Thứ Hai, 26 tháng 6, 2023

Giang Thôn 江村 - Đỗ Phủ (Thịnh Đường)

  

Lời phi lộ

Giới sĩ phu Trung Quốc thường ca ngợi nét thanh bạch của mình trong cảnh nghèo.
Thế kỷ thứ 19, các sĩ phu Giao Chỉ cũng bắt chước thái độ ấy; cụ Nguyễn Công Trứ đã viết hai câu này: Ngày ba bữa vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cần no; Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Đỗ Phủ không bao giờ ca ngợi cảnh nghèo. Giang Thôn là một bài đặc biệt nhất.

Nguyên bản Dịch âm

江村             Giang Thôn

清江一曲抱村流 Thanh giang nhất khúc bão thôn lưu,
長夏江村事事幽 Trường hạ giang thôn sự sự u.
自去自來堂上燕 Tự khứ tự lai đường thượng yến,
相親相近水中鷗 Tương thân tương cận thuỷ trung âu.
老妻畫紙為棋局 Lão thê hoạ chỉ vi kỳ cục,
稚子敲針作釣鉤 Trĩ tử xao trâm tác điếu câu.
多病所須惟藥物 Đa bệnh sở tu duy dược vật,
微軀此外更何求 Vi khu thử ngoại cánh hà cầu.

Dịch nghĩa

Xóm bên sông

Một đoạn sông nước trong, chảy quanh xóm
Mùa hè dài, mọi sự trong xóm đều lặng lẽ
Chim én vẫn bay tới bay lui trên nóc nhà
Chim âu trên sông vẫn gần gũi với người
Vợ già vẽ bàn cờ trên giấy
Con trẻ uốn kim làm lưỡi câu cá
Bệnh nhiều chỉ cần có thuốc
Ngoài thuốc ra, thân còm này chẳng cần gì khác


Bài này được làm năm 760, khi tác giả ở Thành Đô.

Dịch thơ

Xóm Bên Sông

Sông xanh một khúc chảy quanh sâu,
Hè nóng nên thôn lặng lẽ sầu.
Mến nóc tới lui luôn có én
Quen người gần gũi vẫn chim âu
Vợ già vẽ mực bàn cờ giấy
Trẻ nít bẻ kim uốn lưỡi câu
Nhiều bệnh thế nên cần có thuốc
Ngoài ra lão mỗ chẳng hề cầu.

Lời bàn

Bài thơ tả cảnh gia đình họ Đỗ sống trong năm 760, vài năm sau loạn An Lộc Sơn, tại một làng ở ven sông: Có 3 thứ đặc điểm này:

Đặc điểm thứ nhất:
Một gia đình gồm ba thế hệ: một cặp vợ chồng quan hưu trí không có nổi một bàn cờ bằng gỗ để bà vợ già phải vẽ bàn cờ trên giấy; mấy đứa cháu nội (cháu ngoại không ở với ông bà) lấy kim uốn thành lưỡi câu (câu cá kiểu này thì cả tháng cũng không thể kiếm được con nào); vợ chồng đứa con trai (không nói trong thơ nhưng ắt có bởi vì có cháu nội sống trong nhà) quanh năm vắng nhà (vì phải kiếm ăn ở ngoài đồng).

Đặc điểm thứ nhì:
Trong nhà chỉ có những súc vật hoang dã như chim âu, chim én (nhà không có gia súc như chó, mèo, gà vịt… vì không thừa cơm để nuôi chúng).

Đặc điểm thứ ba:
Trong nhà luôn luôn có một thứ mà các nhà khác không có: bệnh. Tất nhiên phải cần có thuốc (thuốc mọc hoang trong rừng chứ tiền đâu mà mua).

Chả thấy ông nói tới chữ nghèo nhưng chả có ai nghèo bằng ông.

