 7 trong cùng một câu trùng vần với nhau.


Thí dụ : Qua Đèo Ngang là một bài thơ rất nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan,dựa vào 8 Bệnh của  Thơ Đường Luật, chúng ta thử xem bài thơ này có bao nhiêu Bệnh:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
- Bệnh Bình Đầu : Chữ đầu câu của 4 câu cuối có 3 chữ Nhớ-Thương-Dừng cùng tự loại là Động từ

- Bệnh Thượng Vỹ
: Chữ cuối 4 câu trên có 3 chữ Hoa-Chú-Nhà cùng là danh từ

- Bệnh Phong Yêu
: ở câu 2 có chữ CâyHoa cùng dấu thanh. Câu 5 có chữ NướcQuốc cùng dấu thanh 


- Bệnh Hạc Tất : Câu 3 có chữ thứ 4 và chữ thứ 7 cùng dấu thanh. Câu 8 cũng thế.

- Bệnh Chánh Nữu :
Câu cuối có 3 chữ cùng phụ âm t

- Bệnh Bàng Nữu
: ở 4 câu cuối bị bệnh này,  5 chữ mang cùng phụ âm đầu là 5 chữ t và 4 chữ m, 5 chữ n

- Bệnh Đại Vận
: câu thứ 2 có chữ thứ 4 là đá chữ thứ 7 là hoa trùng vần

- Bệnh Tiểu Vận
:  Câu thứ 6 có chữ thứ 2 là nhà và chữ thứ 7 là gia trùng vần.



Giờ chúng ta thử đến với bài "Đón Tết" của cụ Tú "Có chăng chừa rượu với chừa chè"

Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu.
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh chưng sắp gói e nồm chảy
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu.
Thôi thế thì thôi đành tết khác,
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo.

- Bệnh Bình Đầu : 4 câu đầu, 4 câu giữa và 4 câu cuối đều mắc phải lỗi vì có danh từ ở đầu câu.

- Bệnh Thượng Vỹ : 4 câu đầu có 3 chữ cuối là động từ : tiêu, quẩy, kiêu.

- Bệnh Phong Yêu : bị lỗi ở câu thứ 4: sen, kiêu  và thứ câu 7: thế, khác

- Bệnh Hạc Tất :lỗi ở câu 2: kho, tiêu.

- Bệnh Chánh Nữu : Câu 7 có  3 phụ âm trở lên  th :
Thôi, thế, thì, thôi

- Bệnh Bàng Nữu : 4 câu cuối cùng phụ âm t : toan, tết, tết, tôi.

Với bài này Cụ Tú Xương nhà ta bị mắc phải 6/8 bịnh.

Chúng ta cùng tiếp tục với thơ của Quách Tấn trong bài " Đêm Tình"
 

Giấc thắm tình duyên non gối nước,
Mán sương để lọt ánh sao băng.
Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió;
Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng.
Muôn điệu tơ lòng run sẽ sẽ,
Nửa vời sóng nhạc giợn lâng lâng.
Phòng hương thương kẻ ngồi nương triện
Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng.


- Bệnh Bình Đầu
:
Chữ đầu câu của 4 câu đầu có 3 chữ trở lên cùng tự loại là danh từ

- Bệnh Thượng Vỹ
: chữ cuối câu của 4 câu
đầu có 3 chữ trở lên cùng tự loại là danh từ. 3 chữ thứ 5 của 4 câu giữa và  4 câu cuối cùng là động từ.


-Bệnh Phong Yêu : Câu 1 thắm - nước; câu 2 sương - băng
- Bệnh Hạc Tất : Câu 4 thơ - trăng
 

- Bệnh Chánh Nữu : Câu 4 có cùng 3 phụ âm h : hồn - hoa - hồn
 

- Bệnh Bàng Nữu : 4 câu cuối có cùng phụ âm l : lòng - lâng - lâng - lệ.     

Như thế, "Đêm Tình" cũng bị 6/8 Bệnh  

Qua mổ xẻ để định bịnh. Một bài thơ hay nổi tiếng Qua Đèo Ngang đã mang trên mình 8/8 bịnh. Bài Thơ của Trần Tế Xương thì bị 6/8 bệnh. Quách Tấn một trong những người đề xướng "Bệnh và Lỗi Trong Thơ Đường Luật" cũng vướng 6/8 Bệnh.
 
