Thứ Năm, 3 tháng 9, 2015

Cành Hoa Trắng - Phạm Duy- Khánh Hà

Bản nhạc Cành Hoa Trắng rất xưa, giai điệu buồn nhẹ của nhạc sĩ Phạm Duy. Bài hát là câu chuyện kể về một tiên nữ vì tò mò khám phá đã lén lỡ mở khóa then vàng bước vào khu vườn cấm, đã vi phạm luật trời, nên bị thiên đình đày xuống trần gian làm kiếp người. Khi hết hạn lưu đày chốn trần gian, nàng nhất định không chịu về lại thiên giới, vì ở nơi trần gian này, nàng đã gặp một chàng trai và họ yêu nhau với một tình yêu nồng nàn say đắm mà trên thượng giới không bao giờ có được.Cho dù cuộc sống trần gian có ngắn ngủi, nàng vẫn sẵn lòng chấp nhận ở lại với tình yêu mà mình đã chọn. Giọng ca Khánh Hà nỉ non da diết, chậm rãi kể lại câu chuyện làm cho giai điệu bài hát thêm u buồn nhè nhẹ ,mà người nghe cảm nhận được...




Sáng Tác: Phạm Duy
Ca Sĩ: Khánh Hà
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Má Tôi



Má tôi nay ngoài tám mươi
Hai chân đau nhức nên người khó đi
Việc làm vườn ruộng mọi khi
Mẹ là tay đảm thu chi trong nhà.
 Phụ chồng nuôi con học xa
Trường làng hết lớp, thuê nhà cho con
Nhiều năm vất vả hao mòn
Như con cò cái gầy còm kiếm ăn.
 Trưa, chiều, tối, sáng lăng xăng
Trồng cây, cấy lúa...khó khăn ngại gì
Nghe con đậu các kỳ thi
Bao nhiêu cực nhọc mẹ thì quên nhanh.
 Hậu giang! hiểu tấm lòng thành
Phù sa giúp má xây thành ước mơ
Mẹ tôi! Bà má Cần Thơ
Một đời yêu quí con thơ với chồng.
 Xa xa nơi biển phương Đông
Mẹ già ngồi nhớ chờ mong con về
Thương con viển xứ hai quê
Mẹ luôn vui nói không hề trách chi.
 Dù không thăm viếng thường khi
Tôi nguyền má khỏe mạnh thì mỗi đêm
Mong mẹ sống thọ êm đềm
Cho chồng, con, cháu... gần thêm với người.

Phượng Trắng
Canada, mùa Lễ Mẹ 2010

Thu ...Đêm


Nằm dưới trời đêm lắng nghe.
Sao Ngâu thủ thỉ đôi đầu.
Sóng dưới cấu Ô vỗ nhẹ.
Cho yên lòng đôi lứa tìm nhau.

Sao Hôm đêm nay đi đâu.?
Cho Sao Mai chờ mỏi mắt.
Những quẩn quanh trong vòng tròn được mất.
Thật lẻ loi, khi thu lại trở về.

Đêm mùa thu về khuya trở lạnh .
Nước sông Ngân tràn bờ lóng lánh.
Em đi rồi, bóng tối bỗng bơ vơ.
Một tiếng chim đêm, xao động mặt hồ.

Mới qua nửa đêm thấy đêm còn dài.
Giấc ngủ ở đằng sau, khi anh tiễn em về phố.
Đêm đã vào sâu trong nhịp thở.
Một ngôi sao băng trên trời,

lặng lẽ về đâu....

Hhai

Bốn Mùa


Bốn Mùa

Đông đến cành trơ tuyết ngập tràn
Xuân về hoa nở suối reo vang
Sen xanh nắng Hạ ve ra rả
Mây xám rừng Thu lá nhuộm vàng

Mailoc
***
Họa: Bốn Mùa

Phòng không Đông giá rét ngập tràn
Hoa mùa cố gọi nắng Xuân sang
Phượng buồn hòa khúc ve rỉ rả
Sầu chạm ngõ vàng Thu thở than

Kim Oanh
***
Cảm Tác:Bốn Mùa

Run rẩy cành trơ trước gió Đông
Trời Xuân ngào ngạt tỏa hương nồng
Hè say sắc thắm hoa Kim Phượng *
Quyến rũ thu vàng xao xuyến trông

Kim Phượng

* Hoa Kim Phượng có tên Khoa học là Caesalpinia pulcherrima

"Nhớ" Những Vầng Thơ Tự Xướng Họa

Nhớ
Xướng
Ai chờ mòn mỏi để chờ ai
Dài vắn thở than tiếng vắn dài
Nhớ mãi bao năm còn mãi nhớ
Phai mờ kỷ niệm khó mờ phai

Họa
Ai nhớ đến giờ mãi nhớ ai
Dài canh thao thức suốt canh dài
Bóng hình tim lỡ ghi hình bóng
Phai nhạt tình đâu dễ nhạt phai

Quên Đi

***

Xướng
Mùa gió miên man ngọn gió mùa
Mưa đêm rả rích suốt đêm mưa
Thẫn thờ nhớ bạn tâm thờ thẫn
Ngơ ngẩn trong lòng tiếc ngẩn ngơ...

Họa
Mùa chuyển căm căm rét chuyển mùa
Mưa dầm ướt áo buổi dầm mưa
Nắm tay, hờ hững bàn tay nắm
Ngơ ngác bẽ bàng dạ ngác ngơ...

Phương Hà

***

1/ Đời Tôi
Xướng:
Trời nắng chang chang, Hạ nắng trời!
Oi nồng nóng nực, quạt nồng oi.
Tuổi già khó ngủ nên già tuổi,
Đời tôi quạnh quẽ vẫn tôi đời

Họa:
Trời gió vi vu lại gió trời!
Oi ơi chẳng mát nóng ơi oi!
Tủi thân kém bạn vì thân tủi,
Đời vắng em rồi khổ vắng đời...
2/ Yêu Thương
Xướng: 
Thương em giúp đỡ để em thương
Thường hỏi thăm nàng, vẫn hỏi thường
Tặng bạn hoa hồng nên bạn tặng,
Đương yêu hạnh phúc quá yêu đương
Họa:

Thương người hoạn nạn mất người thương
Thường thấy cô đơn cảm thấy thường
Tặng thưởng thành công nên thưởng tặng
Đương thời gánh vác nặng thời đương

Mai Thanh Xuân
***

Tương Tư
Xướng:
Tôi quên em hay em quên tôi.
Rồi sẽ ra sao để sẽ rồi
Nhớ nỗi say mèm thèm nỗi nhớ
Thôi đành thơ thẩn phải đành thôi!

Họa:
Tôi nhớ em hay em nhớ tôi
Rồi sao đi nữa mặc sao rồi
Luyến lưu trao gửi tình lưu luyến
Thôi chớ trách đời cũng chớ thôi!

Nguyễn Đắc Thắng
20150817

***
Thầm Thương
Xướng:
Ta vì ai đó bởi vì ta …
Là đã thầm thương vốn đã là…
Để được gần ai xin được để…
Qua cầu lắc lẻo vẫn cầu qua…

Họa
Ta để tình câm mãi để ta…
Là yêu lỗi nhịp hể yêu là…
Chẳng thà trộm nhớ nên thà chẳng…
Qua được buổi đầu ước được qua…

Cao Linh Tử
17/8/2015

***
Họa: Bài Thơ Của Cao Linh Tử

Ta với bạn ta vui với ta
Là la cùng hát lá la là
Gọi rằng chia sẻ y rằng gọi
Qua ghé xin mời nhớ ghé qua...

