Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Họp Mặt Cựu Giáo Sinh SPVL lớp 6 Khoá 8 lần thứ 19

Như thường lệ, sau ngày 20 tháng 11, lớp chúng tôi đều có buổi họp mặt. Năm nay, buổi gặp gỡ được tổ chức tại nhà Trần Văn Lượm huyện Chợ Mới An Giang. Do sức khoẻ chưa bình phục, tôi không thể tham dự buổi họp mặt lần thứ 19. 
Từ sáng sớm, Các Bạn ở các tỉnh đã khởi hành. Đến hơn 10 giờ, tất cả có mặt đông đủ.
Duyên đã chu đáo, lưu lại những tấm ảnh kỷ niệm này.

Vợ Chồng Lượm

Trước nhà Lượm: Vợ chồng Lượm đứng trước
Hàng phía sau: Phỉ, Sương, Thơ, Chí Thanh, Đào, Điệp, Lài, Cúc Duyên. 

Hàng Nữ trên cùng: như ảnh trên
Hàng giữa: Tài (Bến Tre), Xuân, Vinh, Khai, Anh Hồng, Xiềm, Khải
Hàng ngồi: Hưng, Huệ, vợ chồng Lượm.
 Từ trái sang phải: Khai, Khải, Tài(đứng), Điệp, Huệ, Lài.
Đứng: Thơ và Tài 
Ngồi: Chí Thanh, Sương, Đào.
 Vinh, Tài, Hồng, Xiềm, Lượm.
 Cúc, Chánh, Hưng, Tài Xế.
 Thơ, Phỉ, Chí Thanh, Sương, Đào.
 Xuân, Cúc, Chánh, Huệ, Vinh.
Đào thay mặt các bạn trao quà kỷ niệm cho vợ chồng Lượm.
Từ trái sang phải:
Đứng: Xiềm, Vinh, vợ Lượm, Khai, Huệ, Lượm, Khải, Xuân, Chánh, Hưng, Hồng, Tài.
Ngồi: Duyên, Thanh, Cúc, Lài, Đào, Điệp, Thơ, Phỉ, Sương.

Buổi Họp Lớp kết thúc vào lúc 13 giờ cùng ngày trong niềm vui và quyến luyến của mọi người.
Tất cả cùng hẹn gặp lại vào lần họp mặt năm sau 2016 tại nhà Phan Văn Huệ huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre.

Hình ảnh: Vương Kim Duyên
Lời bình: Huỳnh Hữu Đức

Xích Bích - Đỗ Mục


           Một trong những bài Thất ngôn Tứ tuyệt của nhà thơ Đỗ Mục được người Việt Nam ta biết đến nhiều nhất, đó là bài Xích Bích  ( Còn có tựa là Xích Bích Hoài Cổ ). Mời tất cả cùng đọc bài thơ nầy dưới đây :
           赤壁                          Xích Bích
   折戟沉沙鐵未銷,   Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
   自將磨洗認前朝。   Tự tương ma tẩy nhận tiền triều. 
   東風不与周郎便,   Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
   銅雀春深鎖二喬。   Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều ! 
                     杜牧                                        Đỗ Mục
CHÚ THÍCH:
     XÍCH BÍCH : Trận chiến xảy ra ở tháng 10 năm Kiến An 13 đời Hán Hiến Đế  ( 208 sau Công Nguyên ). Đây là trận chiến quan trọng để hình thành thế Tam Quốc. Kết thúc với liên quân
Lưu Bị và Tôn Quyền đánh bại 80 vạn quân của Tào Tháo. Nhân vật nổi trội nhất của trận chiến này là vị Đô Đốc 34 tuổi văn võ song toàn, tài hoa rất mực của xứ Đông Ngô là CHU DU (còn được gọi là Châu Do ).
     TIÊU : là Hao mòn, Rỉ sét.
     ĐÔNG PHONG:  Gió Đông, ngọn gió chướng của tháng 10 đã giúp cho Chu Du dùng thế hỏa công đốt tiêu và đánh tan 80 vạn quân của Tào Tháo.
     CHU LANG: là Chàng Chu, tức Chu Du, Chu Công Cẩn, Đô Đốc thống lĩnh tam quân thủy bộ của Đông Ngô. Người đã đánh tan 80 vạn quân Tào Tháo trên sông Xích Bích.
      Ngoài tài cầm binh và thao lược, Chu Du còn là một Nghệ sĩ tài hoa lỗi lạc, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhất là về đàn tranh.
     ĐỒNG TƯỚC: là Đồng Tước Đài, là Đền Đồng Tước, do Tào Tháo xây dựng nên để thị uy và để hưởng lạc.  
      NHỊ KIỀU: Tức là 2 nàng KIỀU, Đại Kiều là vợ của Tôn Sách  ( anh của Tôn Quyền, người dựng nên nước Đông Ngô ), Tiểu Kiều là vợ của Chu Du.