Đó là chúng ta mới định bịnh thôi, chưa nói đến trên dưới 10 lỗi trong thơ Đường Luật nữa mà các nhà thơ, nhà nghiên cứu hay học giả của thế hệ chúng ta vạch ra để người làm thơ Đường Luật  phải tránh.

Hết Phần 1

Huỳnh Hữu Đức

Nhấp vào Link: Bệnh Và Lỗi Trong Thơ Đường Luật - Phần 2

Bệnh - Lỗi Trong Thơ Đường Luật Phần 2

Lỗi Trong Thơ Đường Luật

Thế nào là Lỗi Trong Thơ Đường Luật ?
Không biết những vị đưa ra các lỗi trong thơ Đường Luật nghĩ thế nào về Lỗi. Riêng cá nhân tôi: "Những điều làm mất đi nét đặc trưng căn bản của một bài thơ Đường luật mới có thể gọi là lỗi".
 
Cũng giống như Bệnh vậy, giới Nghiên cứu, Thi nhân ngày nay tuy có ý kiến và đưa ra số lượng về lỗi rất nhiều, nhưng chưa xác định hay thống nhất cụ thể là bao nhiêu Lỗi. Mỗi người mỗi ý, không ai hoàn toàn giống ai.
Tôi xin giới thiệu những lỗi có nhiều người nói đến.

12 Lỗi
trong Thơ nên tránh khi làm Thơ Đường luật :
1. Lạc vận
2. Thất Luật
3. Thất niêm
4. Thất đối
5. Khổ độc
6. Điệp thanh
7. Điệp điệu
8. Điệp âm
9. Trùng vận
10. Trùng từ/điệp từ
11. Trùng ý /Hiệp Chưởng
12. Phạm đề/Mạ đề

Trong 12 lỗi trên, có 4 lỗi thuộc về Chính luật mà bất cứ người nào cũng phải giữ: Thất Luật, Thất Niêm, Thất Đối, Trùng Vận.
8 Lỗi còn lại chỉ là mở rộng các lỗi ở Chính Luật mà thôi.

1- Lạc Vận :  Chữ gieo vần ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8 (hay 2, 4, 6, 8, các bài thơ có chữ cuối câu 1 là thanh trắc) không cùng một vần :

Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn
Ðây rằng đây phải, đấy không thua
... 


Chúng ta thấy bài thơ trên không cùng một vần ( u, o, au )

2 - Khổ Độc : Chữ thứ 3 và thứ 5 trong các câu không đúng theo chính luật, thay vì bằng mà thành trắc hay ngược lại:
...
 

Làm chi cho có sự đôi co
Ðấy cậy đấy khôn, đây chẳng nhịn

...
Đúng theo Chính luật, chữ thứ 3 câu trên phải Trắc, nhưng ở đây lại là Bằng (cho). Câu dưới thì ngược lại.   
Như thế, Lỗi Khổ Độc này bắt người làm thơ phải theo Chính Luật, chứ không được Nhất Tam Ngũ Bất Luận.


3 - Lỗi Điệp Thanh : Trong một câu dùng 4 chữ thanh Bằng hoặc thanh Trắc có cùng Dấu Thanh. Như câu bên dưới có 4 chữ cùng Dấu Thanh trong một câu.
...
 

Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
Làm chi cho có sự đôi co
...
 
 4 - Lỗi Điệp Điệu : Đây là lỗi ngắt câu giống nhau. ở 2 hay nhiều câu trong một bài thơ.  

Hồn hoa chợp mộng / thơm hồn gió;
Tóc liễu dừng thơ / đón tóc trăng.
 

Thơ Đường là thể thơ ngắt theo điệu 4-3. Nhất là ở hai cặp Thực và Luận phải đối. Nếu muốn tránh lỗi này chỉ còn cách đối chéo. 

Chân bước vững / đường chiều khấp khểnh
Rừng cây rậm rạp / trúc vươn cao.
 

5 - Lỗi Điệp Âm :  Trong cùng một câu, có hai chữ trùng vần với nhau  

Phòng hương thương kẻ ngồi nương triện
Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng.
 

