Thứ Tư, 10 tháng 2, 2016

Câu Đối Xuân Bính Thân 2016 - Huỳnh Hữu Đức

Câu Đối: Huỳnh Hữu Đức
Trình Bày: Kim Oanh


Tìm Những Ngón Chân


Ta đã gần và cũng đã xa
Ta chào xuân mới tiển xuân qua
Bốn mươi xuân lẽ đời vô vị
Thèm chút hương xưa bóng quê nhà

Ta gặp nhau chiều Tết Mậu Thân
Những ngày chinh chiến, tuổi bâng khuâng
Đêm nghe tiếng súng hòa tiếng pháo
Đôi bóng tim côi xích lại gần

Rồi gió xuân đưa đời lưu lạc
Đợi chờ một bóng gió mùa sang
Mơ ước ngày nao trên đất mẹ
Hai đứa bên nhau ngắm mai vàng

Tết đến bên thềm xuân Bính Thân
Xuân đi xuân lại biết bao lần
Hai đứa hai xuân buồn đất khách
Chân vẫn đi tìm những ngón chân!

Biện Công Danh
29 tháng Chạp Ất Mùi
6/2/2016

Hương Xuân Quê Nhà


MÙA  về én lượn trời cao
XUÂN đến pháo nổ đón chào bình minh
HOA mai sương sớm lung linh
NỞ tươi thắm đượm ân tình đôi ta
KHẮP nơi vui vẻ thái hòa
QUÊ xa vẫn nhớ Mẹ già chờ mong
HƯƠNG xuân tỏa ngát tâm đồng

PHÚC trời gieo xuống tình hồng duyên tơ
ĐỨC trọng ban phước ân nhờ
AN lành khấn nguyện tình mơ đẹp lòng
KHANG trang nhà cửa ấm nồng
ĐẾN ngày tóc bạc vợ chồng thủy chung
MỌI nơi khắp chốn chúc cùng
NHÀ nhà hạnh phúc tương phùng bên nhau.

Kim Oanh

Đôi Câu Đối


Mồng Hai vạc áo ai bay
Tôi mơ hoành phướng thêu mai, cúc vàng
Dường như câu đối mịn màng
Trên đôi môi đỏ đôi hàng từ ngôn
Ước chi đọc cả linh hồn
Lờ mờ được hiểu mấy nguồn giác quan
Mồng hai gót chấm dấu hoang
Địa đàng thành giấy kẻ hàng trong tôi
Đưa tay gói cả đất trời
Đôi câu đối mọng. Xuân ôi! Phướng hoành

Hoài Tử

Năm Khỉ,Nói Chuyện Khỉ, Thay Lời Chúc Tết Bính Thân 2016

Chẳng còn vài ngày nữa là hết năm cũ qua năm mới, năm con khỉ nên tôi xin chia sẻ một số chuyên
khỉ lẫn trò khỉ với các thân hữu. «Trò khỉ » ở đây tôi muốn nói các thủ đoạn, mánh khóe gian xảo, lừa
đảo trong mọi lãnh vực!

Theo đạo Phật, tâm được ví như « khỉ » còn ý thì như « ngựa » (Tâm viên, ý mã). Năm khỉ, có thể
nói là năm liên hệ đến tâm còn gọi là tim, một bộ phận quan trọng của thân, luôn luôn làm việc cả ngày lẫn đêm, nên « động » nhiều hơn « tĩnh » nhưng « động » theo chiều hướng nào, lên hay xuống hoặc cả hai, vừa lên cũng vừa xuống!
Hướng lên, tức là hướng thượng, thăng hoa, lòng nghĩ đến sinh hoạt tâm linh, sinh hoạt nghệ thuật,
văn chương hoặc thể thao, thể dục, nghĩ đến cái đẹp, cái hay, đến những điều tích cực, có lợi ích cho người khác, cho tha nhân, không vị kỷ, vì người không vì mình như những người làm công tác từ thiện, như các bác sĩ trong trong tổ chức « Bác Sĩ không biên giới » (médecins sans frontière).
Cũng có người hướng thượng bằng cách viết nhạc, làm thơ, diễn tả tình cảm qua nét vẽ, trong việc tu
tâm dưỡng tánh, tập tài chi, càn khôn thập linh để « thân an thì tâm cũng an »!
Tuỳ theo khả năng, sở thích của mỗi người mà tự tìm cho mình một loại sinh hoạt để làm thăng hoa,
phong phú cuộc đời, nhất là cho các vị đã hưu trí có nhiều thì giờ rảnh rang…

Hướng xuống, tức là hướng hạ, luôn nghĩ đến những điều tiêu cực, ganh ghét những người hơn mình, dèm pha, đặt điều nói xấu người khác, tâm địa nhỏ nhen, khoe nhiều làm ít, lý thuyết hơn thực hành,
thấy mình là trung tâm của vũ trụ, lạm dụng truyền thông, internet tung những thông tin vô bổ để chứng tỏ « cái ta, cái ngã »của mình, chẳng qua chỉ là « thùng rỗng kêu to » ...
Loại người nguy hiểm nhất là vừa hướng thượng lẫn hướng hạ, không rõ trắng đen, thay đổi màu sắc
không biết đâu mà ngờ, giống con tắc kè (camélion), « khẩu Phật, tâm xà », giảng kinh nói kệ như một bậc cao tăng nhưng sau đó lại hành xử như một tên gian manh! Phải có thời gian theo dõi thì mới thấy rõ bộ mặt thật của loại người này. Họ thường ẩn tàng trong mọi tập thể, khéo lấy lòng cấp trên, luôn tìm cách kết bè, kết đảng, nhắm loại những người không theo phe mình, chống đối mình bằng mọi phương tiện vương đạo hay bá đạo, trực diện hay hại ngầm đều được loại người này sử dụng hết miễn là đạt được mục đích.

Thật là « Dò sông dò biển dễ dò/Đố ai lấy thước mà đo lòng người ! ».

Năm khỉ, nói chuyện khỉ và trò khỉ. Các trò khỉ này có thể xảy lộ liễu hoặc ngấm ngầm hay vi tế,
ngay cả người trong cuộc cũng khó mà biết được. Dưới đây là vài thí dụ minh họa cho cho các « trò khỉ » đã xảy ra từ xưa đến nay!

Quyển Viêt Nam Sử Lược có ghi rõ, vào thời kỳ Âu Lạc khoảng 250 năm trước Công Nguyên, Trọng Thủy đã giở «trò khỉ » lường gạt công chúa Mỵ Nương để lấy nỏ thần khiến vua An Dương Vương thua chạy cầu thần Kim Quy thì được thần cho biết là giặc không ở đâu xa, mà chính là người ngồi trên ngựa sau lưng mình nên trong cơn thịnh nộ nhà vua đã giết oan con mình!
Hiện nay trên thế giới, «trò khỉ » của một số siêu cường muốn xen lấn vào nội bộ của một nước khác thì đổ thừa là nước đó sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt, nước đó không có dân chủ, tự do...rồi đổ quân vào hoặc dùng máy bay dội bom, bắn phá! Hậu quả là các đất nước này bị tàn phá, hủy hoại, người dân trước đã khổ một thì bây giờ lại khổ hơn gấp mười lần, đó là trường hợp đã xảy ra ở Irak, ở Syrie!

Năm khỉ, nói chuyện khỉ và trò khỉ, ngoài đời cũng như trong đạo, số lượng nhan nhản, kể sao cho
xiết, tốt hơn mình nên phòng bịnh hơn là chữa bịnh. Mong các thân hữu cẩn trọng để khỏi bị phiền toái !
Thêm năm, thêm tuổi (âgé) nhưng chưa hẳn đã già thêm (vieux) nếu mình biết làm thăng hoa cuộc
sống bằng các sinh hoạt tâm linh, sinh hoạt nghệ thuật, văn chương hoặc thể thao, thể dục...để cho đời có ý
nghĩa hơn, có phẩm chất hơn: đó cũng là lời chúc của tôi nhân dịp năm mới Bính Thân 2016!

Hoài Việt DHĐ

Cảm Xuân Bính Thân



Ngàn tía muôn hồng xuân đã sang,
Hồi sinh hoa cỏ đẹp ràng ràng!
Trời thêm năm tháng người thêm tuổi,
Xuân khắp đất trời phước khắp bang.
Dương cước mã đề đà bất nghiệm,
Thân lai dậu đáo có suy tàn ?!
Ước mong bốn bể cùng chung sức,
Kiến tạo thanh bình vạn chúng an !

Đỗ Chiêu Đức
***
Họa:Năm qua đàn én dập dìu sang
Phơi phới gió đông sắc rộn ràng
Tết đến tưng bừng trên khắp chốn
Xuân về vui vẻ cả thôn trang
Mùa Dê mới đó mà nhanh thiệt
Trò Khỉ rồi đây cũng sớm tàn
Chỉ ước mong sao dân tộc Việt
Tiến lên cường thịnh với an khang

Quên Đi

Những Màu Áo Mùa Xuân


Mùng ba em mặc áo xanh ...
Chùm hoa đào thắm trên cành chào xuân
Hàng cây dài nỗi bâng khuâng
Như ta ...vẫn mãi ngại ngần lời yêu

Mùng bốn em áo xanh rêu
Trái tim vẫn có nhiều điều thiết tha
Đưa tay hái nụ quỳnh hoa
Trao em kỷ niệm món qùa yêu thương

Mùng năm áo tím vấn vương
Vàng tươi mai mở rợp đường nhà ai
Ừ thì xuân bất tái lai
Quên đi ngọn gió u hoài cuối đông

Mùng sáu áo đỏ sang sông
Em cô dâu giữa pháo hồng vương bay
Thế là xuân tận từ đây
Tình như sương khói tháng ngày yêu em ....

Khiếu Long


Thứ Ba, 9 tháng 2, 2016

Câu Đối Xuân Bính Thân 2016 - Nguyễn Đắc Thắng


Câu Đối: Nguyễn Đắc Thắng
Trình Bày: Kim Oanh

Tết Quê Hương Thứ Hai


Em thân ái trao Anh món quà kỷ niệm
Vào ngày đầu năm một cái tết tha hương
Nhìn bông tuyết bay ngoài trời Đông lạnh lẽo
Cảm thấy trong lòng thêm ấm áp yêu thương.

