Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

Một Số Nhận Định Về Ca Khúc Phổ Thông Việt Nam



Nền Âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ XX là một nền âm nhạc không cân đối. Nó rất mạnh về hoạt động ca khúc phổ thông nhưng rất yếu về hoạt động khí nhạc và ca khúc nghệ thuật.
Trong thực tế, cả hai thể loại này đều cần thiết. Một loại nhắm đến việc phục vụ những nhu cầu hàng ngày, còn một loại nhắm đến việc nâng cao và cách tân nghệ thuật.

Âm Nhạc Phổ Thông (Popular Music) Là Gì?

Đó là tên gọi của các ca khúc mà chúng ta hát, chúng ta nghe hàng ngày. Là loại âm nhạc không đòi hỏi người sáng tác phải nỗ lực đưa ra những phát kiến mới về kỹ thuật và mỹ thuật âm nhạc. Trong nhạc phổ thông, người sáng tác có thể thoải mái sử dụng những yếu tố kỹ thuật và mỹ thuật âm nhạc sẵn có từ trước và được quần chúng yêu thích. Xét về bản chất, âm nhạc phổ thông cũng giống như văn chương phổ thông, chủ yếu nhắm đến những mục đích mang tính xã hội, chính trị hoặc thương mại thay vì nhắm đến mục đích thuần túy nghệ thuật. Khi nghe một bản nhạc phổ thông, đọc một bài thơ bình dân, một tiểu thuyết phổ thông hay xem một bức tranh bình dân thì người nghe, người đọc hoặc người xem không cần phải được trang bị vững vàng về vốn liếng kiến thức, cũng không cần phải vận dụng trí năng để hiểu và cảm thụ tác phẩm. Nói tóm lại, một tác phẩm phổ thông, dù là nhạc, văn, thơ hay họa, cũng đều là việc sử dụng những công thức, những nguyên tắc sẵn có. Do đó, nó dễ hiểu và dễ cảm thụ. Hay nói cách khác, nó dễ sáng tác và dễ tiêu thụ.

Âm Nhạc Nghệ Thuật (Art Music) Là Gì? 

Là tên gọi chung của các tác phẩm giao hưởng, concerto, những bài độc tấu, song tấu, tam tấu, hợp xướng… dành để biểu diễn cho các loại nhạc cụ như guitar, piano, violon…
Một tác phẩm âm nhạc nghệ thuật đích thực thì đầy tính sáng tạo, mới lạ và khó khăn. Âm nhạc nghệ thuật là một thử thách to lớn về nhiều phương diện đối với người sáng tác lẫn người nghe. Nó đòi hỏi nơi khán thính giả sự tập trung lắng nghe; đồng thời, cũng phải có kiến thức về âm nhạc, bao gồm cả ký âm pháp.

Hiện tượng ca khúc phổ thông đầu tiên xuất hiện ở nước ta vào những năm 1930 với một số ca khúc mới được sáng tác và ghi lại theo ký âm pháp Tây phương. Trong những ngày đầu, hầu hết những người sáng tác ca khúc đều tự học hoặc chỉ có trình độ nhạc học căn bản. Các tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa lãng mạn Pháp cuối mùa về lời ca và không khí phòng trà bên trời Tây về âm nhạc. Rồi các nhạc sĩ có thể pha thêm vào tác phẩm của họ một chút thang âm ngũ-cung bình-quân-luật trong giai điệu và ít nhiều tính cách dân tộc chủ nghĩa trong lời ca. Nhưng đối nghịch với những đặc trưng của dân ca cổ truyền, đặc trưng của ca khúc phổ thông Việt Nam là việc các nhạc sĩ ấy đã sử dụng các yếu tố nhạc tính Tây phương trong hòa âm, trong thang-âm bình-quân-luật, trong bố cục theo dạng A-B-A, trong việc sử dụng nhóm nhạc nhẹ để đệm cho giọng hát và trong việc xây dựng tiết tấu trên sườn của các điệu khiêu vũ phổ thông như tango, cha cha cha, rumba, slow…

Trong giai đoạn này, có thể những nhạc sĩ đầu tiên của nền Tân nhạc không nhắm vào mục đích thương mại. Nhưng do vốn liếng âm nhạc của họ bị hạn chế, nên giá trị tác phẩm của họ chỉ ngang với, hoặc kém hơn các các ca khúc phổ thông ở Tây phương thời bấy giờ. Qua một giai đoạn tình ca, ca khúc phổ thông được sử dụng để tác động vào tinh thần kháng chiến chống thực dân, đế quốc. Sau thời kỳ đó, nó lại quay về với những cảm nghĩ bình thường, trở thành một món giải trí hàng ngày cũng như đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng giống hệt như hiện tượng ca khúc thương mại ở Tây phương và đạt đến đỉnh điểm trong hậu bán thế kỷ XX.