NGHĨA BÀI THƠ:
           Ngọn giáo gãy vùi chìm trong cát, nhưng sắt vẫn không bị hao mòn rỉ sét. Ta đem nó rột rửa sach sẽ vẫn còn nhận được là đồ của triều đại trước. Ôi, nếu như gió đông không làm phương tiện cho Chu Du đánh thắng trận, thì đền Đồng Tước của Tào Tháo đã khóa xuân hai nàng Kiều của Giang Đông mất rồi ! 
           Đây là một bài thơ Vịnh Sử với một thủ pháp rất đặc biệt. Hai câu mở đầu xem như tầm thường, nhưng lại đầy cảm khái, ngọn kích gãy của hơn sáu trăm năm trước mặc dù đã chìm xuống đáy sông, đã chôn sâu trong cát, là vật của tiền triều, nay vẫn còn đây. Vật vô tri của chiến tích vẫn còn sờ sờ đó, mà người xưa, kẻ chiến bại cũng như người chiến thắng, nay đã còn đâu ?  
           Hai câu kết của bài thơ là 2 câu được mọi người nhắc nhở nhiều nhất. Đây là 2 câu được Đỗ Mục dùng thủ pháp giả thiết phản biện. Ai cũng biết Chu Du hỏa thiêu Xích Bích thắng được trận là nhờ vào gió đông. Đỗ Mục lại bảo rằng : Nếu gió đông không tạo điều kiện cho Chu Du thắng trận, thì Tào Tháo sẽ thắng trận và 2 nàng Kiều sẽ bị khóa xuân trong đền Đồng Tước để mua vui cho Tào Tháo trong tuổi già.
          Cụ Nguyễn Du của ta cũng mượn vẻ đẹp tuyệt sắc của Nhị Kiều xứ Giang Đông để cho người đọc hình dung vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều Thuý Vân bằng câu :
                  Trộm nghe thơm nức hương lân,
                  Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
Diễn Nôm:
Xích Bích 
Kích gãy chìm sông sắt chửa tiêu,
Nhận ra quả vật của tiên triều,
Đông phong chẳng giúp Chu Du thắng,
Đồng Tước khóa xuân cả nhị Kiều !
  Lục bát:
Kích chìm sắt vẫn chưa tiêu,
Nhận ra vật của tiên triều bao thu.
Gió đông chẳng giúp chàng Chu,
Thì đền Đồng Tước ngàn thu khóa Kiều!
Đỗ Chiêu Đức
***
Các Bài Thơ Dịch Khác:
    Xích Bích 
Giáo vùi trong cát sắt không hao
Vũ khí triều xưa nhắc thuở nào...
Ví thử gió đông không thổi đến
Thì Đồng Tước mãi khoá hai Kiều
Phương Hà 
***
Xích Bích 
Dưới bùn gươm gẫy sắt còn kia
Mài rửa tìm ra dấu vết xưa
Gió Đông chẳng giúp chàng Chu thắng
Hai Kiều e nhốt dưới đài rêu
Chân Diện Mục
***
1) Hỏa Công Xích Bích
Hỏa công Xích Bích gảy gươm hàng,
Cát lấp sóng vùi giáo kích ngang.
Tháo chạy đông phong, Du chiến thắng,
Nhị Kiều, Đồng Tước cách quan san...

2) Trận Xích Bích
Cát vùi lưỡi giáo vẫn nằm đây,
Cổ vật còn lưu dấu thế này.
Đắc kế gió đông, Chu tướng thắng,
Nhị Kiều, Đồng Tước, chuyện xưa nay...
Mai Xuân Thanh
***
Xích Bích
1/
Kích gẫy cát vùi sắt chẳng tiêu
Cạo ra còn dấu của tiền triều
Gió đông nếu phụ Chu Công Cẩn
Đổng Tước đài xuân ắt giữ Kiều.

2/
Giáo chìm đáy cát chưa tiêu
Rửa mài thấy dấu tiên triều chưa lu
Gió đông nếu chẳng chiều Du
Đài xuân Đổng Tước sẽ lưu hai Kiều.
Quên Đi

Cái Thú Đờn Ca



Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, người ta thấy xuất hiện ở Nam Bộ nhiều nhóm tài tử đờn ca. Những tổ chức này ngày càng phát triển và thành Hội cầm ca. Dần dà từ chỗ đờn ca bình thường đến ca ra bộ. Nghĩa là từ chỗ ngồi hát hay ngâm thơ, nhưng vì hứng với nội dung lời ca, người ta đứng dậy vừa ca, vừa ra bộ. Người nghe thích ca ra bộ hơn là ngồi hát. 

Ban nhạc tài tử Tư Triều trình diễn ở Mỹ Tho vào đầu thập niên 1910 đã thu hút rất đông khách hâm mộ cầm ca. Trong số đó có ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long (tên thật là Tống Hữu Định, từng làm phó tổng đất Vĩnh Long, một tay công tử ăn chơi nổi tiếng thuở đó). Nghe cô Ba Đắc ca bài Tứ đại oán, ô ng nảy ra ý kiến: Người ca đứng trên ván có ra bộ phát sinh từ đó, đâu vào khoảng năm 1915-1916 gì đó.

Đây là hình ảnh của một cô đào ca ra bộ (được Vương Hồng Sển mô tả trong cuốn 50 năm mê hát): cô đào đứng cứng đơ một chỗ, khi ca hát đưa hết tay này đến tay kia ngang ngực như có lò xo thúc đẩy, bộ tịch thì cứng còng, hoặc cô ngồi không cục cựa, nhúc nhích trên bộ ván và tay cũng làm điệu bộ như vậy. Thuở ấy, kiểu ca ra bộ như vậy cũng đủ làm mê mệt bao người.