Anh đã gởi nụ hôn trên bờ môi thơ dại
Trong chuyến hải hành đầy sóng gió chông gai
Biển gào thét điên cuồng không làm Em sợ hãi
Vì bên Em luôn có sẵn một vòng tay.
May mắn đặt chân xuống bến bờ xa lạ
Nhưng hoang mang cho cuộc sống đang chờ
Anh xông pha giữa mùa Đông tuyết giá
Phơi thân gầy dưới nắng Hạ cháy da
Em xuôi ngược khắp nẻo đường phố xá
Chồng giấy in nặng chĩu chiếc xe tàng.
Qua rồi đó những năm dài cực khổ
Mình chung vai gắn bó cuộc đời nhau
Để giờ đây dưới mái nhà nho nhỏ
Bên lửa hồng ôn kỉ niệm thương đau

Xuân đến trong lòng ta giữa mùa Đông giá buốt
Hơi ấm bao quanh làm trẻ lại tấm thân già
Dù cái Tết đơn sơ không cúc vàng pháo nổ
Chỉ có chè xôi bánh mứt khói hương trầm
Đủ đem đến cho ta niềm hạnh phúc
Trên quê hương mới này mong trọn kiếp trăm năm.

ChinhNguyen/H.N.T. 
Jan 10.2016

Đón Xuân Xứ Lạ


Xuân về bè bạn đẹp lòng nhơn
Cho dẫu tuyết rơi phủ chập chờn
Nắng mới từng ngày luôn sắc ấm
Thơ hay mỗi buổi vẫn cười mơn
Lời hoa vẫy bút tình tươi mãi
Ý đẹp góp lời nghĩa thắm hơn
Mời tách trà thơm trao xướng họa
Vui cùng chữ nghĩa chẳng hao sờn

Nghĩa chẳng hao sờn vui với thơ
Ru đời xinh đẹp mộng vu vơ
Dù cho ngăn cách lòng luôn nhớ
Dẫu có xa nhau ý vẫn chờ
Tô điểm vườn thi bao sắc thắm
Vun trồng nét bút những hương tơ
Tình người xứ lạ cùng thân ái
Hạnh phúc nhỏ nầy xin được mơ

Hoàng Dũng

Tình Khúc Mùa Xuân - Ngô Thụy Miên - Sĩ Phú

Những mối tình đẹp, mùa Xuân đến thì càng thêm nồng ấm và khắng khít yêu thương, còn những mối tình đã chia xa thì mùa Xuân về càng làm cho người ta thêm tiếc nuối nhớ về những kỷ niệm của những mùa Xuân đã cùng nhau trao những nụ hôn nồng nàn vui tươi tay trong tay . . . thuở trước khi còn ở bên nhau.


Sáng Tác: Ngô Thụy Miên
Ca Sĩ: Sĩ Phú
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Theo Dòng Sông Mékong Từ Houay Xay Đến Pakbang- Lào


Bãi cát, cồn hoang, vàng sắc thắm
Hai hàng đá dựng đuổi xô nhau
Tàu đi nước đục, tàu đi chậm
Sông chảy theo dòng, sông chảy mau
Một sáng đầu đông vượt núi rừng
Gọi hồn châu thổ nhớ mênh mông
Cây lá khơi nguồn đôi cánh rộng
( Người đi mai biết có về không?)
Khói vườn ai đốt bên nương rẩy
Những khóm dừa xanh, chuối tiếp xoài
Lúa cũng khoe mình đi hỏi nắng
Mưa còn nặng hạt tháng mười hai?
Tôi đi hơi thở sông Tiền thở
Còn đập muôn đời nước Hậu Giang
Chín cửa phụ nguồn nguyên động mạch
Nuôi con người tôi lớn thành thân.

Tiếng máy rên đều ở cuối khoang
Mai lên Pakbang mốt Luang Prabang
Thiếu nữ ven sông gùi một chiếc
Có đảy hương nồng cát Cửu Long?...

Không biết đêm nay , đâu quán trọ?
Thèm chưa- “khao lãm” bếp nhà ai?...
Lâm Hảo Dũng
(PTT)
Pakbang-Lào- Nov 6-15- 3H20’ pm
Ảnh Sông Mékong về Pakbang –Lào

Mời Bạn Cùng Tôi



Bài Thơ Xướng
Mời Bạn Cùng Tôi


Chiếu đã trải xong thỉnh bạn ngồi
Xuân vui ít cốc với đây tôi
Gọi là có khách bàn cho đã
Cần góp thêm tay đấu láo chơi
Sưởi ấm tấm lòng khi tuyết đổ
Xóa ta nỗi nhớ lúc mưa rơi
Trong ngày tết đến, thân lưu lạc
Bằng chẳng chao ơi chán mớ đời!


Thái Huy
Các Bài họa:
Trong Vườn, Đêm Ba Mươi

Lỡ gót đến đây, hãy cứ ngồi
Trà suông, xin đối ẩm cùng tôi
Giao thừa đã chẳng người lai vãng
Mồng một chắc gì ai ghé chơi ?
Chén tạc trông mây, chờ gió thổi
Ly thù nhìn nước, đón sao rơi
Cạn bình, hãy bước vào xông đất
Tình bạn một đêm giữa cõi đời.

Phương Hà
***
Phù Du


Tin vắn buồn ơi! khiến đứng ngồi
Bạn bè rơi rụng xót xa tôi
Vài người tháng trước than thân xác
Một lão tuần này bỏ cuộc chơi
Cánh nhạn rã rời mây gió cuốn
Tuổi già thấm thía cánh hoa rơi!
Mịt mùng sương khói chân lê bước
Ngoảnh lại phù du một mảnh đời

Mailoc
***
Đón Xuân


Không khí ngày xuân bạn tới ngồi,
Pha trà bánh mứt chút tình tôi.
Chỉ là khách Việt mình truyền thống,
Chứ chẳng ai đâu rảnh đến chơi.
Kỳ nghỉ Tết Tây nay đã mãn,
New year năm mới giọt buồn rơi.
Ly hương thiếu vắng tình nồng ấm,
Viễn xứ thăm nhau tán gẫu đời!

Mai Xuân Thanh
ngày 09 tháng 01 năm 2016
***
Chung Chiếu

Chiếu manh huynh tỷ vẫn chung ngồi
Mai Lộc,Phương Hà,Thanh với tôi
Từ kể chuyện xưa nhiều món nhậu
Tới bàn "mốt' mới đủ trò chơi
Rồi khi cao hứng ra đề xướng
Tiếp lúc cạn ly họa vận “rơi”
Tất cả như rung một nhịp đập
Soi gương tóc bạc tiếc cho dời.

Thái Huy
Jan-09-16
***
Vui Xuân Cùng Bạn

Nghe anh mời gọi đến chung ngồi
Mau mắn trả lời dạ có tôi
Rượu tứ mừng xuân vài chuyện phiếm
Trà tam đối tết mấy câu chơi
Bây giờ vui vẻ ly cùng cạn
Đến lúc chia lìa lệ chớ rơi
Giây phút như vầy tuy hiếm có
Nhưng tan và họp mới là đời.

Quên Đi
***
Bằng Hữu Chi Giao


Ước gì có bạn chúng ta ngồi
Tri kỷ kết tình anh với tôi
Một rượu xoay vòng tranh tán gẫu
Đôi câu xướng họa lạm bàn chơi
Người nơi đất khách ôm lòng nhớ
Kẻ chốn quê nhà ứa lệ rơi
Nếu quả cơ trời duyên đối ẩm
Chi giao bằng hữu tạ ơn đời

Kim Phượng
***
Buồn Vào Xuân


Đi ngang qua thấy bạn bè ngồi
Trên chiếu đủ đầy,chỉ thiếu tôi
Ứng tiếng có ai không đó chửa??
Ướm lời muốn nhấp mấy ly chơi !
Sắp Xuân bà xã đang nằm viện
Gần Tết nàng thơ lại bỏ rơi
Mượn rượu giải sầu....là thượng sách
Để quên mọi sự ở trên đời !!!

Song Quang


Thứ Hai, 8 tháng 2, 2016

Mộng Chiều Xuân - Nhạc Sĩ Ngọc Bích - Tranh Thơ Xuân Kim Phượng

Thương  tặng chị của em món quà đầu Xuân,  Chúc chị dồi dào sức khoẻ và được một Mùa Xuân Như Ý.(KimOanh)

Sáng Tác: Nhạc Sĩ Ngọc Bích
Hòa Tấu: Nhạc Sĩ Vô Thường
Những Vầng Thơ Xuân: Kim Phượng
Thơ Tranh & Youtube: Kim Oanh


Tân Niên Xướng Hoạ




Bài Xướng
Tân Niên Xướng Hoạ


Tân niên xướng hoạ mấy bài thơ
Như gặp được nhau, thú chẳng ngờ
Câu chữ trao đi... trao ước vọng
Điệu vần gởi lại ...gởi niềm mơ
Mang đôi kiếng lão, say sưa viết
Nhắp chén trà thơm, háo hức chờ
Giây phút tìm ra từ đối chỉnh
Ôi chao, hạnh phúc cứ tràn bờ

Phương Hà
***
Các Bài Họa:
Hoạ Thơ Xuân


Bắt chước Người Xưa kết vận thơ
Mừng xuân tập tểnh mấy ai ngờ
Gieo vần xướng hoạ như đan mộng
Mượn ý giao lưu chẳng khác mơ
Suy nghĩ tìm từ từ mất biệt
Lo âu ngó bút bút đương chờ
Nhìn mây mây trốn rồi nhìn nước
Chợt chữ tuôn như sóng phá bờ.

Quên Đi
***
Vườn Thơ Thẩn

Năm qua xướng họa rộn ràng thơ
Hoa bướm khoe tươi đẹp chẳng ngờ 
Thi hữu tơ lòng ươm sắc thắm 
Vườn nhà hoa lá ướp trời mơ 
Ý vần lắm lúc vò đầu kiếm 
Chữ nghĩa nhiều khi vỗ trán chờ 
Đường luật bày chi đầy thách đố 
Một khi hoàn chỉnh, khoái vô bờ!