Con Cò
***
Nguyên Tác: Phiên Âm:

江村- 杜甫 Giang Thôn - Đỗ Phủ

清江一曲抱村流 Thanh giang nhất khúc bão thôn lưu
長夏江村事事幽 Trường hạ giang thôn sự sự u
自去自來堂上燕1.2 Tự khứ tự lai đường thượng yến
相親相近水中鷗 Tương thân tương cận thủy trung âu
老妻畫紙爲碁局3 Lão thê họa chỉ vi kỳ cục
稚子敲鍼作釣鉤 Trĩ tử xao châm tác điếu câu
多病所須唯藥物4 Đa bệnh sở tu duy dược vật
微軀此外更何求5 Vi khu thử ngoại cánh hà cầu

Dị bản:

1 歸 quy thay vì 來lai
2 梁lương thay vì 堂đường
3 成thành thay vì 爲vi
4 但有故人供祿米đãn hữu cố nhân cung lộc mễ thay vì 多病所須唯藥物 đa bệnh sở tu duy dược vật
5 無vô thay vì 何hà

Mộc bản trong sách của Đỗ Phủ chỉ cho dị bản 1 trong câu 3 và dị bản 3 trong câu 5. Tất cả các dị bản là theo mộc bản trong Ngự Định Toàn Đường Thi của Thanh Thánh Tổ Huyền Diệp

Bổ Chú Đỗ Thi - Đường - Đỗ Phủ 補注杜詩-唐-杜甫
Cửu Gia Tập Chú Đỗ Thi - Đường - Đỗ Phủ 九家集注杜詩-唐-杜甫
Văn Uyển Anh Hoa - Tống – Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉
Doanh Khuê Luật Tủy - Nguyên - Phương Hồi 瀛奎律髓-元-方回
Cổ Thi Kính - Minh - Lục Thì Ung 古詩鏡-明-陸時雍
Lịch Đại Thi Thoại - Thanh - Ngô Cảnh Húc 歷代詩話-清-吳景旭
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

Giang thôn: làng xóm ven sông

Thanh giang: sông nước trong veo, đây nói sông Cẩm, một nhánh của sông Đà, một đoạn ở vùng ngoại ô phía tây của Thành Đô

Khúc: nơi dòng nước chảy quanh co
Bão: ôm, bao quanh.
Trường hạ: mùa hè ngày dài
Đường thượng: trên chánh sảnh
U: yên tĩnh.
Tự khứ tự lai: đi lại tự do
Tương thân tương cận: gần gũi với nhau.
Trĩ tử: con trai nhỏ.
Lộc mễ: bổng lộc của quan lại xưa, ở đây chỉ gạo tiền
Vi khu: cơ thể đê tiện, từ khiêm tốn tác giả tự chỉ mình
Thử ngoại: ngoại trừ những gì đã nói hoặc tình huống

Dịch Nghĩa:

Giang Thôn Xóm Bên Sông

Một khúc sông trong chảy bọc quanh thôn xóm.
Mùa hè ngày dài, mọi sự đều an nhàn ở xóm bên sông.
Chim én tự bay đến rồi tự bay đi dưới mái nhà.
Chim âu thân cận nhau trong nước.
Vợ già lấy giấy vẽ bàn cờ,
Trong khi con trẻ uốn kim làm móc câu.
Nhiều bịnh chỉ nghĩ đến thuốc men
Ngoài cái thứ đó còn cầu xin gì hơn cho thân này?

Dịch Thơ:

Thôn Xóm Trên Sông

Nước trong ôm khúc chảy qua làng,
Mùa hạ ven sông trong cảnh nhàn.
Chim én tự do thường đến viếng,
Hải âu trong nước cũng làm thân.
Vợ già lấy giấy vẽ cờ thế,
Con trẻ uốn kim làm lưỡi cần.
Nhiều bịnh chỉ mong có đủ thuốc,
Cần chi nhiều thứ để nuôi thân.