Trong bài báo nhan đề: Người cha sanh điệu cải lương là ai?, Nguyễn Văn Hanh đã viết báo Nhân Quý, số ra ngày 15-8-1948, xin trích nguyên văn:
“Trong đời ông Tống Hữu Định (thầy phó Mười Hai ở Vĩnh Long) ông đã ăn xài một số tiền lối 500 ngàn đồng (ông đã qua đời có trên mười lăm năm nay). Ông Tống Hữu Định có nhiều bạn khách ăn uống trong nhà, bạn văn thi và bạn âm nhạc, Hết hòa thi lại hòa đờn. Trong tiệc rượu, anh em mà nhất là cô Ba Định, ông quản Phúc (Sở Bách phần) bày ra lối dâng rượu hào ngâm với đờn: Hai tay bưng chén rượu đào. Miệng mời quân tử uống vào cho vui. Rồi tiếp theo điệu tứ đại oán bằng bài “Bùi kiệm”, hòa nhịp với đờn, có điệu bộ:

Kiệm từ khi thi rớt trở về
Bùi ông mắng nhiếc nhún trề
Quở trách chàng sao ham bề vui chơi
Kiệm thưa: Tài bất thắng thời,

Cái lối chơi này liền tràn ở các tiệc tùng và cuộc vui chơi ở Vĩnh Long, sau khi xuất hiện ở nhà ông Tống Hữu Định”.

Trong bộ sách khảo cứu bằng tiếng Pháp của ông Trần Văn Khê La musique Vietnamienne traditionelle – Les Presses Universitaires de France, 1962, Vương Hồng Sển tra cứu trang 90 về nguôn gốc cải lương, tác giả viết “cô Ba Định ca bài “tứ đại oán”, “Bùi Kiệm thi rớt” tại nhà thầy Phó Mười Hai ở Vũng Liêm vào năm 1918”. Tài liệu này tác giả trích lục báo Pháp La Dépêche d’Indochine số 2739 ngày 21-9-1937. Tác giả bài báo này là của ông Nguyễn Văn Hanh. Theo ông Hanh, lần thứ nhất diễn tuồng hát cải lương tại nhà thầy Phó Mười Hai (Vũng Liêm) là ngày 15-11-1918, tiếp đó đi diễn ở Sa Đéc và Vũng Liêm.


Một người khác, theo ông Vương Hồng Sển, cùng lúc tại Vĩnh Long có ông Quờn (hay Hườn) biết chữ Hán nhiều, làm việc ở tòa án. Ông có sở trường đạt lời ca, thịnh hành nhất là bài tứ đại oán, thanh âm đúng điệu, lựa chữ ăn đờn. Ông có ý định sáng chế ra cây đờn kìm sai kêu hơn cây đờn kìm hiện có. Tiếc thay cây đờn ông sáng chế quá kềnh càng, nên không ai dùng.

Cũng Vĩnh Long, thuở ấy ông Phạm Đăng Đàng, là một thầy đờn kỳ cựu. Nhạc cụ của ông là cây đờn độc quyền (đờn bầu). Ông gốc gác ở miền Trung vào cư ngụ tại Càng Long. Sinh được 2 người con trai, ông lấy tên quê hương thứ hai đặt tên con. Một người tên là Càng, một người tên là Long. Một bài ca tứ đại điển hình, đánh dấu bước đầu nghề đờn ca tài tử của ông. Bài Tứ đại này có in trong bộ Thập tài tử xuất bản ngày 15-6-1915 tại nhà in L’union, Sài Gòn. Đây là một trong những tài liệu quý về nguồn gốc nghệ thuật cải lương, bắt đầu từ những bài va sáng tác tại đất Vĩnh Long.

Trần Thanh Phương
Tống Ngọc Nhan sưu tầm

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Tạ Ơn


Tri ân thiên địa tạ ơn đời,
Và cả thế nhân ở mọi nơi,
Đã chúc thân tôi luôn khỏe mạnh
Còn cầu nhà tớ thật vui tươi,
Với tình yêu mến xin nương vận
Cùng ý thân thương tạm mượn lời,
Kính chúc bà con ngày lễ nghỉ
Ngập tràn hạnh phúc xuống từ trời.

Thái Huy
***
Lễ Tạ Ơn

Chiều nay bỗng thấy phút yêu đời 
Lễ Tạ Ơn về rộn khắp nơi 
Đất khách bình an trời nắng đẹp 
Lòng người thắm thiết nụ cười tươi 
Tình nầy rộng mở không suy tính 
Ân ấy sâu xa khó thốt lời 
Nâng chén vui buồn cho thế giới 
Không quên mọi sự cũng do Trời 

Mailoc
11-25-15
***
Cám Ơn Đời Cám Ơn Người

Cảm tạ ơn người,cảm tạ đời
Đã cho cuộc sống đẹp muôn nơi
An vui thế giới và no ấm
Hạnh phúc trần gian lắm đẹp tươi
Cha Mẹ ân sâu nuôi dưỡng dục
Thầy cô nghĩa nặng dạy từng lời
Thaksgiving nầy xin ghi tac
Cảm tạ ơn người,cảm tạ Trời

Song Quang
***
Tạ Ơn Đời

Lễ lớn hàng năm cảm tạ đời
Tri ân Tạo Hoá ở muôn nơi
Đủ đầy cơm áo - ngày no ấm
Trọn vẹn niềm tin - trí sáng tươi
Sum họp gia đình luôn thoả nguyện
Giao lưu bạn hữu mãi chung lời
Trăm năm cõi thế lòng thanh thản
Khắc dạ ơn sâu của đất trời.