Mailoc
01-03-16
***
Tân Niên Xướng Hoạ

Xướng họa Tân Niên góp ý thơ,
Tri âm ngàn dặm có ai ngờ,
Nửa vòng trái đất lên bài xướng,
Ngàn dặm quê người họa ước mơ.
Tết nhớ tục xưa hằng khoắc khoải
Xuân mang hy vọng vẫn mong chờ.
Ngày nao hội ngộ Vườn Thơ Thẩn,
Tựa biển niềm vui chẳng bến bờ !

Đỗ Chiêu Đức
***
Tân Niên Xướng Hoạ

Chừng như năm cũ chỉ là thơ
Cuộc sống lao đao đã hết ngờ
Nổi loạn câu vần thềm bức xúc
Trầm tư con chữ ngưỡng hoài mơ
Thời gian sóng gợn vơi nguồn cảm
Mái tóc sương phơi bạc sắc chờ
Xuân mới thầm mong đời sẽ mới
Bước chân khao khát bước sang bờ.

Nguyễn Đắc Thắng
***
1/Năm Mới Tôi Vẫn Yêu Nàng Thơ...

Tôi yêu nét đẹp của nàng thơ,
Bay bướm đài trang đố dám ngờ.
Thực bụng chân phương nhiều ý tứ,
Hồn nhiên trong sáng tưởng như mơ...
Câu thơ lục bát nghe mùi mẫn,
Bát cú thất ngôn thấp thỏm chờ...
Niêm luật gieo vần luôn chỉnh sửa,
Thở phào chữ nghĩa đủ be bờ!

2/ Tân Niên Khởi Sắc


Bằng hữu anh em xướng họa thơ,
Ngày nay Đường luật mấy ai ngờ.
Xưa kia giáo chức già hưu trí,
Cổ học tinh hoa trẻ ước mơ...
Chữ nghĩa thi thơ thêm nặng nợ,
Gieo vần niêm luật gởi trao chờ...
Tân niên khởi sắc hơn năm ngoái,
Tình nghĩa thâm giao, nước vỡ bờ!

Mai Xuân Thanh
Ngày 03 tháng 01 năm 2016
***
Bây Giờ Mới Biết

Thời đi học chẳng biết gì thơ
Nay viết đôi câu thật bất ngờ
Con chữ nơi mô len lén tới
Điệu vần chốn nớ chập chờn mơ
Góp gom chuyện cũ bạn bè đợi
Lượm lặt tin nay giấy mực chờ.
Hạnh-phúc đơn-sơ đâu phải kiếm
Quanh ta nhiều lắm thật vô bờ!

Anh Tú
January 4, 2016
***
Tết Tha Hương

Tết đến cùng nhau xướng họa thơ,
Gặp nhau thơ thẩn có ai ngờ,
Mai vàng nở rộ chào Xuân mới
Cúc trắng ra hoa đón mộng mơ
Nhấp chén trà thơm lòng khoắc khoải
Nâng ly rượu chát gởi mong chờ
Chiều chiều đón gió về quê cũ
Biển sóng lăn tăn đâu bến bờ

Lý Tòng Tôn
(ngày đầu năm 2016)
***
Đầu Năm Khai Bút

Khai bút đầu năm mượn vận thơ
Vần trao "tạ lổi"**....có đâu ngờ
Phương Hà xướng gởi...ru tròn mộng
Mai Lệ họa trao ...thoả ước mơ
Giấy mực tình em xin chớ chấp
Bút nghiên nghĩa chị mãi mong chờ
Canh tàn viết vội đôi dòng nhớ
Chẳng để lời văn phải đấp bờ

Lý Lệ MAI
Lansing,Michigan 1/4/2016
*** 
 Tháng Ngày Vui

Xuân đến tươi xanh gợi ý thơ
Niềm vui ấy nhỉ có ai ngờ
Khi mà gió lạnh xua tan mộng
Giữa lúc quê xa gợi đậm mơ
Pháo nổ mừng xuân em vẫn đợi
Lân nhào đón tết trẻ đang chờ
Cả nhà sum hiệp cung tiên tổ
Tràn ngập hân hoan hệt vỡ bờ

Thái Huy
Jan-04-16
*** 
Lẩn Thẩn Tân Niên

Ruộng ai nấy giữ nước be bờ
Lỡ vận đừng mong có kẻ chờ
Trước chợ đông người tiền sạch bách
Trong nhà hết gạo lúa vàng mơ
Bụng rau chiếu lát còn hơi tác
Tố nữ Cầu Đông mấy thuở ngờ!
Lẩn thẩn Kim Oanh liền gọi nhắc
Giật mình thiếu nợ họa bài thơ!

Cao Linh Tử
6/1/2016

Câu Đối: Xuân Bính Thân 2016- Song Quang


Câu Đối: Song Quang
Trình Bày: Kim Oanh

Giao Thừa



Giao thừa ta độc ẩm
Bên ly rượu tràn trề
Rượu Quỳnh hương thơm ngát
Mà không người cùng say

Người không cùng ta say
Mà ta cũng cứ rót
Ly cạn lại ly đầy
Đưa tiễn cuộc tình phai

Không buồn vẫn cứ say
Rượu uống càng say mãi
Lòng sầu vẫn thêm sầu
Không khóc mà mắt cay

Năm qua như mây bay
Vậy mà ta cứ ngỡ
Thời gian như dừng lại
Buồn đau mãi chốn này

Rượu tình không ai uống
Rượu nghĩa cũng phôi pha
Chia cuộc đời trôi nổi.
Chỉ còn ta với ta ...

Hoàng Kim Mimosa
Giao thừa 2014

Cho Tôi


Một lần người đã đến
Để lại bên đời tôi
Là bao lần bối rối
Lòng thầm nhủ thôi quên!

Sao bồi hồi con tim
Một lần trong ánh mắt
Âm thầm em cuối mặt
Đời nghiệt ngã oan khiên
Ru chi giấc mộng hiền
Bàn tay ai siết nhẹ
Tim nồng khe khẽ reo
Kỷ niệm hồng nhớ mãi

Muôn thuở chẳng phôi phai
Trong tình cờ đối mặt
Chỉ gang tấc gần nhau
Lòng cách một biển sâu

Tình yêu lời mật ngọt
Lệ đắng chát bờ môi
Muôn vạn lối đường đời
Ngõ nào cho riêng tôi!?

Kim Phượng

Xuân Đợi Chờ


Mai nở vàng cành khoe sắc tươi
Mang màu hoa thắm đến tô đời
Nắng hồng trải mông xuân như ý
Đem thái hòa gieo khắp cõi trời.

Xuân không hẹn, xuân về rồi đó
Xuân của xum vầy của tình vui
Riêng chỉ một người hiu hắt nhớ
Cánh chim còn bay lạc phương trời.


Đep quá tháng ngày quấn quít nhau
Tiếng cười như suối chảy dòng sâu
Thời gian không đủ hong tình nhớ
Một phút xa nhau, một phút sầu.

Bao mùa xuân đến, bao mùa đợi
Chỉ thấy lòng quay quắt ngóng trông
Tình ơi sao cứ xa vời vợi
Để kẻ đầu sông kẻ cuối dòng

Hồng Vũ Lan Nhi
2/3/2004

Thương Xuân



Xuân ơi ta nhìn Nàng
Vóc dáng thật đoan trang
Yểu điệu nhường mai nở
Phong tư càng dịu dàng

Tóc mượt tựa làn mây
Nước da mầu thiên thanh
Mày ngài hơi uốn éo
Mắt phượng trông long lanh

Mỗi độ nàng Xuân về
Trăm hoa cùng đua nở
Muôn dân vui tưng bừng
Vạn vật đều hớn hở

Xuân đi Xuân lại lại
Bên cạnh ta cùng vui
Khắng khít bên nhau mãi
Thương Xuân dạ bùi ngùi

Viên Ngoại Thái Hanh

Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2016

Xuân Miền Nam Sáng Tác Văn Phụng- Câu Đối Tiễn Năm Cũ, Mừng Xuân Mới 2016

Năm cũ bước qua.
Mừng Mùa Xuân Mới Bính Thân 2016 đến,
Mến chúc Quý Thầy anh chị Vườn Thơ Thẩn, một Năm Mới đầy hạnh phúc, dồi dào sức khoẻ, vạn sự may lành


Sáng Tác: Nhạc Sĩ Văn Phụng
Tranh Câu Đối & Youtube:Kim Oanh
Câu Đối: Phương Hà, Kim Phượng, Đỗ Chiêu Đức, Huỳnh Hữu Đức, Song Quang, Mai Xuân Thanh, Nguyễn Đắc, Thắng, và Việt Hải


Tết Buồn - Buồn Tết



Xướng:
Tết Buồn


Cứ Xuân về là Tết phải hay không
Đêm suy tư nghe trống vắng trong lòng
Ngoài kia! Tuyết lạnh còn mênh mông phủ
Tiếc...ngậm ngùi Xuân cũ mãi đi xa..!

Thôi! Tết làm chi nữa...hả Xuân ơi!

Kim Hiệp
***
Họa:
Buồn Tết


Ở bên này Xuân đến Tết thì không
Nắng hạ chang chang buộc rộn xuân lòng
Nụ mai tháng Chín ươm nồng hương đợi
Tết phương trời nào xuân những xót xa...!

Ừ! Thà thôi đừng đến nữa Tết ơi!

