Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014

Mong Manh Tiếng Cười Chạm Thiên Thu - Sáng Tác Ngu Yên



Sáng Tác: Ngu Yên
Trình Bày: Julie Quang
Phối Nhạc: Nguyễn Quang

Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp - Lớp 8/5 & 11B3 - Niên Khoá 1972

 
Phan Thị Sương
Kim Hà
Lớp đệ tứ 5, ra về đứng trước lớp, em họ Hồng Minh Kim học Đệ Nhị chụp mà không hay, nên xem như Sương làm dáng Tâm đứng nhìn 
..., ..., Thúy, Sương, Thơ (học xong đến nhà bạn chơi)


Tuyết, Vân, Thơ, Sương, Tâm, Lan (học xong cả bọn đi chụp hình)

Phan Thị Sương

Tình Kỹ Nữ



“Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”
                                                       Nguyễn Du

Thêm phấn son không che đời hiu hắt
Gấm lụa là đâu giấu được điù hiu
Mộng ngày xanh không còn trên ánh mắt
Em cố cười nhưng còn đó buồn thiu!


Em một thuở ngọt ngào lời rót mật
Gió xuân hồng phơn phớt nụ cành tơ
Dáng e ấp diụ dàng êm bóng Phật

Khách vương tình, gối mộng, vướng rừng mơ

Em cũng có một thời xưa xuân sắc

Bóng tình quân réo rắc tiếng tơ lòng
Ngày thương trộm nhớ thầm, đêm quay quắt
Hoa u mê vụng nở thiếu hương nồng!


Tiếc nuối khôn nguôi lỡ đời con gái!
Ngày qua đi, chẳng trở lại bao giờ
Tu mấy kiếp một thời em trót dại
Cánh hoa tàn, nhụy rữa, phiếm chùng tơ


Mắt đưa tình, xé lòng đau cùng khách
Giọng lã lơi, lời lạt lẽo, đải bôi
Môi cười mà đổ lệ bờ lau lách
Xác thân trao lạnh ngắt bãi sông bồi


Cuộc mua vui vội vàng trong chốc lát
Một đời dài tình bạc trắng như vôi
Chiếc thuyền mơ chở đầy trăng vỡ nát
Bến đò xưa có nhớ nước sông trôi?

Lê Kim Thành


Xuân Tận - Hàn Ốc (842 - 923)

      Thực tình không biết Xuân còn hay hết, tôi ngồi chép lại bài Xuân Tận và các bản chuyển dịch vừa mới được sửa lại ,để mọi người thân quí đọc cho vui thôi. Cầu chúc an lành. PKT 03/29/2014



Xuân Tận - Hàn Ốc (842 - 923)

Tích xuân liên nhật túy hôn hôn
Tỉnh hậu y thường kiến tửu ngân
Tế thủy phù hoa qui biệt giản
Đoạn vân tương vũ hạ cô thôn
Nhân gian dị đắc phương thời hận
Địa quýnh nan chiêu tự cổ hồn
Tàm quí lưu oanh tương hậu ý
Thanh thần độc vị đáo tây viên


Dịch Xuôi : Tàn Xuân
Tiếc xuân mấy ngày liền uống rượu ngủ say vùi
Tỉnh dậy thấy áo quần hoen ố đầy ngấn rượu
Không biết dòng nước nhỏ đưa hoa trôi về khe suối cách biệt nào
Trong lúc đám mây thưa đem mưa đổ xuống xóm nhà xa lẻ loi
Ở chốn nhân gian , con người dễ vướng hận một thời xuân đã qua
Thêm nữa, lại ở nơi chốn xa lạ này, thực khó mà gọi hồn xưa trở về
Cảm thấy hổ thẹn khi nghe tiếng chim oanh vì ai mà cất tiếng hót an ủi
Sáng sớm, một mình, tha thẩn bước ra ngoài vườn

Tàn Xuân
Mấy ngày say tỉnh cùng xuân tận
Áo mỏng hoen đầy ngấn rượu hoa.
Hoa nổi, suối trôi về núi vắng
Mây thưa, mưa đổ xuống thôn xa.
Tuổi xanh , người cũ giờ đâu mất
Xứ lạ, hồn xưa những nhạt nhòa.
Sáng sớm,vườn sau, thân khách lữ
Vì ai, lảnh lót, tiếng oanh ca.