Phương Hà
***
Cám ơn quý Tỷ Huynh Vườn Thơ Thẩn

Hỏi chi đã được trả cho đời
Hay rặt vô tri rồi tránh nơi…
Xin nhận dùm đây tình ý thật
Xin cầm giúp đệ cánh hoa tươi
Gói nguyên trìu mến thay muôn việc
Ghi trọn cảm thương thế vạn lời
Kính chúc tỷ huynh ngày lễ nghỉ
Dồi dào sức khỏe,vượng ơn trời.

Thái Huy
11-26-15


Thanksgiving

Mượn bài viết này gửi đến thân hữu gần xa nhân ngày Thanksgiving sắp đến .
Cám ơn bạn vàng Hân Vu đã chia sẻ.


Tạ ơn Chúa _ hôm nay ta còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được i-meo
Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu 
Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả!

Tạ ơn Thân hữu gần xa
Hàng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều 
I-meo nhận được bao nhiêu
Là bao tình cảm thương yêu chan hòa!


THANKSGIVING

T -  is for being Thankful for so many things in our life.
H - is for the Happy thoughts that carry us through each day.
A - is for living in the United States of America with all the freedoms that we have.
N - is for the New and old friends that we are fortunate to have.
K - is for the Kindness that we do to one another.
S-   is for the Suffering and unpleasant things which strengthen us in the spiritual life.
G - is for the Great family and relatives whom we were fortunate to have had in our life.
I -   is for the Interesting lessons that we have learned throughout the year.
V -  is for the Voice that we have used to spread the words of God.
I -   is for the Ideals that we were taught when we were growing up and that we still have today.
N -  is for the New knowledge that we gain each day.
G -  is for the Goodness that we find in the people whom we meet.


THANKSGIVING

T ...Tạ ơn mọi sự trên đời
H .. Hạnh thông phúc lộc đầy vơi mỗi ngày
A ...An cư Mỹ quốc vui thay
N ...Người tuy tứ xứ nhưng đầy thân quen
K ...Khoáng tâm, tử tế chẳng quên
S ... Sa cơ, thất bại... cũng nên vững lòng
G ...Gia đình, thân quyến vui đông
I ...  Ít nhiều cũng học, gắng công nên người
V ...Vãi gieo Lời Chúa mọi nơi
I ... In sâu tâm khảm, sáng ngời Thiện Chân
N ...Nhận thêm kiến thức xa gần
G ...Giữa nơi thiên hạ muôn vàn quý hay!

Trần Ngọc sưu tầm

Thanks Giving - Lễ Tạ Ơn Lịch Sử Và Truyền Thống

Lễ Tạ ơn (tiếng Anh: Thanksgiving) là một ngày lễ hàng năm được tổ chức chủ yếu tại Hoa Kỳ và Canada. 
Có ý nghĩa lúc đầu là mừng thu hoạch được mùa và tạ ơn Thiên Chúa đã cho sống no đủ và an lành. Đây cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, cho tất cả người lao động theo luật định tại Mỹ và Canada. 

Ngày và nơi diễn ra lễ Tạ ơn đầu tiên là chủ đề của một cuộc tranh cãi nhỏ. Mặc dù lễ Tạ ơn sớm nhất đã được kiểm chứng diễn ra vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại khu vực ngày nay là Saint Augustine, Florida, nhưng "lễ Tạ ơn đầu tiên" theo truyền thống được coi là đã diễn ra tại khu vực thuộc thuộc địa Plymouth vào năm 1621. 

Ngày nay, tại Hoa Kỳ, lễ Tạ ơn được tổ chức vào ngày thứ Năm lần thứ tư của tháng 11 vì thế ngày này có thể không phải là ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 như nhiều người lầm tưởng (thí dụ năm 2012 có đến 5 ngày thứ năm). Tại Canada, nơi có cuộc thu hoạch sớm hơn, ngày lễ này được tổ chức vào ngày thứ Hai lần thứ hai của tháng 10. 

Lịch Sử 

Lễ Tạ ơn gắn liền với các lễ hội ngày mùa thường được tổ chức ở châu Âu từ xưa. 
Trong truyền thống Anh, ngày tạ ơn và nghi lễ tôn giáo tạ ơn đặc biệt trở nên quan trọng trong quá trình Cải cách Kháng Cách tại Anh trong thời kỳ trị vì của vua Henry VIII. 

Tại Bắc Mỹ, lễ hội này đầu tiên được tổ chức tại Newfoundland bởi Martin Frobisher và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578, để mừng tạ ơn Chúa đã cho sống sót, qua cuộc hành trình dài và nhiều bão tố từ Anh. Một lễ hội khác được tổ chức vào ngày 4 tháng 12 năm 1619 khi 38 người khai hoang từ giáo khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia và tạ ơn Thượng đế.

Tuy nhiên trước đó, cũng có thông tin về một buổi tiệc Tạ ơn tổ chức bởi Francisco Vásquez de Coronado (cùng với nhóm người da đỏ Teya) ngày 23 tháng 5 năm 1541 tại Texas, để ăn mừng việc họ tìm ra lương thực. Một số người cho rằng đây là cuộc tổ chức Tạ ơn thật sự đầu tiên tại Bắc Mỹ. Một sự kiện tương tự xảy ra một phần tư thế kỷ sau, vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại St. Augustine, Florida khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất liền; ông và những người trên thuyền đã tổ chức một buổi tiệc với người bản xứ. 

Sự tích về ngày lễ tạ ơn 


Bức tranh The First Thanksgiving của Jean Leon Gerome Ferris, người da trắng mời người da đỏ cùng ăn 
Vào khoảng thế kỷ 16-17, một số người theo Công giáo và Thanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành. Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh. 

Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hoà nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) sinh sống, và sau này thường được gọi là Người lữ hành (Pilgrims). Những người này đi trên một con thuyền tên là Mayflower, họ đặt chân đến Thuộc địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi đang mùa đông. Đói và lạnh, một nửa trong số họ không qua nổi mùa đông khắc nghiệt. Đến mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng và cho họ ít lương thực. Người da đỏ dạy họ những cách sinh tồn ở vùng đất này như cách trồng hoa màu, săn bắt,... Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Từ đó về sau, hằng năm con cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cảm ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống.

Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts, sau một vụ thu hoạch tốt. 

Tổ chức truyền thống

Bánh Pumpkin(Pumpkin pie) thường dùng trong mùa Lễ Tạ ơn tại Bắc Mỹ Lễ Tạ ơn thường được tổ chức với một buổi tiệc buổi tối cùng với gia đình và bạn bè với món thịt gà tây. Tại Canada và Hoa Kỳ, nó là một ngày quan trọng để gia đình sum họp với nhau, và người ta thường đi xa để về với gia đình. Người ta thường được nghỉ bốn ngày cuối tuần cho ngày lễ này tại Hoa Kỳ: họ được nghỉ làm hay học vào ngày thứ Năm và thứ Sáu của tuần đó. Lễ Tạ ơn thường được tổ chức tại nhà, khác với ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ hay Giáng Sinh, những ngày lễ mà có nhiều tổ chức công cộng (như đốt pháo hoa hay đi hát dạo). Tại Canada, nó là một cuối tuần ba ngày, người ta thường được nghỉ vào ngày thứ Hai thứ nhì của tháng 10 mỗi năm. 

Tại Hoa Kỳ, người ta thường tưởng nhớ đến một bữa ăn tổ chức trong năm 1621 giữa người da đỏ Wampanoag và nhóm Pilgrim đã di cư tại Massachusetts. Lễ Tạ ơn đã được thực hiện chủ yếu bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo tại New England cho đến năm 1682, và sau đó bởi cả hai nhà lãnh đạo chính quyền và tôn giáo cho đến sau Cách mạng Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa Kỳ George Washington đã công bố lễ tạ ơn toàn quốc đầu tiên ở Mỹ vào ngày 26 tháng 11 năm 1789, "là một ngày tạ ơn công cộng và cầu nguyện bởi sự công nhận với lòng biết ơn sự gia ân và tín hiệu tốt của Thiên Chúa Toàn Năng". Nhiều chi tiết của câu chuyện là truyền thuyết được đặt ra trong những năm 1890 và đầu thế kỷ 20 để tạo một biểu hiện sự đoàn kết quốc gia sau Nội chiến Hoa Kỳ cũng như để đồng hóa các người nhập cư. 
Tại Canada, Lễ Tạ ơn là một cuối tuần ba ngày. Trong khi ngày Lễ Tạ ơn nằm vào ngày thứ Hai, người Canada có thể ăn buổi tiệc trong bất cứ ngày nào trong ba ngày cuối tuần đó. Việc này thường dẫn đến việc ăn một buổi tiệc với nhóm người này hôm này, rồi với nhóm khác hôm kia. 

Từ cuối thập niên 1930, mùa mua sắm cho Giáng Sinh tại Hoa Kỳ chính thức bắt đầu khi ngày Lễ Tạ ơn chấm dứt. Tại Thành phố New York, cuộc diễn hành Lễ Tạ ơn của Macy (Macy's Thanksgiving Day Parade) được tổ chức hằng năm vào ngày này tại Manhattan. Diễn hành thường có nhiều khán đài với nhiều chủ đề, có bong bóng lớn hình các nhân vật trên Truyền hình và các ban nhạc từ những trường trung học. Diễu hành này lúc nào cũng kết thúc với một Ông già Nôen. Có nhiều cuộc diễn hành khác tại nhiều thành phố khác. 

Trong khi ngày thứ Sáu (còn gọi là Thứ Sáu Đen) sau ngày Lễ Tạ ơn là ngày mua sắm đông nhất trong năm tại Hoa Kỳ, nhiều cửa hàng đã bắt đầu chào đón khách hàng với các món hàng cho mùa lễ ngay sau Halloween. 

Bóng bầu dục (American football) thường là một phần quan trọng trong ngày Lễ Tạ ơn tại Hoa Kỳ cũng như tại Canada. Các đội chuyên nghiệp thường đấu nhau trong ngày này để khán giả có thể xem trên truyền hình. Thêm vào đó, nhiều đội banh trung học hay đại học cũng đấu nhau vào cuối tuần đó, thường với các đối thủ lâu năm.

Trần Ngọc Sưu tầm

Lễ Tạ Ơn - Thanksgiving


1/ Thanksgiving

Thời gian thấm thoát tợ thoi đưa,
Nghỉ lễ Tạ Ơn biết mấy vừa...
Lũ trẻ vui quà qua chú bác,
Ông bà chén rượu khách ăn trưa.
Gà tây, tục lệ, thơm ngon nướng
Quà cáp bao bì đúng điệu chưa!
Thịnh soạn cổ bàn, mua sắm rẽ,
Hân hoan họp mặt ấm cơn mưa!