Kim Phượng
Úc Châu

Câu Đối Xuân Bính Thân 2016 - Cao Linh Tử


Câu Đối: Cao Linh Tử
Trình Bày: Kim Oanh

Xuân


Tết này xa xứ quá lâu rồi
Xuân đến lòng ta luống ngậm ngùi
Quê mẹ giao thừa còn gió lạnh
Xứ người chúc tuổi đẫm mồ hôi
Nhang lòng thắp đã trăm dư nén
Gốc tử trông về vạn dặm khơi
Ướm thử Chúa Xuân cho biết với
Ngày nào nắng ấm ở quê tôi

Viên Ngoại Thái Hanh

Giao Thừa Trên Vàm Kinh Ngã Bảy


Khi ghé lại trên vàm kinh Ngã bảy
Cảm thương hoài đôi chiếu đẹp Cà mau
Sông nước ngọt như một bài vọng cổ
Hẹn nhau về ghe trước đợi ghe sau
Ai trôi nổi mà muồi câu nói lối
Tôi chào em cái gỏ nhịp song lang
Xuồng em chở về đâu mùa trái ngọt
Chiều mênh mông hương khói quyện mõ màng
Tôi đâu dám mời em chung chén rượu
Cạn giùm nhau câu muối mặn gừng cay
Đêm thăm thẳm lục bình trôi man mác
Gác tay chèo chờ xuân tới đêm nay
Em áo đỏ như môi trầu thiếu phụ
Lắng niềm riêng theo lớp lớp phù sa
Đời nước ngược cắm sào vui chốc lát
Sóng êm đềm đâu biết sẽ phong ba
Sáng mùng một chắc em về xuôi nước
Chút môi cười xao xuyến mái chèo tôi
(Nước không chưn sao kêu bằng con nước đứng)
Mới quen mà. Sao nói chuyện chia phôi..

Lâm Hảo Khôi

Chúc Mừng Xuân


(Họa Chúc Giáng Sinh của Danh Hữu)

Chúc luôn tươi đẹp giang san ta
Chúc khắp quê hương sống thái hòa
Chúc nước phương cương và thịnh vượng
Chúc dân no ấm hết can qua
Chúc em sáng sáng đi vô lớp
Chúc cụ chiềi chiều dạo ngắm hoa
Chúc mọi gia đình tràn hạnh phúc
Chúc riêng bạn gái hết chia xa.

Mừng thanh bình lại với non sông
Mừng cõi trời nam rực nắng hồng
Mừng Tết Bính Thân-tung xác pháo
Mừng xuân Con Khỉ-tiễn tàn đông
Mừng anh phấn khởi bên cha mẹ
Mừng bậu say xưa cạnh bạn lòng
Mừng tiếng guốc giòn khoe khắp ngõ
Mừng mai đào nở thỏa niềm mong…

Thái Huy
12-19-15

Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2016

Xuân Mỏi Mòn - Thơ Kim Phượng - Phổ nhạc Ân Nguyễn

Kính dâng Hương Linh Bác. Kính tặng chị Kim Phượng 2016



Thơ: Kim Phượng
Phổ Nhạc, Đàn& Hát: Nguyễn Đức Tri Ân

Câu Đối Xuân Bính Thân 2016 - Phong Tâm


Câu Đối: Phong Tâm
Trình Bày: Yên Dạ Thảo

Nhớ Tết Việt Nam



Lập đông gió bấc lạnh về
Làng thôn bánh tráng phơi kê khắp đường
Dòng sông quê đẹp thân thương
Nâng ghe chở khẩm hoa vườn,trái cây...

Nhà ai ngói mới vừa xây
Mừng xuân đám cưới vui say họ hàng
Tơ duyên trời khéo buộc ràng
Nàng trầu ôm mãi thân chàng cau cao

Tháng giêng gió thở ngọt ngào
Hồng,lài,bưởi,nhãn...hương sao tuyệt vời
Trạng nguyên môi đỏ rạng ngời
Mai,đào khoe sắc cho đời thêm xuân

Ngày qua Tết đến thật gần
Cây nêu ngất ngưởng trong sân vẫy chào
Người người áo mới khoe màu
Bầu cua cá cọp, bài cào... vui chơi

Điệu hò, khúc hát yêu đời
Một năm ăn Tết thảnh thơi ba ngày
Quê người Tết vẫn đi cày
Mùa đông nước bạn cùng ngày xuân ta

Chạnh lòng viễn khách xa nhà
Xuân ơi! Tết Việt thật là nhớ thương...

Phượng Trắng

Bóng Xuân


Mặt trời quỳ gối bên song
Nhành mai ưỡng ngực cỡi lòng vào xuân
Đám mây quá khứ xoay dần
Tóc buông hiện thực xuôi càn khôn vây
Là ta? Là tháng ngày này
Là xuân? Là bóng đầu thai, nợ đòi
Là em? Ưỡn ngực ngạo đời
Là hoa? Là dấu hương thời đôi mươi
Chiều vừa qụy xuống. Chiều rơi
Thế nhân vấp ngả những lời hôn mê
Ta, em, những cõi vụng về
Em, ta, lợi dụng xuân về thế thôi
Nụ hôn còn đỏ đất trời
Bàn tay còn ấm lời thề đã xưa
Mặt trời rung động mấy mùa?
Lòng người băng lạnh giao thừa rụng rơi

Hoài Tử

À Xuân...


Bài Thơ Xướng
À Xuân...

Rượu thịt nơi đây hẳn quá thừa
Hỏi nhe chừng ấy đủ hay chưa?
Lá đầy trước ngõ chờ hong nắng
Em lạnh bên kia đứng hứng mưa
Ai nhỉ cùng ai vui cạn chén?
Bạn ư với bạn hẹn giao mùa
Còn ta bó gối nhìn sương tuyết,
Phải Khỉ đó a,sao chẳng thưa?

Thái Huy,
***
Bài Thơ Họa:
Xuân Lại Về

Từ độ xuân xưa kiếp sống thừa,
Bốn mươi mốt lượt Tết qua chưa...
Yêu ai dạo ấy chờ mong mi,
Mến khách thuở nào đợi dưới mưa.
Lỗi hẹn đôi ta xa cách mấy,
Quên sao lẻ bạn dở dang mùa.
Xuân về trở lại thăm quê cũ,
Người đó ta đây chẳng dám thưa!

Mai Xuân Thanh 
Ngày 11 tháng 01 năm 2016


***
Ơi Xuân!

Thưởng xuân nào đủ nói chi thừa
Đôi lúc mơ màng xuân đến chưa
Chả lẻ xuân còn đang đợi gió
Hay là xuân chậm bởi vì mưa
Lây quây lòng chỉ chờ xuân đến
Lẩn quẩn mong xuân sớm ngự mùa
Cũng bởi tín đồ xuân mới thế
Yêu xuân nên chẳng ngại lời thưa.

Quên Đi

Chúc Mừng Xuân Bính Thân - Kim Quang



Tháng Chạp


Ta ở đây, Tết rất chậm về
ghét cái lạnh làm da khô ửng
đã mười năm, chín năm dị ứng
đất trời nầy đâu phải của ta.

Thời tiết gì như phỏng thịt da
hồn tê cứng đau cơn buồn bã
thân của ta đất khách đầy xa lạ
máu về tim máu chảy chậm dần

Tuyết đầy trời tuyết đông cứng ngoài sân
ta vốn sinh ra ở gần xích đạo
ngày ở trần đêm không bận áo
ngủ phơi lưng, xoa bụng rịn mồ hôi.

Tay quạt mo phe phẩy thảnh thơi
cơn gió nhẹ ru hời hồn nhiệt đới
sáng thức dậy vươn vai đời thoải mái
nghe tiếng gà gù mái rộn ngoài hiên.

Còn ở đây thật quá đổi phiền
đã mười năm chưa một lần ăn Tết
ngày mồng một vẫn đi cày trối chết
tám tiếng dài mỏi mắt ù tai.

Đêm ở đây, đêm thật là dài
nghe gió hú tưởng đời man rợ
sáng thức dậy thấy bill thấy nợ
nợ trả hoài trả mãi không xong.

Đã mười năm như nước lớn nước ròng
ta, về lục bình trôi lên trôi xuống
qua đây mười năm cứ ngỡ làm vương làm tướng
ai ngờ, ai ngờ bắt phải job cu-li

đã mười năm ngôn ngữ cứ phân ly
tiếng Mỹ với ta như kẻ thù truyền kiếp
học một chữ ngày hôm sau quên biệt
ở mười năm không hiểu nổi Yes, No

Tháng chạp buồn, tháng chạp buồn xo
ngồi tính sổ cuộn đời hỏng bét
ăn làm sao, nói làm sao khi chết,
với cha ta, ông chỉ một thằng con.


Trần Phù Thế

Thứ Sáu, 5 tháng 2, 2016

Con Phố Mulberry Bend


Đây là câu chuyện của một người đàn ông mang tên Jacob và một nơi gọi là Mulberry Bend. Một câu chuyện có thật xảy ra ở New York City từ lâu lắm rồi. Từ năm 1888.
Jacob và vợ là Elizabeth sống trong một căn nhà nhỏ. Họ có hai đứa con gái: Kate và Clara. Gần nhà Jacob có nhiều cây cối. Căn nhà được bao quanh với những cánh đồng có rất nhiều bông hoa.
Jacob làm việc cho một tờ báo ở thị trấn. Mỗi buổi sáng, ông từ giã Elizabeth, Kate và Clara rồi đi bộ ra bờ sông. Nơi đây, ông xuống phà sang sông để vào thị trấn.

Mỗi ngày ông thường đi bộ dọc theo những con đường để vào thị trấn. Trong lúc tản bộ đó, ông thấy rất nhiều điều. Có ngày ông thấy xe chữa lửa đang đi cứu hỏa. Có ngày ông thấy đoàn xiếc vào phố. Có ngày ông thấy đoàn diễn binh đi ngang qua...
Mỗi ngày Jacob thấy vài điều mới lạ. Rồi ông vào phòng nơi ông làm việc, ông viết lại những gì ông đã thấy. Mỗi ngày bài của ông được đăng lên báo. Mỗi ngày người ta được đọc những câu chuyện mới của Jacob.

Một ngày nọ, đang trên đường trở về nhà sau giờ làm việc, Jacob dừng lại và tẻ vào một con phố tối tăm. Ông biết con phố nầy rất rõ. Đó là con
phố Mulberry Bend. Không có một con phố nào trong thị trấn lại quá tối tăm như vậy. Không có con phố nào trong thị trấn có những ngôi nhà quá cũ kỹ như vậy. Cũng không có con phố nào có những con người quá nghèo
như vậy.

