Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

Thành Kính Phân Ưu Gia Đình Chị Đỗ Thị Chí Thanh

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

     Được tin buồn Thầy Đỗ Thành Thích, Thân phụ của chị Đỗ Thị Chí Thanh Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp,Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Vĩnh Long Lớp 6 Khoá 8. 

- Từ trần lúc 12 giờ 30 ngày 21-5-2014 
- Nhằm ngày 23-4 Âm Lịch. 
- Hưởng thọ 88 tuổi.
- Lễ Động quan cử hành vào lúc 12 giờ ngày 23 - 5- 2014.
- Hoả táng tại Sa Đéc.
      Chúng con cầu nguyện Hương Linh của Thầy được an lành nơi Cõi Phật.
      Thành Kính Phân Ưu cùng chị Chí Thanh và Tang quyến.

      Đồng Kính Phân Ưu

- Phan Thị Anh Minh - Bùi Ngọc Điệp
- Lê Ngọc Điệp - Vương thị Kim Duyên
- Nguyễn Thị Bạch Tuyết - Hoàng Thị Thơ
- Nguyễn Thị Sanh - Dương thị Anh
- Phan Văn Huệ - Nguyễn Hữu Tài (BT) 
- Nguyễn Thành Vinh - Phạm Thanh Xuân
- Nguyễn Thành Khai - Đặng Văn Việt
- Huỳnh Hữu Ngỡi - Lê Thị Kim Phượng
- Huỳnh Hữu Đức.

Đến Một Lúc


Đến một lúc
mưa gió thành bão tố
Gìn lòng giữ vững một niềm tin
Đau khổ tất nhiên đời phải có
Lạc quan tiềm ẩn ắp trong tim.

Đến một lúc
kiêu căng cùng hãnh tiến
Quên đi để bản ngã trong lành.
Ngắm cỏ cây mênh mông bát ngát
Thân tâm bay bổng khắp trời xanh.

Đến một lúc
tấm lòng ta rộng mở
Trái tim được thắp sáng niềm tin
Hổ thẹn xấu xa trong dĩ vãng
Tạo ra do ích kỹ ham vinh.

Đến một lúc
cho đi là hạnh phúc
Tham lam cùm khóa của trần gian
Sân si trôi thả vào sương khói
Nợ trần ai thôi chớ vương mang.

Đến một lúc
thấu rõ điều bất biến
Tâm hồn như phiến đá tinh khôi
Thương yêu quá tổ tiên sông nước
Lãng đãng chiều hôm phủ núi đồi.

Đến một lúc
nằm yên trong lòng đất
Nghe thân xác nhẹ bổng trần đời
Vô thường thẩm thấu vào tâm thức
Thanh tịnh là đây lúc thảnh thơi..!

Anh Tú

03.04. 2014

Em Có Đi Rồi


Em có đi rồi,
Sao chiều nay anh vẫn đợi?
Nghe lòng buồn như thế kỷ ngừng trôi.
Em có đi rồi,
Mang trọn cả xa xôi,
Bỏ hiện tại với ngày mai anh nức nở.
Em có đi rồi,
Chừng như hoàng hôn đã vở,
Nghe màu chiều về lịm kín hồn anh.
Em có đi rồi,
Mang trọn cả xuân xanh,
Để héo hắt nụ yêu đà kết lộc.


Em có đi rồi,
Ôi! Cuồng điên bão lốc
Cuốn phăng đi từng mảnh sống đời anh.
Em có đi rồi,
Nhịp thở quá mong manh,
Đếm bước thời gian dần về hỏa ngục.
Em có đi rồi,
Anh ngậm ngùi đơn độc,
Nghĩa trang buồn nằm đó ngắm trăng khơi.
Em có đi rồi,
Ngày tháng quá chơi vơi,
Em đã giết anh rồi, em có biết?

Mùa Đông 1995

Mặc Thái Thủy

Tình Đến Không Ngờ-Nguyễn Văn Hạnh&Trần Bội Anh-Ý Lan




Thơ Cảm Tác: Kim Phượng
Thự Hiện Youtube & Thơ Tranh: Kim Oanh
Sáng Tác Nguyễn Văn Hạnh & Trần Bội Anh
Ca Sĩ: Ý Lan
Chân thành cảm ơn những hình ảnh từ Internet

Tà Áo Sao Rơi


Tà áo nào lộng gió sâu
Làm chao đảo những vì sao
Đêm mông lung và huyền ảo
Làn lụa đào nhẹ lao xao

Bóng đêm dài tóc chiêm bao
Nghe buông xỏa vai nhiệm mầu
Hương trần gian mùi diễm ảo
Đời bất chừng, chợt hư hao

Tà áo nào trắng đêm thâu
Vì sao bay không gian sâu
Giọt đêm rơi không nơi đậu
Nước mắt ơi! Những tinh cầu

Tà áo nào quạt ngàn sao
Đời ta bay đến phương nào
Cơn gió hay từng gươm giáo
Đâm từ từ, trái tim đau

Hoài Tử

Trần Phù Thế- Khách Trầm Mặc Bên Dòng Bassac,Hồn Chợt Bâng Khuâng Đi Tìm Mộng Trong “ Cõi Tình Mong Manh”

      

      Nhà thơ Trần Phù Thế một tên tuổi không mấy xa lạ đối với bạn đọc yêu thi ca nhất là những anh em bạn bè văn nghệ cùng một thời đồng hành với anh tại miền Tây sông Cửu.
      Với khuôn mặt hiền hòa, đôn hậu nhưng ẩn chứa một trời mơ mộng và hồn thơ đã phát tiết sớm vào đầu thập niên 1960. Sau những năm gian khổ của đời lính chiến, những ngày tháng bị giam cầm khi miền Nam sụp đổ, nhà thơ lúc bước khỏi ngưỡng cửa lao tù lại phải đối diện với nỗi đau khổ dày xéo tâm hồn mình, khi người bạn đời đã rẽ sang hướng khác.
      Cơn đau chất ngất ấy không thể diễn đạt trong đời thường mà chỉ in đậm nét trong thi ca anh. Thế nhưng trong giòng thơ anh nỗi đau ,vẫn là nỗi đau nhẹ nhàng như vết thương ,cứ ngỡ trầy xước bên ngoài cơ thể ,nhưng lại rõ máu trong lòng suốt phần đời còn lại.
“Ngày ra tù ta về ra đứng trước sân- Nghe mẹ nói con vợ mày đi biệt-Hai đứa con ba bốn tuổi làm sao biết- Lỗi ba đi tù hay lỗi mẹ còn son (Giỡn bóng chiêm bao -  Chuyện đời ta).

      Trần Phù Thế đã có hai thi tập được ấn hành tại hải ngoại. Giỡn Bóng Chiêm Bao in năm 2003 và Gọi khan giọng tình in năm 2009. Cả hai cuốn đều do Thư Ấn Quán xuất bản. Trần Phù Thế một đời dâng hiến cho thi ca, anh vẫn liên tục sáng tác khá đều tay. Thơ anh bay nhảy theo những con chữ (theo cách gọi của anh), phiếu diễu bay lượn như dòng sông Bassac chảy qua quê hương Đại Ngải một cách êm đềm theo năm tháng.