Mai Xuân Thanh
Ngày 30 tháng 10 năm 2015



2/  Tạ Ơn Cha Mẹ

Tạ ơn cha mẹ đã nuôi con,
Vất vả bon chen để sống còn.
Mùa lễ quây quần vui thỏa thích,
Thanksgiving họp bạn bàn tròn.
Thương nhau hòa thuận tình huynh đệ,
Chớ ghét tan hàng mới biết khôn.
Cổ học tinh hoa đầy nghĩa khí,
Tôn sư trọng đạo giỏi chuyên môn

Mai Xuân Thanh
Ngày 30 tháng 10 năm 2015

Chào Thanksgiving 2015



Thanksgiving lễ đến rồi
Trái tim rộn đập bao lời biết ơn
Lời ru của mẹ yêu thương
Bên tai mãi thoảng ngõ hồn đơm hoa
Bàn tay thương của mẹ cha
Vỗ về con mãi như là ánh trăng

Công ơn dưỡng dục bao năm
Vai con nặng gánh tri ân ơn Người
Âm dương giờ cánh đôi nơi
Nhớ cha thương mẹ ngậm ngùi lòng đau

Ơn em tình nghĩa trước sau
Vòng tay tình khép hai đầu thời gian
Chiều qua lối cũ mơ màng
Cầm tay âu yếm lang thang cuộc tình

Ơn em sợi tóc mỏng manh
Mãi còn cột chặt bóng hình lứa đôi
Sẻ chia giọt lệ nụ cười
Tình anh trú ngụ trên môi thơm hồng
Bước đời bao nẻo long đong
Trái tim thương mãi ẵm bồng tình em

Ơn bè bạn, ruột thịt mềm
Chia vui xẻ khổ sớt niềm thương qua
Trường xưa mái ấm an hòa
Thầy trò tình nghĩa thiết tha ngọt ngào

Nhớ ngày đến lớp xôn xao
Học trò lễ độ cúi chào lời thưa
Thưa thầy quí mến thưa cô
Quí thương người lái con đò qua sông
Những ngày xưa đẹp bềnh bồng
Tiếng cười mãi lượn qua lòng trường xưa

Ơn tiền nhân nói sao vừa
Bước chân khai phá nắng mưa dãi dầm
Gian nan chống giặc ngoại xâm
Phá xiềng nô lệ bước chân oai hùng

Ơn đường gươm sáng bà Trưng
Chém Tô Định phá cùm gông nước nhà
Ơn người chiến sĩ xông pha
Hy sinh cho đất nước ta an bình

Phất cờ Nguyện Huệ anh minh
Mùng năm Tết đánh tan tành giặc Thanh
Đống Đa chiến thắng vang danh
Quân hò reo giải phóng thành Thăng Long

Ơn người Hưng Đạo đức Trần
Thắng Nguyên Mông , giặc ba lần tan hoang
Còn nghe tiếng sóng Bạch Đằng
Thét gào , máu đỏ giặc dầm nước trôi...

Thanksgiving nhớ ơn trời
Buổi mai thức dậy mình ngồi bình an
Ơn trời thêm một ngày vàng
Yêu thương bắc võng giăng ngang tâm hồn


Trầm Vân

Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

Tình Thu Quê Mùa


Bài Xướng: Tình Thu Quê Mùa

Ví dầu than nướng cá trê vàng
Chấm nước mắm gừng chả gọi sang
Xuồng đục lênh đênh con nước bạc
Cà rèm mát mẻ nắng thu tàn
Xuân tình bậu muốn nghe vài lớp
Vọng cổ qua vừa thuộc mấy trang
Gặp gỡ chung luồng câu dấu ó
Đồng không đâu có lá rơi vàng.

Cao Linh Tử
14.11.2015
***
Bài Họa: Cứ Vui

Đây rượu Đinh Lăng ánh sắc vàng
Ngâm vừa đủ độ bạn bè sang
Mang chài ra xẻo tìm mồi nhấm
Xuống bếp khều tro nhúm lửa tàn
Mừng gặp anh em cùng cạn chén
Xỉn say thơ phú khó đầy trang
Mặc cho thế sự này điên đảo
Ta cứ vui đi hởi bạn vàng.

Quên Đi

Phù Du


Mờ mờ chiếc bóng lẫn trong sương
Mộng thực phù du ấy lẽ thường
Ai đã yên nằm nơi huyệt lạnh
Hồn còn vương víu mối tơ vương
Trăm năm một kiếp chưa tròn kiếp
Hương lửa ba sinh đã trọn đường
Kẻ ở người đi âu mệnh số
Có còn hiện thực nắm tro xương

Kim Phượng

Chiều Chia Ly

( Cảm tác từ ảnh của Daniel Bien)

Bóng nhỏ ai qua để nhớ nhiều
Mây buồn lặng gió bến đìu hiu
Hình như đèn đứng mang tâm sự
Của lúc chia ly một buổi chiều.
Biện Công Danh
***
Bàng bạc trời mây xám giăng nhiều
Bao trùm cảm nỗi bóng quạnh hiu
Đèn chung tâm sự buồn không tỏ
Dòng khóc từ ly ngập bến chiều
KimOanh

Chờ Ai


Em chờ ai giữa cơn mê
Cho tôi lạc mất lối về phố xưa
Mưa từ cõi nhớ đong đưa
Còn không kỷ niệm như vừa chợt qua

Em ngồi đếm hạt mưa sa
Bao năm tình lỡ... ngỡ là còn đây
Tôi theo cơn gió đùa mây
Mà nghe tim vẫn đong đầy nhớ thương

Em tìm gì cõi buồn vương
Cuối thu lá úa bên đường tung bay
Tôi còn chưa tỉnh cơn say
Ngẩn ngơ ngày tháng lưu đày không em