Phân tích:

Bài thơ được ưa chuộng dịch ra Việt ngữ, Anh ngữ…nhiều. Thoạt nhìn đã thấy bài thơ Đường luật 8 câu 7 chữ, luật bằng, vần bằng, rất nghiêm chỉnh về niêm, vận, tiết tấu, đối xứng và bố cục. Thử xem chi tiết trong phần đối xứng về từ ngữ (thanh và loại) và ý (tương hợp hay tương phản):

Câu 3: Tự khứ tự lai đường thượng yến đối với:
Câu 4: Tương thân tương cận thủy trung âu
Câu 5: Lão thê họa chỉ vi kỳ cục đối với:
Câu 6: Trĩ tử xao châm tác điếu câu

Các bản dịch Anh Ngữ:

Hamlet By The River by Du Fu

A clear stream flows by the hamlet.
It's easy going in the village during the long summer days.
Swallows come and go by themselves at the house.
Gulls play with one another in the water
My old wife draws a game of chess on paper
While my son bends pins to make fishhooks.
Often sick, I thinks only of medicine.
Beyond it, what can a man asks for?

River Village by Du Fu

Clear river flows around to embrace the village
Long summer, everything in the town is quiet and still.
Swallows above the roof beams naturally come and go as they please
Water birds kiss and fondle each other near the river.
Old wife paints us a paper chessboard
Children fashion their own fishing hooks and line.
Yet we have good friends give to us some of their official’s grain allotment
For this small and insignificant life, what more could I ask for?

River Village by Tu Fu
Translated by Stanton Hager 2018

A river curves and flows around our village;
On long summer days, leisure eclipses labor.
From rafters, swallows carelessly come and go;
On the water, gulls sociably flock and flutter.
My old wife draws a chessboard on paper;
My young boys hammer needles into fish-hooks.
For my illnesses, I’m provided the herbs I need.
More than all this, what humbly could I ask?

River village :: tu fu

A clear river winds around the village
all summer long village life is peaceful
swallows in the rafters come and go at will
seagulls on the water visit friends and kin
my wife draws a chessboard on a piece of paper
my children make fishhooks out of sewing needles
thankfully an old friend shares his office rice
what else does this poor body need

The River Village By Tu Fu
Translated By Florence Ayscough And Amy Lowell
Source: https://pickmeuppoetry.org

The river makes a bend and encircles the village with its current.
All the long Summer, the affairs and occupations of the river village are quiet and simple.
The swallows who nest in the beams go and come as they please.
The gulls in the middle of the river enjoy one another, they crowd together and touch one another.
My old wife paints a chess-board on paper.
My little sons hammer needles to make fish-hooks.
I have many illnesses, therefore my only necessities are medicines.
Besides these, what more can so humble a man as I ask?
This poem is in the public domain. Published in Poem-a-Day on August 7, 2021, by the Academy of American Poets.

River Village
The Poetry of Du Fu Volume 1
Translated and edited by Stephen Owen

A bend of the clear river flows on, embracing the village,
through long summer in this river village all that happens is secluded.
They come and go of their own free will, swallows in the hall;
friendly and drawing closer to me, gulls in the water.
My wife marks lines on paper to serve as a chess board;
my young son hammers a needle to make a fishing hook.
If only I had an old friend to provide rice from his salary,
what more beyond that would I seek for myself?

Phí Minh Tâm
***
Xóm Ven Sông

Quanh làng một khúc nước trong bao
Suốt hạ xóm sông việc lắng sâu
Tự đến, tự đi lầu gác én
Cùng thân, cùng cận bến bờ âu
Vợ già vẽ giấy làm cờ tướng
Con trẻ uốn trâm tạo lưỡi câu
Lắm bệnh chỉ mong thang thuốc đủ
Thân suy, ngoài đấy, chẳng thêm cầu!