Thái Huy


Chút Hương Thừa


Nửa đêm thị trấn mù sương
Tìm em bến đợi cuối đường trăng treo
Gió đâu vụt thổi qua vèo
Muối tiêu màu tóc nhịp chèo lãng du.

Lang thang vào cõi mịt mù
Tương tư kiếp đợi vọng từ lãng phai
Ngỡ ngàng tìm bóng dáng ai
Thuở linh hồn đá miệt mài đầu non.

Miên trường nặng kiếp phấn son
Em còn hoa mộng tình còn có nhau
Bây giờ ruộng hóa bèo dâu
Cố quên để nói vài câu tạ từ.

Cung đường lồi lõm suy tư
Lòng nghe trĩu nặng mùa thu đoạn trường
Yêu thương tím nhạt mùi hương
Ai xui nặng bước trên đường tìm quên.

Thương em phận gái truân chuyên
Nên dành xóa hết ưu phiền ngày xưa
Đêm nay chợ nhỏ trời mưa
Mong sao gột sạch hương thừa trong tôi.

Dương Hồng Thủy

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

Chuyến Đi Về Miền Tây

(Bên trái: Anh Châu, Cao Khải, anh Vinh tài xế kiêm hàng xóm kiêm chủ vườn xoài của chị Dung, Chị Dung
Bên phải: Chị Châu, chị Tuyển Thục, chị Lan)

“Tụi con cho ba tiền , ba lo book vé máy bay và dặn phòng đi kẻo cận ngày giá vé mắc..” Mừng hết lớn.

Tôi đã đi về Miền Tây, nơi có một số bạn học cũ và gia đình đang sống nơi đó, miền Nam và miền Bắc của Miền Tây.
Trước ngày khởi hành khoảng hai tháng, tôi bèn gởi tin nhắn cho bạn bè biết có thể là khoảng từ ngày nào đền ngày nào của tháng Bảy tôi sẽ có mặt tại vùng Westminster! Tôi đi California chơi chớ không phài Sàigòn đi về miền Tây của Nam Việt đâu.

Đến vùng đất của bạn bè đã hơn 6 giờ chiều, xe đi đón chờ hoài không thấy keo hành lý ra, họ bèn gọi thì họ mời biết rằng cái va li chuyển ra diã khác với dĩa thông báo ! Trời Cali mát lạnh, tôi có kinh nghiệm cho nên thủ sẳn áo jacket từ khi tới phi trường Houston. Về khách sạn, trả tiền xe xong, lấy phòng, đang phè cánh nghỉ ngơi để rồi đi ăn tối thì điện thoại reo. “Khải hả ?” “Dạ đúng, xin lỗi ai đang gọi tôi?” “Châu đây, bạn đang ở đâu vậy?” “Đang ở khách sạn ở ngả tư Westminster và Brookhurst, vừa mới check in”. Rồi thì hai đưá tía lia bla bla bla.....Tối hôm đó tôi băng ngang qua lộ Westminster và Brookhurst –đi trong hai lằng trắng dành cho người đi bộ dàng hoàng chớ không phải jay walk vì sợ ông mả tà biên giấy, thấy dân chúng xứ bên ấy chờ đèn hiệu rồi hối hả băng qua, và các bác tài ngừng nhường cho khách bộ hành (có tôi trong đó) sao mà dăn minh quá xá, chẳng bù lại bên xứ cao- bồi thì cứ jay walk, đường ta ta cứ chạy...

Bên trái:Chị Lan em anh Châu, chị Tuyển Thục,  chị Châu, 
Bên phải:chị Dung và anh Vinh, Cao Khải, anh Châu.
(Anh Châu mí lị tui đó)
Tôi khen một lời lấy lòng bạn bè xứ ấy để họ còn ưu ái cho ăn chè bắp miễn phí, luôn cả xoài cát đặc sản Orange county trong tương lai (không gần)- Tối hôm đó, tôi trở lại ăn tại quán Brodard, nơi mà chị Dung có uy tín, để may ra chủ quán còn nhớ mặt là khách cuả chị Dung cho ăn miễn phí hay ghi sổ thì đỡ khổ. Thật vậy, nguời dẫn khách đưa tôi vào bàn “dành cho vip”! Anh ta nói với tôi như vậy. Không phải chờ lâu, ngồi riêng bàn dành bốn người! Nhưng, quái lạ thay, tôi đã nhận được giấy tính tiền bửa ăn và phải thanh toán! Cầm tờ tính tiền, trí nghĩ đâu đâu: “Sao lạ vậy, lạ quá!” Thôi thì làm ma-rốc cho xong để rồi còn thưởng thức món la-xét khoái khẫu, nước dừa trộn thạch trong ngần trang trí hoa năm cánh bằng cơm dừa đẹp mắt, ăn vào mát lòng. Đã 10 giờ đêm mà thực khách vẫn tấp nập trong 3 quán phở tại vùng ngả tư đó. Trong 3 quán phở, quán đông khách nhứt là quán có để bảng “50% OFF” . Tôi giựt mình, đọc lại, không sai, ăn phở bớt 50% !!!
Buồn ngủ vì quen giờ bên kia, đã quá nửa đêm rồi, ráng lê tấm thân 120 pao vào Target để mua nước uống. Thêm một điều lạ nữa, xứ gì mà nhiều cái lạ quá, chắc còn lạ dài dài, , lúc đó, khoảng 2 phần 3 khách hàng của Target nói cùng một thứ tiếng với tôi!
9 giờ 30 sáng hôm sau thứ Bảy, khăn áo chỉnh tề đến nhà anh bạn dự lễ giỗ của anh ấy, không xa, đối diện quán phở Hiền Vương qua đường Westminster. Nhưng để cho vững bụng, ghé làm tô phở nhỏ nước trong. Nhieu khách đứng chờ ngoài trước cửa, khi quán mở cửa, khách ùa vào đầy gần chục bàn, chuyện trò rân rang. Xong tô phở, yên lòng, bước ra hành lang. Trước quán phở là tiệm bánh ngọt cà phê có tên gọi là “85 độ C”.- lạ quá, lại thêm một cái lạ nữa- khách đứng chờ mua, chờ trả tiền, chờ nhận cà phê, chờ bàn, chờ người sắp tới, lẫn chờ ăn và uống...mà xem ra họ rất vui vẻ.
“Chú, chú qua chị mừng lắm, chú thắp nhang cho anh Mạnh đi rồi mấy đứa nhỏ chở chú đi ra biển picnic, BBQ.” Theo lời chị, tôi khấn anh “Thưa anh, tôi đến cúng anh vào lễ giỗ thứ nhì, nhớ ơn anh đã đem hết sở học mà truyền cho tôi. Không biết năm tới tôi có đi dự lễ giỗ thứ ba hay không.” - Chị Mạnh là dân Vĩnh long, ở phố Bà Thông Vịnh ngày xưa, ngang đất thánh tây, cách nhà thầy Sĩ Huỳnh dạy Anh văn vài căn. Anh Mạnh là học trò Collège de Vinhlong - Đi Dana Point, đến nhà con chị trên đỉnh đồi nhìn ra Thái Bình Dương, lộng gió, mát rượi.