Khiếu Long

Chân Chèo Bối Rối


(Mượn ý thơ chị Ngọc Hương)

Mái tóc cắt tém, khuôn mặt đen nhẻm, hốc hác với dáng người nhỏ thó. Từ đằng sau người ta dễ lầm em là một chàng trai nhỏ bé. Nhìn em rạp người kéo bạt cafe. Tôi xót lòng ghé vai vào phụ kéo, em đẩy ra 
- Thôi chị tránh đi, lôi một tí mặt tái nhợt rồi ngồi đó mà thở ... 
Tôi bật cười - Không thở thì chết à?
Đợi trải xong bạt tôi gọi các em lại uống nước. Em xà lại bên tôi cười cười hỏi .
- Chị có biết năm ngoái vô hái cho chị em ghét chị không? - Biết! 
- Chị có biết em cố tình hất cafe vương vãi cho chị lượm không? - Biết. 
Em tròn mắt - Biết sao chị không la mà năm nay vẫn nhận em làm?
- Vấn đề là chị thấy sự nhiệt tình của em trong công việc, làm có trách nhiệm, chị nghĩ nếu tức giận không kiềm chế được làm tổn thương em, lòng chị có thanh thản không mới là vấn đề. Chị thương chị chứ không thương em.
- Nhưng em thấy chị cũng có vẻ ghét em mà?
- Không ghét cũng không thương, hơi thiếu thiện cảm vì tóc tém, rít thuốc liên tục và chửi thề.
Em cười hì hì - Chị biết hút thuốc và uống rượu không? - Biết nhưng không thích - Ủa sao chị cũng biết?
- Vì ngày xưa khi còn là tình nhân, chị với ông xã hay đi rong mưa rồi chui vô quán cafe, lạnh , anh tập cho chị hút rồi hai đứa hút chung một điếu, thế là biết.
Còn uống rượu là lúc đi dạy làm công tác dân vận nên phải uống rượu Cần với đồng bào rồi quen, vui bạn bè quay ra uống rượu mía, uống cho vui chứ không thích lắm. 

Em hỏi lan man thêm vài chuyện đến lúc vô làm. Tôi đứng dậy đi theo phần việc của mình em gọi vói cười tinh quái - Chị L! - Gì? - Nghe nhạc suông chị có thấy hay không? – Không? - Em cũng vậy! Quen rồi, nơi không có “đệm” em khó chịu lắm. Mấy hôm nay nể chị em kìm giờ chị cho em nói nghe
Tôi nghiêm mặt - Tùy ở em, nhà chị ông xã với mấy cậu con trai đều không nói “đệm” chị nghe không quen, lúc nào em thích nói thì chị tránh đi chỗ khác
Em xịu mặt nhún vai. Có lần thoáng thấy tôi ở hàng café bên cạnh, em chạy qua lạu bạu “Chị coi, ai mà dễ ghét ghê, hái mà chừa lại vài chùm quả ở đầu cành không à !” - Chị hái đó, vì lúc đó hái bói, còn chùm xanh nhiều nên chừa lại.
Em ngúng ngoảy bước, dặm giày bình bịch vất lại câu nói - Chủ vườn mà cái gì cũng không biết, bán đây về PK đi nghe
Tôi vung nắm café trên tay theo lưng em - Kệ tui, tui cứ ở đây cho đến già, đến chết đó
Em khựng lại nhoẻn miệng cười - Vậy em cũng hái cho chị đến già, đến chết
Tôi nhấm nhẳng - Hôm nay biết hôm nay đi.

Về với công việc của mình tôi không thôi nghĩ về em. Hai mươi tuổi học xong Trung cấp lý luận, sẵn có năng khiếu em tham gia luôn theo ngành văn hóa nghệ thuật. Theo phân công của trường đi biểu diễn ở các đồn biên phòng và phong trào ở các buôn làng, cuộc sống khổ cực với những năm giao thời nhưng tươi vui với tuổi trẻ. Em sống hết mình với đam mê đàn hát, rồi lấy chồng, có con. Tính khoáng đạt, kèm theo chút ương bướng không thích nghi được với cuộc sống làm dâu gò bó. Vợ chồng chia tay, em đem con về vùng nông thôn cho gần cha mẹ, xin vào làm biên tập và phát thanh viên của xã. Ngoài giờ thu, phát em làm đủ mọi việc để nuôi con, lúc không còn việc em thu mua phế liệu và đến mùa thì đi hái café công nhật. Gái một con lại xinh xắn, em đấu tranh với những cạm bẫy và cám dỗ vây quanh. Những tiếng gõ cửa đêm, những lời tán tỉnh dung tục. Để bảo vệ mình em phải khoác bộ mặt đanh đá, bặm trợn, lâu dần thành quán tính, em nói năng bừa bãi làm tôi khó chịu nhưng tôi biết trong sâu thẳm em luôn thèm khát sự dịu dàng và chia sẻ. Tôi cảm nhận được tình cảm của em với mình qua những cử chỉ nhẹ nhàng lo lắng cho tôi khi thấy tôi cố làm những việc không hợp sức mình.