Jacob đã viết nhiều lần về Mulberry Bend. Ông đã viết về những ngôi nhà cũ kỹ phải được phá hủy, những ngôi nhà mới sẽ được dựng lên thay thế. Ông đã viết một sân chơi phải được thiết lập để những đứa trẻ có chỗ chơi đùa. Nhưng rồi không có một điều nào được thực hiện ở Mulberry Bend.
“Không một điều nào được thực hiện cho nó”. Người ta nói như vậy và rồi Mulberry Bend bị trôi vào quên lãng.
* * *
Một ngày nọ, Jacob gặp Albert, một đứa con trai sống ở Mulberry Bend. Ông ta hỏi:
- Hôm nay mẹ con có khỏe không? Bà còn bịnh không?
- Vâng, mẹ con vẫn bịnh, nhưng bà đã thấy đỡ hơn. Albert trả lời.
Jacob tiếp:
- Tôi nghĩ rằng con nên hái một ít hoa về cho mẹ nếu có thể. Những người bịnh sẽ cảm thấy khỏe khoắn hơn khi họ được ngắm những cành hoa.
- Thật vậy sao ông? Albert hỏi lại.
Jacob gật đầu. Albert nói với Jacob:
- Vậy thì con sẽ hái một vài cành hoa cho mẹ. Duy chỉ có một điều con chẳng biết hoa ra sao cả. Con không bao giờ thấy chúng.
- Con chẳng bao giờ thấy một bông hoa sao? Nhưng Albert nầy, ở ngoài đồng nội hoa mọc khắp nơi con ạ!
- Con chưa bao giờ được ra đồng nội vì mẹ con quá nghèo. Con chưa bao giờ đi xa khỏi con phố Mulberry Bend nầy.

Jacob ngồi xuống bên cạnh Albert cố gắng giải thích cho cậu ta biết hoa ra làm sao. Jacob nói rằng hoa mọc lên từ đất. Có những loại hoa rất thơm mà cũng có những loại chẳng có mùi gì cả. Ông kể rằng hoa rất nhiều màu. Có loại màu đỏ. Có loại màu xanh. Có loại màu trắng. Có loại màu vàng. Khi Jacob kể dứt, Albert nói cậu ta nghĩ rằng cậu ta có thể hình dung được hoa như thế nào rồi. Cậu ta ước ao một ngày nào đó cậu ta sẽ được nhìn thấy chúng.

Sau đó Jacob rời Mulberry Bend. Ông đi bộ đến bờ sông, xuống phà trở về nhà trên đồi. Kate và Clara đã thấy, chúng chạy xuống và nhảy vào lòng ông. Trong lúc cùng hai con đi bộ về nhà, Jacob nhìn sang hai bên đường: những cánh đồng đầy hoa. Jacob nghĩ đến Albert. Ông kể cho Kate và Clara nghe câu chuyện đứa bé mà ông đã gặp hôm nay. Một đứa bé chưa bao giờ rời khỏi con phố tối tăm Mulberry Bend. Một đứa bé nghèo khổ chưa bao giờ thấy một cành hoa...

Buổi sáng hôm sau, Kate và Clara dùng điểm tâm thật sớm. Chúng ra khỏi nhà và chạy vào cánh đồng. Chúng hái tất cả những cành hoa cho đến khi hết mang được mới thôi. Rồi chúng chạy xuống bến phà và trao hoa nầy cho Jacob.
- Chúng con hái hoa nầy cho Albert, đứa trẻ chưa bao giờ thấy hoa.
Khi Albert thấy những cành hoa, cậu ta im lặng thật lâu.
- Con có thích những cành hoa nầy không? Jacob phá tan sự im lặng.
- Con thích chúng nó lắm. Con không bao giờ có những vật đẹp như vậy. Con sẽ đem chúng về nhà cho mẹ con và chúng sẽ làm cho bà cảm thấy khỏe hơn.

Những đứa trẻ khác cùng sống ở Mulberry Bend chạy đến. Chúng cũng chưa bao giờ thấy hoa nữa. Chúng xin phép để được nhìn những cành hoa. Chúng ôm lấy và ngửi nó. Tất cả những đứa trẻ đều nói rằng hoa rất đẹp. Một đứa bé gái nói hoa rất đẹp và cô bé bắt đầu khóc.

Ngay hôm ấy Jacob viết một câu chuyện cho tờ báo của ông ta về những đứa trẻ và những cành hoa. Ông đem báo về nhà cho Kate và Clara xem. Chúng rất sung sướng vì chúng đã hái hoa cho Albert.
Nhưng sự việc xảy ra không những chỉ có thế. Đêm đó rất nhiều người đọc truyện của Jacob. Họ cảm thấy thương tâm đối với những đứa trẻ ở con phố Mulberry Bend.

Sáng hôm sau họ ra đồng và nhặt hoa như Kate và Clara đã làm. Rồi họ mang hoa vào thị trấn. Người ta mang hoa đến bằng tàu hỏa. Người ta mang hoa đến bằng xe ngựa. Người ta mang hoa đến bằng xe kéo... Họ đã mang hoa đến phòng làm việc của Jacob và nói:
- Xin vui lòng trao hoa nầy cho các trẻ em ở Mulberry Bend.

Chẳng bao lâu căn phòng ngập đầy hoa. Jacob thò đầu qua cửa sổ, ông thấy rất nhiều người tiếp tục mang hoa tới. Jacob ra ngoài và chất hoa lên đầy một toa lớn rồi đem đến Mulberry Bend.
Có hoa cho mọi người. Cho mỗi đứa trẻ. Cho mẹ chúng. Cho cha chúng. Và vẫn còn rất nhiều hoa. Họ đặt hoa lên tất cả các cửa sổ. Họ đặt hoa nơi lò sưởi. Từ trên xuống dưới của mọi ngôi nhà không gì khác hơn hoa. Và ngày đó Mulberry Bend trở thành con phố đẹp nhất trong thị trấn.

Jacob viết một bài về câu chuyện nầy nữa. Rất nhiều người đọc nó. Chẳng bao lâu họ bắt đầu nói: “Chúng ta phải làm cái gì cho Mulberry Bend”.
Jacob sống ở đây cho đến già. Ông chứng kiến rất nhiều đổi thay trong thị trấn.
Rồi một ngày những ngôi nhà cũ kỹ ở Mulberry Bend được phá sập... Chẳng mấy chốc những ngôi nhà mới được dựng lên thay thế. Và cuối cùng một sân chơi cũng được thành hình, nơi mà những đứa trẻ ở Mulberry Bend có thể thỏa thích chơi đùa.

Nhưng không có điều gì làm cho Jacob sung sướng bằng một ngày đã qua thật lâu, cái ngày mà đứa bé tên Albert thấy hoa lần đầu. Cái ngày mà tất cả những đứa bé ở Mulberry Bend thấy hoa lần đầu. Và cái ngày mà một đứa bé gái đã khóc vì những cành hoa cô ta đang cầm trông thật đẹp...

Tác giả: William Wise
Phỏng dịch: Mặc Thái Thủy


Người Em Phi Hành


Mầu xanh đó đã bay vào giấc ngủ
Xé hồn anh bằng mộng mị từng đêm
Anh cúi đầu trong một phút giây im
Trời tưởng nhớ đã dậy mùi hương phấn

Ôi những ngón tay dài cho đời anh lận đận
Mắt nai buồn rung nỗi nhớ trong tim
Tà áo xanh hong mãi những ưu phiền
Vùng tóc rối những giận hờn xưa cũ

Em cay đắng tháng năm dài quá khứ
Thủa học trò trái mộng vẫn còn xanh
Bước chênh vênh vào lối ngõ đăng trình
Đôi cánh mỏng run trong thời bão tố

Là thôi hết những ngày xưa bé nhỏ
Những kinh thành em dạt bước phiêu du
Nay hồn anh muôn thuở vẫn giăng mù
Trong vũng nhớ là màu xanh diễm ảo

Thụy Khanh
Sài Gòn 1972



Câu Đối Xuân Bính Thân 2016 - Kim Phượng


Câu Đối: Kim Phượng
Trình Bày: Kim Oanh

Chén Trà Tháng Chạp


Cám ơn em một nhúm trà
Đời ta chén đắng bỗng đà thơm hương

Cám ơn em miếng mứt gừng
Ta cay như thể chưa từng được cay
Cám ơn vườn nở cành mai
Sân sau tháng chạp hiên ngoài lá reo...


Lâm Hảo Khôi

Chúc Mừng Xuân Bính Thân 2016 - Đặng Anh Tuấn

 


Tuấn Yến Đặng

Xuân Cuối Mùa


Xuân chưa qua mà lòng chợt giá
Người quay đi nằm vạ hồn tôi
Ướp hoa môi gợi chút bồi hồi
Giây phút biệt một lần nuối tiếc

Xuân chưa qua gió mùa chợt rét
Khêu ngọn đèn leo loét chờ ai
Người quay đi ... tình lạt hương phai
Ngày tháng muộn trần ai muối mặn

Xuân cuối mùa chít vành khăn trắng
Mắt nặng sầu giọt đắng mặn môi
Người quay đi.. tìnht vôi.. hấp hối
Thôi hết rồi... còn trối trăn chi.

Kim Oanh

Mùa Xuân Cho Anh


Thuở đó Xuân về không nói năng
Trời xanh và gió cũng ngại ngần
Cánh chim đã lạc trong trời nhớ
Với ngón tay gầy nặng chĩu năm

Hồn đã chìm trong đáy mắt nâu
Này anh trên lối đó sa mù
Cỏ cây đã dậy lên niềm ước
Nắng cũng hanh vàng những mộng mơ

Và buổi hoàng hôn cũng ngọc ngà
Rải đầy hương phấn tóc mây xưa
Biển xanh nhớ lối về song cũ
Một thuở thanh bình rợp khúc ca

Em sẽ về thăm vùng núi biếc
Bốn mùa trăng nước nhớ san hô
Thoáng bóng con tàu xa bãi vắng
Khói mù lan giải cát tương tư

Em sẽ về trong mùa nắng ấm
Ngày dài cho nỗi nhớ nhung thêm
Sánh vai bước chậm trên thềm đá
Và Tiên-Sa ơi trong hạnh phúc bình yên

Sài Gòn 1972
Thụy Khanh

Mơ Xuân



Bài Xướng: Mơ Xuân

Trăm hoa đua thắm rộ ngoài sân
Yểu điệu Nàng Xuân dạo cảnh trần
Lan cúc đào mai khoe sắc mộng
Xanh vàng đỏ tím điểm tô thân
Chàng dê tết trước còn ngơ ngẩn
Chú khỉ năm nay hẳn thất thần
Ta đắm Nàng Xuân hay luyến nhớ
Vì trang kỷ niệm đẹp vô ngần.