Đến bải Dana Point, nhìn trời, nhìn người, thấy nườc trong xanh, cát trắng phau nhưng giày không dính cát, chân không hề nhúng vào nước biển vì lo về cho kịp giờ hẹn ăn -được đãi-. Xa lộ 35 bị kẹt tưng bừng lúc đi, thì hướng về cũng bị tưng bừng kẹt! Giờ đây mới thấy lo xa, dằn bụng tô phở buổi sáng là có lý, cẫn tắc vô ưu. Đã 2 giờ trưa, mà đứa cháu lại chạy lạc hướng! Thay vì từ đường nhỏ ra xa lộ 35 thì quẹo phải, anh ta lại quẹo trái để đi về San Diego, có thể anh ta muốn cho tôi lên ruột, cũng có thể anh ta đói hơn tôi. 

Còn thì giờ, tuy không nhiều, đi khu Phước Lộc Thọ chơi. Hỏi đường bus đi một chuyến cho biết với người, “hôm nay chú phải chờ cả 30 phút mới có 1 chuyến xe vì là ngày cuôi tuần”, người quản lý quán trọ cho biết. Thôi thì đã liều, ba bảy cũng đâm liều. Chuyện gì cũng có nguyên nhân, Tại sao tôi đi bus đến PLT ? Mời quí vị đọc và phán đoán. Nếu đi bus, tôi phải đi từ ngả tư Westminster Brookhurst hướng ra bờ biển, tới Bolsa đổi xe từ đó đi PLT, khoảng hơn 40 phút. Đứng chờ khoảng 10 phút, tôi lấy hết can đảm lê chân trên lề đường. Tại sao lại phải có can đảm đây nữa? Vì, chị Dung đã cảnh cáo tôi rằng “đoạn đường tôi dấn thân là đoạn đường nguy hiểm cho phái mày râu tóc muối tiêu: các đấng nam nhi đơn lẻ đi lang thang dễ bị các bà sồn sồn xê-li-bạt bắt cóc mất tích!” Eo ơi! Vừa đi mà lắng nghe có ai thì thầm bên tai hay không, vừa để ý quan sát chung quanh trước sau xem có ai ngoắc hay không. Định bụng nếu có, thì tôi chọn giải pháp phi nước đại, chạy... đến cho mau để được bắt cóc! Đến 1 trạm xe, có một bà chị đã đúng sẳn từ lâu chờ xe. Nhìn gương mặt thì chì là người mần ăn chơn chất, đi làm về.  

“Chào chị, chị là người Việt? Chị chờ xe? Bao lâu mới có chuyến?” Tử tế,”Ông ở đâu đến đây?” “Dạ Hút tân, Tết xác”. “Kìa sắp có xe đó. Hôm nay ít xe. Ông đi đâu?” “ Dạ, khu PLT?” “À, tôi cũng về đường đó. Tôi chỉ cho ông. Ông chỉ tốn 2$ rưỡi mà đi suốt ngày, Mà ông có 50 xu không, xe không thối lại cho ông đâu.....” vân vân. Tôi lên xe sau chị, chị bào tôi giựt dây chuông khi tới trạm...( không phải dây chuông của Lan và Điệp). Tôi y lời và lũi thũi bước theo chị qua trạm Bolsa. Chờ 5 phút có xe. “Sao mau quá vậy chị ?” tôi hỏi. Chị rành rẻ trả lời “ Vào cuối tuần chỉ có hai con đường có nhiều xe là Westminster và Bolsa, các đưòng khác phải chờ 30 phút hay lâu hơn”. Tôi có quới nhơn phò hộ chớ có bị bắt cóc đâu. Lên xe, tôi lại cho vào hộp 3 tì. Chị bảo tôi “Tại sao ông không xài cái vé hồi nảy?” “Vé gì” “Vé xe hồi nảy đó. Ông phải giữ vé để cho ông tài xế biết và ông dùng đi trong ngày” “ Đâu có ai đưa gì đâu!” “ Vậy là ông phải trả thêm 2 đồng rưỡi nưã để đi đoạn nầy, ông mất tiền rồi đó”. Mẹ ơi, lại bị cằn nhằng, mà chị đó có thân thích gì mình đâu mà cũng lại cằn nhằn, đúng là cái số bị cằn nhằn, đi đâu cũng bị cằn nhằn, làm gì cũng bị cằn nhằn,và đúng là “Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với (ai) biết có ngày nào được ngu”. Đánh vòng PLT-Bolsa rồi cũng gần tới giờ hẹn với ông bà chủ vườn xoài cát nên gọi taxi về quán trọ bên đường, sau khi nghe câu nói của chị chủ một tiệm, với người bán hàng, “Chị ơi, ông nầy là ông Khải ở Hút tân nè. Vậy mà bấy lâu nay tụi tui tưởng ông còn trẻ vì giọng của ông trong phone trẻ quá v v v â â ậ y y y! Thôi từ nay gọi là anh vậy nhé!” “Sao cũng được chị!”. Trong đầu nghĩ rằng chắc mình “coi cũng không tệ” . Đúng 6 giờ, xe đến, chị Dung ân cần bảo lên xe, do bác tài của chị lái, có cả chị Tuyển Thục. 
Quán Họp đây rồi! Xe vào parking, khi tất cả đã xuống xe thì chị Dung gọi cho người cô, chị Lan, “Lan, tao tới rồi. Mầy đang ở đâu?” (đáng lẻ phải xưng hô “cháu và cô” đàng hoàng tôn ti trật tự) “Tao cũng tới rồi ...” và cô cháu chỉ đậu xe cách nhau ba chiếc !!! Phân chỗ ngồi chủ khách xong xuôi, anh bạn cố tri và chị bước vào

Câu hỏi đầu tiên khi thấy nhau “Đôi giày của sân cỏ đâu rồi ?” “ Cất trên đầu tủ rồi.” Rồi thì chuyện cũ chuyện xưa kéo ra kể hết, không dấu diếm gì kể cả các chuyện “thâm cung bí sử”. Nhìn vào hình, hàng trái, chị Lan, chị Tuyển Thục, chị bề trên của anh Châu; hàng phải, chị Dung và anh làm vườn, Khải và anh Châu, ngày đệ Nhứt xưa gọi là Trâu nghé, một cầu thủ bóng tròn của đội banh Tống Phước Hiệp. Anh không thay đổi nhiều, nét đẹp trai vẫn còn, thấy anh là nhận ra liền. Anh chọn ngồi kế bên tôi như ngày đệ nhứt cùng là dân xóm nhà lá. Bây giờ có khác lạ, cũng lạ nữa là anh chị mặc áo nâu sòng, lại chay trường, không như ngày xưa, hoa hòe hoa sói vào mỗi buổi chiều lượn quanh cua...(gì?). Anh chị chỉ uống nước chớ không gọi thức ăn. 