Cái dáng người nhỏ bé kia lại chứa một nghị lức quá lớn. Em miệt mài làm cũng xây được căn nhà cấp bốn vừa cho hai mẹ con ở, cũng leo lên lợp tôn, cũng đảo vữa trộn hồ như một thợ xây thành thạo. Không có tiền thuê đào giếng, ban ngày phải mưu sinh, đêm về em tự đào, hai cái bình ắc qui, một trên, một dưới. Cậu con trai mười ba tuổi phụ mẹ kéo đất bằng thùng sơn hai ký, cứ thế đêm đêm mẹ đào con kéo đến nửa đêm, ròng rã ba tháng trời. Cũng đường kính một mét hai, sâu xuống mười ba mét thì gặp nước. Em tự hào và sung sướng không còn phải đi xin từng thùng nước nữa.
Buổi trưa lúc nghỉ ngơi em không ngủ như mọi người mà ngồi lại gần tôi. Em dụi mái tóc ngắn vào vai tôi gọi - Chị L - Gì? - Em bật dậy xoay người lại nhìn tôi chằm chằm - Chị không dịu dàng được với em sao? - Được, nhưng không thích - Tại sao? À! Em hiểu rồi, chị sợ dịu dàng với em, em lại “phun“ ra phải không? Tôi bật cười, em lại dựa đầu vào vai tôi hỏi - Em kể cho chị nghe về em nhiều sao không kể về chị cho em nghe?
- Mọi cái qua rồi, khổ đau, hạnh phúc. Cơn ác mộng của cuộc đời cũng qua, có gì đâu mà kể
- Em không tin, mắt chị nói nhiều lắm, kể sẽ vơi đi mà chị .

Đẩy đầu em ra tôi búng mũi - Tò mò cô bé, chúa đã dạy “Đừng hỏi thì khỏi bị nghe nói dối” - Bộ chị không vui, không buồn gì sao? Khó tin quá 
Sao lại không! Nhưng biết dung hòa nó thì nhẹ nhàng thôi. Ví như chị rất sợ làm tổn thương người khác, vì một lý do không mong muốn lỡ làm ai đó tổn thương chị dằn vặt và ray rứt mãi, nhưng khi biết những ray rứt của mình vô nghĩa bởi ai đó đã hoan hỉ với niềm vui mới, chị lại thấy nhẹ nhàng. Vì cuối cùng họ cũng đã trở thành tầm thường và nhỏ bé trong mắt mình mất rồi. Chị ích kỷ và hẹp hòi thế đó, chỉ muốn mình được vui thôi. Có lần chị đã nói với em câu này chị không nhớ của ai  “Không ai thương mình bằng mình cả, mọi người tìm đến mình vì họ thương chính thân họ đấy thôi”, em nghiệm đi.
Đột nhiên mặt em xịu xuống, buồn tênh. Tôi đã nghe em kể, em đang yêu, chàng là đại úy bộ đội, cố nhân của thời em là cô bé nhỏ nhắn, duyên dáng ôm đàn biểu diễn nơi đồn biên giới. Họ quen nhau rồi vì nhiều lý do đành thất lạc nhau, giờ gặp lại tình yêu sống dậy. Chàng đang có một gia đình hạnh phúc với hai con gái, vợ là giáo viên cấp ba nhưng vẫn buồn vì không có con trai. Chàng mong em sẽ sinh con trai và sẽ bảo bọc mẹ con em suốt đời. Em choáng ngợp trong tình yêu, tin vào lời hứa nhưng còn băn khoăn vì vợ con chàng yêu chàng tha thiết nên em muốn liều.

Tôi đã nhăn mặt nghe em kể và hỏi - Vậy nếu em cũng sinh ra một đứa con gái nữa thì sao, liệu anh ta có bảo bọc em không? Em bây giờ đâu còn là cô bé xinh xắn của ngày xưa nữa. Tại sao phải cúi mặt trước vợ anh ta khi em xứng đáng ngẩng cao đầu tự hào với những điều em đã làm được. Phụ nữ mình quả là có sức chịu đựng mà khi nhìn lại mình cũng giật mình, không ngờ mình đứng vững được trước bão tố cuộc đời. Dù bây giờ cái mơ ước, cái hạnh phúc nhỏ nhoi nhất mình vẫn không thể nắm được vì nó không phải của mình, em tỉnh táo lại đi.
- Em khổ tâm và bối rối lắm chị, nhưng em yêu anh ấy quá, em phải thế nào đây?
- Tùy, chị nói rõ rồi em tự quyết định, còn muốn liều chị không cản “Chúa đã tạo ra sự đau khổ ắt sẽ ban cho sức chịu đựng”
Nói chuyện với chị chán quá, những người như chị sống giả dối lắm, mơ mơ hồ hồ. Yêu không dám nói yêu, tại sao phải tự làm khổ mình, chối từ điều mình mong muốn, em ghét mấy người như chị. Chị có biết lúc nghỉ trưa em hay nhìn lén chị không? Cái mặt chị ác lắm! Tôi cười thích thú - Không ác sao chống chọi với cuộc đời, chả phải vấn đề để chị quan tâm, em cứ nghĩ và nói những gì em thấy
Bực bội em quay ra ôm đàn hát nghêu ngao.

Rồi mùa cũng xong, em bin rịn chia tay, dặn dò băn khoăn - Ở một mình đau ốm gì phải gọi em nghe! - Ừ - Đi đâu xa tê tay không chạy xe được thì gọi em nghe! - Ừ - Em cáu - Cái gì cũng ừ, chị thì lì phải biết, giờ biết chị rồi em cứ thấy không an tâm sao ấy 
Tôi cười đẩy em ra - Tại em rảnh quá mắc gì lo cho chị?
Nhìn dáng em liêu xiêu trong chiều muộn. Lòng dâng lên nỗi thương cảm khôn nguôi …. Ôi em ……phận người.

Hoàng Thị Viễn Du 
23-12-2014