      Ở tuổi thất thập cổ lai hy, người già nhưng tâm hồn vẫn trẻ, “Thơ tình tuổi bảy mươi “của Trần Phù Thế mượt mà ngất ngưỡng. Thắc mắc của tác giả có tính cách cá biệt nhưng lại là nỗi ưu tư chung của mọi người. Cái gốc của khổ đau mà tôn giáo nào cũng vạch lối soi đường ngõ hầu hướng dẫn chúng sinh kinh qua sự khổ.
“ôm hình từ buổi sơ sinh -  từ khi tiếng khóc binh minh cuộc đời – bóng hình là một trên đời – đừng ai chia cắt tách rời hai nơi – bóng hình là máu thịt tôi (BHL MTT).
      Thể xác và linh hồn, ngôn ngữ dùng để diễn đạt hai phần căn bản của một con người. Bóng và hình, một cách ví von như xác và hồn. Hai vật thể không thể tách rời. Trong thi ca chúng ta vẫn sử dụng những đơn từ mà khi ghép lại ý nghĩa biến đổi một cách thanh thoát, linh động hẳn lên
Nắng – Mưa, Gió – Trăng, Mây – Nước, Hoa – Lá,  Anh – Em, Vợ- Chồng… Thiếu chúng thi ca sẽ kém phần thi vị chăng?
      Một ẩn dụ hay là sự mệt mõi trong cuộc sống của thế kỷ 20 bước sang thế kỷ 21, con người chắp cánh cùng với hỏa tiển ,phi thuyền, điện toán, mà thế hệ già như Trần Phù Thế chắc sẽ đứng bên lề:

“Ta đứng bóng nằm
Ta ngã bóng khóc
Ta đi bóng mệt
Ta nằm bóng tan
Ta ngủ bóng tàn”
(Bóng và ta)

“Trăm năm bóng chẳng theo hình – Ngàn năm bóng vẫn một mình cô đơn”, Trần Phù Thế một bóng đi tìm hình và tìm đến bao giờ?. Trong nỗi mông mênh cô quạnh, nhà thơ run rẩy theo nhịp tim đau nhức và vẫn thao thức, vẫn mong chờ ,dường như không tách rời khỏi tâm hồn tác giả, cho dù đôi khi nguyên ủy của vấn đề đến từ bằng hữu.
“Con tim đã mõi chín chiều -Nằm nghe lượng máu ít nhiều già nua”( BTĐCCNNĐ)
hoặc “Nầy em kiếp sống phù vân- đầu thai trở lại khóc phần dối gian”
(Lửa đời)

      Khát vọng lúc nào cũng chất ngất, nhà thơ “thèm cơn nước lũ, tình người dấu êm, trời xanh nắng ấm “ và bất ngờ tác giả ước ao được ôm ấp mọi ưu phiền của thế gian.Trái tim tác gỉa qủa độ lượng không ngờ.

      Cuối cùng là một tình yêu gắn bó, tình yêu thiêng liêng cao quí nhất của con người – đó là tình mẫu tử :

“Thèm nghe tiếng hát mẹ ru
Tuổi thơ xa lắc mịt mù tuổi thơ
Bây giờ chỉ có giấc mơ
Mới mong nghe  được tiếng hò Hậu Giang”
(Thèm)

      Còn nỗi vui nào hơn khi gặp lại bằng hữu nơi xứ người vì trong mỗi con người Việt Nam chúng ta vốn dĩ đã phân ly từ thuở khơi nguồn lập quốc:

“Ta thương ngươi thương thật thương thà
Ngươi thương ta tánh hiền chơn chất
Ngươi miền Trung ta Nam bộ
Và từ đó ta ngươi tình thân thuộc
Ngươi tên  lang bạt đến miền Tây
Giọt nước Cần Thơ ngươi uống mãi
(Uống rượu với Lê Đình Bì  ở SanJose)

      Bản chất hiền hòa của con người Nam bộ lại được thể hiện qua những ước muốn đơn sơ thuần hậu. Dòng sông Cửu khi chảy ngang quê hương anh đã chuyên chở phù sa từ thượng nguồn, mang theo những tố chất mầu mỡ, tài nguyên phong phú về thủy sản. Nhưng có ai biết con sông được xem là mạch máu chánh của miền Tây đã  quyện hương vị linh thiêng, huyền bí của ngọn Thất Sơn Châu Đốc và cũng chính nơi đây phát sinh ra hai tôn giáo mà dân chúng miền Tây không thể nào không ghi khắc- Phật giáo Hòa Hảo và Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương (đạo Hiếu Nghĩa)

      Anh linh của vị khai quốc công thần Thoại Ngọc Hầu vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tâm hồn người dân Bảy Núi.
“Đời anh cục đá bên đường- Bước chân ai đạp ai thương cũng đành -Còn em em có vì anh- Nâng niu cục đá xoa lành vết thương” (Anh như cục đá)
Một ý tưởng có ngây ngô nhưng bày tỏ trọn vẹn sự chân thành?

      Có những câu thơ đẹp, thiết tha trong trái tim tan vỡ ,chảy ngập ưu phiền
“Thịt da ngày tháng buồn tênh- Huống chi đông đã lạnh nghìn năm qua.” (mưa đêm tàn đông)
      Tình quê hương chợt ẩn chợt hiện pha lẫn chút tình yêu nam nữ luân lưu hài hòa không bao giờ thay đổi.
“Nhớ ơi quê cũ mưa rào tháng năm – đêm mơ thấy ướt chỗ nằm – tưởng đâu cái thuở xa xăm quê nhà.” (Nhớ mưa).
Hoặc đôi lúc băn khoăn.
“Được thua đâu có lạ gì – Nhưng thua mà được mấy khi có người – Đời là một giấc mơ thôi.” (thua)
Trong quắt quay xót xa lại có điều chi hối tiếc?

“Sông xưa làng cũ về thăm một chiều
Bóng đời ngã xuống liu xiu
Bước chân lên bóng trăm điều tình đau” (Làng xưa)

Những câu sáu tám, ba câu hàm súc vô vàn :
“Hồn em lăn mãi lăn đi một mình
Ngày nào dừng lại trang kinh
Nghe trong tâm thức giật mình ngộ không” (Hồn em)

      Chen lẫn với những câu thơ tình đẹp là những bài cảm nhận về thân phận con người trong tâm thức đầy nỗi xót xa:
“Hình như bóng nắng vừa tan
Hoàng hôn chưa tắt vội vàng đi chơi
Hình như chạng vạng xuống đồi” (Hình như)

“Buồn lây buồn lất một mình
Buồn sang cái bóng cái hình của ta
Nỗi buồn quê cũ càng xa” (Chút buồn lây)
Nỗi nhớ dị kỳ, bộc phát như trái phá, tác giả ngông nghênh:
“Nhớ quay quắt nhớ lạ lùng
Nhớ em đến nỗi trí cùn óc khô
Nhớ em chết cũng đội mồ” (Nhớ)

      Từ “Khóc là cười chẳng được sao” đến “Về nơi không nổi không chìm” chúng ta bắt gặp những câu khi đọc xong phải thẩn thờ suy ngẫm. Tác giả trải nghiệm 70 năm đời sống, vinh dự,hoan lạc ,chắc không nhiều nhưng buồn đau phải đầy ắp tâm hồn.

“Đọc ngàn trang sách làm gì
Xếp trang sách lại quên đi chính mình
Ta là hạt bụi trong kinh”
(Hạt bụi trong kinh)

      Chúng tôi không thể trích hết được những bài thơ tranh đẹp, hy vọng các bạn đọc tìm đến “Cõi tình mong manh” thưởng lãm
“Sáng nay còn gặp bạn già
Chiều nay bạn đã thành ma xứ người”
(Vô thường)
hoặc
“Một ngày khi tỉnh khi mê
Lòng trong yên lặng đi về lặng yên”
(Cõi chết)

      Hay như nỗi lòng Nguyễn Công Trứ chất ngất cơn phiền toái sau những thăng trầm trong cuộc sống ,từ quan bước xuống thành thứ dân. Ý niệm đổi thay trong cuộc sống có là sự khởi động theo dòng tư tưởng tìm sự an - nhàn của Lão Trang hay phảng phất phong vị thiền.