Trước khi tàn tiệc hội ngộ, chị Dung hỏi “Anh Khải ăn chè tráng miệng nhe” “ Dạ có chè gì vậy chị?” chị bèn kê ra một lô các thứ chè, tôi chọn: “Chè bắp coi bộ hấp dẫn !”Cũng tại cái tật hám ăn mà hố! Khi đem chè lên, chỉ một chén độc nhứt !!! Nhớ lời dặn xưa, khi lâm phải tình huống nầy thì nên ăn cho hết và phải biết cám ơn. Nếu không cám ơn thì sẽ có thêm chén y chang nữa. Liệu hồn mà ở đời! Rồi cũng tới lúc chia tay. Chị Dung lại ra dấu tài xế đưa tôi về quán trọ. Lại từ giã và hẹn sẽ gặp lại. 

Xe đón đúng 8 giờ sáng đưa đến bến xe đó Hoàng để đi San José. Nhớ những chuyến xe Nhan Nhựt Hiệp Thành quá đi thôi! Nhưng hai thái cực, xe đò bi giờ êm ái, rộng rãi,cao ráo. Không sợ bị nước cổ trầu bay tứ tung.  







Ngồi trên xe, nhìn hoạt cảnh dưới bến mà thêm đau thắt ruột gan. Cũng người đứng bán chào mời, cũng có khách hàng bu quanh mua, ăn thử , trả giá, hai bên kỳ kèo...luôn cả cảnh chìa tay xin tiền...Chỉ khác chăng là người bán là các cụ già có vẻ chơn thật chớ không phải các cô trẻ. Lại cũng có cảnh chia tay, nhưng ôm nhau, ôi cái cảnh chia tay sao mà buồn dzậy! 


Nhìn cảnh trật tự sắp hàng lên xe mà nhớ lại cảnh lên xe đò tại bến chợ Vãng sau 75, bị mất đồng hồ đeo tay trong chớp mắt khi chen lên xe. Khởi hành đúng giờ qui định, bon bon trên đường . Chắc hôm nay mình được đi xe miễn phí vì xe đã khởi hành mà không ai thâu tiền hết. Hể hả quá! Khi ra khỏi Westminster, chị quản lý xuất hiện và bắt đầu thu tiền. Thì ra tôi quá chủ quan. Hỏi chị ngồi bên cạnh mới biết là tiền vé 40 đồng. Vậy là chết rồi vì khi làm bảng chiết tính đưa cho con, tôi viết có 25 mà thôi, lấy đâu tôi bù vào 15 đồng chi đủ tiền xài! Khi về nhà, trả lời làm sao với con khi tụi nó hỏi “Còn thiếu 15 đồng, ba mua gì, đưa con xem?”. Lại thêm một khó khăn nữa rồi: miệng khai với con rằng thì ngồi xe đò sẽ được cung cấp miễn phí bánh mì pâté hay xôi thì có kèm theo tráng miệng món xu xoa hay trái chuối và chai nước lọc, chuyến nầy chỉ được có ổ bánh mì! Tạm quên “nỗi khó khăn” khi nhận được ổ bánh mì thịt dài bự thơm lừng, thôi thì ăn phân nửa, còn phân nửa để dành ăn tối tại San José. 


Hay quá, trí thông minh còn quá bén nhạy, suy nghĩ mau như chớp! Tai vừa nghe mà phát ớn“ Tôi không đổi cho chị được đâu vì chị đã cầm diã xôi rồi, bây giờ tôi lấy lại thì đưa cho ai, không ai nhận đâu!” , nghe xong, ngồi im thin thít, không dám nhúc nhích. Xe rời bến, ra khỏi LA, hai bên đường cỏ chết vàng, xanh chăng chỉ là các cây lớn, rễ ăn sâu. Thảm hại nhứt là phía sườn đồi núi phía trong, còn phía ngoài biển thì lổ chỗ có cỏ xanh.  


Năm trước, dọc theo đường LA- SJ /NamBắc, làm gì mà thấy mấy tấm bảng tiếu ngạo liên quan đến nước tưới thế nầy trong các đồn điền cây trái nho cà


…Đến nửa chặng đường, xe ngừng cho hành khách thảnh thơi 10 phút. Xe đã đổi trạm nghỉ, lúc trước, xe ngừng tại sân của mộtquán tư nhân. Chuyến nầy nghỉ tại rest area công cộng. Phải dung rủi thêm 3 giờ nữa mới đến San José. “Phước ơi, khoảng 2 giờ nữa tao đến” “Ừ thì khi còn khoảng nửa giờ thì gọi cho tao” “OK”. Khi nhìn bên trái cây cối xanh, phía mặt cây cỏ cũng khá hơn thì biết không còn bao xa sẽ vào vùng SJ. “Phước ơi, tài xế báo cho biết là còn khoảng 30 phút nữa là đến bến,” “OK, tao sẽ có mặt”. Khi xe đã vào thành phố, ngừng tại một ngả tư, nhìn xuống đường thấy cảnh hơi lạ mắt, bèn chụp tấm hình để bà con mình thưởng thức thêm một cái lạ về “sự tự do ở đất Cali”   

Nơi tôi ở hơn 20 năm, chưa hề thấy tấm bảng quảng cáo “xuống đường” thế nầy. Xe đến nơi rồi, vẫn cảnh cũ nhưng “người xưa đâu tá?”. Trong lòng đang lo nếu ông Phước không đón thì có được người khác nào đó đón về nuôi hay không. May mắn thay, anh ta kia rồi, anh ta đang đứng bến. Cũng cảnh tượng gần giống như cảnh xe đò SG về đến bến VL, cũng ồn ào chào hỏi, ôm hôn hôn hít hít, tay bắt mặt mừng, ồ ào lo nhận hàng hoá, chỉ khác là hàng hóa tuôn ra từ tầng dưới chân hành khách chớ không phải từ trên mui xe Nhan Nhựt. Nhưng cảnh nhận hành lý và hàng hóa cũng lộn xộn y như bến xe Vĩnh Long, ai cũng muốn đứng gần xe để hành lý mình không bị cầm nhầm. Giao túi càn khôn cho ông Phước cầm dùm để lấy va li áo quần. Hai đứa lên xe trực chỉ nhà Phước để thăm chị.
Sau khi biết thời khóa biểu của chuyến đi, chị Phước hiếu khách:”Vợ chồng tôi định rằng anh sẽ ở đây chơi ít ra cũng ba năm ngày, và phòng trên lầu đã để sẳn sàng cho anh. Mời anh uống ly nước quít tươi, cây nhà lá vườn đó, quít trồng tại nhà!” Nước quít lô-cô ọt-ga-níc, ngọt ngào, thạnh tình ông bà chủ nhà ngọt ngào gấp vạn lần hơn! Gần đến giờ hẹn với bạn lớp D, anh Lời, tại nhà anh, hai đứa từ giả chị Phước. Gặp bạn nhưng không nhận ra, anh bạn rất phải thế là một anh đẹp lão, phong thái hòa nhả, từ tốn, ăn chay trường, từ Việt Nam anh chị qua thăm gia đình con gái. Sao nhiều người ăn chay trường quá vậy? Tôi tự hỏi nhưng không câu trả lởi. Có chăng là vì quí vị đồng liêu nhận ra rằng đã đến lúc “trường chay”! Mở ngoặc nói chuyện cá nhân dưới trời Hut Tân,”Ông nên gia nhập nhóm tụi nầy đi, đến lúc rồi , kẽo không kịp..” “Xin lỗi mấy ông nhen, tâm tui còn động lắm, tui chưa theo mấy ông được! Nếu tôi theo mấy ông thì khuya lơ khuya lắc ai chạy rong, đạp xe ba bánh ngoài đường như thời TPH? ”, tôi trả lời. Đóng ngoặc.