Quên Đi

 ***
Bài Họa: Xuân Mơ

Gió về và én lượn quanh sân
Tin báo niềm vui ngập cõi trần
Từ bác nông phu thời vững dạ
Tới anh chiến sĩ đã bình thân
Đón xuân pháo nổ đều tan xác
Mừng tết lân chao tựa xuất thần
Xin chúc nhà nhà tràn hạnh phúc
Mơ nay đã đến thật trong ngần.

Thái Huy

Năm Khỉ Nói Chuyện Tề Thiên


Chuyện Tề Thiên... là chuyện hoang đường trong Tây Du Ký cuả Ngô Thừa Ân, nói về một con khỉ đá lanh lợi thông minh, học được phép tiên, làm loạn cả long cung, âm tào địa phủ và làm náo loạn cả thiên đình. Cuối cùng Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng phải chịu thua mà phong cho chức " Ông Thánh lớn ngang bằng trời " là : TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH !
Năm con khỉ nói chuyện Tề Thiên là nói chuyện phiếm, chuyện tạp nhạp bao đồng về loài khỉ để nghe chơi khi trà dư tửu hậu ...

Xếp thứ 9 trong bảng thứ tự 12 con giáp, thuộc chi THÂN trong Thập nhị Địa Chi. Khỉ là động vật cực kỳ thông minh, nhanh nhẹn, đồng hành phát triển cùng với đời sống con người từ thời bàn cổ đến nay . Còn có thuyết cho KHỈ là thuỷ tổ cuả loài người nữa !. Loài Khỉ có đặc tính giống như loài người, thuộc loài có vú, sanh con, thường ở trong rừng, ưa nhảy nhót, đu chuyền từ cây này sang cây khác, sống tập thể thành từng đoàn, thông minh hơn các thú vật khác, cho nên thường bắt chước loài người qua các động tác sinh hoạt thường ngày. Khỉ đi vào đời sống văn hóa người Trung Hoa và Việt Nam qua 12 con giáp : Năm Thân, như năm nay 2016 là năm Bính Thân, tháng Thân là tháng 7 Âm lịch, ngày Thân là ngày được xếp sau ngày Mùi và trước ngày Dậu, giờ Thân là từ 3 đến 5 giờ chiều.
Giòng họ của khỉ thì rất nhiều, nói theo tập quán dân gian, ta có : Khỉ, Vượn, Đười Ươi, Lọ Nồi, Dã Nhân ... Gọi theo chữ Nho thì là Hầu Tử 猴子, Hồ Tôn 猢猻, Sơn Viên 山猿, Tinh Tinh 猩猩 ... 
HẦU 猴 là chữ Hài Thanh 諧聲 ( còn gọi là Hình Thanh 形聲 ), được ghép bởi bộ Khuyển 犭(犬) là loài Chó bên trái chỉ Ý ( chỉ loài vật có 4 chân ) và chữ Hầu 侯 là Hầu Tước bên phải chỉ Âm, theo diễn tiến như sau : 

Chữ HẦU trong phần Đại Triện, bên trái là hình con thú có 4 chân có đuôi, bên phải là hình người đứng đang giương cung, mũi tên nhắm về phía trước có một vạch ngang là cái bia để tên bắn vào.

Trong thời Xuân Thu ( 770 – 476 TCN ), người ta không gọi khỉ, mà có tên chính thức trang nghiêm dành cho loài vật có chức vị Hầu Tước 侯爵 này : ( Hóu ) HẦU 侯 là Tước Hầu, đứng sau tước Công và đứng trên tước Bá, đồng âm với Hầu là Khỉ. Từ đó về sau, khỉ chính là tượng trưng cho sự tốt lành, hanh thông, may mắn. Hình ảnh của khỉ thường được điêu khắc hoặc dán trên các bức tường và cửa ra vào với mục đích kêu gọi phước lành, quan lộc và niềm vui.


Trong văn học cổ, nhắc đến khỉ là người ta nghĩ ngay đến câu : " Sát kê cảnh hầu 殺雞儆猴 " hoặc " Sát kê giáo hầu 殺雞教猴 " cũng thế . Có nghĩa : Giết gà để cảnh cáo khỉ hay giết gà để dạy khỉ, theo truyện kể sau đây:
Trong một gánh xiệc Sơn Đông bán thuốc, người bầu gánh có nuôi 3 con khỉ và đều dạy cho chúng biết làm trò xiếc như : Đi bằng 2 chân, mặc quần áo, đi dây, nhào lộn ... Nhưng một hôm, 3 chú khỉ đều đồng lòng " đình công " không thèm làm trò xiếc nữa, mặc cho người bầu xiếc gỏ kẻng, thúc phèng la như thế nào, 3 con khỉ vẫn trơ trơ. Hết cách, chẳng lẻ bó tay, người bầu xiếc bèn nghĩ ra một cách, ông ta đem một con gà trống đến giữa sân, rồi gỏ kẻng, gỏ phèng la lên, dĩ nhiên là con gà trống vẫn trơ trơ. Ông ta bèn hươu đao chém bay đầu con gà máu tuôn xối xả . Đoạn, ông cho dắt 3 con khỉ ra sân, tay vẫn còn lăm lăm cây đao, ông ra lệnh cho gỏ kẻng, gỏ phèng la lên, 3 con khỉ sợ bị chém như gà, bèn ngoan ngoản diễn đủ trò theo yêu cầu cuả ông bầu xiếc. 
Vì tích trên mà ta có câu Thành ngữ " Sát Kê Cảnh Hầu " tương đương trong tiếng Nôm ta là : " Giết gà dọa khỉ, Giết gà dạy khỉ hay Giết gà răn khỉ " gì cũng thế. Ý nghĩa của câu thành ngữ nầy cũng tương đương như câu : " Giết một răn mười ", phạt một người để làm gương răn đe cho trăm ngàn người khác!

Cũng như con ngựa, con khỉ cũng đồng hành với con người từ ngàn xưa đến nay, nên ta cũng có một thành ngữ liên quan đến 2 con vật nầy, đó là câu " Tâm Viên Ý Mã 心猿意馬 ", để chỉ TÂM và Ý không đồng bộ, không ăn khớp với nhau, vừa muốn làm việc nầy, vừa muốn làm việc nọ, tâm ý hoang mang không quyết định được. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ đời Hán, Ngụy Bá Dương trong Tham Đồng Khế có phần chú như sau : " Tâm viên bất định, Ý mã tứ trì ". Có nghĩa : Lòng thì không ổn định như lòng con vượn, còn ý thì như con ngựa muốn chạy bốn phương ". 漢·魏伯陽《參同契》注:“心猿不定,意馬四馳。” Thơ của Hứa Hồn đời Đường, trong bài Đề Đỗ Cư Sĩ Thi có câu : " Cơ tận Tâm Viên phục, Thần nhàn Ý Mã hành " 唐·許渾《題杜居士》詩:“機盡心猿伏,神閑意馬行。” Có nghĩa : " Thời cơ đã hết nên lòng cũng lắng xuống như tâm con vượn, Tinh thần nhàn nhã thì ý cũng phóng túng như ngựa chạy vậy ". 
Nhưng, theo kinh văn Duy Ma Cật, thì Phật Giáo cho là lòng của chúng sinh không có ổn định, như lòng của con vượn và ý của con ngựa vậy, luôn luôn động đậy và hướng ngoại, khó mà an trụ cho được ! Nên, phải khắc chế được cỏi lòng cho đừng có " Tâm Viên Ý Mã " thì tâm mới định mà tu hành mới có kết qủa và mới đắc đạo được.

Để thay đổỉ không khí, và để cho Đông Tây được đề huề, Xin được giới thiệu thành ngữ " Lấy Dẽ Trong Lò ". Thành ngữ này dùng để chỉ bị người lợi dụng, làm những việc mạo hiễm để cho người khác được hưởng lợi, ngồi mát ăn bát vàng. 
Thành ngữ nầy lấy từ thơ Ngụ Ngôn cuả đại thi hào Pháp cuả thế kỷ 17 là Jean de La Fontaine (1621-1695). La Fontaine được các nhà văn thời Tiền Chiến của ta nhại âm dịch tên là Lã Phụng Tiên, giống như tên của Lã Bố thời Tam Quốc vậy. Bài thơ Ngụ Ngôn có tựa là KHỈ và MÈO. Nội dung tả lại việc Khỉ dụ Mèo khều lấy hạt dẽ đang được nướng ở trong lò. Khỉ ăn hạt dẽ còn Mèo thì bị cháy cả lông chân. Bài thơ Ngụ Ngôn nầy được diễn nôm như sau:


Khỉ và Mèo

Khỉ và Mèo cùng chung một chủ 
Chung một nhà, thức ngủ có đôi 
Phá hại thì nhất hạng rồi 
Lại không kiêng nể một ai bao giờ 
Đã biết vậy, đừng ngờ xóm ngõ 
Nếu trong nhà đổ vỡ vật chi 
Khỉ thì trộm cắp quá đi 
Mèo thì chuột bọ để gì ý đâu 
Nhưng phó mát cất đâu cũng biết 
Ăn vụng thì hạng nhất trần gian 
Một hôm hai đứa lưu manh 
Trông thấy hạt dẻ nướng quanh bếp lò 
Cùng rỏ dãi, nhỏ to bàn mãi 
Một việc thôi, mà lợi hai đường 
Trước là thích khẩu no lòng 
Sau thì để khổ cho ông hỏa đầu 
Khỉ cất tiếng yêu cầu chú Mão: 
"Việc làm này ông bạn mới xong 
Nếu tôi mà được như ông 
Bẩm sinh bạo lửa thì không phải nhờ 
Hạt dẻ nướng đương chờ ta đó 
Bạn lấy ra chẳng khó khăn gì!" 
Mèo nghe hành động tức thì 
Gạt tro cẩn thận ra rìa bếp than 
Hai chân nó mấy phen thò thụt 
Rốt cuộc rồi lấy được hạt đầu 
Rồi hai ba hạt tiếp sau 
Khỉ trong lúc đó cúi đầu bóc ăn 
Bỗng con sen ngoài sân đi tới 
Khỉ và Mèo cùng vội lẩn chuồn 
Riêng Mèo vừa tức vừa buồn 