Như thế, sự ra đời của ca khúc phổ thông chính là sự ra đời của nền Tân nhạc Việt Nam. Ngay từ đầu, nó đã nhanh chóng nắm vai trò thống lĩnh trong hoạt động âm nhạc ở nước ta và vẫn còn giữ vị trí ấy cho đến ngày nay. Quả thực, khán thính giả Việt Nam đã bị choáng ngợp bởi hiện tượng này đến độ, đối với đại đa số người, khái niệm “âm nhạc” hoàn toàn đồng nghĩa với khái niệm “ca khúc phổ thông”. “Nhạc” chỉ còn có nghĩa là “bài hát”.
Nếu xét trên ba phương diện: tổng thể âm thanh, thái độ trình diễn, thưởng ngoạn và ý niệm về vai trò của âm nhạc, ta có thể thấy những điều sau đây:

- Về tổng thể âm thanh, ngay từ đầu ca khúc phổ thông đã mang nặng vẻ Âu hóa. Và đến nay, gần như hoàn toàn Âu hóa, chỉ còn mơ hồ những nét giả-Đông-phương trong những thang âm ngũ-cung bình-quân-luật.

- Thái độ trình diễn và thưởng ngoạn cũng bị Âu hóa ở mức độ đó! Việc kết hợp ca khúc với ban nhạc nhẹ và sinh hoạt khiêu vũ là một bằng chứng rõ ràng. Ca khúc phổ thông cũng mang một ý niệm về vai trò của âm nhạc: hầu như hoàn toàn xa rời với truyền thống ca hát dân gian ngày xưa. Trong khi truyền thống ca hát dân gian bao gồm những bài hát trong lao động, hát ru con, hát lễ bái, hát giao duyên… thì ca khúc phổ thông hôm nay chỉ chủ yếu là sinh hoạt giải trí và mang tính tiêu dùng.
Khi nghe ca khúc phổ thông, hầu hết đa số chúng ta không “lắng nghe” phần nhạc mà chủ yếu là theo dõi bằng lời. Về phần nhạc, khán thính giả chỉ nghe một cách dễ dãi, nhàn tản. Hơn nữa, do không có kiến thức âm nhạc nên không nhận ra hay không quan tâm đến tính cách Âu hóa nặng nề của phần nhạc. 
Trong khi đó, ngay từ đầu người viết ca khúc phổ thông cũng không nhắm đến việc tạo nên những tác phẩm âm nhạc nghệ thuật, một loại âm nhạc đòi hỏi nơi khán giả sự tập trung lắng nghe và phải có kiến thức về âm nhạc. Thực tế cho thấy, một số ca khúc được viết với chủ ý nghiêm túc về nghệ thuật âm nhạc và giá trị văn học trong ca từ đã không thể trở thành phổ thông. Để tác phẩm được phổ thông, tác giả chỉ cần nhắm tới việc sáng tác ra những lời hát chuyên chở những tâm tình mà khán thính giả muốn và dễ dàng thu nhận. Những bài hát này, tốt nhất nên được đặt vào những mô thức giai điệu đơn giản và dễ nhớ. Chính điều này, đã đẩy phần âm nhạc trong ca khúc phổ thông xuống hàng thứ yếu.

Đối với các nhạc sĩ viết ca khúc nghệ thuật, phần nhạc đệm đóng vai trò rất quan trọng. Trong khi đó, các nhạc sĩ viết ca khúc phổ thông hầu như không bao giờ có ý niệm gì về nhạc đệm. Để rồi khi hát lên, người hát thường chỉ hát trên nền nhạc ứng diễn của ban  nhạc nhẹ, hoặc nền nhạc được phối khí, mà người phối khí thường không phải là tác giả. Bản phối khí ấy thường rập khuôn theo các công thức thịnh hành và hầu như lệ thuộc hoàn toàn theo thẩm mỹ chủ quan của người phối khí, thậm chí trái ngược với quan điểm mỹ học của tác giả. Nói cách khác, mỗi ca khúc có thể được trình diễn trên vô số nền nhạc khác nhau, thậm chí hoàn toàn tương phản nhau trên nhiều phương diện.