Đến nhà bạn Lời, giai đoạn chào hỏi chưa xong thì phone của ông Phước reo om xòm, thì ra là 1 ông già dân Nguyễn Thông khác đi đến nhưng lạc đường. Tội nghiệp cho già Phước, lại phải một lần tận tình chỉ dẫn hao tổn công lực. Rốt cuộc, nhờ rễ chở ông ta nên đến được. “Cái thằng Khải!” “ Tưởng ai thì ra là thằng Táo” “Trong trường chỉ có mầy gọi tao là Đởm Táo” “Không phải chỉ có mình tao mà mấy đứa khác cũng gọi mầy là Đởm đen, Đỏm táo, em mầy là Đởm trắng”. Bla... bla... bla... Chị Lời mời “Mời mấy anh ngồi vào bàn, vừa ăn vừa nói chuyện kẻo đồ ăn nguội hết”, An tọa xong thì tôi cố liên lạc them với Chiêu Hằng thì cô ấy không trả lời trả vốn gì cả. Vậy mà trước đó, cô đã dặn “ Khi anh Khải đến thì anh gọi cho em biết địa điểm nhà hàng nhé. “ Nói về anh bạn Lời nấy thì đúng y là ...lời! Ngày trước, đám bạn lượn qua lượn lại vùng nầy, xóm kia mà rốt lại tôi nhận đều không tin mắt bằng anh Lời nầy.
Chị Lời là con trong gia đình nói ra gần như không công dân chợ Vãng mà không biết, chị là con trong gia đình quán chè sâm bỗ lượng căn đầu bìa dãy phố mà thầy Vỹ và các thầy khác trọ, kế bên công sở xã Long Châu. Ba ông già Phước Đởm Khải tán tụng thành quả ông Lời gặt hái được làm ông ta cũng nỡ lỗ mũi quá xá và nói theo như là xác nhận giải thưởng rực rỡ cao quí nhứt trong đời ông mà ông ta “đoạt” được. Ông ta tự ví mình như con ruồi và tự nguyện sa vào hủ nườc đường, sa vào chén nước đường không ngất ngư mà mặt mày mắt tươi sáng rạng rỡ thêm. Đó là chuyện ngày xưa xa lắc xa lơ, bây giờ nhìn mặt 4 tên cựu dân Nguyễn Thông phải nhận ra “ mỗi người một vẻ mười phân nãn mười” mà ngao ngán ê chề.

Chị và anh Lời, lớp D,tới tui đây,anh Đởm đen,anh Phước Jan José.

 Rồi buổi họp mặt cũng qua như chiêù hôm trước tạ nam Cali. Ông Phước lại chở tôi về nhà bà con, con thầy Sĩ dạy vẻ ngày xưa, trên xe bây giờ có thêm tên Đỡm. Đến nơi, không biết nhà nào, tôi bèn gọi thì ra nhà cách nơi đậu xe 1 căn. Xuống xe, hẹn sáng hôm sau, từ 9 giờ đến trưa lại gặp nhau, cùng ăn trưa và ra phi trường. Hôm sau đang nói chuyện gia đình thì chuông reo. Lại gặp nhau đúng hẹn, tôi từ giã chủ nhà, kéo va li ra đi ăn phở, dù rằng chủ nhà ớp phơ đưa tôi đi ăn phở nhưng tôi từ chối vì đã lỡ hẹn với hai ông bạn rồi. Sau chầu phở, nhưng chỉ có hai đứa ăn còn tên kia không ăn vì “hàm răng làm chưa xong”. Xong phở, kéo nhau đi nhâm nhi cà phê. Tán dốc, ôn chuyện ngày xưa tại quán cà phê đến trưa thì cũng đến giờ ra phi trường và chia tay tại đó.. 


(Phi trường San José, Đởm táo, tui, Phước)
Chặng từ San José đến LA chẳng có được một hột tào-phụng-dang. Con bảo “Ba mua thức ăn trên máy bay cho đở đói...”. Nhờ tô phở lúc trưa, chịu trận đến khi bay tiếp chặng từ LA về Houston. Mất gần 3 giờ bay, tiếp viên mời gói pi-nấc, hai lần mời nước, mình chờ họ hỏi ăn gì thì ọt- đơ nhưng khuya quá nên họ dẹp luôn cả bán thức ăn mặn cho khách lở ư ư ư đ..ư..ờ....n....g.

Chiều xuống, bóng tối dâng lên, nhìn lại phía sau anh đèn sáng cả một góc trời. Tạm biệt các bạn chị Dung và ông tài xế thân yêu của chị, chị Tuyển Thục, chị Lan, anh chị Châu, anh chị Phước, anh chị Lời, anh chị Đởm táo, anh chị Cảnh, tôi đi về! Hẹn lúc nào đó gặp lại.

Cánh máy bay trong hoàng hôn.
Houston tháng 8-15
Nguyễn Cao Khải

Thơ Tranh: Lạc Dòng


Thơ: Lê Kim Hiệp
Thơ Tranh: Kim Oanh

Quỳnh Hương

           (Ảnh "Sau Lần Thăng Hoa" của anh Phước Nguyễn)

Hồn lâng lâng dần chìm lắng đọng
Ôi diệu huyền ngan ngát hương riêng
Phút nhiệm mầu sâu hơi thở nhẹ
Nụ tinh khôi vừa hé Quỳnh Hương

Cánh vô thường thủy chung ướm mộng
Chút tự tình bóng nguyệt sương giăng
Trong chìm đắm chập chờn ngây dại
Rạng ngày gục chết mối tương tư

Ngày lãng quên sau đêm diễm lệ
Suốt thương vay nhựa sống bừng lên
Thời gian mảnh lụa mềm bao phủ
Tỏa nồng nàn thanh khiết một đêm

Kim Phượng
***
Em, nàng tiên kỳ ảo
Tha thướt trong đêm qua
Sáng buồn thiu xếp cánh
Ủ rủ góc sân nhà
Giữa cõi đời huyển mộng
Kiếp người hay kiếp hoa
Cám ơn em đã nở
Một đêm thôi cho ta 

Khánh Hà
***
Đêm Say Hương Quỳnh 

Em đến bên đời trắng tinh khôi
Khép nép ươm môi buổi yêu người
Hương say hạnh phúc cười khúc khích
Đêm tàn thúch thích đóa Quỳnh tơi!

Kim Oanh

Thảm Cảnh



( Cảnh đó khổ ở Châu Phi,và vượt biển Việt Nam)

Đau lòng không nhỉ bạn ta ơi?
Sinh vật nào đây giữa cuộc đời?
Chẳng lẽ thiến ăn trên trái đất
Hay do vắng tiếng giữa tình người
Thấy kia mà vẫn như vô cảm
Nhìn đó để rồi cũng gỉa lơi
Ngước mắt trông lên xin cứu độ
Bẩm Ngài có thấu,dạ thưa trời!

Thái Huy
8-26-15

Rồi Cũng Qua Đi


Bài Xướng:
Rồi Cũng Qua Đi

Ta đến và đi giữa cõi đời
Trong ngần năm ấy, bấy nhiêu thôi!
Bước vào - hạnh phúc - oa oa khóc
Lìa bỏ - đau thương - lặng lẽ cười
Danh vọng, tiền tài đều ảo ảnh
Niềm vui, nỗi khổ chỉ trò chơi
Trắng tay rốt cuộc hoàn tay trắng
Rồi cũng qua nhanh một kiếp người.