Có nhiều hầu bá giống trường hợp trên 
Nghe phỉnh nịnh, lửa tên liều mạng 
Chiếm đất đai dâng hiến cho vua 
Sánh Mèo cái dại chẳng thua !
Bản dịch của Đỗ Khắc Siêm, Hà Khắc Nguyện

Trở lại Ấn Độ với thần khỉ Hanuman là một nhân vật trong thần thoại Hindu được kể lại trong sử thi Ramayana. Trong sử thi, Hanuman đã giúp đỡ cho người anh hùng Rama trong cuộc chiến chống lại vua quỷ Ravana. Thần khỉ Hanuman là nhân vật trung tâm trong hai bộ sử thi vĩ đại và lừng danh của Ấn Độ là Ramayana và Mahabharata. Các đền thờ khắp nước Ấn Độ đều có hình ảnh Hanuman, vị thần khỉ nổi tiếng với vũ khí là quả chùy ( gada ), biểu tượng của lòng dũng cảm. Thần rất sùng bái người bạn của mình là Rama ( vị Vua anh hùng được kể trong sử thi Ramayana ), và cũng được Rama thương yêu nhất, nên có khi người ta vẽ Hanuman với hình Rama xăm trên ngực. Rama được coi là hóa thân của Vishnu, là Đấng bảo tồn trong quan niệm Trimurti của Ấn giáo. Trong cuộc chiến đấu giữa vua Rama anh hùng và quỷ Ravana, thì Hanuman là người giúp đỡ vua đắc lực nhất, trung thành với vua nhất. 

Sang qua châu Mỹ với chú King Kong khổng lồ nhưng lại si tình vào bậc nhất cổ kim với câu nói bất hủ của phương Đông là : " Anh hùng nan qúa mỹ nhân quan !", đằng nầy quái thú cũng không thể thoát khỏỉ lưới tình !
King Kong là tên một con ác thú khổng lồ (giống loài khỉ đột) được hư cấu trong nhiều loại tác phẩm, đặc biệt là điện ảnh. King Kong nổi tiếng khắp thế giới từ bộ phim cùng tên năm 1933, và tiếp tục được làm lại vào 1976 và 2005.
King Kong sinh sống trên Đảo Đầu Lâu (Skull Island), ở đâu đó trên Ấn Độ Dương và được cư dân nơi đây thờ cúng như một quái vật ăn thịt linh thiêng. Một đoàn làm phim từ New York lặn lội đường xa đến đây vì nghe nói có nhiều sinh vật huyền bí trên đảo này, do đó sẽ có cơ hội tạo những cảnh quay ngoạn mục.
Cô diễn viên Ann Darrow xinh đẹp bị bắt cóc và đem ra tế Kong. Con khỉ đột chẳng những không ăn thịt Ann mà còn thích thú và yêu mến nàng. Mọi người trên tàu đi giải cứu Ann, trong đó hăng hái nhất là nhà viết kịch bản Jack Discroll, người yêu của cô. Đoàn người mắc kẹt trong rừng sâu và phải đối mặt với bao sinh vật nguy hiểm, như côn trùng khổng lồ, rắn rết, khủng long... Rồi lại bị Kong tấn công, bao nhiêu người bỏ mạng. Những kẻ sống sót vội vàng bỏ cuộc, trở về New York. Jack vẫn quyết tâm tìm Ann. Khi cứu được thì con khỉ đuổi theo. Đạo diễn Carl Denham nhân cơ hội đó bẫy nó đem về New York. Ông ta gọi nó "Kong– vị vua (King) của thế giới".
King Kong được đem ra trình diễn cho khán giả có máu mặt ở Manhattan ( Mã Nhật Tân, một khu phố lớn nổi tiếng ở New York ) như là một "Kỳ quan thứ tám của thế giới". Ann lại không đến dự vì phản đối hành động tàn ác đó. Kong phá tan nhà hát trình diễn, thoát ra tìm Ann. Nó đại náo toàn bộ khu đô thị lộng lẫy xa hoa, khiến xe cộ, nhà cửa đổ bể tan hoang. Ann xuất hiện kịp thời, Kong lại bị mê hoặc bởi sắc đẹp của nàng, giống như trong truyện Giai nhân và Quái thú (Beauty and the Beast). Nhưng quân đội ập đến, Kong bế Ann bỏ chạy lên tòa nhà Empire State cao nhất thời đó (trong phim năm 1976 là tòa WTC). Các phi cơ chiến đấu liên tục bắn nó, mặc cho Ann gào khóc ngăn cản. Cuối cùng Kong gục ngã và rớt xuống đất, chết một cách đau đớn. Carl Denham lặng lẽ thốt lên "Con Quái thú không chết vì bị bắn, mà chết vì Giai nhân".


Trở về với con khỉ đá đòi lớn ngang bằng trời là " Tề Thiên Đại Thánh ". Được nứt ra từ một tảng đá thụ khí âm dương cuả trời đất ở Đông Thắng Thần Châu. Con thạch hầu nầy được đồng loại tôn xưng là Mỹ Hầu Vương 美猴王. Vì không muốn luân hồi sinh tử như muôn loài, nên Mỹ Hầu Vương ra đi tìm học phép trường sinh. Bái Bồ Đề Tổ Sư làm sư phụ, được đặt tên là Tôn Ngộ Không 孫悟空. Tôn là Hồ Tôn 猢猻, cách gọi riêng về loài khỉ. Ở đây Tôn Ngộ Không học được 72 phép biến hóa gọi là Thất thập nhị Huyền công và có thể bay lộn trên mây ( Cân đẩu vân ), lộn một vòng bay được 10 vạn 8 ngàn ( 108.000 ) dặm ( khoảng 54000 kilometers ) và có một cây gậy "Như ý Kim Cô bổng" ( là Định Hải Thần Châm dưới Đông Hải ) có thể thay đổi kích thước, được đặt sau tai, dùng làm vũ khí để đánh yêu quái. Ở Hoa Qủa Sơn Tôn Ngộ Không tập hợp các động yêu ma làm mưa là gió. Náo Long cung, phá Âm Tào, đại náo Thiên Cung, Ngọc Hoàng phong cho chức Bật Mã Ôn 弼馬溫 là quan giữ ngựa. ( Từ chức vụ nầy ta thấy trong thực tế Ngựa rất sợ Khỉ ). Biết được chức vụ giữ ngựa là chức quan nhỏ nhoi, lại đại náo thiên đình đòi phong làm : Tề Thiên Đại Thánh 齊天大聖, nhưng vẫn chưa chịu yên thân, rảnh rang lại đại náo Đại hội Bàn Đào, và bị Phật Tổ đè xuống Ngũ Hành Sơn 500 năm. Được Đường Tam Tạng cứu ra để cùng đi Tây Phương thỉnh kinh với tên gọi Tôn Hành Gỉa 孫行者, bị khống chế bởỉ vòng Kim Cô 金箍 của Phật Tổ Như Lai do Quan Thế Âm Bồ Tác trao, kịp đến khi thành chánh qủa là Đấu Chiến Thắng Phật 鬪戰勝佛 thì vòng Kim Cô mới tự nhiên biến mất. 


Hình Lục Tiểu Linh Đồng, người vào vai Tề Thiên Đại Thánh ấn tượng nhất, đẹp nhất trong bộ phim Tây Du Ký của đạo diễn Dương Khiết, do Trung Quốc sản xuất năm 1982.
Một số học giả cho rằng nhân vật Tôn Ngộ Không được phỏng theo Hanuman, " thần khỉ " trong Ấn Độ giáo được thuật lại trong một quyển kinh sách do Trần Huyền Trang từ Tây Phương thỉnh về.
Các nhà khảo cổ Trung Quốc gần đây lại phát hiện ra một nguồn gốc khác của Tôn Ngộ Không từ những bức bích họa có niên đại hơn 1.000 năm. Những bức vẽ này được tìm thấy trong Động Thiên Phật, cách huyện Tây An, tỉnh Cam Túc khoảng 90 km. Các bức hình có cảnh một vị hòa thượng và " Hầu hình nhân 猴形人 " ( khỉ hình người ) đang trang nghiêm chắp tay hành lễ, hướng mặt về phía Phật Bà Quan Âm trên đài Kim Cương bảo thạch. Bốn bức hình khác khắc họa chi tiết thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, tương tự như câu chuyện trong " Tây Du Ký " của Ngô Thừa Ân sau này vậy. 

Nhớ hồi xưa, khi tạo mẫu thêu cho má tôi thêu mặt gối hình 12 con giáp. Tới năm THÂN, tôi đã phải mượn hình tượng cuả Tề Thiên Đại Thánh được vẽ theo kiểu hoạt họa ở trên và thêm vào 4 chữ Thông Minh Dĩnh Nhộ 聰明穎悟 cho các em bé tuổi THÂN nằm, để cho các em không cảm thấy " Tủi Thân " như dân gian đã hát :
Người ta tuổi Ngọ tuổi Mùi,
Còn tôi riêng chịu một đời " tủi thân " !

Viết đến đây, lại nhớ đế lần họp mặt của Vườn Thơ Thẩn trong năm qua, anh Huỳnh Hữu Đức đã làm một đôi câu đối để tặng cho chị Phương Hà là người tuổi Thân như sau :

Năm Mão là năm mèo. Mèo đội mão
Tuổi Thân là tuổi khỉ. Khỉ " tủi thân ".

Tội nghiệp, làm chị Phương Hà buồn 5 phút!
Trở lại với cây nhà lá vườn, khỉ có mặt ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam, chả thế mà nông thôn Việt Nam nơi nào cũng có " Cầu Khỉ ", và cây cầu khỉ đã trở thành " top ten " trong 10 cây cầu đáng sợ nhất thế giới ...

Tên gọi cầu khỉ không phải vì cầu dành riêng cho khỉ, mà là tư thế lom khom của người khi qua cầu trông giống như con khỉ. Những cây cầu nổi tiếng ở các miền quê Việt Nam này làm bằng tre và dây dừa, bắt qua những con sông, rạch, dòng kênh nhỏ. Cầu rất hẹp và lắc lư mỗi khi có người đi qua.

Các vùng quê hẽo lánh it người qua lại hoặc các vùng rừng đước rừng tràm ... được gọi là các vùng " Khỉ ho Cò gáy ". Hù dọa ai một cách vô ích thì gọi là " Rung cây nhát Khỉ ", làm những chuyện vô bổ không cần thiết thì nói là " Dạy Khỉ leo cây ", gặp chuyện gì cũng nhăn nhó thì mắng nhau " Cái tù mặt mầy như là Khỉ ăn ớt vậy ", hoặc nói nặng hơn " Thứ cái đồ mặt nhăn như Khỉ ". Gặp đứa phản trắc, ăn cơm tui mà hại tao, thì bảo là " Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà ". Ghét ai thì mắng " Thứ đồ Khỉ gió !". Muốn phủ định việc gì thì nói là : " Khỉ khô, khỉ mốc, khỉ dọc "!... Con khỉ xấu vậy sao ? Nhưng lúc thấy vui thì cũng sẵn sàng " làm trò Khỉ ", con nít rắng mắt thì gọi là " Liếng Khỉ ", tuổi con khỉ thì dân gian có câu hát rằng :

Tuổi Thân con khỉ ở lùm,
Trèo qua trèo lại té ùm xuống sông!

Thương cảm và thân thiết hơn với hình tượng:

Con khỉ bồng con lên non hái trái,
Anh cảm thương nàng phận gái mồ côi!

Viết đến đây, làm ta nhớ lại một chuyện tình giữa khỉ vượn và người rất nôỉ tiếng trong văn học dân gian Việt Nam, đó là truyện Lâm  Tuyền Kỳ Ngộ mà giới bình dân gọi là " Bạch Viên Tôn Các " với câu hát:
Bạch Viên Tôn Các xa trông,
Bồng con ôm gói thẳng xông lên đàng. 

“ Lâm tuyền kỳ ngộ ” 林泉奇遇 là " Cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa suối rừng ", là một truyện dài bằng thơ, gồm 146 bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, một bài thơ tứ tuyệt và một bài “ Thạch tuyền ca khúc ” theo thể Hát Nói ( hai bài này đều ở cuối tác phẩm ). Hoàng Xuân Hãn trong “ Thi văn Việt Nam ” cho rằng tác phẩm này gồm 150 bài thơ Đường luật. 
Tác phẩm này hiện vẫn chưa ai tìm ra được tên tác giả, có một số giả định là tác phẩm được viết vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Còn có nơi cho rằng tác giả là hoàng giáp Nguyễn Ðăng, một nho sĩ tài hoa ở Ðại Toán, Bắc Ninh khoảng thời Trịnh Tạc (1657-1682), từng được cử đi sứ nhà Minh năm 1673. 
Nội dung tác phẩm dựa vào “ Viên thị truyện ” 猿氏傳 của Cố Quýnh đời Đường, Trung Quốc, gắn liền với chùa Phi Lai. Truyện miêu tả cuộc tình duyên giữa một nho sinh và một con vượn trắng đã hoá thành người (con vượn vốn là tiên giáng trần). Tính chất lãng mạn, tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, chống những hạn chế của tôn giáo, mạnh dạn biểu lộ những yêu cầu hạnh phúc của con người, của tình yêu nam nữ, đã làm nên giá trị chủ yếu của tác phẩm. 

Bản Nôm của QH Huế Vở Cải Lương Bạch Viên Tôn Các

Ngoài việc viết lại bằng thơ Lục Bát để dân gian nói thơ theo kiểu thơ Vân Tiên, Bạch Viên Tôn Các còn được sọạn thành tuồng Cải Lương với các vai diễn nổi tiếng như nghệ sĩ Thanh Sang vai Tôn Các và kiều nữ Thanh Nga vai Bạch Viên rất ăn khách trong thập niên 70 của Thế kỷ trước.

Nhân nhắc đến vượn, ta lại nhớ đến một thành ngữ có liên quan là VIÊN TRƯỜNG THỐN ĐOẠN 猿腸寸斷 ( Ruột của con vượn đứt ra từng tấc một ), Ta nói là " Ruột thắt từng cơn " hay " Đứt từng khúc ruột " theo tích sau đây :
Sách Sưu Thần Ký đời Tấn, Quyển 22 ghi: Xứ Đông Hưng đất Lỗ, thuộc Quận Lâm Xuyên, có ngưới vào núi bắt được một vượn con mang về. Vượn mẹ chạy theo đến nhà. Người nầy trói vượn con trên cây trong sân. Vượn mẹ trông thấy, quỳ xuống van xin, giơ tay tự tát vào má mình. Người đó chẳng những không tha còn giết chết vượn con. Vượn mẹ trông thấy, kêu khóc thảm thương, rồi lộn đầu xuống đất mà chết. Người đó bèn mỗ bụng vượn mẹ ra, thì thấy ruột đã bị đứt từng khúc một. Nên, thành ngữ nầy dùng để chỉ sự nhớ thương bi thiết, hoặc qúa mức đau lòng mà " Đứt từng đoạn ruột "! Thơ Lý Bạch trong bài " Tặng Võ Thập Thất Ngạc " có câu :

Ái tử cách Đông Lỗ, 爱子隔东鲁,
Không bi đoạn trường viên. 空悲断肠猿 .
Có nghĩa :
Thương con như bị chia cắt ở đất Đông Lỗ,
Buồn thương đứt ruột như con vượn kia cũng hoài công thôi !
Quả là một thành ngữ đánh động lòng người, và là một câu chuyện luân lý đề cao tình mẹ thương con muôn vàn bi thiết. Vượn còn thế, huống hồ là người ? Ai là con mà lại nở bỏ mẹ, nở quên mất tình thương bao la cuả mẹ bao giờ ?! Cô gái quê cuả vùng sông nước Nam Bộ ngày xưa cũng đã mượn hình tượng cuả con vượn để nhắn nhủ với mẹ rằng :

Má ơi, đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu ?!

Trong số Đề 36 con, thì Khỉ đứng đầu trong nhóm Ngũ Khất Thực ( 5 người ăn mày ), mang số 23 và có tên chữ là Tam Hòe với lời vè như sau:
Tam Hòe con khỉ hăm ba, 
Thua hoài đến nổi bán nhà không hay!

Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm quyết định xóa số 2 sòng bạc lớn nhất Sài Gòn Chợ Lớn là Kim Chung và Đại Thế Giới, thì đề 36 không còn nữa . Nhưng nhóm quân đội người Nùng giúp Tổng Thống dẹp loạn Bình Xuyên vẫn còn xổ đề ở vùng Cây Da Xà Phú Lâm Chợ Lớn, và họ đã thêm vào 4 con nữa cho đủ 40. Bốn con thêm vào là 37 Thiên Công ( Ông Trời ), 38 Địa Chủ ( Đất Đai ), 39 Thần Tài và 40 là Táo Quân ( Ông Táo ). Nên khi áp dụng vào Xổ Số Kiến Thiết thì ta có tới 2 con khỉ lận : Con khỉ nhỏ là 23, còn con khỉ lớn là 63 ( cộng thêm 40 nữa )! Thế là các tay ghiền đánh số đề từ 00 đến 99 mỗi ngày ít nhất phải thua thêm một con số đề nữa !
Nạn đánh đề càng trầm trọng khi xã hội càng phân biệt giàu nghèo. Dân càng nghèo càng phải chạy theo cuộc sống và càng mê số đề hơn, và càng thua nhiều hơn nữa, rồi càng phát sinh nhiều tệ nạn xã hội hơn và cuối cùng là xã hội càng băng hoại hơn !... Rồi đến một ngày nào đó thì ...
Thọ đão hồ tôn tán ! 樹倒猢猻散 !
Có nghĩa:
Cây đã ngã rồi thì lũ khỉ cũng sẽ tan hàng!
Theo tích sau đây:
Trong sách Thuyết Phù được biên soạn bởi Đào Tông Nghi, trong đó có một câu truyện như sau :
Vào thời Nam Tống , có người tên là Tào Vịnh, vì có quan hệ mật thiết với Thừa Tướng lúc bấy giờ là Tần Cối nên được phong làm quan lớn. Mọi người đều a dua theo ông ta để được phong quan, duy chỉ có em vợ cuả ông ta là Lệ Đức Tân, người rất chính nghĩa, không thích a dua, thà chịu giữ chức thư lại nhỏ nhoi ở địa phương chứ không về hùa với ông anh rễ. Tào Vịnh rất giận, ra lệnh cho quan huyện địa phương gây áp lực và làm khó ông em vợ cứng đầu nầy, nhưng Lệ Đức Tân vẫn không khuất phục.
Sau khi Tần Cối chết, những người theo hùa với ông ta đều bị rơi đài. Tào Vịnh cũng bị biếm đến đất Tân Châu của vùng Quảng Đông. Lúc nầy, Lệ Đức Tân mới làm một bài phú có tựa là " Thọ Đão Hồ Tôn Tán Phú 樹倒猢猻散賦 ". Nội dung châm biếm những người a dua với Tần Cối như là lũ khỉ, dựa hơi Thừa Tướng để tác oai tác phúc. Nay cây đã ngã rồi thì lũ khỉ nhóc cũng phải tan hàng mà thôi. Tào Vịnh đọc bài phú tức đến ói máu, nhưng cũng không làm gì được cái ông em vợ chính trực kia !!! 
Trông người lại ngẫm đến ta ... 
Không biết chừng nào cái cây lớn Trung Quốc mới ngã, để cho lũ hồ tôn tan hàng thất tán, hết tác oai tác phúc làm giàu trên xương máu của dân nghèo. Mong rằng câu cuối của bài sấm Trạng Trình được linh nghiệm để cho ...

... Thân Dậu niên lai kiến thái bình !
Mong lắm thay !!!

Đỗ Chiêu Đức