Thực tế cho thấy, phần lời quan trọng đến độ có nhiều nhạc sĩ đã phân loại ca khúc của chính mình căn cứ theo chủ đề của phần lời chứ không phải theo cấu trúc của phần nhạc. Tất nhiên, nếu chỉ căn cứ theo phần nhạc, chúng ta sẽ thấy giữa các “thể loại” ca khúc của họ không có sự dị biệt nào đáng lưu ý trong âm nhạc. Sự đối nghịch giữa phần ý và phần lời trong ca khúc phổ thông Việt Nam đã có từ lâu, nhưng do phần lớn khán thính giả Việt Nam chỉ tập trung chú ý vào phần lời nên không nhận ra sự đối nghịch này! Hơn nữa, không chỉ khán thính giả, mà phần lớn các nhạc sĩ sáng tác ca khúc cũng chỉ chủ yếu tập trung vào phần lời. Phần nhạc chủ yếu chỉ được dùng như phương tiện để chuyên chở phần lời.


Sự quan trọng của phần lời còn dẫn đến một số hiện tượng đáng lưu ý. Một là, xảy ra hiện tương bình luận ca khúc như bình thơ; trong đó, người bình luận chỉ hoàn toàn bàn về phần lời và gạt bỏ phần nhạc, hay cùng lắm là phát biểu vài ý nghĩ đầy cảm tính và hoàn toàn phi nhạc học. Hai là, hiện tượng xuất bản những tuyển tập lời ca thuần túy không có dòng nhạc. Và ba là, hiện tượng lời ca tạo ảnh hưởng đến văn học. Qua đó, chúng ta có thể thấyrất nhiều tác phẩm thơ và văn chương trích dẫn hay vay mượn lời ca. Tuy nhiên, cho dù lời ca đóng vai trò quan trọng như thế nào, giá trị văn học của lời ca thường kém hẳn về phẩm chất nghệ thuật nếu so với thơ. Tính cách hấp dẫn của lời ca đối với quần chúng không chủ yếu nằm trong nghệ thuật, tạo nên cái mới lạ như thơ mà ngược lại, nằm trong sự truyền cảm trực tiếp qua trung gian cái quen thuộc và đầy khuôn sáo của lời ca cộng với sự hỗ trợ của những giai điệu dễ nhớ. Điều này, có thể giúp chúng ta hiểu tại sao một dân tộc có truyền thống thơ lâu dài như Việt Nam, đến hôm nay lại bị quyến rũ bởi lời ca phổ thông hơn là thơ. Chính cái quen thuộc và đầy khuôn sáo mới là cái chuyên chở những cảm nghĩ gần gũi nhất đối với con người bình thường. Do đó, họ yêu và cần chúng! Thế nhưng, không nhất thiết ai cũng yêu ca khúc phổ thông chủ yếu vì phần lời. Ta có thể nhìn thấy những con người không cần lưu ý đến cả phần lời, mà chỉ cần một thứ âm thanh và vài ngôn từ nào đó, nhẹ nhàng hay kích động để được thoải mái mơ màng hay chuyển động gân bắp theo điệu khiêu vũ.

Được xem là một loại hình chủ đạo ở Việt Nam, ca khúc phổ thông đã có những thành tựu đáng kể. Trong đó, thành tựu đầu tiên là thành tựu về phương diện âm nhạc. Nhờ sự ra đời của nó, chúng ta mới có ý niệm về nhạc sĩ (composer). Trước đây, âm nhạc cổ truyền Việt Nam tồn tại chủ yếu nhờ truyền khẩu, bởi ký âm pháp quá thô sơ nên không thể ghi chép chính xác âm nhạc. Do không ghi âm lại cũng như không chép xuống giấy được, nên chúng ta vừa không có nhạc sĩ, vừa phải chịu nạn thất truyền. Cả những sườn giai điệu đơn giản cũng phải bị mất mát hết vì ký ức con người có hạn!
Nhưng dẫu sao, việc thu nhận ký âm pháp Tây phương để sáng tác ca khúc phổ thông cũng là một bước tiến quan trọng, tạo tiền đề cho ý thức sáng tạo âm nhạc và là nhịp cầu để chúng ta hiểu biết âm nhạc thế giới, để những yếu tố văn hóa đặc thù Việt Nam không hiện trên bề mặt nông cạn theo kiểu bày hàng quảng cáo mà tiềm ẩn bên dưới những cấu trúc hình tượng, ý tưởng hết sức phức tạp và trừu tượng. Đó là những tác phẩm nghệ thuật đương đại mang tính quốc tế, nghệ thuật của “một” thế giới “đa” văn hóa. Trong đó, tính cách Việt Nam đan quyện vào những tính cách khác một cách hết sức tinh tế và sinh động. Chúng ta cũng nhất định phải biết ơn những nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên đã mạnh dạn bước ra khỏi nền Âm nhạc Dân tộc Cổ truyền để bước vào nền Tân nhạc.

Tín Đức

Cựu Học Sinh Nguyễn Thông Lớp Nhị B 1959 -1960

Trường Trung Học Nguyễn Thông tiền Thân Trường Trung Học Tống Phước Hiệp
Buổi Tất Niên của Lớp Nhị B - Năm 1960
Kỷ Niệm Ngày Lễ Hai Bà Trương của Nữ Cựu Học Sinh Lớp Nhị B 1960
 Kỷ Niệm Ngày Lễ Hai Bà Trương của Nam Cựu Học Sinh Lớp Nhị B 1960

Lê Quan Vinh


Bệnh Viêm Gan



Thực Hiện: Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Sưu Tầm: Nguyễn Lữ

Thơ Tranh: Ở Đâu Đây


Thơ & Chụp Ảnh: Trương Văn Phú

Hương Thơ

Mùa thu lặng ngắm mây trời
Có người em gái tình thơ năm nào
Anh về cửa ngõ đón chào
Bài ca tấu khúc tình vào trăm năm

Lục Lạc

Nếu Ngày Nào Đó




 Nếu ngày nào đó anh hết yêu em
Xin em hãy đốt tình thư ngày cũ
Em hãy viết nốt bài thơ dang dở
Để cho lòng dịu bớt nỗi chua cay.

Nếu ngày nào đó em hết yêu anh
Nhớ báo trước để anh không thổn thức
Anh cố gắng quên đi niềm ray rức
Lỡ yêu rồi tình cũng nhẹ mong manh.

Nếu hai ta cùng nghĩ : phụ sao đành
Em hãy cố gắng nâng niu cuộc sống
Anh cũng cám ơn trời cao đất rộng
Được âm thầm thương mến chỉ mình em.

Nếu ngày nào đó ta gần bên nhau
Em hãy hạnh phúc đón chào Xuân mới
Dù hai ta vạn trùng khơi cách trở
Nhưng đôi tim vẫn mở lối đi về.

Nếu lòng em không qua được cơn mê
Chỉ vọng tưởng người ngày xưa thuở trước
Em hãy nói đi - vài lời chân thật :
Không yêu anh – cho bỏ ghét…dại khờ !

Dương hồng Thủy
(Chủ Nhật 21/10/2012)


Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Tang Lễ Thầy Trần Văn Phong - Cựu Giám Học Trường Nguyễn Trường Tộ Vĩnh Long

Lễ An Táng Cựu Giám Học Trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Trường Tộ - Vĩnh Long
Giusê TRẦN VĂN PHONG 23/3/1921- 04/11/2011
Nghĩa Trang Tân Ngãi Vĩnh Long







 Đặng Anh Tuấn

Trường Tương Tư - Lương Ý Nương

     

     Sau triều Đường (618-907), đến thời Ngũ Quý còn gọi là Ngũ Đại (907-960). Các triều Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Hán, Hậu Chu, lần lượt thay nhau nắm quyền. Cuối cùng, Triệu Khuông Dẫn diệt Hậu Chu lập nên nhà Tống (960-1279).

      Trong "Tình sử" có chép như sau: Vào cuối triều nhà Chu đời Ngũ Quý (Ngũ Đại), có người con gái của Lương Tiêu Hồ 梁瀟湖 tên Ý Nương 意娘, cùng với Lý Sinh 李生 là họ hàng con cô con cậu. Lý Sinh thường qua lại rất nhiều. Nhân ngày Trung Thu ngắm trăng, ngầm hẹn ước với Ý Nương, lưu luyến không rời. Sự việc lâu ngày lộ ra, Tiêu Hồ nổi giận, ngăn cấm hai người gặp nhau. Gặp tiết đang thu, Ý Nương viết bài thơ này :

  長相思                       Trường Tương Tư 

落花落葉落紛紛       Lạc hoa lạc diệp lạc phân phân
盡日思君不見君       Tận nhật tư quân bất kiến quân.
腸欲斷兮腸欲斷       Trường dục đoạn hề trường dục đoạn,
淚珠痕上更添痕。   Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân.
我有一寸心,           Ngã hữu nhất thốn tâm,
無人共我說。           Vô nhân cộng ngã thuyết.
願風吹散雲,           Nguyện phong xuy tán vân,
訴與天邊月。           Tố dữ thiên biên nguyệt.
攜琴上高樓,           Huề cầm thượng cao lâu
樓高月花滿。           Lâu cao nguyệt hoa mãn.
相思未必終,           Tương tư vị tất chung
淚滴琴玄斷。           Lệ trích cầm huyền đoạn.
人道湘江深,           Nhân đạo Tương giang thâm
未抵相思畔。           Vị để tương tư bạn.
江深終有底,           Giang thâm chung hữu để
相思無邊岸。           Tương tư vô biên ngạn.
我在湘江頭(*)          Ngã tại Tương giang đầu (*)
君在湘江尾(*)          Quân tại Tương giang vỹ. (*)
相思不相見,           Tương tư bất tương kiến
同飲湘江水。           Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
夢魂飛不到,           Mộng hồn phi bất đáo
所欠唯一死。           Sở khiếm duy nhất tử.
入我相思門,           Nhập ngã tương tư môn
知我相思苦。           Tri ngã tương tư khổ.
長相思兮長相思,   Trường tương tư hề, trường tương tư,
長相思兮無盡極。   Trường tương tư hề, vô tận cực.
早知如此罫人心,   Tảo tri như thử quải nhân tâm
迴不當初莫相識       Hồi bất đương sơ mạc tương thức.                    
               梁 意 娘                              Lương Ý Nương

Dịch Nghĩa: Mãi Nhớ Nhau

Hoa rơi, lá rơi rơi thật nhiều
Suốt ngày nhớ Chàng nhưng không gặp được Chàng
Ruột muốn đứt như muốn đứt từng đoạn
Giọt lệ tuôn mãi mãi tuôn rơi
Thiếp đây chỉ có một tấc lòng
Không có ai nghe thiếp giải bày
Những mong gió xua tan mây
Để nói với trăng trên trời
Cầm đàn lên lầu cao
Lầu cao đầy trăng hoa
Nhớ nhau không hề dứt
Dây đàn đứt lệ tuôn
Người nói sông tương sâu
Nhưng sao bằng thương nhớ
Sông sâu còn có đáy
Tương tư thì không ranh không bờ
Thiếp ở đầu sông Tương
Chàng thì cuối sông Tương
Nhớ nhau nhưng chẳng được gặp nhau
Cùng uống chung nước sông Tương
Trong mộng hồn vẫn không bay đến được
Chỉ có chết mà thôi
Bước vào cửa nhớ thương nhau
Thiếp mới biết là đau khổ
Nhớ nhau kéo dài, kéo dài nỗi nhớ nhau
Nhớ nhau mãi không bao giờ hết 
Nếu biết rằng lòng đau khổ thế này
Thì buổi ban đầu đừng quen biết nhau



Dịch Thơ:

 Trường Tương Tư

Hoa lá lìa cành rụng tả tơi
Nhớ ơi là nhớ thấy đâu người
Phút bồi hồi dạ đau như thắt
U uẩn buồn mắt đẫm lệ tuôn

Luống ngậm ngùi thân đơn bóng chiếc
Biết lấy ai cạn nỗi niềm riêng
Những mong nhờ gió xua mây chuyển
Cùng với trăng sao tỏ tấc lòng

Tĩnh mịch không gian cất tiếng đàn
Lầu cao vằng vặc nhuốm màu trăng
Trùng trùng nỗi nhớ ôi day dứt
Đàn đứt dây tơ khúc đoạn trường

Ví thử Tương giang thẳm thẳm sâu
Sánh sao thương nhớ buổi ban đầu
Sông sâu còn biết đâu lòng đáy
Tơ tưởng rồi trăn trở chẳng nguôi

Kẻ bến giang đầu mộng thả trôi
Ai kia tận cuối mấy xa xôi
Gặp nhau chẳng đặng trao vào nhớ
Uống nước chung dòng một ước mơ

Dệt mộng đan mơ mộng trống không
Lỡ làng duyên kiếp cõi tơ lòng
Trái ngang ngăn cách chia đôi ngã
Phận bạc má hồng  ngậm đắng cay

Năm tháng thiên thu vạn vạn sầu
Trói vào hồ dễ có quên đâu
Biết yêu chẳng trọn yêu là khổ
Gặp gỡ làm gì để biệt ly
                                 Kim Phượng

Vẫn Mãi Nhớ Nhau


Hoa lá ngập nơi nơi
Dạ luống những tơi bời
Nhớ chàng nào đâu thấy
Lệ sầu mãi tuôn rơi
Giữa đêm khuya lạnh vắng
Tâm sự ngỏ cùng ai
Mênh mông mỗi chị Hằng
Hiểu nỗi lòng thiếp chăng
Nhung nhớ mãi dâng trào
Thổn thức tận lầu cao
Cung tơ giờ đứt đoạn
Như dạ này nặng đau
Sông sâu còn có đáy
Thương nhớ thật mang mang
Sông kia có thể cạn
Tình yêu khó thể lường
Cùng uống chung dòng nước
Thiếp ở Tương Giang đầu
Chàng nơi Tương Giang vỹ
Bao giờ được gặp nhau
Vào mộng chàng đâu hỡi
Tơ tình trót đậm mang
Lòng đau như ruột thắt
Tiếc gì chốn thế gian
Nếu biết tình đau khổ
Dằn dật suốt tháng ngày
Buổi đầu thôi gặp gỡ
Không phải lụy vì ai
                           Quên Đi


Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn


Lưu Dấu



Như màu hoa lưu lại chút vấn vương
dù đã úa rụng rơi từng cánh mỏng
như trang kinh vô tự với hư không
vẫn còn mãi trong bao câu niệm tụng

Cho dẫu là 
cứ năm tháng trôi qua cùng nhật nguyệt
những chuyển dời biến hiện cõi trần ai
chuyện lòng người luôn phân chia hơn thiệt
dòng chảy đời ảo ảnh tựa bóng mây

Nhưng anh ạ
lời trái tim vẫn là lời rất thật
dẫu thế nào máu cũng thắm đỏ tươi
nên
câu nguyện ước đợi chờ không thể khác
sông xa nguồn dõi về biển chảy xuôi

Từ ngàn xưa người chờ người hóa đá
câu thơ buồn đẫm sương lạnh  hồn đau
dã quỳ - em trong đêm chưa vội nở
đợi tay người, đông lạnh đã về chưa ???

Trần Thị Dã Quỳ


Thơ Tranh: Mảnh Sầu


Thơ: Mặc Thái Thủy
Thơ Tranh: Kim Oanh

PPS:Trong Nỗi Nhớ Muộn Màng


      Cuộc tình đã chia tay rất lâu rồi, mà những kỹ niệm vẫn mãi quay về trong tâm tưởng,dù thời gian bây giờ đã quá xa .xa lắm . .của một thời dĩ vãng,mà cứ ngỡ người xưa vẫn còn ở quanh đây.nhưng tìm hoài không thấy...Nên bây giờ nỗi nhớ người yêu xưa dù có trể có muộn màng nhưng tình yêu cũ vẫn không phai mờ vì mối tình ấy rất đẹp nhiều kỹ niệm nó đã trở thành bất tử..thầm kín trong ký ức.của một đời người. . . .


Nhạc Sĩ: Ngô Thụy Miên
Tiếng hát: Ý Lan
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình


Pháp Độ


Vải lỡ dệt bằng canh mâu chỉ thuẩn
Đã mặc vào thay đổi cả hình dong
Từ cổ độ hình nhi chưa đứng vững
Tựa cuộc tình dao nhọn bọc gấm nhung

Vải lỡ dệt bằng canh mâu chỉ thuẩn
Hương cũng thôi phấn nhạt lạnh son môi
Lỡ e ấp lỡ dồi rồi lỡ buổi
Trời cuối đông mang nước bọt bèo trôi

Vải lỡ dệt bằng canh mâu chỉ thuẩn
Chợt nửa chiều đôi giọt nhẹ rưng rưng
Thời kinh sám mõ chuông chiều sương rụng
Hình hài khô máu cũng cạn độ chừng

Vải lỡ dệt bằng canh mâu chỉ thuẩn
Chim xác khô chao ngã cánh-đi-về
Trời vẫn rực đôi mắt mờ chỉ những
Núi chiếu sông tim mãi dựa tình mê

Trương Văn Phú

 

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Hình Ảnh Buổi Cơm Thân Mật CHS Tống Phước Hiệp Vĩnh Long


Buổi Cơm Thân Mật Của Các Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp & Thủ Khoa Huân & Nguyễn Thông. Nhân Chị Kim Phượng Về Việt Nam

Đứng:Kim Vân, Kim Đính, Ngọc Nhan, Ngọc, Ánh Hồng
Ngồi: Kim Phượng, Hữu Đức, Kim Hiệp

Ánh Hồng, Khim Phượng, Ông xã Ánh Hồng

Ngọc Nhan, Kim Phượng, Ngọc

Ánh Hồng, Ngọc Nhan, Kim Phượng, Kim Vân
Tạ Thị Ánh Hồng


Ngộ Tình



ngày hôm kia cõi trầm luân tĩnh
xóa can qua khổ ải lụy phiền
thâu đêm niệm sân si ái ố
yêu là dây oan trái tại mình

ngày hôm kìa lần tay bấm quẻ
bói căn duyên nhân quả khó lường
tình vay nóng kiệm lời phổ độ
suối cam lồ lòng dục nhiểu nhương
.
ngày hôm qua kiếp luân hồi nhớ
trước tiền căn viên tịch tham quan
phạm sắc giới tham tình dối bạn
nay hậu sanh đời khổ gian nan
.
sáng sớm nay giữa đường thiên trúc
giác ngộ ra,,xa thẳm bồng lai
đành hồi bước mót tình hỷ xã
chút tình già,,,chay,mặn...còn ai?

Phủ Hiền


Trên Đường Về



Hôm ta về xếp đôi tờ giấy trắng
Xếp làm tư làm tám giữ trên tay
Xếp như gói bóng hình ở lại
Trên vai ta đằm thắm tóc em dài

Sông là để những thuyền hoa về bến
Đời có khi nào con nước xuôi
Có chèo chống một mình qua nước ngược
Thì khóc theo sông bên lỡ bên bồi

Hôm ta về như qua dòng sông cũ
Xếp trên tay tờ giấy trắng em trao
Xếp như gói đời ta ở lại
Với dòng sông bến bắc năm nào

Hôm ta về là hôm ta ở lại
Đường phố xa hạt bụi nhớ thêm gần
Em chắc biết ly café lặng lẽ
Nói dùm ta về một nỗi bâng khuâng.

Lâm Hảo Khôi
(12/11/13)


Thơ Tranh: Bỗng Nhớ


Thơ: Kim Quang
Thơ Tranh: Kim Oanh


Lỡ Hẹn



Hai năm ở trọ nhờ đi học
Một chút tình con thật dễ thương

Ngất ngưởng theo em về xóm nhỏ
Ngày đi hai buổi, đạp chung đường.

Mỗi sáng gọi đò em bước xuống
Chiều về nhường nhịn lối đi lên
Giữa sông áo trắng bay như bướm
Tóc rũ bờ vai sóng dập dềnh.


Guốc mộc em đi khua lốc cốc
Có khi vắng tiếng buồn mênh mang
Đến trường đứng đợi bên hè phố
Nắng dưới hàng cây em chửa sang.


Chiều qua đến bến sông ngày đó
Vắng bóng đò ngang của độ nào
Quay về trường cũ rong rêu quá
Hàng phượng bâng khuâng cũng úa màu.


Lỡ hẹn với em từ dạo ấy
Cùng trường cùng ngõ chẳng duyên trao
Em ơi ngày cũ đâu còn nữa
Thoi thóp buồng tim luống nghẹn ngào.


Dương hồng Thủy
(10/10/2012)


Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

Là Em



            
Em về điểm phấn tô son
Tay anh kẻ nhẹ đôi dòng mắt xanh...
Sương Đêm

Tình em ánh mắt long lanh
Chứa bao nguyện ước duyên lành lứa đôi
Khen em đẹp - Em mỉm cười
Nắng ngoài sân bỗng như tươi thắm nhiều...

Thương làm sao dáng mỹ miều
Người yêu anh đó - Anh yêu suốt đời
Núi kia dù có di dời
Bước tình hai đứa khó rời được nhau

Em trao anh lời ngọt ngào
Buồn ly hương cũng xuyến xao tâm lòng
Một ngày nắng đẹp pháo hồng
Ước nguyền trọn ước vợ chồng đẹp duyên

Bao nhiêu năm tháng muộn phiền
Tình em anh giữ của riêng trong lòng
Ngọt ngào thuận vợ thuận chồng
Lòng anh chỉ một bóng hồng . ..LÀ EM

Thy Lan Thảo


Giận Hờn




Thu về vàng lá khắp sân
Quên đi hờn giận còn ngân trong lòng
Ai về cho nhắn đôi dòng
Tình thu ấp ủ vương dòng lệ sa



Lục Lạc

Thơ Tranh: Dáng Thơ


Thơ: Lục Lạc
Thơ Tranh: Kim Oanh


Cùng Em Uống Cà Phê

                        

Cùng em đi uống cà phê
Quán “Văn” tre trúc phủ che quanh mình
Cạnh bàn nhiều cặp thật xinh
Tiếng cười khe khẻ lung linh ánh đèn.

Tay em – tay anh đan xen
Mà run như đá dế mèn ngày xưa
Phải rồi – hôm đó trời mưa
Chờ cho dứt hột – buổi trưa mới về.

Dọc đường nửa tỉnh nửa mê
Bên em – em xỏa tóc thề tung bay
Em về - anh ngây ngất say
Anh về - em có nhớ ai không nào ?

Em cười hồng thắm má đào
Tay trong tay nắm thì thào bên nhau
Trăng đêm e ấp đón chào
Tiển em đầu ngõ – lối vào bến sông.

Chia tay – chẳng dám đèo bồng
Mắt môi em nháy cong vòng bờ mi
Thẩn thờ anh bước chân đi
Giọt cà phê đắng – còn gì trong em ?

Dương hồng Thủy


Ngô Văn Lân - Vị Tiền Hiền Lập Làng Tân Giai


NGÔ-VĂN-LÂN
Vị tiền-hiền đứng lập làng Tân-Giai.
(Thuộc Quận Châu Thành)

          Tìm hiểu nhân vật thời xưa của Vĩnh-Long mà không nhắc đến cụ phó Ngô-Văn-Lân là một điều thiết sót đối với nền sử học sau này.

          Cụ sanh trưởng trong một gia đình nho phong, cụ ra chào đời vào năm 1837 tại Vĩnh-long, lúc bấy giờ thuộc về nhà nước cựu trào, đất đai còn hoang vu chưa phân định từ vùng rõ rệt, làng xã chưa có nhiều, cụ Ngô-văn-Lân là người địa phương mới đứng ra lập làng Tân-giai và khai khẩn đất cát quanh vùng. Đầu tiên những việc làm của cụ là mở lộ, đào kinh, đốn phá cây cối sầm-uất, từ làng này đến làng kia, làm cho sự giao-thông qua lại dễ-dàng. Quy tụ dân chúng về sanh-cơ lập nghiệp trong khu vực vừa mới tân tạo. Chính cụ là vị tiền-hiền có công khai hoang dựng ấp, xây-dựng nên làng Tân-giai trù phú như ngày nay.

          Kẻ hậu sinh ăn trái nhớ kẻ trồng cây, chúng tôi có bổn phận nêu lên những bực hữu công, vì nhớ quê hương dân tộc, vì dãy gấm vóc của tiền nhân ta đã dày công xây đắp, hy-sinh xương máu, giữ từ tấc đất chống xâm lăng, bảo vệ mảnh đất thân yêu đem hạnh phúc cho giống nòi. Cụ Ngô-văn-Lân không màng nguy hiểm, vượt qua bao trở ngại xung phong làm cái công việc khai sơn phá thạch, nối chí người xưa, lưu lại cho đời nhắc nhở.

          Năm 1877 cụ ra làm Phó-tổng cho chánh-phủ tân trào, cụ được nổi tiếng liêm-chánh sở dĩ cụ ra làm việc là muốn dựa vào chức vụ sẵn có mà làm những việc hữu ích cho tổng làng, binh vực quyền lợi cho người dân thấp cồ bé miệng không dám đến nha môn để kêu ca những điều oan ức. Tiếng cụ đồn xa, dân tình đều nức lòng cảm mến, người Pháp lúc bấy giờ bắt đầu nghi ngờ cụ, có lẽ cụ là người ở trong đảng cựu triều đình len lỏi vào để dọ dẫm ; biết như thế nhưng cụ vẫn bình tĩnh, thản thiên như người vô sự, vẫn tiếp tục làm phận sự, lòng cụ đã biểu lộ sự ngay chánh trong trắng, người Pháp phái người theo dõi hành động của cụ luôn, biết rõ con người của cụ đầy khí tiết, đâm ra kính nề và khen thầm người miền Nam như cụ có một tinh thần bất khuất, năng làm hơn nói, gặp việc phải thì nói ngay cho ra lẽ không úp mở, lúc nào cũng tỏ ra con người cương trực và đứng đắn, từ đây chúng càng thêm mến phục qua đức độ của cụ.

          Thật ra, đời cụ ra làm quan không vì danh lợi, mục đích là phụng sự cho quê hương, bênh vực lợi quyền cho dân nghèo, dám đương đầu nhiều trở-lực trên chính trường.

          Tỉnh Vĩnh-long có hai vị Phó tổng được nổi tiếng : một là phó tổng Tống Hữu-Định tục danh là phó mười hai và cụ Ngô-văn-Lân đáng cho người đời tôn sùng nhắc nhở, chúng tôi xin nói thêm cụ Ngô-văn-Lân có người con là ông Ngô-văn-Công cũng nối chí cụ, góp công xây dựng tỉnh nhà. Chính ngôi đình Tân-giai  lúc trước bị ngọn nước sông Cổ-chiên xoáy lở, cụ đứng ra dời qua mé đất liền như chúng ta đã thấy hiện nay. Cụ còn làm công việc đáng ngợi, là khuyến khích kẻ thất học, dẫn đến trường giúp đỡ mọi nhu cầu cho học trò nghèo, cụ còn làm những việc âm đức, tu cầu bồi lộ mở đường xây cất trường học v.v…

          Theo lời các bô-lão kể lại nơi đình Tân-giai có thờ bài vị cụ Phó tổng Ngô-văn-Lân, vị tiền hiền sáng lập làng Tân-giai. Thật ra đất lành trổ sanh cây quí, đất Vĩnh-long từ xưa đến nay lắm bực tài trí đứng ra kiến thiết xây-dựng đình làng, làm những điều công ích. Chúng tôi cần gợi lại hiến quý bạn đọc biết qua sơ lược về ông Ngô-văn-Lân vị tiền hiền trên đất Vĩnh của thời quá khứ.

         Ngày nay mỗi lần cúng tế các kỳ lão và hương chức đều tưởng niệm ông Ngô-văn-Lân một cách kích cẩn.

(Theo Vĩnh-long Xưa và Nay - Xuất bản 1967)

Tác giả HUỲNH MINH
Tống Ngọc Nhan sưu tầm