Phương Hà
***
Các Bài Họa:

Đúng Thế


Nào phải nhưng không sống giữa đời
Từ cao siêu ấy tạo nên thôi
Khi ra trần trụi-vui òa khóc
Lúc khuất cô đơn-khó mỉm cười
Trước mặt mang theo nhiêu vấp phạm?
Sau lưng bỏ lại bấy vui chơi
Thêm chi nguyên vẹn đôi tay trắng
Chấm hết lao đao một phận người.


Thái Huy
8-26-15
***
Trả Nợ

Lấy mốc trăm năm trọn cuộc đời,
Ít ai bách tuế đủ mà thôi.
Người thời nức tiếng công danh hảo,
Có kẻ đành im lặng mĩm cười.
Phú quý giàu sang về cát bụi,
Cơ hàn thảo dã lại rong chơi
Lìa đời há dễ mang tiền của,
Chín suối làm sao trả nợ người!


Mai Xuân Thanh
Ngày 25 tháng 08 năm 2015
***
Đời Mà

Rồi cũng qua nhanh một kiếp người
Lỡ sinh nhằm chỗ chả ngày chơi
Học hành thi cử rồi buông bỏ
Gánh vát đeo mang mãi khóc cười
Lật bật tuổi già nghe hốt hoảng
Lon ton cửa Phật lạy không thôi
Thì ra cuộc thế bày nhân quả
Tới chết chưa xong trả nợ đời.


Cao Linh Tử
26/8/2015
***
Tay cầm vụ lệnh bước vào đời
Mở miệng oa oa được vậy thôi
Hạnh phúc khởi từ duyên gặp số
Hình hài phát triển khóc xen cười
Gia đình đùm bọc trao tư thế
Xã hội sinh tồn dấn cuộc chơi
Ảo giác quay cuồng thân cát bụi
Đầy vơi bản chất một con người.


Nguyễn Đắc Thắng
20150827
***
Kiếp Người

Đã trót sinh ra giữa cõi đời
Hành tinh này tạm ghé ngang thôi.
Người vừa mở mắt thường la khóc
Ta lúc xuôi tay vẫn mỉm cươì.
Đã biết trần gian là bể khổ
Thì xem thế sự tựa môn chơi.
Ngày về đâu có gì lưu lại
Ngoài tấm lòng thương tớ với người..


Quang Tuấn
***
Xứng Một Kiếp Người

Làm thân lữ khách mới thương đời
Dù có bôn ba cũng thế thôi
Số phận an bài là định số
Phong trần trời bắt cũng vui cười
Sang nghèo đâu cải do con tạo
Danh lợi như tuồng diển hát chơi
Ngẫm nghĩ,mai sau về cát bụi
Thì nên sống xứng kiếp con người


Song  Quang

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Tưởng Nhớ Sinh Nhật Bác Thái Hanh( Nguyễn Khắc Nhân)



Ra đi hoài nhớ quê nhà
Bao năm lưu lạc tận xa phương đời
Đông Y nhân ái tuyệt vời
Chúng sinh cứu độ ân trời ban cho

Xuất thân giòng giỏi nhà Nho
Văn hay chữ đẹp môt kho thơ đầy
Khắc Nhân họ Nguyễn bậc Thầy
Nhân tài hiền đức dựng xây nước nhà

Ngày 1, tháng 9 bước qua
Tưởng nhớ Sinh nhật món quà vạn an
Bình yên hạnh phúc Thiên Đàng
Lời chúc yêu kính của trang Long Hồ.

Kim Oanh

Thầy Trầm Vân Chúc Kim Oanh - Vu Lan 2015



Cám ơn nhiều lắm Kim Oanh
Chúc vầng trăng sáng tròn vành Vu Lan
Một mùa báo hiếu bình an
Tiếng chuông chùa đổ ngân ngàn lời thương

Ai còn mẹ đỏ hồng hương
Ai không còn mẹ trắng buồn hồng hoa
Ơn dày lòng mẹ công cha
Như là biển rộng như là non cao

Lời ru của mẹ ngọt ngào
Mãi theo con, mãi ngấm vào lòng con

Trầm Vân

Cảm Tác: Cát Bụi



Có phải em, mặt trời chiếu sáng?
Cố xua đi cho hết bóng đêm tàn
Để niềm vui chia xẻ bớt bi quan
Đời vẫn đẹp nhưng thật là ngắn ngũi!
Kiếp nhân sinh quay về khi đến tuổi
Thời trẻ trung chăm bón những chồi xanh
Lúc hoàng hôn công đức đã sẳn dành
Tuổi bảy mươi, thật gần với cát bụi
Dù thân hữu có ban nhiều an ủi
Nhưng cớ sao trong dạ thật bùi ngùi
Cuốn theo đời như nước ngược thuyền xuôi
Chờ hò hẹn lối về nơi khiết tịnh….
Đời lắm mộng ,miên man chưa kịp tỉnh
Kỹ niệm đầy, tình nghĩa nặng, đa mang
Kẻ độc hành thui thủi thật bàng hoàng
Mùi thế tục ngập đầy hồn đa cảm
Ai chẳng biết cuộc đời là giả tạm
Đã ra đi, tất phải có ngày về
Đêm sắp tàn lưu luyến mãi cơn mê
Hình hay bóng còn phiêu bồng cỏi thế?
Rất cảm ơn ,một ngày thật trọng thể
Xin một lần nắm lấy những bàn tay
Với những thân thương kết nối thật dài
Tình bằng hữu ,tình thầy trò thắm thiết

Kim Quang
***
Kính thưa Cô Hiệu Trưởng,
Kính xin viết lại bài thơ Cát Bụi của cô bằng thơ lục bát như sau:

Em là mặt nhựt sáng ngời,
Xua tan bóng tối, đêm dài miên man,
Để niềm vui hết bi quan,
Đời dù ngắn ngủi, ngập tràn ước mơ...
Kiếp nhân sinh khéo hững hờ,
Trẻ trung chăm bón, đợi chờ chồi xanh,
Hoàng hôn công đức sẵn dành,
Bảy mươi cát bụi, rành rành cổ lai,
Bạn bè an ủi hôm mai,
Bùi ngùi tất dạ biết ai ngỏ lời ? ...
Dòng đời nước ngược thuyền xuôi,
Lối về khiết tịnh, là nơi hẹn hò,
Miên man chưa kịp tỉnh mơ,
Nặng mang kỷ niệm tình thơ lỡ làng,
Độc hành thui thủi, bàng hoàng,
Vương mùi thế tục ngập tràn hồn đau,
Cuộc đời giả tạm lướt mau,
Đến đi, đi đến, làm nao lòng người,
Đêm tàn lưu luyến chia phôi,
Bóng hình chập choạng, là đời hay tiên?
Cám ơn, ngày đẹp nhãn tiền,
Bàn tay nắm lấy, nối liền bàn tay...
Thân thương kết nối thật dài,
Thầy trò, bằng hữu, nhớ hoài ngàn năm !....

Đỗ Chiêu Đức.