6 - Lỗi Điệp Từ : Lỗi này hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau . Ý thứ nhất cho rằng, trong một bài thơ, cùng một chữ không được sử dụng 2 lần. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chỉ khi dùng quá 2 lần mới bị Lỗi Điệp Tự. Ý kiến thứ 3 là không hề phạm lỗi.
Trước thời của Quách Tấn, các thi nhân nổi tiếng đều vướng phải lỗi này. Vì sao? Vì tiền nhân không cho đây là lỗi, đó chỉ là cách nhấn mạnh ý, nhắc lại một chủ thể nào đó trong bài thơ. Cũng từ ý tưởng này, Tiền Nhân có thể thơ mang tên Thủ Vỹ Ngâm, câu thứ 1 cũng là câu thứ 8. Như bài thơ "Đón Tết" của Trần Tế Xương .
Quách Tấn là người ủng hộ tránh dùng Điệp Tự vẫn bị lỗi này, như bài "Đêm Tình", ông bị trùng 2 chữ Tình 

Giấc thắm tình duyên non gối nước,
Mán sương để lọt ánh sao băng.
Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió;
Tóc liễu dừng thơ đón tóc trăng.
Muôn điệu tơ lòng run sẽ sẽ,
Nửa vời sóng nhạc giợn lâng lâng.
Phòng hương thương kẻ ngồi nương triện
Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng.
 

7 - Trùng Ý : Ý của câu trên được lập lại ở câu dưới nhất là trong hai cặp Thưc và Luận.

Đánh tan
tục niệm hồi chuông sớm
Gõ vỡ trần gian tiếng mõ trưa

 

Chúng ta thấy các chữ trùng ý trong 2 câu trên : Đánh tan #  Gõ vỡ ; hồi chuông sớm # tiếng mõ trưa.

8 - Phạm Đề : trong hai cặp Thực và Luận có chữ trùng với một trong những chữ của đề bài thơ. 
 Lỗi này có vẻ thừa, vì không hề ảnh hưởng đến
sự hay dở của bài thơ
.

Kết Luận

Thuyết Tứ Thanh Bát Bệnh có trước thơ Đường Luật khá lâu, xuất hiện vào thời Nam Bắc Triều bên Tàu, trước nhà Đường hơn trăm năm. Chính  Thi Luật của Đường Thi đã dựa vào Bát Bệnh này để hoàn chỉnh Luật Thi.
Chúng ta đều biết, riêng Chính Luật của Đường Luật thôi, cũng đã khiến cho mọi người không thể tự do phóng bút để diễn tả ý, mà phải nhờ đến "Nhất Tam Ngũ Bất Luận" mới dễ thở.
Thế nhưng đến ngày nay, rộ lên việc mở rộng Bệnh+Lỗi này để bắt lỗi Thơ Đường Luật của tiền nhân, đồng thời đề xướng làm kim chỉ nam cho những người tập làm thơ Đường Luật. Có phải như thế lại càng khắc khe hơn cả Chính Luật?
Các Thi Nhân của chúng ta, từ thế kỷ 19 trở về trước, chẳng hề quan tâm đến Bệnh - Lỗi , đã để lại cho hậu thế những bài thơ Đường Luật, nếu không tuyệt tác cũng đầy ý vị và sống mãi với thời gian. Nếu Các Vị ấy thấy ngoài Thi Luật có thêm các Bệnh và Lỗi này, chắc chắn các vị sẽ không dám phóng ý đề thơ.
Người Xưa khi làm thơ trọng ý hơn trọng từ. Nên đôi lúc còn phá lệ. Nếu quá chú tâm đến những Bệnh Lỗi, cứ lo gọt giũa, chỉnh, sửa, để né bệnh này tránh lỗi nọ, có thể chúng ta sẽ trở thành người thợ điêu khắc Thơ chăng?
Vì chưa có một qui định rõ rệt hay sự công nhận chính thức có uy tín nào về các "Bệnh và Lỗi Trong Thơ Đường Luật" . Vấn đề hiện đang trong tình trạng mỗi người mỗi ý. Nên "Bệnh và Lỗi" mới chỉ là những quan điểm cá nhân.
Thi Luật trải từ ngàn năm nay, đương nhiên là phải theo. Ai muốn làm thơ theo Chính Luật cộng với "Nhất Tam Ngũ Bất Luận, Nhị Tứ Lục Phân Minh" giống như các bậc Tiền Bối trước đây thì làm. Còn ai muốn có thêm những "Bệnh Lỗi" thì theo. Không ai có thể buộc mọi người làm thơ Đường Luật theo quan điểm riêng của mình.
 

Hết

Huỳnh Hữu Đức

Tài Liệu Tham Khảo
- "Việt Nam Văn Học Sử Yếu" của Dương Quảng Hàm.
- "Thi Pháp Đường Thi" của Quách Tấn.

Nhấp vào Link: Bệnh Và Lỗi Trong Thơ Đường Luật - Phần 1