“Một mai đừng để làm người
Làm con mây trắng cõng hoài gió trăng
Chẳng là con chẳng là thằng
Chỉ là hạt bụi trong ngần kiếp sau”
(Cõi chết).

      Trong 99 bài lục bát mới, làm theo thể phá cách, Trần Phù Thế múa bút, chuyển đổi câu mở đầu bằng câu tám chữ thay vì câu sáu chữ như thông lệ và những câu sáu tám lại có dịp bay nhảy lên xuống mỗi đọan tùy theo cảm xúc của mình. Như một gịong hát ngân dài ,ngắn, trầm bỗng , luyến láy để chuyển tải lời ca, nốt nhạc đến tâm hồn người thưởng ngoạn.

“Đời như
Chiếc áo
Phong phanh kẻ nghèo
Tình như
Chiếc lá bay vèo
Trong cơn gió lộng cuốn theo bụi mù “-( Tình như).
      Hoặc câu sáu chữ yêu vận theo khuôn mẫu cổ điển:
“ Em đừng
Nói nữa
Anh đau buốt lòng
Sợi tình cắt đứt cho xong
Dây dưa chi mãi
Hai lòng đều đau “-( Xin em đừng nói)
      Hay thay đổi vị trí của câu tám chữ khi mở đầu:
“ Sông xưa
Về thăm một chiều
Bóng đời ngã xuống
Liu xiu
Bước chân lên bóng
Trăm điều tình đau”- ( Làng xưa)
      Hoặc ngắt đoạn trong câu sáu mở đầu thành ba phiên đoạn:
“ Long lanh
Giọt lệ
Vừa rơi
Từ trong giọt lệ là lời lặng câm
Biết bao giọt lệ khóc thầm”- ( Giọt lệ Việt Nam)
      Chỉ hai câu sáu tám, tác gỉa “phù phép” biến đổi:
“ Con chim nó gọi bạn tình
Còn ta gọi bạn
Một mình
Tàn hơi”- ( Tàn hơi).
      Trong hai câu này nếu muốn, tác gỉa có thể tung hứng:
“ Con chim
Nó gọi
Bạn tình
Còn ta
Gọi bạn
Một mình
Tàn hơi”.
      Chúng tôi chỉ đơn cử một vài thí dụ trong cách gieo vần đặt câu theo thể lục bát của Trần Phù Thế. Thể thơ này đã được một số tác gỉa và vài tạp chí văn học hải ngoại giới thiệu. Trong đó sự xếp đặt hai câu sáu tám rất tân kỳ và lôi cuốn, cốt sao phù hợp với ý tưởng, vần điệu. Nhà thơ là người bỏ hạt gieo trồng theo phương pháp nào tùy theo cảm hứng.
Một số tác gỉa lại khéo sử dụng những ngôn từ đầy tính ẩn dụ.

      Có người bất giác ví von, lối “ ngắt chữ” này đôi khi đọc lướt qua cứ ngỡ là thơ hài cú của Nhật Bản.
      Đến đây, chúng ta mới cảm nhận được sự vi diệu của thể thơ lục bát. Nguyễn Du với “Đoạn trường tân thanh” đã đưa lục bát lên vị trí cao nhất của nền văn chương Việt.
Những câu: “ Cỏ non xanh rợn chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” hay “Rừng thu phong đã nhuốm màu quan san..”. Trác tuyệt vô cùng.

      Quê hương và người tình – khung trời kỷ niệm là mái trường thân yêu thuở học trò. Cái thời mà Huy Cận đã viết những câu đậm đà ,bâng khuâng ,phả trong hương tình dào dạt:
“Một hôm trận gió tình yêu lại
Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ”

      Cần Thơ được mọi người mến yêu tặng cho mỹ danh Tây Đô. Vị trí nằm giữa các giao lộ chánh nối liền qua các tỉnh Hậu Giang như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Vĩnh Long và từ Cần Thơ dẫn đến Châu Đốc, tỏa ra các ngã về Rạch Giá, Hà Tiên. Cần Thơ thời Trần Phù Thế cắp sách là trung tâm duy nhất có các khóa thi tú tài I, tú tài II. Nam nữ học sinh đổ về cùng khoe bản sắc nơi mình sinh sống qua những đặc thù về ngôn ngữ, cá tính. Vẫn không thể quên được Ninh Kiều, nơi thưởng lãm cho khách nhàn du tại tỉnh thành hay  các nơi khác đổ về.
Và Trần Phù Thế:
“Tôi Cần Thơ gởi tình em
Như trời như  đất như tên một người
Một người sưởi ấm lòng tôi
Chia buồn khi khóc chia vui khi mừng”
(Chấp nhận) 
Hoặc ai hoài hơn:
 “Ơi Cần Thơ bến Ninh Kiều
Bao thế hệ chập chờn theo lịch sử
Hoài công thôi Tây Đô giờ máu ứ”
(Chiều cuối năm ngồi bến Ninh Kiều nghe sóng vỗ ).

      Phiên khúc tình yêu thoang thoảng như vỗ về như mời mọc, hồn thơ giấy mới trong trắng biết ngần nào.
“Tháng giêng non ngữa mặt tình
Hồn xuân bát ngát trên mình nắng xuân
Em về buổi ấy phù vân
Tinh khôi giọt nắng trong ngần tháng giêng”
 (Tháng giêng non)

      Dâu bể đời người, Trần Phù Thế đã từ thua thiệt sang mất mát hương nồng ái ân, thân phận là thân phận chung của thế hệ trai thời đó nhưng cách biểu hiện có khác nhau tùy theo tình huống của mỗi cá nhân. Chuyện đời bảy mươi của tác giả như bản tường trình, một nỗi đau thân phận ,trong đó gian truân là điểm nổi bật. Trước khi từ giã trần gian đầy hệ lụy, tâm tình vẫn chảy một dòng xuôi về quê nhà xa thẳm.
“Bảy mươi tuổi đợi từng ngày - Trông về cố quốc hồn quay quắt buồn -Từng đêm giấc ngủ chập chờn- Trong mơ tiếng mớ gọi hồn Quang Trung. ” (Tuổi 70)

Lại ngợi ca mùa thu, mùa thu lòng người, mùa thu cuộc đời sao không là mùa xuân thắm, mùa hè rực rỡ. Thu mang theo ý nghĩa thơ thẩn, man mác buồn. Đã vậy nhà thơ lại van vĩ, nuối tiếc
“Thu chưa đầy tuổi đã tàn
Lá chưa đầy tuổi đã vàng gió đông
Đêm qua mưa gió bão bùng
Rừng thu lá rụng muôn trùng lá thu”
(Thu tàn theo gió chớm đông)

      Tác giả có nhiều thắc mắc, nhiều câu hỏi thật .Từ “Hỏi người người sẽ về đâu – Còn ta về chỗ nông sâu dò tìm - mong manh hỏi người” hay “Thức cùng đêm tự hỏi mình – Sống bao nhiêu tuổi mà tình vẫn không – Thức cùng đêm” . “Bao năm quê cũ một phương – Đỏ lòm ngày mai nước mất hay còn – Hỏi”
hoặc đến:
“Tôi còn nước mắt nữa sao?
Khóc anh lần cuối máu trào con ngươi”
(Bài thơ đọc trước quan tài – khóc Anh Vân)

      Trong hai tập thơ trước “Giỡn bóng chiêm bao và Gọi khan giọng tình” nhất là trong “Giỡn bóng chiêm bao”, nhà thơ họ Trần đã xử dụng nhiều phương ngữ Nam bộ thật điêu luyện,mặc dù nhiều ngôn ngữ có tính chất phổ cập nhưng vẫn không làm giảm đi giá trị của bài thơ, nhất là những câu sáu tám thật xuất thần.
Trong thi tập “Thơ tình Trần Phù Thế” chúng ta thử lướt qua nhận dạng mẫu anh chàng “chân quê Nam Bộ” Trần Phù Thế.

“Lần đi cuống quít cuống chân …”- Bóng đời
“Chiều nghiêng tuổi lạnh bóng rên sự đời ” -Bóng tự giễu
Tối hù mưa gió lưa thưa”– Bóng mù
“Nên hồn ớn lạnh”– Trong hư vô
“Trai tơ là tuổi rượn tình dĩ nhiên”
Cứ quanh cứ quẩn cái tình dững dưng” –Hà
“Anh tin nó sẽ bện thành giấc mơ” – Rót rượu
“Khi đau mặc kệ đứng lên làm người” – Rót rượu
“Nay ở thị thành lạ hoắc lạ huơ” – Anh như cục đá
“ Xám mốc tương la”  -TGCHN
 “Đã yếu xìu như cọng bún thiu-Và
“Trái tim ngáp ngáp” – Mơ một ngày Sài Gòn
“Nghe trong xương cốt rêm rêm trở mình” – Tỉnh giấc
Buồn lây buồn lất “… -Chút buồn lây
“Cá lóc rình sẵn đớp mau” – Kiếp phù sinh
Số xui tận mạng” - Thử
“Có đui con mắt cũng thèm” – Tội tình là em

      Rồi đến (vinh râu,ngoéo tay, mình ên,mần thinh, quậy liền, mút chỉ, ăn vụng, quên tuốt, nhẹ hều, dị hờm, bậu…)
      Những ngôn ngữ đặc thù Nam Bộ trên rất chân phương, biểu lộ rõ bản chất con người đang sống ở một vùng đất phì nhiêu, do đó tâm hồn con người cũng trở nên phóng khoáng. Nhớ khoảng thập niên 1950-1960 các nguồn lợi về thủy sản của miền Tây rất phong phú. Hàng năm dòng sông Cửu Long mang về vô số cá nước ngọt. Ngoài đồng, nông dân chỉ cần đặt lờ, đặt lọp, kéo vó hoặc đi cắm câu lai rai là đủ chất đạm cần thiết cho gia đình. Chim chóc từ vùng Rạch Giá, Cà Mau, Sóc Trăng (Cổ Cò, Trà Cú) được đưa về các chợ hoặc chuyển lên Sài Gòn như trích, le le, chàng nghịch, ốc cao…
Trong tập “Cõi tình mong manh” có những câu thơ rất là thơ:
“Ru em trăng chết muộn màng – Hồn trăng lảng đảng bên ngàn đầy thu – đêm đêm gió thở sương mù – Lời ru”
“Cái ngày ta tuổi mười lăm – Một hôm bỗng thấy lòng lâm râm buồn – Tình đầu”
hoặc dịu dàng:
“Dỗ dành em là ái tình – Vuốt ve em là chút yêu mình mình ơi – Lấy điểm”.



      Trần Phù Thế qua những trang thơ bản thảo tôi vừa đọc, tuy là “Cõi tình mong manh “, tôi vẫn cảm nhận được những dằn vặt, ray rức tràn ngập trong hồn người thơ.

      Tình yêu lảng đảng sương khói của anh tan biến theo bóng mây quê nhà, hoà nhập vào không gian bao la của đất nước người và tình yêu ấy vô hình chung gia tăng cường độ đến không ngờ.
Từ anh chàng đầu còn húi trọc đến khi bước vào đời lính chiến, kỷ niệm có làm tâm hồn Trần Phù thế nhạt phai? Trong thi tập anh , bàng bạc nỗi nhớ niềm thương và chỉ quên được khi xuôi tay về nơi miên viễn.

      Tình yêu quê hương đất nước, một nhánh khác quan trọng của trái tim, theo máu luân lưu chảy miên man trong cơ thể. Đột biến của đời thường đã tác động đến chúng ta, kinh hoàng hơn cơn địa chấn. Vì địa chấn chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Phần chúng ta phải cần bao thế hệ mới có cơ may hàn gắn – nếu có thể.

“Ta về mười năm chưa về -Bước chân khổ nạn hồn tê nỗi buồn – Tháng tư ta về”

Hay cảm khái hơn:
“Còn ta mãi mãi tên thua trận – Ôm cả niềm đau tận đến giờ – Uống rượu với Lê Đình Bì ở San Jose”

      Thủ đô hoa lệ của chàng chỉ còn trong trí nhớ – Sài Gòn của chàng là chiếc bình cũ dung chứa hương rượu mới – liệu có còn đủ sức mê hoặc để làm hồn chàng say khước nữa hay không?
“Một ngày mơ chút Sài Gòn – Chút mưa chút nắng đâu còn dáng em – Bao năm mất bóng người quen – Đâu còn cơn gió gọi tên chúng mình - Một ngày mơ Sài Gòn.”
      Lệ của chàng không phải dâng tặng cho người tình mà lại là giọt lệ Việt Nam. Lòng chàng tha thiết quá:
“Long lanh giọt lệ vừa rơi – Từ trong giọt lệ là lời Việt Nam – Biết bao giọt lệ khóc thầm” hoặc “Hồn thiêng tổ quốc lời thề Việt Nam – Sẽ về”

Hay trong bài “Tạ lỗi ngày về”
“Ngày về tạ lỗi liếp rau – Liếp rau hoang phế liếp trầu vắng tanh – Chỉ còn xiêu vẹo mái tranh – Và cây vú sửa trơ cành chiều hôm.”

      Chàng kể lể “Thì ra lịch sử đau lòng nước”, đến khi trở về chàng cũng “Tha thứ và buông bỏ”, những năm tù đày gian khổ xem như kiếp nạn đời người - “Coi như một kiếp sắc không – Oan oan tương báo cái lòng nào vui.”. Thật vô vàn cảm phục.

      Chàng rõ ra là một con người thuần hậu đầy nhân bản của con người miền Tây, một người cầm súng miền Nam như nhà thơ lính Trần Hoài Thư luôn luôn hoài niệm trong niềm kiêu hảnh.
Trong “Nói với đêm giao thừa”, chàng lại thảng thốt:
“Hai mươi năm một giấc mê – Còn bao năm nữa lời thề mới xong.”

      Tập thơ khép lại, chúng tôi hy vọng được giới thiệu đến quý bạn đọc những ghi nhận mộc mạc của mình bằng sự rung động của trái tim gởi đến một người bạn của một đời.
Chúng tôi cảm ơn Trần Phù Thế đã cho tôi những giây phút trầm mặc giữa cuộc sống đầy hệ lụy hôm nay khi mà tâm cảnh nặng sầu hơn viễn cảnh.Thật sảng khoái khi bắt gặp: (Nửa đêm tỉnh giấc ở trần – Nằm yên gió tạt mộ phần lạnh run- Kiếp người).
Và chúng ta có sẳn sàng đồng hành cùng chàng chăng?.
Thi tập “ Cõi tình mong manh” do Thư Ấn Quán xuất bản.

Lâm Hảo Dũng
Vancouver, B.C- Canada
June 15/13

* (Đây chỉ là cảm nhận riêng tư của người đọc thơ viết về một người thơ. Mong qúi bạn đọc thông cảm nếu có gì sai sót).

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Tin Vui: Chương Trình Làm Chân Tay Giả Miễn Phí



Tháng 6/2014 có một đoàn bác sĩ từ thiện từ Mỹ về Sài Gòn. Với chương trình làm chi giả cho những người nghèo không đủ điều kiện tự làm.
Bệnh nhân cần nộp hồ sơ trước 30/5. 
Hồ Sơ gồm:
- 1 ảnh chụp thẳng nguyên người, thể hiện rõ tay hoặc chân nào bị mất.
- 1 sơ yếu lý lịch
- 1 photo chứng minh nhân dân và hộ khẩu.
- Không giới hạn số lượng.
- Tất cả người nào muốn làm đều được ghi danh
.

Lưu ý: chương trình hoàn toàn miễn phí.

Chúng tôi CÓ THỂ hổ trợ tiền xe, sắp xếp chỗ ở cho một số người không có đủ chi phí để đến được Sài Gòn để được làm chi giả.
- Chỉ nhận hồ sơ bệnh nhân không bị bệnh tiểu đường.

Các bạn của tôi, nếu có biết ai cần xin cố gắng giới thiệu giúp họ nhé.
Đ
ịa ch liên lạc: 283/26-28 CMT8, F.12; Q10.
ĐT: 0918 321 888 (gặp c.Ngân)
Không giới hạn số lượng, tuổi tác, thành phần tham gia ghép chi giả. 
Xin tiếp tay phổ biến thật rộng rãi, xin chân thành cảm tạ.

Bản Tin của TCDV

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Đợi Nhau Bạc Đầu

    (tặng Lâm Hảo Khôi)

Em có còn xe đạp qua cầu
nối hai bờ mà đến thăm nhau
bên kia Chương Dương, bên này Vĩnh Hội
chỉ một dòng sông… tìm đến bạc đầu

Em có còn mỗi sáng đến trường
quyển vở chép đầy nỗi nhớ bình phương
giờ xa nhau lũy thừa tăng triệu triệu
em viết làm sao con số nỗi buồn?

Em có còn hẹn nhau Duy Tân
ngượng ngập trao nghiêng phớt nụ hôn gần
bởi hàng cây cao che trời ngó xuống
nên lời hẹn thề không có chứng nhân

Em có còn xõa tóc ngang lưng?
sợi cột tim anh sợi níu chân
có người lính trẻ luôn trể phép
và trể luôn lần hẹn cuối cùng

Em có còn đứng cổng sân ga?
đợi chuyến tàu về đón khách đường xa
khách đường xa không còn về phố
ai đứng chờ ai quên mất tuổi già

Nguyễn Bình Thường 

(Brisbane)

Bậu Về


Bậu về mắt liếc đong đưa
gió xuân đầy mặt như vừa chín cây
bậu về má đỏ hây hây
ta mười lăm đã lòng say bậu rồi

Bậu còn chơi ác nói cười
những câu dí dỏm chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng thương mưa
hình như cây cỏ cũng ưa bậu về

Như là có chút nắng hè
như là có cả chùm me chua lừng
như là xoài Tượng thơm dòn
bỏ vào nước mắm chút đường khó quên

Bậu về Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc bắt đền tội ta
bỏ quên là tại bậu mà
tại sao lại bắt đền ta một đời
tội nầy ai chịu bậu ơi!


Trần Phù Thế
( Trích từ thi tập Gọi Khan Giọng Tình -
Thư Ấn Quán xuất bản tháng 4/2009 tại Hoa Kỳ)


Thơ Tranh: Kỷ Niệm Trong Tôi


Trích Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Trăng Hạ


Đã về chưa, đã đến chưa 
hạ đỏ trời xám đất 
em ngập ng
a bảo giông mùa lạ 
anh âm u đoản khúc ru buồn 
Tươi xanh quá 
Lá xanh – xanh đến ngát 
đời cỏ đong đưa lời biếc ngộp rừng 
Em xa anh 
ở đâu đó bóng chim sầu vượt mạn 
………. 
Em đứng cười rẫy gió 
vờn bóng đổ trăng mơ 
Trăng hạ 
Trăng rờn rợn lăn quay 
Lăn nghiêng nghiêng suốt dốc thẳm sa mù. 


Tín Đức


Việt Nam Sử Lược : Thượng Cổ Thời Đại Chương 4


1. Triệu Vũ-vương
2. Vũ-vương thụ-phong nhà Hán
3. Vũ-vương xưng đế
4. Vũ-vương thần-phục nhà Hán
5. Triệu Văn-vương
6. Triệu Minh-vương
7. Triệu Ai-vương
8. Triệu Dương-vương

1. TRIỆU VŨ-VƯƠNG (207-137 tr. Tây-lịch). Năm quí-tị (207) Triệu Đà đánh được An-dương-vương rồi, sáp-nhập nước Âu-lạc vào quận Nam-hải, lập thành một nước gọi là Nam-việt 南 越, tự xưng làm vua, tức là Vũ-vương 武 王, đóng đô ở Phiên-ngung 番 禺, gần thành Quảng-châu bây giờ.

2. VŨ-VƯƠNG THỤ-PHONG NHÀ HÁN. Trong khi Triệu Vũ-vương gây-dựng cơ-nghiệp ở Nam-việt, thì ở bên Tàu, ông Lưu Bang 劉 邦 trừ được nhà Tần 秦, diệt được nhà Sở 楚, nhất-thống thiên-hạ, rồi lên ngôi Hoàng-đế, tức là vua Cao-tổ nhà Hán 漢 高 祖. Vua Cao-tổ thấy Triệu Vũ-vương độc-lập ở phương nam, bèn sai Lục Giả 陸 賈 sang phong cho Vũ-vương. Bấy giờ là năm ất-tị (196 tr. Tây-lịch), năm thứ 12 đời vua Vũ-vương nhà Triệu, và năm thứ 11 đời vua Cao-tổ nhà Hán.

Vũ-vương vốn là người kiêu-căng, có ý không muốn phục nhà Hán 漢, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết-kiến Vũ-vương, Vũ-vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: « Nhà vua là người nước Tàu, mồ-mả và thân-thích ở cả châu Chân-định 真 定. Nay nhà Hán đã làm vua thiên-hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng-cự sứ-thần, không làm lễ thụ-phong, Hán-đế tất là tức giận, hủy-hoại mồ-mả và giết hại thân-thích của nhà vua, rồi đem quân sang đánh thì nhà vua làm thế nào? » Vũ-vương nghe lời ấy vội-vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: « Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán-đế! »

3. VŨ-VƯƠNG XƯNG ĐẾ. Năm mậu-ngọ (183 tr. Tây-lịch) vua Cao-tổ nhà Hán mất rồi, bà Lữ-hậu 呂 后 lâm triều tranh quyền Huệ-đế 惠 帝, rồi lại nghe lời gièm-pha, cấm không cho người Hán buôn-bán những đồ vàng, đồ sắt và những đồ điền-khí với người Nam-việt. Vũ-vương lấy làm tức giận, lại ngờ cho Trường-sa-vương 長 沙 王 xui Lữ-hậu làm như vậy, bèn tự-lập làm Nam-việt Hoàng-đế, rồi cử binh-mã sang đánh quận Tràng-sa (tỉnh Hồ-nam bây giờ).

Năm Canh thân (181 tr. Tây-lịch) Hán-triều sai tướng đem quân sang đánh Nam-việt. Quân nhà Hán chịu không được thủy-thổ phương nam, nhiều người phải bệnh-tật, bởi vậy phải chạy thua về bắc. Từ đó thanh-thế Triệu Vũ-đế lừng-lẫy, đi đâu dùng xe ngựa theo nghi-vệ Hoàng-đế, như vua nhà Hán vậy.

4. VŨ-VƯƠNG THẦN PHỤC NHÀ HÁN. Đến khi Lữ hậu mất, Hán Văn-đế 漢 文 帝 lên ngôi, lại sai Lục Giả đưa thư sang khuyên Vũ-đế về thần phục nhà Hán. Thư rằng:

« Trẫm là con trắc-thất vua Cao-đế, phụng-mệnh ra trị nước Đại, vì non sông cách-trở, thẹn mình phác-lậu, cho nên lâu nay chưa từng đưa thư sang hỏi thăm nhà vua.

« Từ khi đức Cao-đế xa bỏ quần-thần, đức Huệ-đế qua đời, bà Cao-hậu làm-triều, không may bị bệnh, để cho họ Lữ chuyên quyền, toan đem con họ khác để nối-vì đức Huệ-đế. May nhờ nhà Tông-miếu linh-thiêng, các công-thần ra sức dẹp kẻ tiếm-nghịch.

« Trẫm vì các vương-hầu cùng bách quan cố ép, cho nên phải lên ngôi Hoàng-đế. Mới rồi trẫm nghe nhà vua có đưa thư cho Long-lư-hầu, nhắn tin và xin anh em họ-hàng ở quận Chân-định, và xin bãi binh ở quận Trường-sa.

« Trẫm cũng nghe lời thư của nhà vua, thì đã bảo tướng-quân Bác-dương-hầu bãi binh về, còn anh em họ-hàng nhà vua ở Chân-định thì trẫm đã cho người thăm-nom, lại sai sửa-sang phần-mộ nhà vua, thật tử-tế.

« Thế mà vừa rồi trẫm nghe nhà vua còn đem binh quấy-nhiễu ngoài biên, quận Trường-sa thật khổ, mà Nam-quận lại còn khổ hơn. Làm như thế, nước nhà vua có chắc lợi được một mình không? Tất là tướng-tá quân-sĩ chết nhiều, làm cho vợ người góa chồng, con người mồ-côi bố, cha mẹ mất con, được một mất mười, trẫm không lòng nào nỡ làm như vậy.

« Vả lại được đất nhà vua cũng không lấy làm to, được của nhà vua cũng không đủ làm giàu. Vậy thì từ phía nam núi Lĩnh thì mặc ý nhà vua tự-trị lấy. Nhưng nhà vua cứ xưng đế hiệu, hai bên cùng là đế-quốc mà không sai sứ giao-thông, thế chẳng hóa ra ganh nhau ư? Ganh nhau mà không nhường, thì người nhân không thèm làm.

« Trẫm nay xin cùng nhà vua gác bỏ điều cũ, từ rày trở đi, thông sứ như xưa. Vậy trẫm sai Lục Giả sang đem ý trẫm khuyên nhà vua nên nghe, chứ làm chi nhiều sự cướp bóc tai-hại ».

Xem thư của Hán Văn-đế lời-lẽ tử-tế, thật là có nhân-từ, vì thế cho nên Triệu Vũ-đế phải chịu phục, và đáp thư lại rằng:

« Nam di đại-trưởng lão-phu thần, Đà, muội tử tái bái, dâng thư lên Hoàng-đế bệ-hạ. Lão-phu là kẻ cố-lại nước Việt, khi Hiếu Huệ Hoàng-đế lên ngôi, tình-nghĩa không dứt, vẫn hậu đãi lão phu. Đến khi Cao-hậu làm triều, lại phân-biệt ra Trung-hoa, ngoại di, hạ lệnh cấm không được bán cho Nam-việt những đồ vàng sắt và điền-khí; còn ngựa, trâu, dê thì chỉ bán cho giống đực, chứ không bán cho giống cái.

« Lão-phu ở phương xa mà không có vật cúng-tế thì phải tội, vì thế có sai Nội-sử Phan, Trung-úy Cao và Ngự-sử Bình, ba lượt dâng thư sang thượng-quốc tạ quá, đều không trở về cả.

« Lão-phu lại phong văn rằng nhà Hán đem hủy-hoại cả phần mộ lão-phu cùng giết cả anh em tông-tộc lão phu, cho nên có bàn riêng với chúng rằng: nay trong đã không vẻ-vang với nhà Hán, ngoài lại không có gì hơn được nước Ngô, vậy có xưng đế-hiệu; mà chẳng qua tự đế nước mình, không dám hại gì thiên-hạ.

« Cao-hậu nghe thấy thế, lấy làm tức giận, đem tước-bỏ sổ Nam-việt đi, không cho thông sứ, lão-phu trộm nghĩ rằng hẳn vì Trường-sa-vương gièm-pha, cho nên Lão-phu có đem binh đánh.

« Lão-phu ở đất Việt đã bốn mươi chín năm nay, bây giờ đã có cháu rồi, nhưng mà sớm khuya trằn-trọc, ăn không ngon, ngủ không yên, mắt không dám trông sắc đẹp, tai không dám nghe đàn vui, là chỉ vì cớ không được phụng thờ nhà Hán. Nay nhờ bệ-hạ đoái thương, cho phục lại hiệu cũ, thông sứ như xưa, lão-phu nhờ ơn, dẫu chết xương cũng không nát.

« Vậy xin cải hiệu từ đây, và xin có cống-phẩm phụng-hiến Hoàng-đế bệ-hạ ».

Từ khi Triệu Vũ-Vương chịu bỏ đế-hiệu, Nam, Bắc lại giao-thông hòa hiếu không có điều gì nữa.

Năm giáp-thìn (137 trước Tây-lịch), Triệu Vũ-vương mất. Sử chép rằng ngài thọ được 121 tuổi và làm vua được hơn 70 năm.

5. TRIỆU VĂN-VƯƠNG (137-125 trước Tây-lịch). Triệu Vũ-vương truyền ngôi lại cho cháu đích-tôn, tên là Hồ 胡, tức là Triệu Văn-vương 趙 文 王, trị vì được 12 năm.

Triệu Văn-vương vốn là người tầm-thường, tính-khí nhu-nhược, không được như Triệu Vũ-vương. Khi mới lên làm vua được hai năm, thì vua Mân-việt 閩 越 (tỉnh Phúc-kiến bây giờ) đem quân sang đánh phá ở chỗ biên-thùy nước Nam-việt. Triệu Văn-vương không dám cử binh-mã ra chống cự, sai sứ sang cầu cứu bên Hán-triều.

Vua nhà Hán sai Vương Khôi 王 恢 và Hàn-an-Quốc 韓 安 國 đi đánh Mân-việt. Quân Mân-việt thấy quân nhà Hán đến nơi, bèn bắt Quốc-vương giết đi, đưa đầu nộp cho quan nhà Hán, và xin hàng. Mân-việt đã bình rồi vua nhà Hán sai Trang Trợ 莊 助 sang dụ Triệu Văn-vương vào chầu, nhưng mà đình-thần xin đừng đi, bèn cho thái-tử là Anh Tề 嬰 齊 đi thay.

Anh Tề ở bên Hán-triều mười năm, đến năm bính-thìn (125 tr. Tây-lịch) vua Văn-vương mất thì mới về nối ngôi.

6. TRIỆU MINH-VƯƠNG (125-113 tr. Tây-lịch). — Anh Tề lên làm vua tức là Triệu Minh-vương 明 王, trị vì được 12 năm.

Khi Anh Tề ở bên Hán có lấy người vợ lẽ là Cù-thị 樛 氏, đẻ được một người con tên là Hưng 興. Đến khi về làm vua Nam-việt, Minh Vương lập Cù-thị lên làm hoàng-hậu và Hưng làm Thái-tử.

7. TRIỆU AI-VƯƠNG. Năm mậu-thìn (113 tr. Tây-lịch) Triệu Minh-vương mất, thái-tử Hưng lên làm vua, tức là Triệu Ai-vương 哀 王, trị-vì được một năm.

Bấy giờ vua nhà Hán cho An-quốc Thiếu Quí 安 國 少 季 sang dụ Nam-việt về chầu. Thiếu Quí nguyên là tình-nhân của Cù-thị lúc trước, đến khi sang Nam-việt gặp nhau, lại tư-thông với nhau rồi dỗ-dành Ai-vương đem nước Nam-việt về dâng nhà Hán.

Khi Cù-thị và Ai-vương đã định về Hán-triều, thì có quan Tể-tướng là Lữ Gia 呂 嘉, biết rõ tình-ý, đã can-ngăn mãi không được, mới truyền hịch đi mọi nơi nói rằng vua và Cù thái-hậu sắp đem nước dâng cho nhà Hán; rồi Lữ Gia cùng với mấy người đại-thần đem quân cấm-binh vào giết sứ nhà Hán, Cù-thị và Ai-Vương. Đoạn rồi tôn Kiến Đức 建 德 lên làm vua. Kiến Đức là con trưởng của Minh-vương, mẹ là người Nam-việt làm vua.

8. TRIỆU DƯƠNG-VƯƠNG. Kiến Đức lên làm vua, tức là Dương-vương 陽 王. Dương-vương mới lên làm vua được độ một năm thì vua Vũ-đế nhà Hán 漢 武 帝 sai Phục-ba tướng-quân là Lộ bác Đức 路 博 德 và Dương Bộc 揚 僕 đem 5 đạo quân sang đánh lấy Nam-việt. Quan Thái-phó Lữ Gia ra chống cự không nổi, phải đem Dương-vương chạy. Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại cả. Năm ấy là năm canh-ngọ (111 tr. Tây-lịch), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy, cải là Giao-chỉ-bộ 交 趾 部, chia ra làm 9 quận, và đặt quan cai-trị như các châu quận bên Tàu vậy.

 Huỳnh Hữu Đức sưu tầm


Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Tình Anh - Sáng Tác Huỳnh Hữu Đức - Nguyễn Đức Tri Tâm Phối Khí





Nhạc Và Lời: Huỳnh Hữu Đức
Phối Khí: Nguyễn Đức Tri Tâm

Người Như Lá Biếc *


(Tặng Lâm Hảo Khôi)

Thứ bảy tôi về, nỗi buồn mới tới
Người như lá biếc, em bỏ vườn đi
Sâu chuổi bỏ quên. chờ. bóng Mẹ về
Nhà tôi bên đồi, chén trà tháng chạp

Quán cũ, đêm mưa nhớ Trần Kiêu Bạt
Tôi vẫn còn đây như cây sao già
Lá xanh màu đâu hẹn buổi vàng hoa
Tâm hồn em, những mùa trăng tháng tám

Lính rừng, rót sao đầy chén mười năm trước
Vẫn thương hoài chiếc áo bà ba
Tháng tám mưa về, chiều hạ em qua
Con đường, chờ nhau, chiều mưa ngã bảy

Hạt nhớ người gieo: khăn hồng, vọng cổ
Người lính cũ, nhớ tháng tư, ngựa già
Rượu cạn, người về nhan khói tình ta
Hỏi em, người dưng, những ngọn đèn xanh đỏ

Đêm biết người về, chén trà tháng chạp
mùa đông, nhớ chùm mận đỏ em trao
này em, ta về nhúm lửa chờ nhau
có lẻ, tháng giêng, người như lá biếc

*chữ toàn là tựa thơ Lâm Hảo Khôi
Trừ một chữ ở câu 3 :
Chờ
Bạn, ta chung một nỗi chờ
Triều thơ đả điếu, giấc mơ còn dài
Bạn trà, ta rượu lai rai
Con kinh ngã bảy có hai ngã đời

Phạm Ttương Như
( Nhận tập thơ, đọc một mạch hết sạch, quá đã. đa tạ LHK)
11/29/12

Rừng Chí Linh Đêm 24-8-73 (Ái Hữu 72)

      Anh chị em thân!
      Đêm nay sinh hoạt xong mưa ướt hết cả người nên không tài nào ngủ được. Tự nhiên Tánh thấy nhớ bạn bè nhiều lắm. Nhớ từng khuôn mặt – từng giọng nói của mỗi người hay đúng hơn là nhớ nhiều đến những lần họp mặt của hội Ái Hữu .Tánh nghĩ đến ngày họp thường niên đúng vào Noel- có lẽ ngày này Tánh không có dịp về - để vui với bạn bè với các anh chị em, nên Tánh mới viết về cho anh chị em một lá thư để thay thế –lấp vào chỗ trống của buổi họp cuối năm.


       Anh chị em thân! Giờ này có lẽ tất cả đều tề tựu về gặp mặt nhau đúng như nội qui của hội qui định. Tánh không biết là nơi đâu: ở nhà chị Hà như năm rồi - ở nhà Tâm  hay nhà Tùng??? Nhưng dù sao cũng còn nhiều diễm phúc để gặp nhau tâm sự vui vẻ, còn nhiều may mắn lắm. Từ đó muốn có vài lời – những lời thành thật phát xuất từ người bạn thành thật chứ không dối như xưa nữa đối với anh chị em. Vì theo Tánh nghĩ anh chị em gặp nhau ngày hôm nay cũng còn đủ phương tiện khả năng đạt mục đích cuối cùng của sự học. Tánh thành thật chúc cho các bạn tất cả sẽ thành công với ước mơ, với ý hướng đã chọn và thích từ lâu của các bạn. Vì theo Tánh thì không có gì sung sướng bằng ước mơ của mình thành tựu cả! Với tất cả bạn bè đậu vào đại học thì Tánh có thể đoán được, còn những người kém may mắn hỏng khóa một tú tài II Tánh cũng rõ hết, vì trước khi đi Tánh có xem kết quả  Tú tài II đầy đủ dán ở Saigon. Đối với các bạn thiếu may mắn Tánh hy vọng sẽ đậu khóa 2, giờ này Tánh biết là dời lại đến 5-9 thay vì 29-8. Ai đậu vào đại học thì Tánh thành thật chia vui đó! Còn ai đậu khóa 2 thì cũng hơi buồn một tí, vì đường vào Đại Học không còn thênh thang nữa. Nhưng dù sao “có còn hơn không “Dù sao vẫn còn diễm phúc hơn những người bạn gãy gánh nửa chừng – cũng còn hơn những người nhập cuộc – thực sự giã từ tuổi học trò.
       Anh chị em thân! không phải giờ đây Tánh mới thấy giá trị của “đời người còn đi học“ mà đã hơn một lần Tánh đã nói với một vài anh chị em khi còn học đệ tam, trong buổi tất niên cuối năm: còn đi học thì nhất - cái gì cũng thoải mái, lý tưởng lắm – Tánh có thể nói và có thể khẳng định rằng không có bút mực nào tả được hết cái sướng cái đẹp của đời học sinh đúng nghĩa hết. Tuy có một vài điều làm cho mình phải ra đi khi còn đi họ ra đi khi chưa đi hết cuộc đời học sinh – cái đó Tánh nghĩ có lẽ số mệnh của mỗi người đã đặt để rồi không thể chống  lại được.

      Các bạn thân! Từ đó Tánh xin có ý kiến với những anh chị em nào có đủ phương tiện để tiếp tục đi hết con đường đã chọn trước mặt thì hãy ráng lên bằng mọi cách phải ráng hoàn tất đoạn đường cuối cùng. Dù sao đi nữa, thời bình hay thời  chiến – còn đi học – ước mơ vẫn còn sống thì không còn gì vui sướng bằng, cũng còn hơn những người nhập cuộc, thật sự rời xa trường lớp, có thể vì một lý do nào đó hay tại mình để hoàn cảnh đưa đẩy (tại mình dở) thiếu ý chí như Tánh chẳng hạn. Tánh muốn nói là đi vào phân khoa mình không thích, vào đó chỉ là việc bất đắc dĩ cũng vẫn hơn (còn sướng lắm) không phải vào lính rồi Tánh mới thấy điều này – trước khi nhập cuộc Tánh đã biết được dự đoán được những gì sẽ xảy ra trong tâm hồn mình lúc ở quân trường. Tánh muốn nói đối với anh chị em nào ở vào hoàn cảnh giống như Tánh thì hãy tiếp tục đi nốt con đường cuối đi. Theo Tánh nghĩ đôi khi” thời thế tạo anh hùng “đôi khi hoàn cảnh sẽ làm cho cuộc đời mình đổi hướng bất ngờ và sự bất ngờ thường đưa đến những cái hay mà mình không ngờ được .
            
      Anh chị em thân! bây giờ thì có người sống những ngày tháng đầu tiên của đời sinh viên rồi. Kể ra thì sung sướng không có gì đánh đổi được, đối với ai cuộc sống hơi khó khăn bằng mọi cách hãy cố vươn lên chớ đừng nản để phải gãy gánh như Tánh thì càng khổ hơn nữa. Với tình bạn thân, với tư cách là  người bạn đã va chạm đời sớm, đã nhập cuộc, với kinh nghiệm Tánh so sánh hai cuộc đời: đời lính và đời học sinh. Tánh có ý khuyên anh chị em còn mài quần ở ghế nhà trường hãy ráng mài thêm cho hết thời gian đã định, ở nhà dù sống cuộc sống cho khổ đến đâu chăng nữa vẫn hơn – đó là chưa nói đến những điều kiện vật chất ở trong quân trường – Tánh không dám kể hết đời sống quân trường cho tất cả nghe, mà nghe thì cũng chẳng có hiểu gì hết chỉ người trong cuộc mới hiểu và rõ mà thôi. Hơn nữa kể cho các bạn nghe hóa ra tánh tả oán thêm cho  những người có trách nhiệm ở quân trường. Và cũng có thể anh chị cho là Tánh vào quân trường có mấy tháng mà “ba hoa‘ quá nhiều khi trở thành vô nghĩa là khác.

Theo chú thích: Ăn hiếp con nít!
Tánh: tao banh họng mầy ra cho mầy uống nước.
Tùng: “ Chời “mầy cho tao uống nước sao? Tao dìa tao méc má cho coi!

      Anh chị em thân! Dù Tánh gãy gánh nửa đường như bù lại Tánh được nhiều diễm phúc trong tình cảm bất diệt của bạn bè đã dành cho. Đôi lúc các bạn đối xử thành thật và hết lòng thương yêu giúp đỡ Tánh (Tánh không quên và sẽ không bao giờ quên được buổi tất niên ở nhà chị Hà) . Bằng lời nói – bằng tinh thần cao quí đó đủ để cho Tánh sung sướng rồi. Và Tánh nếu không lầm thì Thủy Tiên, Sương, Tâm, Hà, Duyên và có thể còn nữa muốn giúp đở Tánh một cách thành thật – bằng hành động cao quí. Nhưng anh chị em đã bị Tánh dối – trong số bạn bè có thể vài người đã biết Tánh giã từ sách vở, thật sự rời xa trường, xa lớp từ tháng 11/72. Phải! bây giờ – bây giờ đến sau những gì Tánh nói cho bạn bè biết, việc đó phát xuất từ trong lòng của một người thành thật chứ không còn dối nữa đâu. Anh chị em biết không? tại sao Tánh dối bạn bè không nói thật cái hiện tại của mình lúc đó cho bạn bè rõ. Thật sự lúc đó khi Thủy Tiên hỏi Tánh – Tánh cảm động nhiều lắm – suýt chút nữa Tánh đã nói hết sự thật cho bạn bè biết rồi. Thế nhưng Tánh phải giấu kín, chỉ có vài người biết thôi – và những lý do Tánh không thể cho bạn bè biết ngay lúc đó, để bạn bè hiểu Tánh thêm cũng như lý do Tánh quyết định rời Đại học Hòa Hảo. Tánh hứa nếu có dịp thuận tiện nào đó sẽ cho tất cả rõ – vì bây giờ nếu viết hết những lý do đó ra đây không tiện với lại nhiều quá thì làm sao viết hết được cho đủ và cho đúng. Anh chị em thông cảm cho Tánh gác lại chuyện đó đi, và môt lần nữa Tánh hứa trước sau gì các bạn cũng rõ tất cả.

Cô Dương Vương Thị Tùng  và cô bạn trên cồn cát Cái Tàu

        Anh  chị em thân, đối với hội Ái Hữu của mình theo Tánh nghĩ: vài năm nữa, có thể khoảng 4 hay 5 năm nữa mới có đủ được sự đóng góp đầy đủ vào đấy những tình cảm cao quí và mới có buổi họp mặt đầy đủ không thiếu vắng một ai! Chứ bây giờ mỗi người một nơi – muốn về thì cũng bị nhiều phiền phức - bị cản trở. Tánh hy vọng khi mình – tất cả - hay 3 năm nữa sẽ có nghề nghiệp chắc chắn rồi – ra trường hết rồi – lúc đó chắc vui lắm. Ngày họp mặt đó – ngày lần đầu tiên đông đủ không thiếu một ai như Noel năm ngoái -. Nhất là có cô Tùng người đã hướng dẫn Tánh và anh chị em trong hầu như gần hết những năm trung học và Tánh là đứa học trò thọ ơn nhiều lắm! Tánh đậu được phần 2, một phần nhờ căn bản kha khá mà cô Tùng đã cho trong 3 năm liên tiếp, không biết hôm nay có mặt cô Tùng không? Nếu có thì nhớ cho Tánh kính lời thăm cô Tùng – chúc cô sẽ may mắn mãi – nhiều sức khỏe và nhất là gặp “ dượng “sớm sớm chút xíu đi, để học trò biết với. Còn đối với tất cả Ái hữu, Tánh chúc mọi người hưởng một mùa Noel như ý vây thôi, riêng Tánh đêm Noel có lẽ Tánh gác đường hay ứng chiến ở Saigon. Noel thì Tánh đã về ở Thủ Đức rồi, ngày lễ mà khó đi phép được lắm, cho nên Tánh nhờ thư này trong sự thiếu vắng của mình để góp mặt “tượng trưng “ để gọi là vui với bạn bè.

         Tánh định khi gần về Thủ Đức mới viết thư cho Ái hữu – nhưng cứ chiều chiều ngồi trên đồi cát ở rừng Chí Linh – tự nhiên thấy nhớ bạn bè nhiều quá đi thôi! Từ cái răng mất trật tự của Ích mủ đến cái đầu lắc lia của Thủy Tiên, tính làm biếng của Phước ghiền, giọng cười khuôn mặt thấy là cười của ”Lộc sún “ và còn nữa từng người một cho đến khuôn mặt của anh Nở – có thể Tánh mới biết chỉ có một lần ở nhà chị Hà và chưa có nói với nhau nửa lời cũng hiện rõ trước mặt Tánh tất cả những người thân thúc đẩy Tánh viết thư cho Ái hữu và viết sớm hơn dự định.
Thôi Tánh stop nhé chúc tất cả mọi người vui vẻ, nhiều sức khỏe, may mắn trên đường trước mặt và chỉ còn một đoạn ngắn nữa thôi. Tánh hy vọng và tin là anh chị em sẽ  thành công
.
       Tái Bút: Trong thư có điều gì làm bạn bè không vui, nếu có xin anh chị em thông cảm bỏ qua. Nhiều người tên không nhắc trong thư nhưng không bao giờ Tánh quên đâu và nếu Tánh có nói đến “cái tôi ‘ nhiều thì cũng chỉ là để bạn bè cảm thông. Còn vấn đề học – con đường vào đại học – Tánh với tư cách là người đi trước nói với người sau với tình thân bè bạn vậy thôi!


Ái hữu 16 Nguyễn Văn Tánh
(Trích từ Nội San 2 của Hội Ái Hữu 72)