Cô Hồn



Rằm Tháng Bảy, xôi chè hoa bánh trái
Dọn lên bàn cúng xá tội vong nhân
Khói nhang thơm bay tỏa khắp dương trần
Vừa quay gót, mới hay cổ bàn mất

Ai hưởng lẹ chưa nguyện cầu trời đất
Cô hồn sống rinh nải chuối chia nhau
Ôm tất cả rượu bia lễ trước sau
Trong chốc lát biến mau chưa tùng thấy

Sợ chúng hơn cả những anh say quậy
Miễn lòng thành thấu lên tới cao xanh
Mong thượng hưởng, chủ nhà kính nói nhanh
Cô hồn sống hay âm binh cũng vậy

Chuyện xảy ra xô bồ chưa từng thấy
Họ đợi chờ thí phát ngày hôm nay
Chen lấn nhau để kiếm nhậu ăn mày
Kẻ sống chen lẫn với người đã khuất

Đói nhăn răng sống đời luôn khổ cực
Kẻ ăn không hết, người chết ai lo
Họ nghèo quá, đói nhịn thèm ốm o
Chờ cúng thí may kiếm thêm trừ bữa !

Mai Xuân Thanh
Ngày 20 tháng 08 năm 2015

Thu Giang Tống Khách 秋江送客 - Bạch Cư Dị


秋江送客         Thu Giang Tống Khách

秋鴻次第過, Thu hồng thứ đệ quá
哀猿朝夕聞。 Ai viên triêu tịch văn
是日孤舟客, Thị nhật cô chu khách
此地亦離群。 Thử địa diệc ly quần
蒙蒙潤衣雨, Mông mông nhuận y vũ
漠漠冒帆雲。 Mịch mịch mạo phàm vân
不醉潯陽酒, Bất túy Tầm Dương tửu
煙波愁殺人。 Yên ba sầu sát nhân
白居易)            Bạch Cư Dị(772-846)

Dịch nghĩa:

Mùa thu chim hồng ( một loài ngỗng trời) lần lượt bay qua
Vào buổi sáng và đêm tối những con vượn kêu nghe thảm thiết.
Ngày ấy khách cô đơn trên chiếc thuyền
Chỗ này cũng là nơi chia ly lìa đàn.
Mưa giăng mù mịt thấm ướt cả áo
Mây mờ mờ xuống thấp che khuất cánh buồm
Rượu Tầm Dương không thể làm say.

Cảnh khói sóng gợi buồn như giết chết lòng người.
------
Rượu Tầm Dương tống biệt dễ hồ say
Đàn thổn thức đau lòng người ở lại

Quên Đi
***
Các Bài Dịch:
Sông Thu Tiễn Khách


1/
Nhạn qua từng đàn một,
Vượn hú sớm chiều luôn.
Lẻ loi thuyền một bóng,
Ly biệt lệ sầu tuôn.
Mịt mờ mưa ướt áo
Mây giăng phủ cánh buồm
Rượu Tầm Dương không uống,
Khói sóng ngẩn ngơ buồn!

2/
Từng đàn hồng nhạn bay ngang,
Nỉ non tiếng vượn bàng hoàng sớm trưa.
Hôm nao trên bến tiễn đưa,
Lẻ loi một bóng khách chưa vơi sầu.
Lâm thâm ướt áo mưa ngâu,
Mây giăng buồm vướng biết đâu bến bờ,
Tầm Dương chén rượu hững hờ,
Trên sông khói sóng thẩn thờ lòng đau!

Đỗ Chiêu Đức.
***
Bên Sông Tiễn Bạn

Chim hồng bay lớp lớp
Tiếng vượn hú đôi hồi
Bữa nay thuyền bạn tếch
Nơi này ta tiễn ai
Mưa nhuần manh áo gió
Cánh buồm níu mây trời
Tầm Dương không say rượu
Khói sóng buồn chết người

Chân Diện Mục
***
Sông Thu Đưa Khách


1/
Thu về hồng nhạn bỏ trời ngâu ,
Vượn hú chiều hôm trổi khúc sầu!
Thuyền lẻ giờ đây ai chiếc bóng
Đàn đơn nơi ấy khách lòng đau
Mưa rơi rào rạc áo tơi ướt
Mây xuống giăng buồn bủa cánh nâu
Chén rượu Tầm Dương chưa lướt khướt
Trên sông, khói sóng để thêm rầu!!

2/
Thu về hồng nhạn đi đâu?
Chiều hôm vượn hú, khúc sầu triền-miên
Hôm nay một bóng khách thuyền
Nơi đây ly biệt nỗi niềm không nguôi
Mưa rơi thấm lạnh áo người
Mây đen giăng mắc cánh buồm lắt lay
Tầm Dương chén rượu chưa say
Trên sông , khói sóng cho ai đoạn trường

3/
Thu, hồng nhạn lướt thướt,
Chiều, vượn hú bi thương!
Khách, cô đơn thuyền lướt
Ly biệt, nỗi sầu vương
Mưa rơi, áo tơi ướt
Buồm đêm, gió mây nương
Tầm Dương, chưa say khướt,
Sông khói, để đoạn trường!!

Mailoc
***
Sông Thu Tiễn Bạn

1/
Đàn hồng nhạn bay qua lần lượt
Tiếng vượn buồn thảm thiết chiều trôi
Khoan thuyền bóng bạn đơn côi
Nơi nầy tiển biệt chưa vơi lệ sầu !
Ngày hôm ấy,mưa ngâu ướt áo
Sương Thu đầy phủ kín buồm xa
Đâu say bởi chén quan hà
Mà buồn nảo ruột, ngà ngà khói sương

2/

Cánh Hồng nhạn vào Thu bay đi mất
Vượn sớm chiều tha thiết hú buồn thêm
Chiếc thuyền con đơn độc giữa mông mênh
Chia tay bạn lệ sầu vương đôi mắt!
Ngày hôm ấy, mưa ngâu buồn chất ngất
Sương Thu đầy giăng kín cánh buồm xa
Rượu không say bởi nhấp chén quan hà
Mà não ruột vì khói sương mờ mịt

Song Quang
***
Sông Thu Tiễn Khách


1/
Thu đến chim hồng lũ lượt bay
Sáng chiều vẳng tiếng vượn buồn thay
Cô đơn khách đến thuyền hôm đó
Đưa tiễn người đi cũng chốn này
Mịt mịt mưa dầm trên tấm áo
Mờ mờ sương phủ kín buồm mây
Nào say bởi rượu Tầm Dương tiễn
Do cảnh đưa hồn chết lặng đây

2/
Chim hồng thu đến bay qua
Sớm hôm tiếng vượn kêu la não nề
Hôm nao tiễn bạn ra về
Khách thuyền cô độc ê chề kẻ đưa
Áo choàng đẫm ướt trong mưa
Buồm dần khuất dạng mây vừa phủ vây
Rượu Tầm Dương uống nào say
Sầu vương khói sóng lòng này lịm theo

Quên Đi
***
1/Cảm Tác Sông Thu Tiễn Khách

Từng đàn nhạn, sãi cánh bay qua,
Vượn hú chiều hôm, lại nhớ nhà.
Một chiếc thuyền con bơi lẻ bóng,
Hai người tạm biệt lệ chia xa.
Mưa rơi thấm ướt vai, tà áo,
Mây trãi buồm dong lạnh cắt da.
Rượu tiễn, Tầm Dương mùi vị đắng,
Ai hay khói sóng phủ hồn ta...