Tàn Xuân

Xuân qua nuối tiếc, say vùi,
Tỉnh ra áo ố, ngậm ngùi rượu vương.
Hoa vàng khe suối, khói sương,
Mây thưa mưa đổ, bên đường thương ai.
Tuổi xanh một thuở, hận dài,
Chiêu hồn xưa dậy, cũng hoài công thôi.
Thẹn nghe oanh hót vang trời,
Hỏi người lữ thứ thấy đời vui không?

                                  Phạm Khắc Trí

                                  03/29/2014 
* * * 

Thầy kính mến.
Đọc được bài thơ của Thầy dịch, lòng bùi ngùi... Em xin được cùng thơ Thầy để gửi cảm xúc của em. 

              Xuân Tàn
Xuân đi! Nhấp chén ngậm ngùi
Áo màu phai sắc chôn vùi thơ ngây
Cánh hoa trôi nổi lất lây
Mưa sa thôn vắng tóc mây ủ tình
Tuổi xanh! Tiếc nuối bóng hình
Mở ngăn yêu cũ hương trinh nhạt nhòa
Vẳng nghe! Chim hót líu lo
Đành thôi gắng gượng để cho xuân tàn.
                                               Kim Oanh

* * * 
Đỗ Chiêu Đức tham gia với Bản chữ Hán cổ và bài Diễn nôm:

     1. Bản chữ Hán của bài thơ :

          春盡 
          惜春連日醉昏昏 
          醒後衣裳見酒痕
          細水浮花歸別澗
           斷雲含雨入孤村
          人閑易有芳時恨
          地勝難招自古魂
          慚愧流鶯相厚意
          清晨猶為到西園

                                         韓偓

    2. Diễn nôm :

                 Cuối Xuân

      Tiếc xuân ngày một gật gà say

      Tỉnh dậy áo quần vương rượu cay

      Nước cuốn hoa trôi dòng suối khác

      Mây bay mưa tạt xóm thôn ngoài

      Người nhàn dễ tiếc thời xuân sắc

      Đất tốt khôn gìn nét cũ phai

      Thẹn thấy oanh ca đầy hảo ý
      Vườn tây dạo gót sáng ban mai.
                                 Đỗ Chiêu Đức

* * * 
Mailoc xin góp vần cùng Thầy và Bạn 

          Xuân Tàn

Thương tiếc Xuân mấy ngày say sỉn 
Áo hoen nhoè khi tỉnh rượu ra 
Một dòng suối nhỏ cuốn hoa 
Mây đen mưa trút nhạt nhoà cô thôn 
Một thời Xuân hận lòng tê tái 
Hồn xưa đâu gọi mãi không thành 
Ý tình thêm thẹn cùng oanh 
Vì ta sớm hót trên cành vườn tây 
                       Mailoc phỏng dịch
                       Cali 3-29-14
* * * 
Phương Hà xin góp bài phỏng dịch gởi đến Thầy và các bạn:

               Xuân Tàn

Tiếc xuân, rượu uống ngủ say vùi
Áo thấm hoen nhòe giọt rớt rơi
Theo suối, hoa trôi vào nẻo khuất
Cùng mây, mưa giội xuống thôn côi
Hương xưa nhòa nhạt, lòng luôn nhớ
Đất khách bơ vơ, dạ chẳng nguôi
An ủi, vườn sau oanh cất tiếng
Thẫn thờ đếm bước, muộn đầy vơi.
                                    Phương Hà

Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2014

Biển Vắng - Ái Hữu 72


 
Dưới ánh trăng thanh trên biển vắng
Dư âm tiếng nhạc lẫn lời ca
Của loài chim nhỏ vang trong tiếng
Hút gió ra khơi rửa vết sầu

Dư âm vang dội trong lòng biển
Ngọn gió ba đào lại nỗi lên
Tâm sự trào dâng theo nước biếc
Hỡi loài chim nhỏ thấu lòng ta

Sóng vỗ tràn bờ trên biển vắng
Bấp bênh ngã ngốn dưới trăng sầu
Phải loài chim nhỏ cùng tâm sự
Thức trắng đêm thâu đáp biển lòng?

Hồn say trước gió lòng thêm nhớ
Biển vắng đêm ngày vẫn đợi mong
Lạnh buốt chim ơi ! lòng của biển
Hỡi loài chim nhỏ thấu lòng ta?

(Đêm 15/10/73 - Hồi Dương Hải thương tặng …)

Nguyễn Hữu Hải

Melbourne Vào Thu

   Melbourne bước vào Thu từ đầu tháng Ba và tùy theo thời tiết thay đổi mỗi năm, lá sẽ trở mình sớm hoặc muộn.
      Hàng năm khoảng tuần lễ thứ nhì của tháng Năm, đại gia đình chúng tôi thường tìm đến Bright. Lưu lại nơi này đôi ba ngày để đón nắng Thu và nhặt lá vàng bay. Cái lãng mạn, sức quyến rũ của lá Thu, khiến tôi chao đảo đến mấy ngày, sau khi rời khỏi nơi đây. Và lòng tự nhủ "Sẽ đem mùa Thu của Bright về sân sau nhà mình!". 
      Ước mơ đã thành hiện thực!

 Nghệ sĩ ơi! Lơi cung trầm bổng
Hồn thu trở giấc họa thanh âm









Kim Phượng
Thu Melbourne

Tình Thơ



 
Tương tư chiều tắt nắng
Mùa cũ tôi xa người
Lối hẹn hò xóm vắng
Nhớ người về tôi thương
Ngày ấy tôi lên đường
Hàng phượng thắm sân trường
Một thời thơ hoa bướm
Với mối tình tơ vương
Hẹn gặp người trong mơ
Còn đâu mà đợi chờ
Tóc xanh giờ đã trắng
Kỷ niệm mối tình thơ

Biện Công Danh
4/4/14

Cây Trứng Cá


Có những trưa hè nắng chói chang
Tôi buồn thơ thẩn dạo lang thang
Quanh cây trứng cá chân lần bước
Nghe tiếng ve sầu ca hát vang!

Nhớ về bạn dạ nao chi lạ
Thuở thiếu thời hai đứa thiết thân
Chung lớp học, chia nhau sách vở
Nô đùa tranh hái trái ngoài sân.

Đường đời sớm rẽ chia hai ngả
Bạn ở phương nào? Tôi vẫn đây.
Cây trứng cá chờ ai úa lá
Mỏi mòn mong có dịp sum vầy.

Anh Tú (AD)
August 2012

Thơ Tranh: Chiều Hậu Giang


Thơ: Chân Diện Mục
Thơ Tranh: Kim Oanh

Thanh Minh



Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh...

Trên đây là những câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đề cập đến Thanh Minh của Người Trung Hoa chớ không phải Việt Nam chúng ta. Vì nguyên bản là " Kim Vân Kiều Truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân. Do ở Việt Nam ngày Tảo Mộ chính thức là ngày 25 tháng Chạp Âm Lịch mỗi năm. 
Tuy nhiên với truyền thống Hiếu Nghĩa, dân tộc ta vẫn hoà đồng với dân tộc Hoa trong ngày lễ Thanh Minh.
Thanh minh là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Tết Thanh minh Là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người phương Ðông coi là một lễ tiết hàng năm. Tiết Thanh Minh đến sau ngày Lập Xuân 45 ngày. Theo nghĩa đen, thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa. Khi tiết Xuân Phân qua, những cơn mưa bụi của trời xuân đã hết, bầu trời trở nên quang đãng, sáng sủa là sang tiết Thanh Minh
.



Nguồn gốc tết Thanh minh 

Tết Thanh minh được bắt nguồn từ Trung Quốc. Có giả thuyết rằng, chuyện kể vào đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công, nước Tấn, gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở. Bấy giờ có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo vua giúp đỡ mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lòng cảm kích vô cùng.

Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, cùng nhau trải nếm bao nhiêu gian truân nguy hiểm. Về sau, Tấn Văn Công giành lại được ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công, nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái nghĩa vụ của mình, chứ không có công lao gì đáng nói. Vì vậy, ông về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn.

Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, rốt cục cả hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mồng 3.3 đến mồng 5.3 âm lịch hàng năm). Từ đó ngày mùng 3.3 âm lịch hằng năm được coi là ngày Tết Hàn thực, nhằm tưởng nhớ đến công ơn dưỡng dục của những người đã khuất.

Từ thời Lý nhân dân ta đã tiếp nhận tết Hàn thực nhưng ý nghĩa của ngày tết này đã biến đổi và mang đậm màu sắc truyền thống, phù hợp với tâm lý cũng như cuộc sống thường nhật của người dân nước Việt. Vào ngày tết Hàn thực, người Việt không kiêng lửa, mọi việc nấu nướng vẫn được thực hiện, chỉ có điều người Việt dùng bánh trôi - bánh chay cho tết Hàn thực với ý nghĩa tượng trưng đó là những thức ăn nguội - hàn thực. Vì vậy người Việt còn gọi tết Hàn thực bằng một tên gọi khác là tết bánh trôi - bánh chay.
 


Lễ Tảo Mộ và Hội Đạp Thanh

Thời tiết do ảnh hưởng của Mặt trời, nên ngày Thanh Minh là 04-05 tháng 4 dương lịch.Chính vì thế ngày Thanh Minh theo Âm Lịch cũng thay đổi hằng năm. Như năm trước 2013, Thanh Minh vào ngày 03- tháng 03 Quý Tỵ. Nhưng năm nay 2014, ngày chính Tiết Thanh Minh  vào mùng 06 tháng 03 năm Giáp Ngọ.
Tết Thanh Minh diễn ra vào ngày tiết Thanh minh. Tại Đài Loan, Hồng Công và Ma Cao  thì tết này là một ngày quốc lễ. Còn ở các khu vực khác ở Đông Á thì không. Nói đến Tết Thanh minh thì bao giờ người ta cũng nghĩ đến lễ tảo mộ và hội đạp thanh.

1- Lễ Tảo Mộ


Nhân ngày Thanh minh, người dân các nước có nền văn hóa tương đồng và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa đều có tục đi tảo mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ.
Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Nhân ngày Thanh minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất. Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất. Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này (có thể sớm hơn một, hai ngày vì nhiều lý do khác nhau) để tảo mộ gia tiên và sum họp với gia đình. Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, chăm sóc cẩn thận, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người đi viếng mộ thường cũng cắm cho các ngôi mộ này một nén hương.


2- Hội Đạp Thanh

Từ “đạp thanh” trong câu thơ: “Lễ là tảo mộ, Hội là đạp thanh”. Các sách chú thích nêu trên giải nghĩa: “Đạpgiẫm lên, thanh xanh, cỏ xanh, đời Đường có hội Đạp thanh” (Nguyễn Văn Anh); “Sau tiết Xuân phân 15 ngày có tiết Thanh minh tục có hội Đạp thanh, là đi tảo mộ xéo lên cỏ xanh (Bùi Khánh Diễn); “Đạp thanh là giẫm lên cỏ xanh, người tảo mộ ở ngoài đồng cỏ đông như hội nên gọi là hội Đạp thanh” (Nguyễn Quảng Tuân) v.v…

Thật ra từ “đạp” trong tiếng Hán có 10 nghĩa thông dụng: 1) giẫm lên; 2) đập nhịp; 3) lê chân; 4) bước qua; 5) du ngoạn; 6) đi theo; 7) tìm hiểu tại chỗ; 8) đá chân; 9) áp sát; 10) thứ lót chân như thảm.

Vậy chú thích cho từ “đạp” thì nên chọn nghĩa thứ 5 là du ngoạn, thưởng ngoạn.Có vậy mới hiểu được những từ thường thấy trong thơ cổ: đạp xuân (du xuân), đạp nguyệt (ngắm, thưởng ngoạn trăng), đạp đăng (đi hội xem đèn), đạp hồng (đạp hoa – đi chơi ngắm hoa), đạp lãng (ngắm sóng, giỡn sóng)… Tất nhiên chọn nghĩa thứ nhất là giẫm lên cũng đúng nhưng kết hợp với thanh xanh để chú rằng: người đi tảo mộ xéo lên cỏ xanh (như ông Nguyễn Văn Anh chú) thì không những mất vẻ đẹp của hội du xuân mà còn “phá hoại môi trường” nữa.

Từ “thanh” cũng có nhiều nghĩa, hàm ý rất rộng. Riêng từ “Đạp thanh” luôn gắn liền với tiết “Thanh minh” thì bao giờ cũng được hiểu là hội du xuân với nhiều hoạt động ngoạn cảnh, vui chơi rất phong phú. Giới văn nhân thi sĩ của Trung Quốc thời xưa rất thích dịp lễ hội này vì thường là dịp để khởi hứng làm thơ. Rất nhiều tác phẩm thơ hay được lưu lại. Chỉ riêng trong Toàn Đường thi Toàn Tống từ đã có 850 bài (theo Thanh minh thi ca số lượng - Phong tục võng).

Hội du ngoạn của 41 thi nhân đời Tấn với trò chơi thả thơ, từ đó ra đời bài Lan Đình tập tự với Thiếp Lan Đình nổi tiếng của Vương Hy Chi, và cuộc du chơi ăn uống xa hoa của chị em nhà Dương Quý Phi bên bờ Khúc giang mà Đỗ Phủ miêu tả trong bài Lệ nhân hành, đó đều được xem là các thi phẩm về lễ hội Thanh minh – Đạp thanh hoặc bài Thanh minh của Đỗ Mục rất nổi tiếng hầu như ai yêu thơ Đường cũng đều thích.

Trước đây, nam nữ thanh niên cũng nhân dịp này để du xuân nên mới có tên gọi hội đạp thanh . Ngày nay, ở Việt Nam lễ hội này có lẽ không còn, nhưng ở Trung Quốc thì một vài nơi vẫn còn duy trì được.
***
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
Theo :http://honvietquochoc.com.vn-http://vi.wikipedia.org-http://danviet.vn-http://www.cinet.vn

Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2014

Cho Em Quên Tuổi Ngọc - Lam Phương - Khánh Hà

      Bài hát là một lời sám hối của một người vì lý do nào đó đã lỡ đánh mất, bỏ đi mối tình thời thơ dại..và một lần trong men rượu, trong cơn say chếnh choáng có một ước mong rằng khi nào mình sắp về cõi vĩnh hằng thì tình yêu đó được trở lại với mình, để mãi mãi yêu thương và chỉ có lúc ấy tình yêu mới vĩnh viễn, mới thật sự là của mình .
      Đó là hạnh phúc là giấc mơ cuối đời của một đời người khi nằm xuống, khi về với cát bụi. . .



Sáng Tác: Lam Phương
Ca Sĩ: Khánh Hà
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Thanh Minh Trong Tiết Tháng Ba


 
      Thanh Minh là tên một thời tiết, tức là một khoảng thời gian phân định sẵn trong lịch Tàu. Lịch cổ nước Tàu chia một năm ra làm 8 tiết, gọi là "Bát tiết": lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí và Đông chí.
      Lịch Kim (tức là lịch đời Hán trở lại) của Tàu thì chia năm ra làm 24 Khí hoặc Tiết. Cứ ba ngày là một Hậu; 5 Hậu là một Khí hoặc Tiết. Một năm có 24 Khí hoặc Tiết. Mỗi tháng chia làm 2 Khí. Khí nhằm vào những ngày đầu tháng thì gọi là Tiết Khí. Khí nhằm vào giữa tháng thì gọi là Trung Khí. Tiết Khí và Trung Khí thường gọi tắt là Tiết và Trung. Đầu thời Hán lấy tiết Kinh trập làm "Chính nguyệt trung" (tức là khí vào giữa tháng giêng), lấy Vũ thủy làm "nhị nguyệt tiết" (tức là khí vào đầu tháng hai). Cuối đời Hán, Lưu Hầm làm Tam thống đổi Kinh trập làm "Nhị nguyệt tiết" (khí vào đầu tháng hai), Vũ thủy làm "Chính nguyệt trung" (khí vào giữa tháng giêng), Cốc vũ là "Tam nguyệt tiết" (khí đầu tháng ba); Thanh minh làm "Tam nguyệt trung" (khí giữa tháng ba). 


      Lịch Tàu ngày nay tức là sau đời nhà Hán thì chia Thanh minh làm Tam nguyệt tiết (khí vào đầu tháng ba). Hai mươi bốn tiết khí trong một năm là: Mùa xuân: Lập Xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ.Mùa hạ: Lập Hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử.Mùa thu: Lập Thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng. Mùa đông: Lập Đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn.Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả cảnh Thanh minh có câu:
Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
      "Thanh minh trong tiết tháng ba" là do câu "Thanh minh tam nguyệt tiết" nghĩa là: Tiết thanh minh đầu tháng ba. Theo cách dùng thuật ngữ của Tàu thì chỉ nói "Tiết tháng ba" hay "Tam nguyệt tiết" tức "Tam nguyệt khí tiết" là người ta hiểu ngay là nói đầu tháng ba. Vì tiết đây là tiết khí nói tắt, mà tiết khí nghĩa là thời tiết nhằm đầu tháng. Vậy thì "trong tiết tháng ba" có nghĩa là "vào đầu tháng ba". Tục Tàu, nhân tiết Thanh minh, người ta tổ chức lễ thăm mộ gọi là "Lễ tảo mộ", tức là lễ quét tước sửa sang mồ mả. Và, nhân lễ tảo mộ ngoài đồng, mà tự nhiên có hội gọi là "hội đạp thanh" tức là hội giẫm trên đám cỏ xanh ở ngoài đồng. Cổ thi của Tàu có bài:
Xuân du thanh thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì.
Thu ẩm huỳnh hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.


Trích Điển Hay Tích Lạ của Nguyễn Tử Quang

 (Kim Phượng Sưu tầm)


Lam Phương Nhạc Và Đời


Thơ Cảm Tác: Quên Đi
Thơ Tranh: Kim Oanh
 
    

Sáng Tác: Chuyến Đò Vỹ Tuyến ( Trước 1975)
Ca Sĩ: Hoàng Oanh


Tháng Ba



 Đã hay xuân chuyển sang hè
Cao nguyên vàng nắng khắt khe với người
Hoa còn một ít thơm rơi
Trái xuân khép nhụy lả lơi vin cành
Đã nghe chiều xuống thật nhanh
Ve râm ran hát quẩn quanh gọi bầy
Tình xuân nồng ấm còn đây
Tháng ba thương nhớ mãi đầy trong nhau.

3/2014
Hương Ngọc

Sợi Nhớ Sợi Thương



Lối đi em vẫn nhớ một phương
Của đôi ta đã mộng chung đường
Dìu nhau trên lối hoa cỏ nở
Mà ngỡ rằng mơ chốn thiên đường

Em đếm từng sợi nhớ , sợi thương
Hong tóc chiều nay kịp vấn vương
Ngồi bên song cửa nghe se lạnh
Đếm bước thời gian ấp ủ hương

Chút hương xin gởi đến cho người
Nhờ gởi dùm em chiếc áo nhu
Trao đôi tay ấm hương mùa cũ
Cùng nhắn đôi lời với gió thu

Anh đã về ! Ơi người tri kỹ
Cho đến hôm nay mới hội kỳ
Nếu lở ngày xưa ta không giử
Áo người nay đã thả trôi đi

Lục Lạc

Truyền Thuyết "Con Rồng Cháu Tiên"


      Thuở xa xưa, cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lãm.
      Lớn lên Sùng Lãm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lãm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
      Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
      Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đều bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh.
      Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
      Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
      Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hoá thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại.
      Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc long quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó.
      Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thuỷ tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
      Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh.

      Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm
thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quẩn ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
      Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ tranh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hể có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! "
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.


       Người dân kể chuyện, Lạc Long Quân hoá làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao.
      Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi. Hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
Bấy giờ nàng Âu Cơ mang thai, trải ba năm, ba tháng, mười ngày, thấy trên núi Nghĩa Lĩnh có mây lành ngũ sắc xán lạn. Đến giờ Ngọ, ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tý, Âu Cơ thấy bào thai chuyển động. Đến giờ Ngọ, ngày 28, hương lạ đầy nhà, hào quang khắp phòng, bà sinh một bọc bạch ngọc, hương lạ giáng xuống. Bắt đầu sinh ở núi Ngũ Lĩnh, đất Thổ Thứu phong, ao sen đỉnh ngọc.
      Lạc Long Quân thấy bà sinh ra bọc lạ, cho là xưa nay chưa có, việc lạ trong nước, bèn triệu văn võ bách quan trong triều vào chầu chính điện. Lúc ấy, giờ Ngọ, bỗng thấy trong thành giữa trời có ba tiếng hiệu lệnh làm chuyển động trời đất, sông núi, cỏ cây, vạn vật kinh sợ. Mây lành ngũ sắc sáng đầy khắp ba nghìn thế giới. Trên thượng điện, vạn chim bay, ngư, lân tụ hội theo gió mưa cống triều.
Ngài thấy quốc gia có điềm lạ khác thường, xuống chiếu cho các quan văn võ chỉnh đốn ý mạo, chay khiết lòng thành, tề tựu tại điện Kính Thiên, thắp hương đèn phùng chầu triều bái Hoàng Thiên Thượng Đế đến Tứ phủ vạn linh.
      Tới giờ Thân hôm ấy, bỗng thấy một áng mây xanh từ hướng Tây kéo đến, tụ tại thềm rồng của điện Kính Thiên, tự nhiên có bốn vị tướng xuất hiện kỳ lạ, cao hơn trượng rưỡi, đầu đội mũ hoa, thân mặc bào xanh gấm vóc, eo thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, miệng cười như hào quang sáng rực, mây tuôn cuồn cuộn, tay cầm một chiếc long bài (sắc) của Ngọc Hoàng
      Thượng Đế: Ban cho Hiền Vương một bọc trăm trứng, sinh nơi ngọc khuyết, thành trăm người con trai trị nước. Nay sai bốn vị Đại Thiên vương giúp đỡ, che chở cho nước. Vậy ban sắc!.
      Lạc Long Quân chiếu theo long bài, truyền các quan văn võ ngẩng mặt bái tạ trời, bái tạ Thiên vương.
      Thiên vương nói:
- Trăm trứng ngọc bào do điềm rồng giáng sinh, thiên sứ báo cho Hiền Vương biết, hãy đặt vào bàn vàng, mang đến chùa Cổ Viễn Sơn, tên là Từ Sơn Thiên Quang Hòa Thượng Thiền Thứu Lĩnh (về sau đổi là Thiên Quang Thiền tự) đặt ở trong chùa, chọn lấy vị quan trai giới chầu trực, thắp hương không dứt.
Bọc đó vỡ ra, Lạc Long Quân bèn đỡ lấy thì bốn vị Đại Thiên Vương tự nhiên biến hóa, Hiền Vương càng thành tâm cầu đảo. Đến giờ Ngọ, ngày rằm 15 tháng Giêng, trăm trứng vỡ ra đều thành trăm người con trai; rồng thành năm sắc, điềm ứng sáng ngời, hương trời giáng xuống, đầy khắp núi sông. Được khoảng một tháng, không phải bú mớm mà tự trưởng thành. Tất cả các con đều có hình dáng đẹp lạ, tướng mạo phương phi, anh hùng nổi tiếng ở đời, cao lớn ba thước bảy tấc.
      Lạc Long Quân triệu 6 nàng cung phi, giao phát gấm lĩnh, cắt may thành trăm bộ áo mũ cấp cho trăm người con trai. Cả ngày trăm con vui cười, thường lấy lá hoa ao sen đùa nghịch. Sau 100 ngày, các con khôn lớn, không nói mà hay cười. Qua 200 ngày, đến giờ Thìn ngày 20 tháng 7, cả trăm người con trai đều cười to, nói rằng:
      Trời sinh Thánh Vương trị nước, giúp bốn biển thanh bình, quốc gia yên vui, là trăm hoàng tử đều ở thềm rồng điện thượng. Bỗng thấy một đám mây ngũ sắc từ không trung giáng xuống thềm rồng.
Lạc Long Quân thấy tám vị Thiên tướng, đầu đội mũ đồng, mình mặc thiết giáp, chân đi hài bạc, eo thắt dải rồng, dung mạo xán lạn, mắt sáng như sao, miệng xuất hào quang, tay cầm thần kiếm, linh trượng, bảo trữ, thiết phủ, đứng hầu hai bên tả hữu; hai bên đối chầu, hư không biến hóa, gió mưa ập đến, bay vượt nhiễu không trung trong điện Ngũ Lĩnh, rồi núi non thất hình, sông hồ sóng dâng trào.
      Sau ba giờ ánh sáng rực rỡ, tám vị tướng mới xưng danh làm tám bộ Kim Cương, vâng sắc của Thượng Thiên chư Phật, Bảo Đế lệnh sai giáng xuống che chở cho trăm người con trai. Nay tất cả đã trưởng thành, hiểu biết nên tám vị tướng phụng mệnh đưa các vương tử đến cửa khuyết bái tạ Hoàng phụ, cai trị trong nước.
      Tám vị tâu xong, bay lên trời biến mất. Tám vị ban cho Lạc Long Quân một chiếc long bài, một chiếc thiên bảo thần ấn, một viên bạch ngọc, một chiếc thần kiếm, một quyển thiên thư, một chiếc thước ngọc, một chiếc bàn vàng đặt ở trong điện. Hiền Vương nhận lấy, cho đây là trời ứng điềm lành, giúp yên trong nước.
      Vua thấy trăm người con trai bỗng nhiên cao lớn, thân dài bảy thước ba tấc, mỗi người cầm một vật thiên bảo thần khí chia nhau đứng hầu hai bên tả hữu, bái tạ Hoàng phụ.


      Ngài xuống chiếu rằng: Trời sinh trăm người con trai, đều văn võ thánh thần, anh hùng tài lược giúp nước yên bình, thiên hạ cậy nhờ bởi ơn giáo hoá, phụ tử quân thần cùng nhau vui hưởng”.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thuỷ phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hoá làm một con rồng vụt lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về. Nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: "Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này".
      Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
- Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc mẹ con thiếp sống bơ vơ khổ não.
      Lạc Long Quân nói:
- Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.


      Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai toả đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia nước ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
      Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
Củng từ tích Cha Lạc Long Quân lấy Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nên dân tộc ta mới có từ ĐỒNG BÀO.

Huỳnh Hữu Đức (Theo huynhhuuduc.blogspot.com)