Lộc Bắc
Jun23
***
Xóm Ven Sông

Quanh làng uốn lượn khúc sông trong,
Suốt hạ buồn hiu nước chẩy vòng.
Đàn én tới lui quen nóc mái,
Bày âu quấn quýt dỡn trên giòng.
Bàn cờ lấy giấy bà tô đậm,
Móc cá dùng kim cháu bẻ cong.
Nhiều bệnh lo sao đầy đủ thuốc,
Ngoài ra mọi thứ chẳng cầu mong.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 17/2023.
***
Góp ý:

Bài Giang Thôn của Đỗ Phủ.

Đây là bài thơ tả cảnh nghèo của Đỗ làm độc giả đọc xong cũng thấy ngậm ngùi: Đỗ ở với gia đình trong một thôn ven sông, cảnh vật u buồn, tịch mịch, đến nỗi chim én tự do bay đi, bay lại, chim âu chẳng sợ người, mà còn thân cận.

Nhà nghèo tới nỗi không có tiền mua bàn cờ, vợ phải vẽ trên giấy, con phải uốn kim làm lưỡi câu. Đỗ thì gầy yếu, bệnh hoạn, chỉ mong đủ tiền mua thuốc, không muốn mơ ước gì thêm, rất an phận thủ thường, vô cùng nhẫn nhục. Đỗ dùng chữ LÃO THÊ thì hơi tội nghiệp cho bà vợ !!

Không thấy ai giải nghĩa chữ, nên BS đành phải làm vậy:

- Bão là vây quanh, bao quanh.
- U là sâu xa, tối tăm, lặng lẽ, thanh nhã, an nhàn.
- Chỉ là giấy.
-Vi kỳ là cờ vây. Vi kỳ cục là bàn cờ, cuộc cờ.
- Trĩ tử là trẻ con.
- Xao là đập, gõ (tăng xao nguyệt hạ môn của Giả Đảo)
- Trâm là cái kim.
- Điếu là câu.
- Câu, viết hơi giống chữ điếu, với bộ kim, là lưỡi câu.
- Vi là nhỏ bé.
- Khu là thân thể.

Làng Ven Sông

Sông trong uốn khúc chảy quanh làng,
Mùa hạ, thôn sông mọi sự nhàn,
Nóc nhà chim én thường qua lại,
Trong nước đàn âu muốn kết thân,
Vợ già vẽ cuộc cờ trên giấy,
Con trẻ gò kim tạo lưỡi cần,
Nhiều bệnh chỉ cầu sao đủ thuốc,
Thân gầy đâu ước chuyện miên man.

Bát Sách.
(ngày 28/06/2023)
***
Thanh Đạm Bên Sông Nước

Khúc sông trong suốt tuôn tràn,
Chảy qua thôn xóm - lớp hàng bọc quanh.
Ngày dài, mưa hạ, nắng hanh,
Làng quê nhàn hạ, trăng thanh êm đềm.
Én bay thoắt vụt qua thềm,
Hiên nhà trú ẩn - canh đêm lặng tờ.
Hải âu xoải cánh bến bờ,
Cả đàn nghịch nước, làm trò kết thân.
Hiền thê lụm cụm tay chân,
Bàn cờ khéo kẻ - tần mần giấy kia...
Trẻ con mót cá lạch rìa,
Lấy kim uốn nắn móc chìa lưỡi câu.
Thân già bệnh tật bấy lâu,
Thuốc men ky cóp - lầu bầu khôn ngơi.
Mọi điều cần thiết có rồi,
Phận hèn nào dám gào trời đòi chi?

Khánh-Hưng
***
Xóm Ven Sông

Sông trong uốn khúc chảy qua thôn
Trời hạ nóng ran vắng vẻ buồn
Én liệng xập xòe trên nóc mái
Âu bay lơ lửng cạnh lầu chuông
Vợ gầy hí hoáy bàn cờ vẽ
Con nhỏ loay hoay uốn lưỡi cong
Lắm bệnh lòng mong đầy đủ thuốc
Đâu màng ngoại cảnh ấm-hàn-ôn

Kiều Mộng Hà
June 20-2023

1 nhận xét: