Thứ Hai, 18 tháng 1, 2016

Tâm


Thơ: Sư Bà D.T
Thơ Tranh: Kim Oanh

Sẽ Gửi Về Em


Sẽ gửi về em khi anh đến đó
Cổng trường xưa còn nhớ bước chân qua
Sẽ gửi về em những chiều hè phố
Dẫu cơn mưa mang chút rét tình xa.

Sẽ gửi về em trăm thương ngàn nhớ
Ðời chia vui từng trang sách học trò
Viên phấn trắng miệt mài tư tưởng nhỏ
Mà ước mơ thì lớn ở trong thơ.

Sẽ gửi về em câu hò tiếng hát
Nằm chơ vơ chờ nốt nhạc em ca
Hạnh phúc vẫn như bao đời khao khát
Như dòng sông vỗ mát đất phù sa.

Sẽ gửi về em những điều bày tỏ
Làm sao quên cánh phượng đỏ sân trường
Tiếng guốc đó khua vang niềm tâm sự
Và bâng khuâng kỷ niệm tuổi yêu đương.

Phạm Hồng Ân

Sang Ngang




Sang ngang chỉ mất một chiều
Mà sao em để lại nhiều đắng cay
Đường đời thôi thế từ đây
Cánh chim bé nhỏ lạc bầy về đâu
Nắng tàn để bóng bờ dâu
Trong anh còn mãi nỗi sầu chơi vơi
Em đi cất giữ một thời
Áo hồng hò hẹn cả đời yêu đương
Chiều bên quán cũ ven đường
Có nàng lỗi hẹn người thương chưa về.


Biện Công Danh
31/12/2015

Giòng Sông Tuổi Thơ

 

Tin bà chị dâu bị stroke lần thứ hai, được các con cấp tốc mang lên bệnh viện trên Sài Gòn, khiến Thơ ăn ngủ không yên. Trong điện thoại giọng cô cháu nghẹn ngào:
-Con sợ má con không qua khỏi cô ơi. Lần này bác sĩ nói nặng lắm. Má con vẫn còn hôn mê. Mấy chị em con thay phiên nhau ở trong bịnh viện để săn sóc má. Cầu Trời cho má con mau tỉnh lại.
Thơ vội trấn an cô cháu gái:
- Chắc không sao đâu. Ngày mai cô đi gởi chút đỉnh tiền về để tụi con xoay sở. Lúc này mới bắt đầu mùa thu, học trò đã đi học lại nên tiệm cũng bớt đông. Để cô thu xếp nghỉ hai tuần về thăm má con.
Tiếng cô cháu gái bên kia đầu giây tươi hẳn lên:
-Thiệt hả cô? Nếu má con tỉnh lại, gặp mặt cô bả sẽ mừng lắm đó.

Nói vậy chớ cũng phải mất hai tuần Thơ mới thu xếp xong công chuyện và có vé máy bay trong tay. Thơ làm chủ một tiệm ăn. Nhỏ thôi, nhưng xinh xắn, ấm cúng và nhất là nấu đúng khẩu vị Việt Nam. Không lai căng, chạy theo khẩu vị dân bản xứ. Nhưng chính vì vậy mà tiệm Thơ đông khách. Khách Việt và một số khách ngoại quốc sành ăn. Thơ có khiếu nấu ăn giống mẹ. Bà Tân ngày xưa nổi tiếng là người nấu ăn khéo. Bà đã truyền lại cho Thơ những bí quyết để chế biến thành công những món ăn ngon. Ngoài sự nêm nếm vừa miệng, Thơ còn có tài trình bày những đĩa thức ăn tuyệt đẹp. Nhìn thôi là đã muốn ăn liền, khách nói vậy.

May mắn người phụ bếp tên Vĩnh, tuy tương đối trẻ, nhưng đã có gần mười năm kinh nghiệm. Thơ tự tay pha chế mọi thứ sẵn sàng, như nước sauce để làm món cá kho tộ, gia vị bỏ vào nồi nước súp để làm món canh chua, sauce ướp thịt nướng..vv... nên cũng an tâm giao cho Vĩnh thay nàng trong suốt hai tuần lễ vắng mặt.

Thơ không bận bịu chuyện gia đình gì lắm, vì đã cùng chồng chia tay năm năm rồi. Khương tuy rất hiền lành, nhưng thích đàn đúm với đám bạn ăn nhậu và đam mê trò đỏ đen. Chẳng giúp đỡ gì cho vợ, trái lại nhiều lần Thơ còn phải đứng ra trả những món nợ trời ơi đất hỡi do Khương gây ra. Cuối cùng Thơ đành dứt áo chia tay, mặc cho Khương năn nỉ. Nàng đã cho Khương rất nhiều cơ hội để sửa chữa, nhưng kết quả vẫn là con số không. Thơ nuôi bé Kim, đứa con gái duy nhất của hai người. Bé Kim xinh đẹp giống mẹ và rất ngoan. Ngoài giờ học còn biết ra tiệm giúp mẹ tính tiền, làm sổ sách. Con bé đang học năm thứ hai Đại học, ngành kế toán. 


Bé Kim lái xe đưa mẹ ra phi trường. Thơ hôn con rồi đẩy hành lý vào khu dành cho Air Canada. Nàng bảo bé Kim về ngay cho kịp giờ đi học. Gửi 2 valises xong xuôi, Thơ kéo chiếc valise nhỏ vào sắp hàng để qua trạm kiểm soát. Hành khách đủ mọi quốc tịch đông không thể tả. Xếp hàng rồng rắn, ngoằn ngoèo dám đến cả cây số! Lần này Thơ đi qua ngã Vancouver, Hồng Kông rồi mới vào Việt Nam. Xuống phi trường Vancouver để chờ máy bay đi HongKong, nhìn ra ngoài cửa kính, sau làn mưa lất phất là dẫy núi chạy dài theo bờ biển màu lam nhạt. Bầu trời màu xám chì trông buồn hiu hắt! Thơ không thích mưa. Nàng yêu biết mấy bầu trời xanh lơ, đầy mây trắng và rực rỡ nắng vàng. Nhất là mùa thu Québec. Nắng vàng óng như lụa, trong veo và dịu dàng khiến cho lòng người ngây ngất...Ngay cả những trận mưa thu cũng nhẹ nhàng, thanh thoát. Những sợi mưa nhỏ, mong manh như tơ trời, không làm ướt nổi một mái tóc mây! Vì thế, dù Vancouver là một thành phố có cuộc sống tốt nhất Canada, Thơ cũng không bao giờ ao ước được sống nơi đó.

Sau bốn tiếng chờ đợi ở phi trường Hong Kong, cuối cùng chuyến máy bay Air Cathay cũng đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Thơ đẩy hành lý ra ngoài dáo dác tìm cô cháu gái. Người đi đón đông như cái chợ, nhìn hoa cả mắt. Tiếng Kim Nhung kêu "cô Tư...cô Tư...con đây nè" khiến Thơ mừng rỡ. Dũng, chồng Kim Nhung chạy tới giành đẩy chiếc xe chở hành lý khá nặng cho bà cô. Cô cháu vẫn vậy, từ ngày sinh hai thằng con, Kim Nhung ngày một đẫy đà và tuy ở Việt Nam nắng hừng hực như đổ lửa, nước da cô nàng vẫn trắng nõn. 

Thơ về nhà cháu gái cất hành lý, rửa sơ mặt mũi cho bớt mệt rồi hối vợ chồng Kim Nhung đưa nàng vào bệnh viện thăm chị dâu. Bệnh viện Đại học Y Dược nằm trên đường Hồng Bàng. Bệnh nhân hai người nằm một giường, quay đầu ngược lại. Người nhà nuôi bệnh nhân ngồi la liệt ngoài hành lang, trong phòng bệnh. Trên xe, từ phi trường về nhà, Kim Nhung đã cho Thơ hay chị Thiên đã tỉnh, nhưng đầu óc vẫn còn mơ mơ hồ hồ, ký ức chưa trở về như trước.

Kim Anh, con gái út chị Thiên từ Cao Lãnh lên nuôi mẹ, thấy Thơ vào mừng quá chạy tới nắm tay, miệng cười rạng rỡ. Con bé này chưa lập gia đình, dù rất xinh. Oanh nắm tay Thơ dẫn đến giường chị Thiên. Nhìn thân hình gầy gò, lép xẹp của chị dâu Thơ ứa nước mắt. Thương chị quá đỗi. Cả một cuộc đời làm vợ, làm mẹ của chị vất vả biết bao với đàn con đông đúc. May mà chúng đều ngoan. Ngay từ bé không đứa nào bệnh hoạn để ba mẹ phải lo lắng. Anh Thiên mất đã lâu, giờ chị ở với đứa con gái út. Con bé có tiệm uốn tóc rất khang trang. Tuy bận rộn nhưng cũng hết lòng chăm lo cho mẹ thật cẩn thận. Trước kia chị Thiên thuộc dạng đẫy đà, nhưng tính thích ăn ngọt, ăn béo khiến chị mắc bệnh tiểu đường rất nặng. Bao nhiêu thuốc Thơ gởi về, chị uống rất "dè sẻn" nên bệnh không bao giờ khá! Từ đó sinh ra nhiều chứng khác và cuối cùng chị bị tai biến mạch máu não lần thứ hai. Lần này nặng gấp đôi lần trước.

Thơ cầm bàn tay xương xẩu của chị Thiên bóp nhẹ. Chị mở cặp mắt lờ đờ nhìn Thơ rồi nhắm lại. Có vẽ như chị không nhận ra cô em chồng. Kim Anh nói, giọng lo lắng:
-Má con mới tỉnh lại 3 hôm nay thôi cô. Ngay cả tụi con má cũng chưa nhìn ra. Ăn uống cũng không được, chỉ chuyền nước biển thôi. Bác sĩ nói cứ từ từ má con sẽ nhớ lại, chớ bây giờ họ cũng không làm gì được.
-Thì đành vậy chớ sao hả con. Thơ an ủi cháu. Má con cũng hơn sáu mươi, sức lực đâu bằng hồi trẻ. Để cô nói bác sĩ dùng thuốc nhập cảng tốt nhất cho má con. Hy vọng bệnh sẽ mau lành.


Một tuần sau bệnh tình chị Thiên thuyên giảm rất nhiều. Thơ và các cháu mừng lắm. Vợ chồng Kim Nhung lái xe đưa cả phái đoàn về Cao Lãnh. Đường xá năm nay cũng tốt hơn mấy năm trước. Hai bên đường từ gã ba Trung Lương rẻ về thị xã Cao lãnh được trồng đầy nhãn hột tiêu. Loại này cơm dày và hột nhỏ xíu. Chẳng bù với nhãn hồi xưa cơm mỏng dính, lột ra toàn là nước. Nhưng bù lại ngọt gắt và rất thơm. Có những cây soài đang trổ bông đầy cành. Nhưng cái Thơ mê nhất là hầu như trước sân nhà nào cũng trồng một buội bông giấy màu sắc rực rỡ. Đỏ, hồng, tím, trắng...thỉnh thoảng có cây màu vàng hoàng yến rất lạ. So với những năm trước bảy lăm, thị xã Cao Lãnh lớn hơn gấp nhiều lần. Thơ nhớ đến cái trường tiểu học bên kia bờ sông, đối diện với ngôi chợ cũ. Nơi đó Thơ đã học lớp tư, lúc ba má từ Sàigòn trở về quê sinh sống. Khi Kim Anh ghé chợ mua vài món để về nhà làm cơm chiều, Thơ đi xuống bờ sông nhìn qua bờ bên kia tìm kiếm. Nhưng ngôi trường không còn nữa, thay vào đó là một căn biệt thự khá lớn. Nàng thở dài. Vậy là một phần tuổi thơ của nàng đã vĩnh viễn biến vào hư vô!

Ngôi nhà nền đúc đồ sộ của ông bà nội Thơ đã bị phá bỏ. Thay vào đó là một căn nhà nhỏ, cất trên nền nhà cũ dùng làm phủ thờ. Bên trong chỉ có 3 chiếc bàn thờ bằng gỗ tốt cẩn xà cừ lộng lẫy. Trên bàn thờ bày đầy đủ hình của những người quá cố trong họ, chính giữa là hình ông bà nội. Con cháu ở khắp nơi về, việc trước tiên là đến đây thắp hương và kế đến là đi thăm mồ mả ông bà ở nghĩa trang gia đình. Anh chị Thiên cũng được chia một lô đất gần phủ thờ để cất nhà. Sau bảy lăm, anh chị rất vất vả đưa đàn con từ miền Trung xa xôi về sinh sống tại quê nhà. Dù sao có bà con thân thích cũng dễ thở hơn. Căn nhà ban đầu cất sập xệ, sau nhờ tiền của các em ở ngoại quốc gửi về, anh chị sửa từ từ khang trang hơn lên. Đến lúc tụi nhỏ trưởng thành, lập gia đình rồi tứ tán khắp nơi để mưu sinh, nhà chỉ còn hai mẹ con hủ hỉ. Kim Anh làm ăn khấm khá, căn nhà được thay phòng tắm hiện đại hơn, phòng ngủ có gắn máy điều hòa không khí mát rượi. 

Nằm nghỉ một lát, Thơ bước xuống giường mở cửa sổ nhìn ra khu vườn nhỏ trồng cây ăn trái. Có vài cây soài đang trổ bông trắng xóa, cây mận hồng đào trái màu đỏ bóng lộn, những trái bưởi tròn trịa da màu xanh thẫm ...Buội chuối tiêu ở cuối vườn, trĩu nặng một buồng chuối to, trái đang chín bói. Trong góc vườn có cây mít giống Thái lan chi chít trái. Nghe nói giống này ngon hơn mít Việt Nam rất nhiều. Mà thật lạ, hầu như trái cây nào của Thái Lan, Mã Lai cũng ngon hơn của Việt Nam. Có lẽ tại thổ nhưỡng bên ấy tốt hơn. Có lần đi chơi Mã Lai, Thơ được ăn những trái sầu riêng bản địa nhỏ nhỏ xinh xinh, nhưng ngon tuyệt vời. 
 

Cạnh cửa sổ có trồng cây hoa ngọc lan. Những búp hoa tỏa mùi hương dìu dịu. Hương ngọc lan kéo Thơ lùi về dĩ vãng, những ngày thần tiên hoa mộng của tuổi dại khờ. Thơ chợt mĩm cười, nhớ đến những búp hoa ngọc lan trắng muốt mà Bảo vẫn hái cho nàng. Ôi cái con bé Thơ mới sấp xỉ mười hai tuổi. Ngây ngô và khờ dại. Bảo lớn hơn nàng một tuổi. Ở nhà quê, ảnh hưởng chiến tranh nay tản cư chỗ này, mai chỗ khác nên tuy cùng lớp mà học trò có đủ mọi hạng tuổi. Nhỏ nhất ngồi bàn đầu và những hàng cuối lớp có những anh, những chị ...mười lăm mười sáu tuổi đời! 

Bảo, con Lành và thằng Mạnh là những đứa bạn thân của Thơ ngày ấy. Nhà Bảo chỉ cách nhà Thơ mấy căn. Nhưng ở quê, nhà nào cũng có vườn rộng bao quanh, nên tuy nói mấy căn mà cũng không phải gần. Nhà Bảo có trồng cây hoa ngọc lan nên cứ cách vài hôm là Bảo lại hái cho Thơ cả túi. Thơ đem vào lớp chia cho Hà và Ngọc. Hai đứa bạn ngồi cùng bàn trêu Thơ "nhứt định thằng Bảo thích mày rồi!", nhưng Thơ thì nằng nặc phản đối, tuy trong lòng cũng cảm thấy vui vui. Những lần cả lớp đi dã ngoại, bao giờ Bảo cũng tỏ ra săn sóc Thơ đặc biệt. Bảo đem cho nàng những trái cây tươi nhất, những miếng bánh ngon nhất mặc cho Hà và Ngọc háy nguýt, nhiếc móc...Bảo nhỉ nhe răng ra cười hìhì! 

Đang thả hồn mông lung, tiếng Kim Anh gọi khiến Thơ choàng tỉnh: 
 - Cô ơi, cơm chiều xong rồi. Mời cô ra ăn.
Thơ chải sơ mái tóc rồi đi ra ngoài. Có vợ chồng Kim Nhung, Kim Anh và vợ chồng Thanh, cậu em họ của Thơ. Thanh nghe tin nàng về vội vàng đến thăm và được mời ăn cơm luôn. Cậu ta là người trông coi phủ thờ và chăm sóc nghĩa trang gia đình. Chuyện làng trên xóm dưới gì cậu cũng rành như chuyện trong nhà. Nhìn mâm cơm có món canh chua cá lóc nấu với bông điên điển, cá rô kho tộ với tóp mỡ và dĩa tôm chấy thịt ba rọi Thơ cảm thấy bụng đói cồn cào. Đang ăn, Thanh chợt nói:

- Chị Thơ còn nhớ anh Bảo không? Anh ấy vừa từ Mỹ về thăm bác Năm được 2 tuần rồi. Năm nay bác Năm yếu lắm. May mà có chị Hạnh săn sóc cho bác. Chồng chỉ mới mất cách đây 1 năm, bị ung thư gan.

Nghe tên Bảo, tự nhiên Thơ thấy rất vui. Nàng có cảm tưởng như tìm lại được món đồ quý giá bị mất lâu ngày. Thơ hớn hở hỏi thăm thêm tin tức về Bảo. Thì ra Bảo vượt biên năm tám hai, sau khi đi tù cải tạo 6 năm ròng rã. Đến Thái lan chàng được nhận qua Mỹ ngay sau đó, vì trong quân đội, Bảo có dính dáng đến chiến dịch Phượng Hoàng. Bảo lập gia đình khá muộn nên lúc đi con còn nhỏ. Bảo vượt biên một mình và sau đó bảo lãnh vợ con qua sau. Thanh nói em nghe anh Bảo ở tiểu bang gì đó nóng lắm. Nóng như sa mạc vậy đó. Thư đoán chắc là tiểu bang Arizona. Cơm chiều xong trời bắt đầu sụp tối. Thơ bỗng tò mò muốn biết bây giờ Bảo ra sao. Từ khi theo mẹ ra miền Trung làm ăn, Thơ không bao giờ gặp lại người bạn thời ấu thơ này lần nào nữa. Nghe cô nói muốn gọi cho cô Hạnh, Kim Anh vội bấm số điện thoại. Có tiếng a lô ở đầu giây bên kia. Kim Anh nói:
- Cô Hạnh ơi, con là Kim Anh đây. Chú Bảo ở đó không cô? Có người quen muốn nói chuyện với chú ấy nè.
Kim Anh đưa điện thoại cho Thơ. Tự dưng tim nàng nhảy thình thịch khi nghe một giọng trầm trầm bên kia đầu giây:
- Tôi là Bảo đây. Xin lỗi ai muốn nói chuyện với tôi vậy?
Im lặng một giây Thơ mới lên tiếng, giọng không tự nhiên lắm:
- Thơ đây anh Bảo. 
Bất ngờ đầu dây bên kia có tiếng reo đầy ngạc nhiên và vui mừng:
- Anh Thơ đó hả? Trời ơi, mừng quá!
Thơ cười khẽ, cảm động trước sự biểu lộ tình cảm quá nồng nhiệt của Bảo:
- Dạ, Thơ mới từ Canada về. Không ngờ anh Bảo còn nhớ đến Thơ...

Bảo cắt ngang:
- Quên sao được. Trong đầu Bảo, hình ảnh Thơ ngồi bàn đầu bên tay trái, mảnh mai, trắng trẻo, nụ cười tươi, cặp mắt trong veo không bao giờ phai mờ! Mà Thơ còn nhớ Bảo hả?
Lúc này Thơ đã lấy lại được bình tĩnh, nàng cũng đùa:
- Thì giống như anh. Bảo trong ký ức của Thơ là một anh chàng ốm tong teo, cao ngồng, giọng vịt đực, chỉ được cái mỗi cái núm đồng tiền trên má phải...
- Trời ơi, đến bây giờ Thơ vẫn còn nhớ cái núm đồng tiền trên má anh. Bảo đột ngột xưng anh, nhưng Thơ không thấy bực mà còn thấy...thích. Kỳ ghê! Thơ cười, chống chế:
- Tại anh là đứa con trai duy nhất trong lớp có núm đồng tiền mà. Bây giờ vẫn còn y nguyên chớ hả?
Bảo cười, giọng gạ gẫm:
- Muốn biết thì ngày mai gặp nha. Thơ muốn mình gặp nhau chỗ nào?
Thơ ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Chỗ cây sung nơi bến đò hồi xưa đó. Anh Bảo còn nhớ không? 
- Dĩ nhiên là nhớ. Nhưng tiếc quá, bến đò xưa không còn nữa, thay vào đó là căn nhà cháu của anh. Con gái chị Hạnh đó. Cháu có cất thêm một nhà mát phía sau nhìn ra sông thơ mộng lắm. Sáng mai 7 giờ mình gặp nhau ở đó nha. Anh mời Thơ ăn sáng. Trời ơi, chắc đêm nay anh mất ngủ quá. Thật tình rất nôn nóng gặp lại Thơ. Lúc này Anh Thơ ra sao? Vẫn trắng trẻo, mảnh mai như xưa?
Thơ cười dòn:
- Thơ mảnh mai chỉ còn trong trí tưởng tượng của anh Bảo thôi. Thơ bây giờ tròn như hột mít. Mai gặp đừng thất vọng nha. Còn anh Bảo có giống cây tre miễu như hồi xưa không?
Bảo trả lời, giọng bí mật:
- Không tiết lộ. Ngày mai gặp sẽ thấy.

Hai người nói chuyện thêm một chút thì Thơ cúp máy. Ở nhà quê mọi người đều đi ngủ sớm. Thơ nằm trăn trở, những kỷ niệm xưa tràn ngập trong đầu. Cuối cùng nàng phải ngồi dậy uống nửa viên thuốc ngủ. Thơ không muốn thức trễ hoặc mất ngủ cả đêm, mặt mày hốc hác, xấu xí. Dù gì cũng là lần đầu... hội ngộ với cố nhân. Rồi thì bản hòa tấu đều đều của lũ ếch nhái ngoài vườn cũng đưa Thơ vào giấc ngủ đầy mộng mị. Nàng mơ hồ nghe có tiếng gà gáy, nhưng ảnh hưởng của thuốc khiến Thơ ngủ luôn tới sáng. Mới 6 giờ mà Kim Oanh và vợ chồng Kim Nhung đã thức. Thơ mở cửa sổ cho ánh bình minh ùa vào phòng. Có tiếng chim hót véo von trong vườn. Buổi sáng trời mát dịu, không khí thơm mùi ngọc lan khiến Thơ nhớ đến cái hẹn với Bảo sáng nay. Đánh răng rửa mặt xong Thơ đi ra phòng ăn. Cả nhà đang ăn sáng. Kim Nhung đang múc từng muỗng cháo đút cho mẹ. Bà Thiên đã hơi tỉnh táo, nhận ra cô em chồng dù chưa nói được. Nhưng ánh mắt bà nhìn Thơ đã có hồn. Thơ cầm hai bàn tay chị dâu bóp nhè nhẹ và dịu dàng chúc bà một ngày bình an, vui vẻ. 

Biết Thơ được mời nên Kim Oanh không chuẩn bị đồ ăn sáng cho cô. Nhưng mùi cà phê thơm phức khiến nàng không nhịn nỗi:
- Oanh cho cô một ly cà phê. Thức dậy mà thiếu thần dược này là cô không làm gì ra trò. Ngày phải đúng 3 ly!
Kim Oanh bưng ly cà phê phin đặt trước mặt Thơ:
- Con biết rồi nên trước khi về đây con đã mua cà phê xay sẵn chánh hiệu Pháp quốc đó cô.
- Con nhỏ này giỏi! Thơ khen - đứa nào có phước mới cưới được cháu cô đó nghe.
- Thôi cô ơi. Con thấy ở vậy sướng hơn, chẳng bị ràng buộc chồng con gì cả. Muốn đi đâu, muốn làm gì cũng chẳng bị ai có ý kiến ý cò phiền phức.
Thơ trêu cháu:
- Nói thì dễ lắm. Cô chỉ sợ lúc gặp người vừa ý con cũng sẽ bất chấp ý kiến ý cò của người chung quanh. Thôi cô đi thay đồ rồi đến nhà con gái chị Hạnh. Kim Oanh chỉ đường cho cô nha.
- Để con dẫn cô tới đó. Gần đây thôi mà. Gặp lại chú Bảo cô nhớ đừng khóc nha cô. hihi
Thơ cười hì hì:
- Cô chỉ sợ chú Bảo khóc vì thất vọng. Cô bây giờ già khằn, xấu xí như ma lem.
Kim Nhung giờ mới lên tiếng:
- Nói thật lòng, con chỉ mong được xấu xí như cô! Nhìn cô ai dám nói cô đã năm mươi. Cô mướt rượt như con gái!

Tuy ngoài miệng nói "mấy đứa chỉ nịnh cho cô vui" nhưng trong lòng Thơ cũng nở hoa. Nàng biết mình không xấu. Tuy nhiên sắc đẹp tùy người đối diện. Người này thấy đẹp, nhưng có thể người kia thấy xấu. Nhưng xấu đẹp thì đã sao? Thơ là Thơ. Bảo thấy nàng đẹp hay xấu cũng không quan trọng. Chàng chỉ là "người bạn thời niên thiếu" thôi mà. 
Thấy cô bước ra, hai đứa cháu đều buột miệng:
- Cô đẹp quá cô ơi. Cháu là đàn ông cũng sẽ mê cô tít thò lò!

Mà thật vậy, trong chiếc quần bó bằng thun đen, chiếc áo ngắn tay màu kem có những nụ hồng hàm tiếu nho nhỏ trang nhã, cổ hở vừa phải làm nổi bật làn da trắng mịn của chiếc cổ thon dài. Gương mặt trang điểm phơn phớt và mái tóc cắt ngắn chấm vai đơn sơ, khiến Thơ như một cô gái mới ngoài ba mươi. Nhờ chăm chỉ tập thể hình nên con người Thơ vòng nào ra vòng nấy. Đôi khi đứng với bé Kim, nhiều người còn không phân biệt được ai là mẹ, ai là con...và dĩ nhiên là từ khi chia tay Khương, ong bướm cũng dập dìu, nhưng Thơ chưa từng rung động trước một ai.


Hai cô cháu đi trên con đường sát bờ sông. Bây giờ hai bên nhà cửa san sát nên không còn nhìn thấy giòng sông như trước. Thuở xưa, mé bờ sông chỉ có cây cối mọc chen chúc chứ không có nhà ở. Từ nhà ông nội đi ra con đường đất, quẹo tay phải là bến đò chú Nhiên. Có cây sung già thân chi chít trái màu xanh ngọc. Cây sung tỏa bóng mát cho những hành khách chờ đò. Dưới gốc sung có cái sạp bán nước uống và vài loại bánh kẹo. Đi xa hơn là ngôi Đình làng cổ kính, tọa lạc gần Vàm sông Cái. Tụi học trò thỉnh thoảng cũng kéo lên đây chơi, vì trong khu vườn có vài cây sa bô chê, lúc chín ai hái cũng được.
Tới trước căn nhà gạch khá đẹp, có cổng sắt kiên cố, Kim Oanh nói:
- Nhà con gái cô Hạnh đây cô. Cô cứ vô chơi. Con phải về vì có khách hẹn. Trưa cô về nhà ăn cơm với tụi con.

Nói xong, Kim Oanh kêu với vào trong nhà. Một cô trạc tuổi Kim Oanh chạy ra mở cổng, tự xưng là Lệ Lan, lễ phép mời Thơ bước vào. Trong nhà bày biện tủ thờ, salon, bàn ăn bằng gỗ quí cẩn xà cừ lộng lẫy, chứng tỏ gia chủ làm ăn khấm khá. Hỏi ra mới biết chồng Lệ Lan buôn bán vật dụng xây cất. Khá là phải, vì lúc này ai cũng thích sửa sang nhà cửa. Lệ Lan đưa thơ đi thẳng ra phía sau. Người đàn ông dáng cao dong dõng, mặc cái áo polo ngắn tay màu xanh dương đậm, đang đứng dựa tay vào lan can, nhìn qua bên kia bờ sông, nghe tiếng bước vội quay lại. Ông ta hoàn toàn xa lạ với cái nhìn đầu tiên của Thơ, tới khi thấy nụ cười khoe núm đồng tiền trên má là Thơ nhận ra ngay người bạn cũ. Bảo bước tới nắm nhẹ hai bàn tay của Thơ, nghiêng đầu ngó nàng giọng đầy cảm xúc:

- Trời ơi gặp lại Anh Thơ mừng quá! Thật không ngờ còn có ngày này. Ngoài sức tưởng tượng của anh!.
Thơ mỉm cười:
- Thơ cũng vui lắm. Hơn ba mươi năm mới gặp lại anh. Cũng vẫn "cây tre miễu" như xưa. Thơ thay đổi nhiều phải không anh?
- Thơ còn đẹp hơn anh tưởng tượng nhiều. Vậy mà tối qua nói giống hột mít. Làm anh cứ tưởng...
- Cứ tưởng sẽ gặp một bà nái xề phải không?
- Nhưng cặp mắt và nụ cười vẫn không thay đổi. Thơ cười là anh nhận ra ngay. Hồi xưa nhiều thằng trong lớp thú thật với anh là tụi nó "mết" nụ cười của Thơ đó. Bé tí mà đã lộ vẻ quyến rũ rồi!
Cả hai cười xòa. Bảo tự nhiên cầm tay Thơ kéo đến chiếc bàn gần đó. Chỉ có hai chiếc ghế mây, với nệm ngồi êm ái. Thơ thắc mắc:
- Chỉ có hai đứa mình thôi sao? Còn vợ chồng Lệ Lan?
Bảo nhìn Thơ với ánh mắt không giấu được vẻ nồng nàn:
- Sáng nay chỉ có hai đứa mình. Vợ chồng Lệ Lan phải ra tiệm.

Bảo cố tình nhấn mạnh "hai đứa mình" khiến Thơ không khỏi đỏ mặt, nhưng trong lòng bỗng nhiên thấy vui vui. Ừ thì hai đứa mình. Vui ít hôm có sao đâu. Rồi ai về nhà nấy, sống nốt kiếp đọa đầy!
Lệ Lan bưng 2 tô bánh canh cua nóng hổi và 2 phin cà phê đặt trước mặt Bảo và Thơ rồi chào:
- Cô Thơ và cậu Bảo cứ ở đây chơi thoải mái. Con phải ra tiệm phụ với chồng con chiều mới về. Thôi con xin phép cô và cậu.
Trong khi ăn Thơ kể cho Bảo nghe hoàn cảnh gia đình mình và hỏi Bảo sao không thấy bà xã về chung. Bảo nhìn ra giòng sông loang loáng nắng, giọng buồn buồn:
- Bà xã anh mất gần bốn năm rồi. Cô ấy bị bịnh tim. Cứ lo làm ăn mãi không chịu đi kiểm tra dù đã thấy sức khỏe không được tốt. Đến lúc bị ngất nhiều lần mới chịu đi khám, thì bệnh đã nặng rồi. Có giải phẩu, nhưng cũng chỉ được hơn một năm thì mất. Anh còn hai đứa con song sinh, một trai một gái. Chúng đang học năm đầu đại học và rất ngoan. Sở dĩ anh về là để thăm má anh. Bà vừa bị trụy tim tưởng chết. Nhưng may quá cơn nguy kịch đã qua. Anh cũng có nghe nói chị hai Thiên bị stroke khá nặng. Chắc bữa nay chị ấy cũng khá rồi phải không Thơ?
Thơ thở dài, giọng đầy xót xa:
- Người lớn tuổi sống trong xã hội này không biết chết nay sống mai ra sao nữa. Thơ từ Canada về là cũng để lo cho chị Thiên. Bữa nay chị ấy hơi tỉnh táo một chút. Chỉ còn một tuần nữa là Thơ phải trở lại Montréal. Bỏ tiệm lâu quá không được. Chừng nào anh Bảo trở về Mỹ?
- Anh cũng còn một tuần nữa thôi. Anh lấy 2 tuần nghỉ thường niên và một tuần nghỉ không lương. Về để còn đi cày nuôi con. Anh bây giờ thân gà trống nuôi con, nhiều khi cũng oải lắm! Mà lạ, càng buồn anh càng nhớ về dĩ vãng. Nói ra không biết em có tin không, nhưng trong rất nhiều giấc mơ, anh thấy mình sống lại thuở còn nhỏ ở đây. Thấy mình tắm lội thỏa thuê trong giòng sông này. Trong giấc mơ có Thơ, Lành và cả thằng Mạnh. Y như ngày xưa. Em có bao giờ mơ thấy giống như anh không Thơ?

Thơ đứng lên tỳ tay vào lan can, đưa mắt nhìn giòng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời. Một vài đám lục bình đeo trên lưng những bông hoa tím, lười biếng trôi.
- Không hiểu tại sao em có cảm tưởng như con sông này ngày nay thu hẹp lại rất nhiều. Hay tại ngày xưa mình nhỏ quá nên nhìn vật gì cũng thấy lớn? Em nhớ tụi mình với con Lành, thằng Mạnh lội rất lâu mới tới bờ bên kia. Lội qua đó để hái cây bòng bong mọc dọc theo bờ nước, chà lên người nổi bọt giống như xà bông. Sau đó còn hái trộm mận, bẻ trộm mía rồi lội về bên này ăn với nhau. Vui ơi là vui. 
Bảo cười lớn:
- Có lần thằng Mạnh hái mận nhiều quá, đội cái rổ trên đầu, bơi có một tay suýt chìm theo giòng nước. May có chú Hiến lôi nó lên đò. Hôm đó nó còn bị một trận đòn tơi bời! Giọng chàng bỗng chùng xuống, Mạnh bị mất tích trong trận Hạ Lào. Tội nghiệp nó mới cưới vợ được mấy tháng. May mà chưa có con. Trong thời chiến, sinh mạng con người như chỉ mành treo chuông! Ngày nào cũng có vài ngàn tử sĩ. Anh thật may mắn sống sót cho đến ngày tàn chiến tranh. Tuổi thơ đã qua, nhưng kỷ niệm thì như khắc vào tim không bao giờ phai nhạt.

Thơ cũng cất giọng ngậm ngùi:
- Giòng sông này chứa biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của tụi mình thời thơ ấu. Cũng như anh, Thơ thường nằm mơ thấy nó. Thấy cả cây dừa lửa chú Bảy của Thơ trồng sát bờ sông. Những quày dừa màu đỏ, nước ngọt lịm như pha đường. Cả cái bò thả xuống sông chất đầy chà, cứ hai ba ngày chú bảy kéo lên. Cá tôm cả thúng giạ nhảy soi sói. Thơ còn nhớ những hôm nước ròng, mấy đứa tụi mình chạy đuổi theo mấy con cá nhỏ tí tẹo, có sọc đen rất đẹp. Những con cá này lội nhanh như tên bắn, nên cả bọn vừa chạy theo vừa reo hò vang cả bờ sông mà chẳng bắt được con nào! Nhớ lại vui thật là vui. Thương quá giòng sông chứa đựng cả tuổi thần tiên của chúng mình phải không anh. Dĩ nhiên Thơ chưa bao giờ quên những kỷ niệm đó.

- Sau khi em theo cô chú Tân ra miền Trung, anh cũng mất cả hứng thú đi chơi với bọn thằng Mạnh con Lành. Anh nhớ Thơ rất lâu...rất lâu mới nguôi ngoai. May mà năm sau anh xuống Cao Lãnh học Trung học. Rồi giòng đời cũng trôi như giòng sông. Khi Thơ về đây thăm ông bà nội thì anh lại đang ở Sài Gòn và chúng mình đã không còn cơ hội nào gặp lại nhau nữa. Nhưng chuyện đời bao giờ cũng có những "bất ngờ" thú vị phải không em? Vừa nói Bảo vừa nhìn Thơ, đôi mắt chứa đựng cả một trời thương mến. Tự nhiên Thơ cảm thấy bối rối trước một thứ tình cảm nhẹ nhàng, lâng lâng và ấm áp đang xâm chiếm tim nàng. Thơ cố giữ bình tĩnh, nhưng khi bàn tay của Bảo đặt lên vai nàng Thơ bỗng run lên. Giọng Bảo dịu dàng: 

- Anh chưa bao giờ quên những ngày tháng chúng mình vui đùa bên nhau lúc còn nhỏ. Những kỷ niệm đó nằm thật sâu trong tim anh. Thỉnh thoảng nó lại trồi lên, giống như mình cất một viên kẹo, lâu lâu lấy ra mút. Cảm giác thật là ngọt ngào, hạnh phúc! Anh ao ước chúng mình nối lại tình bạn năm xưa. Biết đâu chừng...Bảo bỏ lửng câu nói, nhưng Thơ hiểu ý của chàng. Thơ im lặng vì không biết trả lời sao cho đúng. 

- Thơ, anh chỉ nói ra tình cảm của riêng anh. Thơ có toàn quyền quyết định. Hai đứa mình còn mấy ngày nữa mới chia tay. Anh muốn Thơ từ từ hiểu anh và nhất là hiểu rõ lòng mình. Chúng ta đã qua cái thời tuổi trẻ bồng bột để có những quyết định vội vàng. Nếu không có gì đi nữa thì chúng mình vẫn là bạn thân, Thơ đồng ý không?

Tất nhiên là Thơ thấy giải pháp này không tệ. Cả hai đã trải qua không ít sóng gió trong cuộc đời. Những hệ lụy đó là những trải nghiệm quý báu. Thứ tình cảm ngây thơ, trong sáng thuở nào dù sao cũng đã trôi vào quá khứ. Thôi thì hai tâm hồn đang cô đơn cứ nối lại tình bạn tưởng đã dứt từ bao nhiêu năm nay cũng tốt thôi. Ít ra là để an ủi nhau, chia xẽ nhau những buồn vui trong cuộc sống. Bắt đầu từ hôm đó Bảo và Thơ đã cùng nhau đi thăm lại tất cả những nơi mà thuở xưa cả bốn đứa thường lui tới vui đùa. Tới chỗ nào hai người cũng nhắc lại đã chơi những trò gì nơi đây, đã ăn những thứ gì ...vv...rồi cười vang, thoải mái và hạnh phúc.


Chỉ còn hai ngày nữa là Thơ phải lên máy bay trở về Montréal. Nàng rủ Bảo đi viếng lại ngôi đình cổ, nơi mà bốn đứa trước kia thường đến hái sa bô chê, vì sáng mai Thơ phải lên Sàigòn sớm. Con đường đất dẫn vào Đình làng bây giờ được lát gạch sạch sẽ. Ngôi đình cũng được tu bổ khang trang, nhờ tiền ở ngoại quốc gửi về cúng đình. Khu vườn sa bô chê ngày xưa nay được trồng thêm nhãn và chôm chôm... Sau khi bước vào trong chánh điện thắp ba nén hương trên bàn thờ Thần, cả hai ra ngoài đi dạo loanh quanh. Không khí mát rượi, yên tĩnh. Chỉ có tiếng chim hót trong các tán cây rậm. Thật bất ngờ, khi đến gần cây sa bô chê già cỗi gần miễu Thần Hổ, Bảo chợt nhớ ra một điều, vội chạy lại khom người quan sát kỹ thân cây. Chàng lặng người đi vì xúc động. Bốn tên Bảo, Thơ, Mạnh và Lành mà chàng đã dùng cái dao nhíp nhỏ xíu khắc vào thân cây ngày nào nay vẫn còn đó. Chẳng những vậy nó còn lớn lên theo sự tăng trưởng của thân cây. Bảo quay lại gọi Thơ đến xem. Nàng cũng không dấu được sự xúc động. Thơ đưa tay sờ lên bốn cái tên mà có cảm tưởng như sờ được tuổi thơ của mình. Nàng rưng rưng nhìn Bảo, muốn nói rất nhiều mà sao cứ nghẹn ngào. Bảo úp bàn tay mình lên tay Thơ, mắt nhìn nàng đắm đuối:
- Thơ không thấy đây là dấu hiệu của định mệnh hay sao? Tên hai đứa khắc ở đây, bao năm qua vẫn còn đó. Anh cho rằng cuộc đời hai đứa mình không nên chia lìa nữa.
Thơ cười, cố giấu vẻ bối rối:
- Anh giải thích có lợi cho mình quá há!
- Không phải sao. Tự nhiên Thơ và anh về cùng một lúc. Cả hai đứa mình cùng ray rứt nhớ đến giòng sông của tuổi thơ đầy kỹ niệm... Đang nói, Bảo bỗng choàng tay ôm Thơ sát vào lòng, dịu dàng hôn lên trán rồi thì thầm ... mấy ngày qua anh thấy Thơ cũng không đến nỗi lạnh nhạt với anh, phải không?

Thơ bất ngờ bị ôm hôn không khỏi giật mình bối rối, nhưng hơi ấm từ người Bảo khiến nàng cảm thấy thật dễ chịu, ngất ngây. Thơ chỉ còn đủ sức đưa mắt nhìn Bảo và...gật đầu. Không để mất một giây, môi chàng đã gắn liền môi Thơ đang hé mở. Nụ hôn dài, nồng nàn khiến cả hai trái tim đập rộn ràng. Lúc Bảo buông ra, Thơ phải tựa vào cây sa bô chê mới đứng vững, đôi má đỏ hồng. Bảo cười khẽ, ngón tay vờn trên đôi môi của Thơ:
- Chưa bao giờ anh thấy Thơ đẹp như lúc này. Thơ ơi, anh có đang nằm mơ hay không? Nếu là mơ thì chính là giấc mơ đẹp nhất đời anh. Được em yêu là hạnh phúc lớn nhất mà anh chưa bao giờ có.

Trước những lời tỏ tình chân thành của Bảo, Thơ vừa cảm động vừa thẹn thùng, chỉ biết ngước cặp mắt đầy thương yêu nhìn chàng. Hai người cứ đứng như thế, tay trong tay, lắng nghe tiếng lòng dạt dào, tựa như giòng sông ngoài kia đang êm đềm chảy. Bảo và Thơ phải nhớ ơn giòng sông, dù có sống cách xa vạn dậm...Nhờ nó mà hai người có với nhau biết bao kỷ niệm đẹp.

Kim Oanh mời Bảo đến dùng bữa cơm chiều với gia đình. Suốt bữa cơm, dù cố che dấu nhưng vẫn không qua mắt được một ai, vì hai chữ hạnh phúc hiện lồ lộ trên mặt hai người. Kim Oanh nói tỉnh bơ:
- Cô ơi, khi nào cô và chú Bảo làm đám cưới nhớ báo tin cho tụi cháu biết đó nha.
Thơ mắc cở, vói tay qua giả bộ cốc đầu Kim Oanh "Con nhỏ nhiều chuyện!" nhưng mắt lại nhìn Bảo đầy âu yếm.
Bảo cười cười và chậm rãi nói:
- Dĩ nhiền rồi. Các cháu không đợi lâu đâu. Phải không Anh Thơ?

Tiểu Thu
Mùa hè 2015

Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

Elvis Phương - Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang - Thu Âm Trước 1975


Cảm Tác Thơ: Quên Đi
Thơ Tranh: Kim Oanh


Sáng Tác: Phạm Duy & Ngọc Chánh
Tiếng Hát: Elvis Phương

Nỗi Buồn Trí Thức

Gươm sách tám năm quay trở lại
Cũng buồn như lúc mới đi thôi
(Nguyễn Thượng Hiền)

Trí thức là giống nòi tình. Mà càng nhiều tình thì càng buồn. Nguyễn Trãi là nòi tình thứ thiệt:

Chiếc thuyền lơ lửng bên sông
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay

Từ những tranh đấu với bọn nguỵ trí thức Nguyễn thúc Huệ cho đến án oan vườn vải, ta thấy cụ chẳng có ai tri kỷ, chẳng có niềm vui bao nhiêu! Chỉ thấy buồn và buồn thôi! Rồi đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, cuộc đời nhiều bất mãnn, và sau khi cụ chết, người ta xuyên tạc, tô vẽ nhiều vẻ. Nhưng đọc thơ cụ thì chỉ thấy cụ bạn với…. đàn âu! Vì thời không phải thời Ngu, Chu nên cụ chỉ biết vui cùng trăng gió:

Phong lai giang quán lương nghi hạ
Nguyệt đáo thư lâu minh chính thu

Những thời xa xưa này, không biết nguyên văn truyền lại được bao nhiêu! Thôi … rà tới thời Nguyễn cho chắc ăn! Sách vở của Cao Bá Quát chắc chắn là vua nhà Nguyễn đã ra lệnh thiêu huỷ (!) . Nhưng người ta vẫn khẩu truyền, sưu tập. Theo sự rà tìm, sưu tập của tôi thì Cao bá Quát oan lắm! đau lắm! buồn lắm! NHững người tri kỷ như Tùng Thiện Vương, Nguyễn Hàm Ninh thì … có được bao nhiêu! Nhưng số người ghen ghét và hận ông thì nhiều! Vụ giặc châu chấu là ông bị tên Tổng Đốc Nghi hãm hại (!) Tên này một lần tới yết kiến Tùng Thiện Vương, hắn sụp lây Vương trong khi Cao ngồi vắt vẻo ngang hàng Vương và … coi thường hắn (!) ( Cao làm giáo thụ Quốc Oai, Trong khi hắn làm Tổng Đôc Hà Nội , tội gì không trả thù !!! ). Đọc những bài thơ Cao làm khi ở Kinh Thành thì ta chẳng thấy hơi hám của một tên thích làm loạn:

Kiến thuyết Kim Môn cơ bất tử
Tuế tinh trường luyến Thánh Minh triều

Bao nhiêu chuyện hắc ám do quyền thần, nịnh thần gây ra khiến ông chán chuyện người đến nỗi khi dạy học thì đem văn cùng học trò ra sườn núi bình để giun dế nghe! Cũng một phấn để giải tỏa stress trong phòng học nhếch nhác, tang thương:
Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái

Nguyễn Thượng Hiền tuổi trẻ tài cao, đậu sớm, rể của phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết … nhưng buồn lắm. Trước thế nước nghiêng ngửa, chàng không nịnh quan, không ham công danh, lại đi chơi với những cậu ấm tàng tàng như Nguyễn Lộ Trạch, Trương Gia Mô! Chàng vào Nam ra Bắc, cuối cùng theo bạn Phan Bội Châu sang Tầu. Sau khi bạn thất bại, chàng vào chùa ở Hàng Châu đi tu.
Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim chả biết buồn vui như thế nào? Nhưng chắc là tâm sự ngổn ngang lắm khi một người nhường quyền bính vì muốn tránh cảnh huynh đệ tương tàn , một người đành ở lại núi rừng vui cảnh heo hút, không chịu về thành phố hưởng tiện nghi văn minh ! Trần trọng Kim viết hồi ký “ Một Cơn Gió Bụi “ với giọng cảm khái đầy nỗi buồn. Còn Bùi Kỷ, ngồi chơi xơi nước, dịch sách cổ, chắc cụ cũng buồn với Nguyễn Du

Giang hồ lang miếu một thân
Dật dân bỗng hóa hàng thần, lạ thay


( Nguyễn Du buồn nghe tiếng tiêu dưới ánh trăng ở Thăng Long, than rằng 300 năm tới không biết có người khóc mình không? Nhưng may cho cụ, chỉ 100 năm thôi đã có người tri kỷ )
Hai vị trí thức cỡ bự khác; Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo hăm hở đem tài ra giúp dân , giúp nước , nhưng cuối cùng bẽ bàng, buồn thảm trước cảnh hàng thần! Tâm sự của hai ông đành gửi vào Tiếng Trong Đêm và Lời Trăn Trối Cuối Cùng.

Bình Nguyên Lộc viết Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt! thất bại thảm thương, ít người đọc lắm, mà người chê , chửi thì nhiều! Nhiều điểm tôi không đồng ý, nhưng tôi rất trọng tấm lòng của ông, rất khâm phục lòng can đảm của ông, và … rất đồng ý cái kết luân: Nguồn gốc Mã Lai. Quả là như thế, ta có nguồn gốc Nam Phương chứ không hề là người Hoa. Nhưng buồn thay, những người đồng í với ông ít lắm! Cuốn lột trần Việt Ngữ cũng thế ! Không biết ông có buồn không , nhưng về gìa ông sang Mỹ chữa bệnh và chết tại đó. Chết tại nước người đối với một người như Bình Nguyên Lộc thì … dĩ nhiên là buồn rồi!!!
Tạ Chí Đại Trường và Nguyễn Thế Anh cũng cùng chung số phận. Tạ Chí Đại Trường viết sử như là nó có, chứ không viết sử như là mình muốn. Tôi khoái nhứt là hai chương ông viết về đời Lý và Trần. Hai đời này đã không văn minh rực rỡ như người ta tưởng. Đặc biệt như tên Lý Thường Kiệt . Ông nói thời đó tên nôm na lắm! Thường có thể đọc là Thằng, Kiệt có thể đọc là C..! Tôi đồng ý quá đi chứ, nhưng … viết như thế mà người ta không chửi mới là lạ!!!

Ông Nguyễn Thế Anh nào có bênh vực nhà Nguyễn nhiều, ông chỉ nói công trạng của các vua đầu Nguyễn, nhưng bị người ta ném đá ào ào! Ôi! Người ta quen cái mửng thiểu số phục tùng đa số! Chắc người ta tin 10 người học lớp 2 thì sẽ đúng hơn người học lớp 12.
( Tôi nhớ hình như ông Anh phủ nhận cái “ hiệp ước “ nhường Côn Sơn cho Pháp. Ôi! Làm sao có thể có cái hiệp ước quái đản như thế! Gia Long lúc đó chỉ là một tên cù bơ cù bất: Không một dúm quân, không một tướng giỏi, không một xu teng. Ông lại không phải là giòng chính ! Đã giòng phụ , lại là con thứ nữa !!! Đại Hoàng Đế nước Đại Pháp ký hiệp ước với một tên trên răng dưới giái như thế sao !!! )
Tạ Chí Đại Trường và Nguyễn Thế Anh sống tha hương bên trời, không thấy viết nhiều nữa (?) tiếc thay, tiếc thay!
Ai mà hiểu thấu nỗi buồn của Bùi Tín khi viết Hoa Xuyên Tuyết! Ai người chia sẻ tâm tư với Vũ Thư Hiên với Lời Xưng Tội Lúc Nửa Đêm! Chỉ có những người bị nỗi buồn gặm nhấm từng đêm mớ cảm thông cùng Bùi Tín và Vũ Thư Hiên.


Ôi ! Qua bao nhiêu phong ba bão táp, bao nhiêu gió bụi, bao nhiêu mây mù, người ta mới thấm thía nỗi vạn cổ sầu, và người ta càng trân trọng nỗi buồn của các vị trí thức thứ thiệt.
Bà Dương Quỳnh Hoa chắc cũng cảm thông nỗi buồn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ khi bà tâm sự với ông về “ thân phận chúng mình “
Hoàng Tố Nguyên cô đơn mênh mông,buồn da diết:

Đêm đêm nằm đếm tóc
Nghĩ thẹn kiếp phù sinh

Bởi chung quanh ông thì:

Gái trai cười phấn lụa
Cao hát khúc ân tình
Còn mong gì tuyết trắng
Mà dâng hồn thơ xanh

Ông nhắm mắt nghĩ về nơi xa xôi . Thì những người bạn ông …đi … về đâu:

Trăng liềm chênh chếch đổ
Về phương nào đó anh

7-1-2016
Chân Diện Mục

Liều Thuốc Hồi Sinh


Có phải mình đã vào cõi chết!
Trời sớm xui bỏ hết cuộc chơi
Hồn đi hoang gặp thời liều thuốc
Lời thật thà cứu chuộc hồi sinh

Mây tan gió cuốn sóng vô tình
Mang trở lại trần gian hình bóng
Tuổi xuân già phải chăng là mộng
Vui chiều lộng gió chậm ly tan

Thấp thoáng qua chim đàn về tổ
Dỗ dành em nỗi khổ cô đơn
Cám ơn ông Tạo ban mầu nhiệm
Khêu ngọn đèn tình liệm lứa đôi

Ta dìu nhau lên đồi hoa tím
Can đảm tìm khúc hát phân ly
Chuẩn bị khi hơi thở tàn đời
Lều ân ái nơi ta vào mộng

Bỗng đâu còn liều thuốc hồi sinh !

Vĩnh Long 9-6-2010
Lê Kim Hiệp


Biết Tỏ Cùng Ai??


Bài Thơ Xướng
Biết Tỏ Cùng Ai??


Buồn nầy biết tỏ ngỏ cùng ai ???
Để mối tâm can bớt cảm hoài !!
Để chuyện phu thê tròn vẹn đạo
Để tình chồng vợ chẳng hề phai
Để duyên tơ tóc luôn tươi thắm
Để nghĩa ba sinh chớ vụt bay
Để tạo niềm vui cho lẻ sống
Vần thơ cạn hứng em nào hay ??!!

Song Quang
***
Các Bài Thơ Hoạ
Vạn Pháp Vô Thường

Hương lửa ba sinh nặng với ai,
Nên tâm tư mới phải u hoài.
Nên phu thê xướng tuỳ không đổi,
Nên vợ chồng tình nghĩa khó phai.
Nên đạo tề mi luôn quyến luyến,
Nên duyên tơ tóc mãi không bay.
Nên...Vô thường vạn pháp là nương tạm,
Sinh ký tử quy, bạn có hay ?!

Đỗ Chiêu Đức
***
Đồng Cảnh Tương Lân


Những chuyện như vầy chẳng sót ai
Mong anh nén bớt dạ thương hoài
Mong trời trong sáng giông mưa lặn
Mong chị an lành bệnh tật phai
Mong nghĩa phu thê luôn vững chắc
Mong lòng son sắt chẳng rời bay
Mong sao anh chị luôn kề cận
Đầu bạc trăm năm thế mới hay.

Quên Đi

Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016

Sinh Nhật Bạn Thơ


Thơ: Phong Tâm
Thơ Tranh: Kim Oanh

Ừ Thôi!



Ừ thôi! Ta lỡ duyên thề
Trăng khuya lẻ bóng đường về phân hai
Ừ Thôi! Chiều đã tàn phai
Nắng hoàng hôn tím bóng ai xa mờ
Ừ thôi! Tình chẳng còn mơ
Bao nhiêu năm đó còn tơ tưởng gì ?
Ừ thôi gặp lại mà chi?
Anh người viễn xứ …em thì long đong
Ừ thôi! Ta lỡ duyên hồng
Mượn câu lục bát nỗi lòng ừ thôi!

Ngọc Hải

Tha Hương Ngộ Cố Nhân




Bài Thơ Xướng
Tha Hương Ngộ Cố Nhân


Tình cờ gặp lại bạn đồng hương,
Đất khách chen chân cũng đoạn trường.
Nhấp chén mềm môi buồn lữ thứ,
Cạn ly đãi khách bến sông Tương...
Xa nhà ngộ cố nhân an ủi,
Vắng bạn tình chung chạnh nhớ thương...
Thu lạnh sương rơi đầy lối mộng,
Yêu ai lận đận mối tơ vương... 


Mai Xuân Thanh
Ngày 20 tháng 09 năm
***
Các Bài Thơ Họa: 

Trái ngang tưởng hết lâm ly
Cố nhân đi khỏi cố lì còn đây! 

Tái Ngộ

Lâu lắm nay còn phảng phất hương
Người xưa cách biệt bấy năm trường
Thương chàng xứ Mỹ trồng rau muống
Nhớ kẻ quê nhà bán nước tương
Đất khách tình cờ ta lại gặp
Chuyện lòng ngớ ngẩn dạ còn thương
Nhìn nhau sương trắng hòa trên tóc

Ái ngại thôi về chớ vấn vương

Cao Linh Tử
21/9/2015
***
Gặp Em Bất Ngờ

Không ngờ nay gặp bạn Thu Hương
Chẳng những cùng quê lại một trường
Khó nói thành câu-người Xứ Mỹ
Khôn trao trọn ý-kẻ Sông Tương
Lúc xưa gần gũi bao yêu mến
Nay hiện chia xa những luyến thương
Ngộ thật thì ra tròn quả đất
Thế nên chi đó vẫn vương vương…

Thái Huy
9-21-15***
Bóng Hình Xưa

Người đã lâu rồi biệt cố hương
Còn ta ôm mộng giữa canh trường
Men nồng một thuở lưu hình bóng
Hồn dại bao mùa lạc bến tương
Đời nỡ cắt chia tình luyến ái
Đêm tàn ấp ủ giấc sầu thương
Lòng si cố xoá càng sâu đậm
Người hỡi tim này mãi vấn vương


Quên Đi

Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016

Chiều Chiều Lại Nhớ...


Chiều về lại nhớ …một chiều
Tím lục bình tím thật nhiều sông xưa
Tiễn người trời đổ lệ mưa
Chồng đi tù tội vùng thưa bóng người!
Thương ai lận đận bên trời
Vì đâu nên nỗi đổi đời đắng cay..
Thương em phấn nhạt môi phai
Tàn trăng nến lụn đêm dài nhớ thương.
Thương anh mấy nỗi đoạn trường
Phương nầy - phương đó - hai phương một sầu !!
Chiều nay mây rũ về đâu
Chảy bề tóc rối..lược nhầu tóc mây
Nắng vàng trên những đọt cây..
Năm cùng tháng tận ..còn đây não nùng!.
Chiều lên khói sóng chập chùng
Tím sầu lại tím mơ cùng mộng tan !!
Ôm con lệ ứa đôi hàng
Cõi lòng như đã để tang bao giờ
Từ ly thắt thẻo đôi bờ
Chiều về chiều lại ngẩn ngờ .. nhớ mong .
Chiều chiều lại nhớ lại trông…

Hương Chiều
( Thi Tập “Trở Giấc”)

Mua Trăng


Ta muốn mua vầng trăng của em
Từng đêm yêu dấu vẫn từng đêm
Hồn ta lạc giũa vùng mê ảo
Trăng vẫn ru ta giấc ngủ mềm

Ta muốn mua vầng trăng nhớ thương
Dấu yêu chìm đắm mộng thiên đường
Ủi an ta lúc đời hiu quạnh
Trăng của ân tình trăng vấn vương

Ta muốn mua vầng trăng xanh xao
Dựa trên gối nguyệt buổi hôm nào
Cho ta chất ngất hồn lang bạt
Đêm tự tình nhớ tuổi hư hao

Ta muốn mua vầng trăng đắm say
Giữa thiên hà tinh tú cuồng quay
Ta với em chìm trong qủy đạo
Một thưở xa người trong mắt cay

Khiếu Long

Đọan Cuối Đường Đời



Đọan Cuối Đường Đời

Bạn bè ngày cũ có còn ai
Trong buổi hoàng hôn ánh nắng phai
Nhìn tới, tương lai như hố thẳm
Ngó lui, dĩ vãng tựa hang dài
Thuở nào phơi phới tràn hy vọng
Giờ lại âm thầm nuốt đắng cay
Nghe bước thời gian, lòng khắc khoải
Muốn quên trong chén rượu men say.

Muốn quên trong chén rượu men say
Cho mọi buồn đau lọt kẽ tay
Mà vẫn nhớ thương thời vẹn sắc
Và luôn luyến tiếc thuở hơn tài
Lợi danh phù phiếm sao hoài nhớ
Tình cảm chân thành lại chóng lay
Tất cả chẳng qua là ảo ảnh
Cuối đời chỉ hạt bụi bay bay.

Phương Hà
( Tháng 12/2015 )
***
Các Bài Họa:
Bóng Thời Gian

Xế bóng cô đơn chẳng có ai,
Cuộc tình buổi ấy cũng tàn phai.
Tương lai bít lối mơ chi nữa,
Dĩ vãng đau thương suốt quãng dài.
Vang bóng một thời nay ngã ngựa,
Nhìn về quá khứ lắm chua cay !
Thời gian lặng lẽ qua nhanh quá,
Lẻ bạn đưa hơi chén rượu đầy.

Lẻ bạn đưa hơi chén rượu đầy,
Thả mồi bắt bóng nắm bàn tay.
Nụ cười môi thắm tươi duyên dáng,
Răng trắng đang yêu chẳng kém tài.
Nữ tú nam thanh đời vẫn đẹp,
Cao niên chống gậy hết lung lay.
Giàu sang danh vọng nên buông bỏ,
Phút cuối tay không, cát bụi...bay!


 Mai Xuân Thanh
Ngày 04 tháng 12 năm 2015
***
Đọan Cuối Đường Đời

Họa nương vận

Tự hỏi quanh ta còn mấy ai ?
Bạn bè rơi rụng lá thu phai
Người đi bầm dập cơn mưa lũ
Kẻ ở long đong những tháng dài…
Chôn sống cuộc đới bằng cốc rượu
Phá tàn thân xác với men cay
Tìm đâu nữa nhỉ trời mơ ấy
Ra ngõ gặp toàn ngất ngưởng say.

Ra ngõ gặp toàn ngất ngưởng say
Cộng phần ngục mặt với khoanh tay
Làm sao cho thoát,than không sức
Chịu trận vầy ư,nói bất tài
Nhìn nước đảo chao lòng khuất tất
Ngó trời nghiêng ngả dáng lung lay
Tuổi gìa ập tới là xong hết
Cánh nhạn tin xuân đã vút bay.

Thái Huy
12-06-15
***
Cảm Tác: Bạn Bè Còn Ai?& Chuy
ến Tàu Đời

Câu hỏi khi nghe cảm xúc lòng
Tàu đời chạy mãi cỏi hư không
Sân ga bỏ lại vài ba khách
Trong số người đi cố ngược dòng

Nghiệt ngã thời gian cứ mãi trôi
Bạn bè cuộc sống ở muôn nơi
Biết ra,thì đã...mồ xanh cỏ
Tạo hóa bày chi luật thải hồi?

Hành lý mang theo được những gì?
Chỉ là ký ức những lần đi
Trên đường xuôi ngược bao ghềnh thác
Nhận thức đâu người bạn cố tri!

Thôi tạo cho ta những nụ cười
Để còn thấy được có niềm vui
Rồi mai xa cách ta thầm tưởng
Để nhớ để thương để ngậm ngùi

Tàu bỏ sân ga, bỏ cả người
Bạn bè còn mất,kẻ rong chơi
Riêng ta nhìn lại đang dong ruổi
Trong bước phong trần lắm bải buôi


Song Quang

***
Bạn Bè & Cát Bụi

Làm người nhập cuộc giữa trần ai
Cảm nhận bên mình cứ nhạt phai
Những đứa chơi thân ngày tấm bé
Những thằng lưu lạc tháng năm dài
Nhìn nhau kiểm điểm màu sương tóc
Ngắm lại vin vào hốc lệ cay
Thấy mặt mừng ngay còn được sống
Còn nâng ly chúc hãy cùng say!
 Còn nâng ly chúc hãy cùng say!
Còn được mấy thằng tay bắt tay
Một thuả lăng xăng phô lắm tật

Bi chừ điềm đạm nhẫn hơn tài?
Hoàng hôn rảo bước đường im ắng
Bóng ráng buông chiều gió lắt lay
Giữa cõi trần ai đầy cát bụi
Cứ nhìn cứ mặc hạt bay bay!!!

Nguyễn Đắc Thắng
20151206

Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016

Tình Khúc Mùa Đông - Nhạc Phạm Anh Dũng - Y Phương

"...Lệ ai rơi rơi vội vã, giấc mơ tan
Cuộc tình phong sương, mênh mang sầu đắng, như nắng mùa đông ..."
(Phạm Anh Dũng)



Nhạc & Lời: Phạm Anh Dũng 
Hòa Âm:Sỹ Đan  
Tiếng Hát: Y Phương


Mưa


Tiếng mưa rơi
Giọt mưa tí tách
Phải chăng than thở tình đời
Mưa rên rỉ
Như cay đắng thầm thì
Sao nghe buồn tê tái
Mưa nức nở
Thương xót cho cuộc tình tan vỡ
Duyên thì không nhưng nợ đã đeo mang
Mưa tuôn tràn
Thay dòng lệ buổi sang ngang
Sẽ nhớ mãi
Em ơi tình tuyệt vọng
Mưa bong bóng
Như mối tình còn lắng động
Trong tim ta
Dẫu năm tháng xa vời
Thôi, mưa đã dừng
Giọt tình đã ngưng
Hãy chôn dấu chuyện yêu đương một thời vụng dại

Quên Đi

Màn Đêm


Đêm ngoài trời đong đưa tàu lá chuối
Bên song buồn thui thủi ngóng chinh nhân
Thời gian mau ánh nguyệt cũng tàn dần
Màn mưa lệ trào dâng niềm nhung nhớ…

Gió đang thở hay tim ta đang bão
Khát Khao ơi! Hương cỏ hay mùi xưa
Côn trùng ngoãnh mặt chẳng buồn thưa
Không gian chết … Ừ tim ta vẫy chết!

Kim Oanh
18-10-2015
* Cảm xúc từ ảnh - Biện Công Danh

Xây Bánh Da Lợn




Mỗi buổi trưa, chị đội xây bánh đi từ nhà ở bên đây cây cầu Bà Điều đến đầu xóm Đập và ghé vào quán cà phê nằm trên đường Nguyễn Trường Tộ để bán những chiếc bánh da lợn thơm phứt chị mới làm xong còn nóng hổi.

Màu xanh lá dứa, màu tím lá cẩm, màu vàng của nhân đậu xanh trông rất đẹp mắt và nhất là hương thơm ngào ngạt đã tạo thêm phần hấp dẫn đến những khách hàng trong quán cà phê. 

Đa số khách buổi trưa của quán là công nhân của nhà in Long Hồ, một số người quen lối xóm, vài người thầy giáo và mấy anh học trò của trường trung học tư thục Nguyễn Trường Tộ.  Khách thường đến quán để uống một ly cà phê xây chừng, xây nại, bạc tẩy xỉu phé hay nước chanh ….  trước khi bắt đầu vào công việc buổi trưa của mình.  

Xây bánh quá mời mọc nên khách không thể không mua dùm chị một hai chiếc bánh  đã được cắt sẵn có hình thoi hay hình tam giác xinh xinh.  Vừa ăn và uống cà phê thì thật là tuyệt vời.  Thỉnh thoảng mấy chị em tôi cũng len lén mua ăn vì sợ má rầy là hay ăn vặt. 

Chị rảo bước một vòng trong quán, khi không còn ai mua nữa thì chị tiếp tục đi bán dạo dọc theo hai bên đường từ chân cầu Cái Cá lên đến bến xe Vĩnh Long - Cần Thơ (Bến xe nằm một bên góc đường của trụ thần Phan Thanh Giản, trụ thần đặt giữa trung tâm của Ngã Ba Cần Thơ).  Dẫu cho trời nắng gắt hay mưa dầm, ngày qua ngày của chị là thế.

Từ lúc tôi rời nhà để lên Sài Gòn học và đi định cư ở hải ngoại thì  tôi không còn gặp chị nữa.  Nhiều lần tôi cảm thấy thèm được ăn những chiếc bánh da lợn có hương vị, màu sắc tự nhiên của lá dứa, lá cẩm và đặc biệt là khi bánh “mới vừa ra lò”.  Mỗi lần nhắc đến, tôi lại nhớ đến chị:   Hình ảnh của người con gái ở chợ thành, da dẻ hơi ngâm đen, chị không thoan thả lắm, nhưng lại đẹp người trong những chiếc áo bà ba màu sắc hồng nhạt, xanh lam, tím lá sen … được ủi phẳng phiu, chiếc nón lá quai vải được thay đổi cùng với màu áo chị mặc mỗi ngày, đầu đội xây bánh phủ bằng một lớp vải the trắng để che bụi.  Trông chị rất là mộc mạc, mượt mà như một cô gái ở miệt vườn quê.

*** 



Tôi về Việt Nam vào mùa thu năm 2014 để thăm gia đình. Vào một buổi trưa, tôi cùng cô cháu đi xuống thương xá Vĩnh Long; chúng tôi ghé sạp giày dép ở tầng dưới của thương xá, cô cháu lo lựa giày dép ở bên trong, còn tôi thì đứng quay quẩn bên ngoài để chờ.  Thình lình, tôi được mời mua vé số từ một người phụ nữ nhỏ người, gầy gò, nhìn rất là tiều tụy trong chiếc áo bà ba úa màu, khoác thêm bên ngoài một chiếc áo sơ mi sọc dài tay cũ kỹ, đội chiếc nón lá hơi lụp xụp và đã bị sờn. Tôi từ chối không mua, nhưng cứ bị nài nỉ mãi.  Bỗng sao tôi nhận thấy chị ấy có gương mặt hơi quen quen, tôi bèn hỏi:  “Có phải nhà chị ở cầu Bà Điều không?” Chị trả lời:  “Dạ phải và tui tên là Sen”. Tôi biết chắc là chị rồi, nhưng tôi lại hỏi tiếp:  “Chị là chị Sen mà ngày xưa chị bán bánh da lợn và mỗi ngày ghé bán ở quán cà phê nhà em ở phía bên đây cây cầu Cái Cá?”  Chị bảo: “Dạ phải”.  Tôi nói với chị: “Em là Mai Nhỏ ở quán cà phê dạo ấy đây chị”. 

Chị và tôi rất vui mừng sau hơn ba mươi lăm năm mới gặp lại.  Qua vài câu thăm hỏi về gia cảnh thì tôi được biết là chị không còn ở chỗ cũ, chồng chị bị tai biến mạch máu não cách đó không lâu nên nằm tại chỗ; chị đưa tôi xem cườm tay phải của chị bị gãy vì bị tai nạn, tuy đã lành nhưng không được thẳng như trước nữa.  Vì nhà quá nghèo, đời sống khó khăn, chị không có vốn liếng gì nên phải đi bán vé số để mưu sinh. Tôi cũng quên hỏi thăm về phần con cái của chị có hay không và sống ra sao?

Thăm hỏi qua lại xong, trước khi ra về tôi gởi cho chị một ít tiền và mua dùm chị vài tờ vé số ủng hộ.  Chị nắm tay tôi và cám ơn rối rít.  Tôi cảm thấy một sự âm ấm nào đó trong cái nắm tay của chị và tôi, một thứ cảm giác của sự vui buồn lẫn lộn.

Trước khi rời khỏi sạp giày dép, tôi nhìn chị đi hướng ngược lại và tiếp tục mời những người khách khác mua vé số.  Lòng tôi thật bùi ngùi, rưng rưng và ngậm ngùi cho số phận “Chị Sen – Bán Bánh Da Lợn” của ngày nào.

Khúc Giang

Ngày 1,Tháng Giêng, Năm 2016     

Lan Hầu Tử



Lan Hầu Tử

Hoa chỉ mọc trên đỉnh núi đồi
Rừng mưa nhiệt đới ẩm luôn thôi
Mặt như chú khỉ tròn xoe mắt
Hương tựa mùi cam chín nát cồi
Sâu bọ dè chừng dung mạo độc (*)
Bướm ong e ngại nhuỵ đài hôi
Ngất cao, đùa giỡn cùng mây gió
Hỏi đã mấy ai gặp được rồi ?

Phương Hà

(*) Loài lan này có nhiều giống hình khuôn mặt khỉ rất xấu xí khiến liên tưởng đến loài quỷ dữ nên được đặt tên khoa học là Dracula simia

***
Bài Họa:
Lan Hoang Dã
Giới thiệu hoa chi mọc đỉnh đồi,
Xem hình minh họa lạ thì thôi.
Bính thân ai biết tìm lan khỉ,
Tủi phận mùi thơm mít sút cồi.
Không thấy chưng bày cây cảnh độc,
Chẳng hay chơi tết loại này hôi.
Bông nào gốc gác nơi hoang dã,
Cùng cốc thâm sơn khó kiếm rồi !

Mai Xuân Thanh
Ngày 06 tháng 01 năm 2016
***
Lan Hầu Tử

Chú khỉ trèo leo giữa đỉnh đồi
Một loài hoa lạ...quá đi thôi !
Trẻ con nhác thấy liền che mắt
Em bé vừa trông ắt bị còi
Nếu hái đem về e nhiểm độc
Đem trồng lại toả lắm mùi hôi?
Ở rừng nhảy nhót làm trò khỉ
Về phố thành lan bắt được rồi!

Song Quang
***

Lan Hầu Tử
Họa nương vận

Em ở nơi kia cũng cạnh đồi
Mỗi lần nghé lại mệt thời thôi
Vẫn không từ khước màu nhung nhớ
Mà chẳng đành quên giấc mông “cồi”
Lá thắm trao qua đều cảm đẹp
Thơ xanh chuyển lại há chê hôi
Nay còn kỷ niệm trong tâm khảm
Bở lẽ không gian cách quá rồi.

Thái Huy
jan-08-16

Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

Chiếc Lá Cuối Cùng - Tuấn Khanh - Sĩ Phú


Cảm Tác Thơ: Cao Linh Tử
Thơ Tranh: Kim Oanh


Nhạc Sĩ: Tuấn Khanh
Ca Sĩ: Sĩ Phú
Thực Hiện Youtube: Vongngayxanh

Tình Quê Đồng Tháp


Hai mùa nắng ấm rọi tầng không
Thấm nhuộm phù sa đẫm sắc hồng
Đất mảnh phèn sâu sen bát ngát
Quê vùng hạc đỏ nước mênh mông
Vườn cây trĩu nặng ven sông Cửu
Ruộng lúa bao la trải mặt đồng
Hãy đến nơi này xây ước mộng
Nghèo nêm mặn nghĩa đắm hương nồng!

 Nguyễn Đắc Thắng

Tầm Ung Tôn Sư Ẩn Cư Lý Bạch (701 - 762)


Tầm Ung Tôn Sư Ẩn Cư - Lý Bạch (701 - 762)

Quần tiễu bích ma thiên, 
Tiêu dao bất kế niên. 
Bát vân tầm cổ đạo, 
Ỷ thụ thính lưu tuyền. 
Hoa noãn thanh ngưu ngoạ, 
Tùng cao bạch hạc miên. 
Ngữ lai giang sắc mộ, 
Độc tự há hàn yên.
Lý Bạch

Dịch Xuôi: Tìm Nơi Ở Ẩn Của Ung Tôn Sư 
PKT 12/30/2015 
(Đường lên núi )
Rặng núi lô nhô xanh biếc chạm trời
Người ở ẩn tiêu dao chẳng cần biết đến năm tháng trôi qua 
Lần rẽ mây nổi để tìm lại con đường cũ 
Đứng dựa vào cây nghe tiếng nước chảy mà tìm được đến nhà bên khe suối
(Đến nơi) 
Con trâu xanh nằm bên rặng hoa nở trong nắng ấm
Con hạc trắng ngủ trên cành thông cao
Mải chuyện trời sập tối trên sông lúc nào không hay 
Một mình xuống núi trên đường về đi vào vùng sương khói lạnh 

Phụ Chú: 
Thanh ngưu = trâu xanh. Lão Tử viết xong Đạo Đức Kinh ,cưỡi con trâu xanh đi mất biệt. Có thuyết cắt nghĩa "thanh ngưu " là một loài sâu màu xanh có 2 sừng nằm trong nhị hoa.Ở đây, xin được hiểu, thanh ngưu bạch hac, (trâu xanh hạc trắng) là phương tiện di chuyển của các bậc thần tiên xưa.

Lên Núi Thăm Thầy 
PKT 12/30/2015
Núi xanh cao ngút ngọn
Ngày tháng chốn cheo leo
Lối cũ vén mây nổi
Chốn xưa nghe suối reo
Trâu xanh sưởi nắng ấm
Hạc trắng ngủ thông cao 
Mải chuyện quên chiều xuống
Người về dưới ánh sao

Phạm Khắc Trí
***
Lên Núi Thăm Thầy 

Núi nhấp nhô xanh rì cao ngất
Mãi giang hồ quên mất tháng năm
Vén mây lối cũ tìm thăm
Dựa cây lắng tiếng thì thầm suối ca
Trâu xanh nằm bên hoa tắm nắng
Trên cành thông hạc trắng ngủ say
Chuyện trò sông nhạt chiều phai
Một mình xuống núi khói bay lưng đèo 


Mailoc
***
Tìm Đến Nơi Thầy Ở Ẩn

Xanh biếc lô nhô núi chạm trời
Tiêu dao năm tháng kể chi đời
Rẽ mây đến được đường lưu dấu
Theo suối tìm thăm chốn ẩn người
Trong nhuỵ, sâu xanh nằm ấm áp
Trên tùng, hạc trắng ngủ chơi vơi
Bên sông, chiều xuống ai nào biết
Xuống núi một mình, sương tuyết rơi....

Phương Hà phỏng dịch
***
Đến Nơi Ở Ẩn Của Thầy Ung


Núi biếc ngất trời xa
Chơi quên năm tháng qua
Vén mây tìm lối cũ
Tựa gốc lắng khe ca
Hoa ấm sâu ngơi nghỉ
Tùng cao hạc gật gà
Chiều về mê chuyện mãi
Giờ khói lạnh mình ta.


Quên Đi
***
Đường Lên Núi Ẩn Cư Của Tôn Sư

Non xanh núi biếc nhấp nhô trời,
Ở ẩn thời gian chẳng bận trôi...
Cỏ lấp đường xưa mây trắng phủ,
Suối reo lối cũ thấy nhà nơi.
Nắng ấm trâu xanh hoa vẫn nở,
Thông cao hạc trắng ngủ mơ đời.
Bên sông chuyện vãng quên trời tối,
Xuống núi đêm về lạnh bóng tôi...

Mai Xuân Thanh

Ngày 31 tháng 12 năm 2015

Ý Thức Về Ký Hiệu Học - Kỳ 2

 Tùy luận 

Lời Giới Thiệu: Bài Ý Thức Về Ký Hiệu Học gồm có 10 phần. Sẽ đăng liên tiếp để độc giả tiện theo dõi. Bài này trích từ sách: Xa Lộ 21: Tư Tưởng Văn Học Dẫn Vào Thế Kỷ do nhà thơ Ngu Yên giới thiệu, nhận định và áp dụng những lý thuyết mới về văn chương và ngôn ngữ từ giữa thế kỷ 20 sang thế kỷ 21. 

Phần Hai
Giới Thiệu Ngắn: Lý Thuyết Ký Hiệu Học

Un cheval s'écroule au milieu d'une allée 
Les feuilles tombent sur lui 
Notre amour frissonne 
Et le soleil aussi. 
( L'Automne. Jacques Prevert.)

Giữa đường ngựa ngã quỵ
Lá rơi phủ lên mình
Tình đôi ta run rẩy
Run cả ánh mặt trời.

Đây là bài thơ ngắn, chỉ có bốn câu, rất dễ nắm bắt toàn bộ ý thơ, nhưng đọc đi đọc lại, ngẫm nghĩ, dường như có ít điều không rõ: Hai câu đầu và hai câu sau tạo ra hai tứ cảnh, có sự liên hệ vừa mơ hồ vừa nghi ngại.

Với tựa đề "Mùa Thu", đã cho người đọc một khung cảnh tổng quát, những chi tiết thường xảy ra trong mùa này và những ý niệm mà mùa thu thông thường cưu mang. Câu thơ đầu tiên cho thấy một chuyện gì không tốt, điềm không lành sẽ xảy đến, dù chưa thật sự hiểu con ngựa làm gì trong bài thơ. Nó là một cảnh tượng thực tế được trông thấy hoặc nó là một biểu tượng?

Lá rơi, nghĩa là mùa thu đã chín, đã khô lá, cái đẹp của thu đang tàn phai. Ngựa kiệt sức, ngựa bất tỉnh hoặc đã qua đời, lá phủ lên, ngựa không cử động. Hai câu thơ đầu tạo ra tứ cảnh mất mát chia lìa. 

Tình run rẩy, lo âu, vì dự cảm những gì sắp xảy ra. Tứ này dễ cảm nhận. Nhưng Mặt trời cũng run rẩy, cũng lo âu, ông muốn ám chỉ gì đây? Mặt trời biểu tượng cho điều gì?

Đọc thơ để cảm nhận cái đẹp cái hay là đủ, nhưng nếu tìm hiểu bài thơ rõ hơn, cái đẹp cái hay càng gia tăng. Charles Peirce cho rằng, đọc thơ và nhận thức, cảm bài thơ ở giai đoạn này chỉ là tầng lớp đầu tiên về hiểu biết một điều gì. Không thể hiểu biết rõ ràng nếu dừng lại nơi đây.

Nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học, đi vào bài thơ theo lối xưa, thường căn cứ vào ý nghĩa của chữ, câu và những liên quan đến tiểu sử, cuộc đời của thi sĩ. Sau khi trường phái tâm lý học của Freud và Jung ngự trị, nghiên cứu phê bình thường mang tâm lý học mổ xẻ tâm lý tác giả.

Đến giữa thế kỷ 20, khi những học thuyết mới, khoa học hơn, kỹ thuật hơn, cụ thể hơn như Ký Hiệu Học (Semiotics/Semiology), Cấu Trúc Luận Structuralism) , Giải Cấu Trúc (Deconstruction/ Post-structuralism), Thuyết Văn Hóa Tương Đối (Cultural Relativism), Nhận Thức Luận (Epistemology), Kết Cấu Luận (Constructionism), Thuyết Đa Nguyên( Pluralism), Thuyết Độc Giả Cảm Ứng (Reader-response Criticism), Thuyết Marxist (Marxist Criticism), Phê Bình Phản Đề (Antithetical Criticism), Phân Tích Tương Phản (Constrastive Analysis), và những quan niệm tiền phong mở đầu thế kỷ 21, đi vào văn chương: truyện, kịch và thơ bằng văn bản với những 'mẫu hình'( paradgm), những 'diễn pháp' (syntagm) và 'cái biểu hiện' (signifier) và 'cái được biểu hiện' (signified). Bên cạnh là những dự đoán từ sự đô hộ của điện tử, vi tính, robots; từ tình hình bạo động của thế giới; từ quyền lực chính trị kinh tế sôi động, sẽ dẫn đến những lý thuyết khác trong thế kỷ 21. Những lý thuyết mới từ giữa thế kỷ 20 mang đến cho văn học thế giới một cách nhìn lột trần những huyền thoại, những niềm tin cuồng tín trong văn chương và giúp cho phê bình cùng sáng tác có nhiều ý thức hơn về vị trí và giá trị ngôn ngữ trong hệ thống diễn đạt.

Vậy thì, những lý thuyết này giải mã bài thơ Mùa Thu của Jaques Prevert ra sao? 

Hãy bắt đầu bằng Ký Hiệu Học.

Ký Hiệu Học bắt nguồn từ triết gia René Descartes (1596-1650) và John Locke (1632-1704). Từ sự phân chia vũ trụ ra hai thành phần: vật chất và tinh thần. Decartes cho rằng tinh thần với tư tưởng và suy nghĩ là sự hiện hữu. Những đối tượng bên ngoài đều tái hiện trong tâm trí con người, gọi là "ý nghĩ". Mở rộng hệ thống tư duy này, John Locke cho rằng sự mô tả về mỗi ý nghĩ như một phó bản của cảm giác hoặc như một phản ảnh trong diễn trình hoạt động của tâm trí. Trong "Essay Concerning Human Understanding", John Locke đã trình bày rất khoa học về ký hiệu (signs) là ngôn từ đại diện cho ý nghĩ về ngoại cảnh và dùng để giao thiệp và thông đạt. Quan điểm này trở thành nguồn gốc cho những học phái về ký hiệu xuất hiện giữa thế kỷ 20.

Một trong hai người đặt nền tảng cho Ký Hiệu Học (Semiotics) là triết gia Hoa Kỳ, Charles Sanders Peirce (1839-1914.). Quan điểm chính của ông là sự khác biệt giữa ký hiệu và ý nghĩ. Theo ông, ký hiệu có thể là sự suy nghĩ nhưng không phải là ý nghĩ. Ký hiệu nhận được ý nghĩa do sự suy nghĩ hoạt động và giải thích. Ví dụ, Thấy một bảng hiệu đi đường, trước hết, thấy bảng hình tròn rồi mới tiếp nhận chữ STOP. Đó là sự diễn tiến liên kết của hiểu biết.

Người thứ hai là nhà ngữ học người Pháp gốc Thụy Sĩ, Ferdinant de Saussure (1857-1913). Với chủ đích nghiên cứu sinh hoạt của ký hiệu trong đời sống xã hội, ông đã được công nhận là sáng lập viên của Semiology, tạm gọi là Ký Hiệu Giải Tích để phân biệt với Semiotics là Ký Hiệu Học. Ký Hiệu Giải Tích là một phần của Ký Hiệu Học. Có lẽ vì vậy mà người ta gọi chung là Ký Hiệu Học. 

Ký Hiệu Học bắt đầu từ ngôn ngữ, bước qua triết học, lan rộng ra nhiều lãnh vực và có tầm ảnh hưởng trong mức độ khác nhau trong đời sống.

Từ những câu thơ khó hiểu trong bài Phục Sinh của Thanh Tâm Tuyền: Tôi buồn khóc như buồn nôn [...] Tôi buồn chết như buồn ngủ [...] qua đến từ ngữ "Chân dài", nghe nói, sử dụng hàng ngày, đều có thể giải mã qua ký hiệu, để có thể hiểu rõ hơn, không những về ý nghĩa mà về những điều ngôn từ ám chỉ.

"...buồn khóc như buồn nôn" là một ẩn dụ. "Buồn nôn" tự thân có hai tín hiệu: 1- Tích cực: Quá no cần phải nôn ra cho dễ chịu; 2- Tiêu cực: cảm giác quá ghê tởm làm buồn nôn; ăn trúng độc, muốn ói; bị đánh vào bụng, muốn mửa ra. Nếu đi chung với "buồn khóc", thì phải có nghĩa tiêu cực. Muốn "khóc" vì trúng độc sự sống, bị đời hành hạ hay ghê tởm những phi lý xảy ra, hoặc cả ba đã khiến Thanh Tâm Tuyền muốn khóc như một người buồn nôn. Thường khi, người đọc dễ lầm tưởng thi sĩ đang buồn nôn. Không, thi sĩ buồn khóc. "Buồn nôn" chỉ là ý nghĩa giải thích cho "buồn Khóc". Câu thơ đó có thể giải mã trong một dãy ký hiệu khác: Tôi buồn khóc vì bị đời hành hạ, vì trúng độc cuộc sống, vì ghê tởm những phi lý, vô nghĩa đang xảy ra. 

"...buồn chết như buồn ngủ" cũng là một ẩn dụ. "buồn chết" cho thấy "buồn ngủ" trong nghĩa tiêu cực. "Buồn ngủ" là trạng thái của người thiếu ngủ, mất ngủ; mệt mỏi chán nản nên buồn ngủ; ngủ là chuyện thường xuyên xảy ra mỗi ngày. "Buồn chết" mang những ý nghĩa tiêu cực của "buồn ngủ", người đọc nhận ra ngay sự chán chường, không còn tha thiết với sự sống.

Nếu đọc toàn bài Phục Sinh (3), sẽ thấy những ký hiệu khác liên quan, liên đới với "buồn khóc buồn nôn buồn chết buồn ngủ" như: 

- tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
- cho đứa nhỏ linh hồn sợ chó dữ
- tôi thét lên cho ngui giận
- tôi thèm giết tôi
- tôi gào thét tên tôi thảm thiết
- bóp cổ tôi chết gục

tất cả những tương quan này sẽ làm rõ ý tứ bài thơ và những gì tác giả bị ám ảnh và những gì ông muốn ám chỉ.
Và cuối cùng chỉ còn tình yêu. Chính tình yêu đã cho một người đang sống như chết được phục sinh: 

em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật.

Ký Hiệu Học (Semiotics) / Ký Hiệu Giải Tích (Semiology).

Cả hai đều có chung mục tiêu: Tìm hiểu, phân tích và giải mã ký hiệu thông đạt, bao gồm lời nói, chữ viết, những dấu hiệu, những biểu hiệu truyền thông và những phương cách diễn tả tâm tư qua cách xây dựng ký hiệu. Trên diện bình thường, cả hai có chung một tên gọi: Ký Hiệu Học. Tuy nhiên, phân tích về nội dung và kỹ thuật, Semiotics và Semiology có nhiều điểm khác nhau. Cũng có thể coi như từ nguồn gốc là sự khác biệt giữa quan niệm về ký hiệu của Peirce và quan niệm về ký hiệu của Saussure. 

Ký hiệu trong nghĩa chuyên môn, là gì? 

Charles Peirce đưa ra định nghĩa: " [...] Ký hiệu là một cái gì đại diện cho một cái khác, đối với những ai có liên quan và có khả năng tiếp nhận. Nó truyền đạt đến người nào, nghĩa là, tạo ra trong tâm trí người đó một ký hiệu tương đương hoặc sâu rộng hơn...[...]" (4). Nói một cách khác, ký hiệu biểu hiện được tái tạo nơi người thu nhận nó. Và ký hiệu tái tạo này giải thích ký hiệu biểu hiện. Trong thời đoạn khởi đầu của Ký Hiệu Học, ký hiệu bao gồm chữ, hình ảnh, âm thanh, cử chỉ và vật thể. 

Ý nghĩa của ký hiệu không nhất thiết bất thường nhưng thay đổi theo sự giải thích của suy nghĩ. Ví dụ bảng Stop thay vì hình tròn, đổi sang hình tam giác, khi thấy chữ STOP, ký hiệu đó sẽ làm cho người đi đường dừng lại, cho dù họ rất quen với bảng tròn.

Theo Saussure, Ký hiệu chỉ có giá trị khi phối hợp hai điều kiện: Bản thân của ký hiệu đại diện và ý nghĩa nó cưu mang. Không thể có một ký hiệu mà không có ý nghĩa hoặc không thể có ý nghĩa nếu không có ký hiệu đại diện. 

Ký Hiệu Học, Semiotics, từ ngữ gốc Hy Lạp, Semiotikos, nghĩa là giải thích ký hiệu. Căn bản của Ký Hiệu Học là thảo luận, nghiên cứu về chủ đề: Nhân loại đã diễn đạt và trình bày sự vật, sự kiện như thế nào. Có lẽ, Umberto Eco ( 1932- ) là người có định nghĩa bao trùm nhất, trong tác phẩm Eco (1967), ông nói: "Ký Hiệu Học quan tâm đến tất cả những gì được xem như là ký hiệu." Định nghĩa này mở rộng phạm vi nghiên cứu về ký hiệu. Về sau đã phát triển trong nhiều ngành khác. 

Những nhà Ký Hiệu Học đặt nặng sự tìm hiểu ký hiệu trong hệ thống thông đạt. Ý nghĩa và giá trị của ký hiệu thành hình như thế nào và được diễn đạt ra làm sao.

Ký Hiệu Học cố gắng giải mã những ký hiệu tập hợp, những ký hiệu liên kết, về thực chất, đặc tính, hình thái và diễn tiến khi truyền đạt. Nhìn từ bên ngoài, gần giống như Ký Hiệu Học chỉ phân tích ý nghĩa "ký hiệu/từ ngữ" như truyền thống phê bình nghiên cứu đã thực hiện trong những thế kỷ trước. Ký hiệu học nhìn từ ngữ+ý nghĩa+âm thanh của từ ngữ+hình ảnh của từ ngữ, toàn bộ như một ký hiệu. Ký hiệu có thể là một từ ngữ, một cụm từ, một câu, một đoạn, một tác phẩm v..v.. Và nhìn nó trong một toàn thể, liên quan hổ tương với các ký hiệu khác; kể cả những ký hiệu đã thuộc về quá khứ hay lịch sử nhưng có liên hệ với ký hiệu đang phân tích. Ví dụ: 

" Chân dài" là một ký hiệu gồm có: chân dài + phần nhị chi bên dưới thân thể, dùng để đi, có kích thức dài hơn mức trung bình + hình ảnh đôi chân dài.

"Chân dài" ám chỉ sự thẩm mỹ của đôi chân cao, tạo ra dáng đi uyển chuyển, thướt tha.

Trước đây, "chân dài" ám chỉ trường túc bất chi lao. Đàn ông thường yêu thích chân dài. mặc dù mức độ lao động chưa chắc đã hơn chân ngắn.

Hình như sau biến cố 1975 vào thập niên 1990, từ ngữ "chân dài' nở rộ trên báo chí, truyền thông và trong giao tế xã hội. Lần này "chân dài" ám chỉ các thiếu nữ đẹp, cho dù nhiều cô có chân dài nhưng nhan sắc trung bình.

Đưa ký hiệu này vào kỹ thuật phân tích với những ký hiệu nguyên nhân và ký hiệu liên đới theo thời gian và lịch sử: 

Từ "chân dài" có gốc rễ từ những thế hệ trước ở miền bắc. Trong giai đoạn 1954-1975, vì dinh dưỡng chưa đúng mức nên đa số thiếu nữ, phụ nữ khó phát triển chiều cao. Nói một cách khác, đa số là chân ngắn. Rồi đi bộ, chạy giặc, 'vượt Trường Sơn', khiến chân ngắn thành chân to. Nhan sắc đẹp xấu do sinh ra mà có. Tu bổ, cắt xén, xây dựng công trình thẫm mỹ trên dung nhan hoặc bất cứ vòng nào trên thân thể, đều có thể thực hiện. Nhưng chân ngắn và cục mịch thì chịu. Ước mơ một đôi chân dài cho người cao lên là ước mơ ám ảnh giới nữ thời đó. Sau chiến tranh, đến thời mở cửa, chế độ ăn uống từ thiếu thốn, lên trung bình và trong nhiều trường hợp trở thành quá độ. Có đủ dinh dưỡng, thế hệ sau, đẹp hơn, cao hơn và dĩ nhiên chân dài hơn. Chân cao, người thon, đi đứng 'yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu', chẳng mấy chốc trở thánh 'háo cầu'. Từ "chân dài" trở thành biểu tượng cho người đẹp. Dần dà biểu tượng phát triển đại diện cho mỹ nữ cao ráo và sexy.

Lý thuyết căn bản Ký Hiệu Học của Charles Peirce:

Lý thuyết của ông xây dựng và khai triển qua ba thời kỳ: Thời bắt đầu từ thập niên 1860; Trở thành khá hoàn chỉnh, trong thời gian 1980-1990; Từ năm 1903 lý thuyết học của ông trở nên phức tạp và phát triển mạnh giữa năm 1906-1910. Ông vẫn tiếp tục khai phá và tranh cãi với những lý thuyết mới cho đến ngày qua đời, năm 1914. 

Ông viết:" Tôi định nghĩa một ký hiệu là bất cứ một thứ gì được xác định bởi một thứ khác, gọi là Đối-Tượng (Object). Và được xác định có hiệu dụng đối với một người. Tôi gọi hiệu quả này là Interpretant (giải thích ý nghĩa.)....[...].." (5) Định nghĩa này đưa ra cấu trúc căn bản của ký hiệu. Một ký hiệu gồm có ba phần. Phần cụ thể của ký hiệu, gọi là 'cái biểu hiện' (signifier); Phần ý nghĩa của nó, gọi là Đối Tượng (Object); Phần thứ ba, gọi là interpretant, tạm gọi là Nghĩa Giải Mã.

Phần Ký Hiệu và Đối Tượng sinh hoạt tương quan với nhau. Trong khi Nghĩa Giải Mã trở thành nội dung thật sự, rộng và sâu hơn ý nghĩa của ký hiệu.

· Ký Hiệu cụ thể không hoàn toàn đại diện hết những ý nghĩa mà ký hiệu cưu mang. Không hoàn toàn biểu hiện được Đối Tượng. Ví dụ như ký hiệu "bông hoa", đại diện một thực thể có cánh, có nhụy, có hương thơm; nở ra từ cây. Nhưng không thể diễn tả hết đối tượng vì bông hoa cưu mang nhiều khía cạnh khác như màu sắc, hình dáng, tên gọi......

· Đối Tượng cũng bị giới hạn. Vai trò của Đối Tượng là xác nhận ký hiệu, nhưng là một xác nhận mở, tức là chưa hoàn tất. Ví dụ, khi ý nghĩa về cái hoa xác định ký hiệu cụ thể " bông hoa" nhưng bông hoa còn ám chỉ phụ nữ, nghệ thuật, thẩm mỹ.....

· Nghĩa Giải Mã (Interpretant) chính là mấu chốt trong cấu trúc ký hiệu. Có thể giải thích qua hai điểm: Thứ nhất, Interpretant là sự hiểu biết của chúng ta về sự tương quan giữa ký hiệu và đối tượng. Thông thường mang nhiều ý nghĩa hơn ký hiệu cụ thể. Thứ hai, Ký hiệu xác định Nghĩa giải mã như địa chỉ xác định căn nhà. Ký hiệu có thể gây ra cảm xúc nhưng chính yếu là đối diện với tri thức. Ví dụ, thấy khói bốc mù mịt, chúng ta sẽ nghĩ đến lửa cháy. Khói là ký hiệu tiêu biểu lửa. Lửa là đối tượng xác định khói. Chúng ta có thể cảm thấy sợ nhưng quan trọng chính là lửa: thiêu hủy, tàn phá, giết người....

Những ý tưởng về cấu trúc trong ký hiệu vừa trình bày trên đã xuất hiện trong "On A New List of Categories", 1867. Ông cho rằng sự tiêu biểu và tượng trưng của ký hiệu phát sinh ý nghĩa giải mã sâu xa hơn trong ba cách thức:
· Thứ nhất, phát sinh từ cộng đồng, xã hội do họ đồng ý với nhau về sự đại diện của ký hiệu, gọi là Icons (Ký hiệu tiêu biểu.) Một loại ký hiệu đại diện, trên cơ bản là giống hoặc bắt chước 'cái được biểu hiện'. Ví dụ, chân dung, ca khúc, phim ảnh... Nói một cách khác là ký hiệu được thấy, nghe, ngửi, nếm và sờ...
· Thứ hai, phát sinh từ mối tương quan với đối tượng, có sự tương xứng với nhau, gọi là Index, (Ký hiệu biểu thị). Một loại ký hiệu đại diện được kết nối trực tiếp với 'cái được biểu hiện' bằng một cách nào đó, qua vật lý hoặc tinh thần. Ví dụ, sấm sét, dấu chân...ung thư, đau răng, nhức đầu....chuông điện thoại, gõ cửa.... đồng hồ, nhiệt kế......
· Thứ ba, phát sinh từ mối tương quan với đối tượng, là một đại diện được xác nhận cưu mang ý nghĩa, gọi là Symbol (Ký hiệu biểu tượng). Một loại ký hiệu đại diện mà không giống 'cái được biểu hiện'. Về cơ bản, mối liên hệ giữ biểu hiện và được biểu hiện phải được sự công nhận hoặc phải được học tập. Ví dụ, cờ xí, ngôn ngữ, mã số, đèn giao thông, bảng hiệu đi đường... Ví dụ:

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng
(Ông Phổng Đá. Nguyễn Khuyến)

Quan niệm ba loại ký hiệu này về sau có sự thay đổi trong lý thuyết mở rộng của ông nhưng căn bản vẫn tương tựa. 

Từ năm 1903, khi ông đang dạy tại đại học Harvard và tại The Lowell Institute, đã đưa ra những thay đổi và khai triển những quan niệm ban đầu trong lý thuyết ký hiệu của ông. 
· Phương Tiện Truyền Đạt Ký Hiệu (Sign-Vehicles), Peirce cho rằng trung tâm truyền đạt ký hiệu chia ra ba khu vực lớn và ký hiệu có thể phân loại theo sự phù hợp. Sự phân chia tùy thuộc vào sự biểu hiện phẩm chất, biểu hiện sự thật hiện diện, hoặc do công ước và luật lệ. Gọi là Qualisgn (ký hiệu phẩm chất), Sinsign (ký hiệu hiện thực, ví dụ như có khói là có lửa), và Legisign (ký hiệu quy ước).
· Về phần Đối Tượng (Object), ông cho rằng có hai loại: 
Đối Tượng Năng Động (Dynamic Object): Đối tượng phát sinh ra một dãy ký hiệu khác, giải thích và bổ nghĩa cho đối tượng. Có thể coi như là Đối Tượng có hệ thống ký hiệu. Ví dụ, " Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ", sẽ có rất nhiều ký hiệu khác sắp thành hệ thống để tiến gần ý nghĩa Tình mười năm đã cũ hay còn mới

Đối Tượng Trực Tiếp ( Immediate Object): Đúng như ý nghĩa "trực tiếp", đối tượng được hiểu rõ ràng ngay sau khi ký hiệu đại diện xuất hiện. Ngược lại, đối tượng xác định ý nghĩa của ký hiệu ngay lập tức.

· Về Nghĩa Giải Mã (Interpretant), chia làm ba loại: Nghĩa Giải Mã Năng Động (Dynamic Interpretant); Nghĩa Giải Mã Trực Tiếp (Immediate Interpretant); và Nghĩa Giải Mã Sau Cùng (Final Interpretant).
· Những thay đổi khác, đa số, thuộc về kỹ thuật. Qua những tương quan giữa ký hiệu, đối tượng và giải mã, ông phân chia thành 10 loại ký hiệu. Những chi tiết này sẽ làm cho công việc phân tích ký hiệu thêm phần rõ rệt hơn.

Có lẽ một trong những quan điểm về sự nhận biết ý tưởng đã được ông phân tích trong bài viết How To Make Our Ideas Clear, 1878, trở thành căn bản để phân tích ý nghĩ, ý tưởng một cách rõ ràng.
Ông cho rằng có ba tầng lớp của sự hiểu-biết-rõ-ràng: Thứ nhất, phải nắm bắt một số những ý niệm trong kinh ngiệm đời sống hàng ngày. Tiếp theo, dùng khả năng cung ứng một định nghĩa chung cho khái niệm hoặc điều đang tìm hiểu và sau cùng sử dụng phương thức Pragmatic Maxim của Peirce.

Ông giải thích rõ hơn, trong tầng lớp đầu tiên, thông thường người đọc đã quen thuộc với ký hiệu, tức là chữ nghĩa, nên ký hiệu được giải thích theo thói quen và kinh nghiệm của mỗi độc giả. Tức là sử dụng Giải Mã Năng Động (Dynamic Interpretant). Tầng thứ hai dùng cho các nhà luận lý phân tích, tức là sử dụng Giải Mã Trực Tiếp (Immediate Interpretant). Tầng thứ ba, gọi là Phân Tích Thực Dụng (Pragmatic Analysis), để đi đến giải mã sau cùng. Đối với ông, Giải Mã Sau Cùng là quan trọng nhất vì nó mang lại ý nghĩa thực sự của ký hiệu. 

Trong giai đoạn cuối cùng, Peirce khai mở lãnh vực triết học của ký hiệu. Cũng từ góc cạnh này mà Ký Hiệu Học bước sang những lãnh vực rộng lớn hơn.
Ký Hiệu Học chia làm hai loại:
- Ký Hiệu Học Thông Đạt ( Semiotics Communication.). Lý thuyết về sản phẩm của ký hiệu: Người/máy gửi, người/máy nhận, thông điệp, email, truyền thông....Có thể nói Thông đạt chính là mục tiêu của Ký Hiệu Học.
- Ký Hiệu Học Biểu Hiện ( Semiotics Signification,) được xem là quan trọng hơn vì nó nghiên cứu diễn trình nhận thức, kinh nghiệm của người nhận. Áp dụng vào thi ca, kịch nghệ, văn xuôi...và có tương lai mở rộng.

Ký Hiệu Học liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ học, chi tiết hơn về kỹ thuật và cụ thể hơn khi khám nghiệm văn bản. Ký Hiệu Học nghiên cứu về cấu trúc và ý nghĩa của từ ngữ và câu cú. Ký hiệu, dấu hiệu và biểu hiệu là những phần tử quan yếu của thông đạt, là đối tượng của Ký Hiệu Học. Ngoài ra Ký Hiệu Học còn mở rộng phạm vi tìm hiểu đến những sinh hoạt thông tri ngoài ký hiệu. 

Ký Hiệu Học chia làm ba nhánh:
- Ngữ Nghĩa Học (Semantics): Sự tương quan giữa các ký hiệu và những đối tượng nghiên cứu. Charles Morris (1901-1979) đã mở rộng lãnh vực đối tượng của Ngữ Nghĩa Học, vào sự hổ tương giữa 'chữ/điều/sự-vật biểu-hiện' (Signifier) và 'chữ/điều/sự-vật được-biểu-hiện' (Signified). Quan niệm về 'Biểu-hiện' và 'Được-biểu-hiện' được đề cập chi tiết trong Course in General Linguistics, 1916, là những bài giảng dạy của Saussure do các môn đệ của ông ấn hành sau khi ông qua đời.

Ví dụ:
Đèn đỏ nơi ngã tư
ký hiệu biểu hiện 
báo hiệu cho 
người được biểu hiện
biết dừng lại.

- Cú Pháp Học (Syntactics): Sự tương quan giữa ký hiệu trong cấu trúc tiểu khúc hay toàn phần. Chính xác hơn: Phân tích những đặc tính của ký hiệu và biểu hiệu một cách tỉ mỉ trong những qui luật thành văn hoặc bất thành văn đã chi phối các cụm từ và các câu cú như thế nào. Sự kết hợp, bổ túc, giải thích, hổ tương và cách thức xây dựng ngôn từ và câu cú ra sao. 

- Thực Liệu Học (Pragmatics): Sự tương quan giữa ký hiệu và chủ thể sử dụng hoặc diễn đạt ký hiệu. Thực Liệu Học nghiên cứu các khía cạnh sinh học trong diễn trình của ký hiệu qua những hoạt động tâm lý, sinh học, và xã hội. 

Ký Hiệu Học đi sâu vào nhiều lãnh vực. Là một bộ môn nghiên cứu chuyên ngành và sâu, nên chia ra nhiều bộ chuyên môn:

- Ký Hiệu Học Phân Tích (Analytic Semiotics): Chuyên giãi mã hệ thống ký hiệu.
- Ký Hiệu Học Diễn Tả (Description Semiotics): Hệ thống ký hiệu là một thực tại để nghiên cứu.
- Ký Hiệu Học Ngoại Vi (Zoo Semiotics): Chuyên nghiên cứu về những hệ thống ký hiệu không liên quan đến con người.
- Ký Hiệu Học Văn Hóa (Cultural Semiotics): Chuyên về hệ thống ký hiệu của văn hóa.
- Ký Hiệu Học Xã Hội ( Social Semiotics): Chuyên hệ thống ký hiệu của xã hội.
- Ký Hiệu Học Truyền Thuyết (Narrative Semiotics): Chuyên về hệ thống ký hiệu qua chuyện thần thoại, sự tích, chuyện dân gian.
- Ký Hiệu Học Thiên Nhiên (Natural Semiotics): Chuyên về hệ thống ký hiệu trong thiên nhiên.
- Ký Hiệu Học Tiêu Chuẩn (Normative Semiotics): Chuyên về hệ thống ký hiện của nhân sinh.
- Ký Hiệu Học Cấu Trúc (Structural Semiotics): Chuyên nghiên cứu về hệ thống ký hiệu qua cấu trúc của ngôn ngữ.

Tác phẩm văn chương là những văn bản dày đặc những 'điều ám chỉ' mà tác giả vô thức hoặc cố ý gài qua những ký hiệu từ ngữ. Để giải mã toàn vẹn một tác phẩm, chắc chắn không thể chỉ bằng ký hiệu, tuy nhiên tìm hiểu văn bản là bước đầu tiên dễ mang đến hiệu quả vì sự cụ thể, hiện thực của ký hiệu và những phương pháp phân tích dựa trên khoa học. 

Tiểu thuyết, bài thơ hoặc truyện ngắn trình bày cho người đọc bằng những ký hiệu , ngay lập tức mang đến hiểu biết, cảm xúc, phẩm chất, ngữ cảnh.. âm thầm tràn ngập diễn giảng trong tâm trí trong một khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu ai muốn phân tích và giải mã một tác phẩm nghệ thuật, buộc lòng phải đi sâu mở rộng, bắt đầu bằng bản thể của ký hiệu đại diện. Phân chia thành chi tiết, tìm những yếu tố hiện tượng đóng vai trò chủ yếu trong tác phẩm, kiểu hiện tượng luận, nhưng sẽ được giải mã ý nghĩa và ám chỉ. Kinh nghiệm thẩm mỹ sẽ trở thành đối tượng của suy nghĩ, giải thích và phê phán. Trong thế giới văn chương nghệ thuật, 'cái ám chỉ' sẽ trở thành 'ký hiệu đại diện', lăm le mang thêm nhiều ý nghĩa và ám chỉ thêm nhiều khía cạnh khác. Nếu 'cái ám chỉ' cứ tiếp tục phát triển chiều rộng chiều sâu, có khi đi quá xa đối với ý của tác giả. Gia đoạn này, ký hiệu học gặp gỡ thuyết Độc Giả Cảm Ứng (Readers-response Criticism). Để chận đứng sự lan rộng của 'cái ám chỉ', Charles Peirce đã sử dụng phương pháp Phân Tích Thực Dụng để tiến sát ý nghĩa sau cùng của 'cái ám chỉ' một cách rõ ràng hơn.

Trong thực tế có những ký hiệu không bao giờ có thể giải mã tận cùng như ký hiệu: Thượng Đế, luân hồi, tự do, ...v...v...
Về sau 'cái ám chỉ' bị chỉ trích và bị tấn công bởi học thuyết Giải Cấu Trúc của Jacques Derrida (1930-2004)

(Còn tiếp: Phần ba, Ký Hiệu Giải Tích......)

=====================================
GHI:
.(3) Phục Sinh
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông
giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu
tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng bên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm
tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang
tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh
từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết
người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh
tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi
tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành
trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật.

(4) Ryan, Michael (2011). The Encyclopedia of Literary and Cultural Theory. Hoboken, NJ, USA: Wiley-Blackwell. 
(5) Stanford Encyclopedia of Phylosophy. Peirce's Theory of Signs, 2010.

Ngu Yên

Tài Liệu Tham Khảo Chung:
Ahmadpour, Kamran. Developing a Framework for Understanding Information Literacy in the 21st Century: A Review of Literature. 2014. http://faculty.uoit.ca/kay/files/capstones/Ahmadpour_%202014_FrameworkInformationLiteracy_Final.pdf

Chandler, Daniel. Semiotics for Beginners, http://visual-memory.co.uk/daniel/Documents/S4B/

Hermawan, Andri. A Semiotic Analysis on Kim Addonizio's Poems Based on C.S. Peirce's Theory. 2010. 

Culler, Jonathan. Theory and Criticism after Structuralism. Cornell University Press, Ithaca, New York, 1982.

Ellis, John M. Against Deconstruction. Princeton University Press, Princeton , New Jersey,1989.

Hoopes, James. Peirce on Signs. The University of North Carolina Press, 1991.

Juan, Jr. E. San. In Lieu of Saussure: A prologue to Charles Sanders Peirce's Theory of Signs. http://clogic.eserver.org/2012/SanJuan.pdf.

Langendoen, D. Terence. Review: Linguistics at the Begining of the 21st Century. Reviewed work(s): The Handbook of Linguistics by Mark Aronoff: Janie Rees- Miller. Source: Journal of Linguistics, Vol. 38. Nov. 3 (nov., 2002) pp. 627-643. Cambridge University Press.

Leitch, Vincent B. Literary Criticism in the 21st Century. Bloomsbury, NewYork, USA, 2014.

Marmaridou, Sophia and Kiki Nikiforidou and Eleni Antonopoulou. Trends in Linguidtics. Reviewing Linguistic Thought. Converging trends for the 21st Century. Mouton de Gruyter, Division of Walter de Gruyter GmbH & Co. KG, Berlin. 2005

Peirce, Charles Sanders. Writings on Semiotic, First Edidition. University of North Carolina Press, Chapel Hill and London. 1991.

Saussure, Ferdinant and Roy Harris. Course in General Linguistics. Open Court, Chicago and La Salle, Illinois, 1998.

Scholes, Robert. An Introduction Structuralism In Literature. New Haven and London, Yale University Press, 1974.

Stanford Encyclopedia of Philosophy. Peirce's Theory of Signs. Published 2006, revised 2010.