Mai Xuân Thanh
Ngày 23 tháng 08 năm 2015
***

Tiễn Khách Bến Sông Thu

Gọi bầy thu nhạn cũng bay nhiều
Thiểu não vượn buồn nhớ bạn kêu
Tách bến chiều nghiêng thuyền viễn khách
Rã đàn xế bóng đất cô liêu
Mưa giăng ướt áo trời thơ mộng
Gió lộng căn buồm tựa gấm thêu
Say khước Tầm Dương mà chẳng thấm
Chết người khói sóng lụy sầu yêu

Mai Xuân Thanh
Ngày 14/09 /2018


Ung Thư Cuống Phổi


Tôi có một người bạn, anh ta mắc chứng bệnh “Ung Thư Cuống Phổi”, cục Bướu ác tính to bằng cái chén nằm ở Cuống Phổi. Bác Sĩ nói về nhà ăn uống rồi chờ chết, không thể cắt bỏ được, vì cục bướu đó nằm sát với động mạch chủ.
Tôi đến chơi hỏi thăm, anh ta cho tôi xem hình chụp X-Ray của cục bướu.
Anh ta đã chữa trị bệnh Ung Thư bằng phương pháp dưới đây:
● Không ăn đường,
● Không ăn thịt, cá, cơm,
● Chỉ uống nước xay bằng rau, các loại củ như:
● Carrot, củ cải, củ dền, cam, táo ...
● Sau ba tháng uống liên tục, cục bướu to bằng cái chén từ từ thu nhỏ lại chỉ còn bằng cái khu chén.
● Sau chín tháng “Bướu Ung Thư biến mất”. Bây giờ anh ta khỏe mạnh, trở lại làm việc và ăn uống bình thường.
Bốn người cùng chứng bệnh Ung Thư như anh ta chữa bằng phương pháp “Chemical Therapy” đã chết hết rồi.
Những chi tiết của bài viết dưới đây rất đúng, tế bào Ung Thư khi đã không được nuôi dưỡng bằng Thịt Bò, Đường... thì nó sẽ phải chết.
Các Bạn nên phổ biến tài liệu này cho mọi người cùng biết
Đột biến của tế bào bình thường thành tế bào ung thư 

Một tài liệu nói về bệnh Ung Thư của: Bệnh viện Johns Hopkins, trường đại học Baltimore, Maryland ở Hoa Kỳ.
● Bài viết rất ngắn,
● Có nhiều điểm rất thú vị,
● Quí Vị đọc thử coi thấy sao?

Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới đã thay đổi quan điểm của mình về bệnh Ung Thư
● Xuân Phong dịch từ bản tiếng Pháp
● Tài liệu thảo luận của CFQ (Cercle Francophone à Quinhon) ngày: 21/3/2013
● Tài liệu này có giá trị nên đọc đi đọc lại.
● Bệnh viện Johns Hopkins là một bệnh viện trường đại học nằm ở Baltimore, Maryland ở Hoa Kỳ.
Được thành lập nhờ tài trợ từ John Hopkins, ngày hôm nay Trường Đại Học Johns Hopkins là một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới là năm thứ 17 liên tiếp được phân loại đánh giá ở vị trí hàng đầu (Số 1) trong bảng xếp hạng của các bệnh viện tốt nhất tại Hoa Kỳ.
● Sau nhiều năm nói với mọi người “Phương Pháp Hóa Trị Liệu” là cách duy nhất để điều trị và loại bỏ Ung Thư.
● Ngày nay: Bệnh viện Johns Hopkins đã bắt đầu nói với mọi người rằng: Đã có những lựa chọn thay thế khác với “Phương Pháp Hóa Trị Liệu” một cách hiệu quả hơn để chống lại Ung Thư là: Không nuôi các tế bào Ung Thư với các chất dinh dưỡng cần thiết cho nó để nó không thể phát triển được.

Thức Ăn Của Tế Bào Ung Thư:
A. Đường: Là một loại thực phẩm của bệnh Ung Thư:
● Không ăn “Đường” là cắt bỏ một trong những nguồn quan trọng nhất của các tế bào Ung Thư.
● Có sản phẩm thay thế “Đường như:Saccharin, nhưng chúng được làm từ Aspartame và rất có hại.
● Tốt hơn nên thay thế “Đường bằng:“Mật Ong Manuka” hay “Mật Đường” nhưng với số lượng nhỏ.
● Muối có chứa một hóa chất phụ gia để xuất hiện màu trắng. Một lựa chọn tốt hơn cho “Muối Trắng” là: “Muối Biển” hoặc các loại “Muối Thực Vật”.
B. Sữa: Làm cho cơ thể sản xuất chất “Nhầy”, đặc biệt là trong đường ruột.Tế bào Ung Thư ăn chất “Nhầy” để sống.
● Nên loại bỏ “Sữa Bò” và thay thế bằng: “Sữa Đậu Nành”, các tế bào Ung Thư không có gì để ăn, vì vậy nó sẽ chết.
C. Các tế bào Ung Thư trưởng thành trong môi trường Acid:
● Một chế độ ăn uống là “Thịt Đỏ” có tính Acid. Tốt nhất là nên ăn Cá, và một chút “Thịt Gà” thay vì “Thịt Bò” hay “Thịt Heo”.
● Hơn nữa, thịt chứa kháng sinh,Hormon và ký sinh trùng, rất có hại, đặc biệt đối với những người mắc bệnh Ung Thư.
● Protein thịt khó tiêu hóa và đòi hỏi nhiều Enzym. Nếu bệnh nhân ăn thịt thì khó tiêu hóa được, chất thịt sẽ ở lại trong cơ thể, nên dễ bị dẫn tới và tạo ra các độc tố nhiều hơn. 
Góp Phần Giải Quyết Vấn Đề:

1. Một chế độ ăn uống gồm:
● 80% rau trái tươi và nước ép, ngũ cốc, hạt, các loại hạt như: Hạnh Nhân (Almond) và một ít loại trái cây đặt cơ thể trong môi trường kiềm.

2. Bệnh nhân chỉ nên ăn:
● 20% thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu.
● Nước ép rau tươi cung cấp cho cơ thể co-enzyme có thể dễ dàng hấp thụ và ngấm vào các tế bào 15 phút, sau khi đã ăn uống nước ép rau tươi để nuôi dưỡng và giúp định hình các tế bào khỏe mạnh.
● Để có được các Enzyme sống, giúp xây dựng các tế bào khỏe mạnh, chúng ta phải cố gắng uống nước ép rau tươi (tất cả, bao gồm cỏ linh thảo) và ăn nhiều rau trái tươi từ 2 đến 3 lần mỗi ngày.
● Không nên dùng Cà Phê, Trà và Chocolat có chứa nhiều chất caffeine.

3. Trà Xanh: Là một lựa chọn tốt hơn vì có chất chống Ung Thư.
● Tốt nhất là uống nước tinh khiết hoặc nước lọc để tránh các chất độc và kim loại nặng trong nước thường.
● Không uống nước cất vì nước này có chứa Acid.

4. Các thành của các tế bào Ung Thư được bao phủ bởi một loại Protein rất cứng:
● Khi bệnh nhân không ăn thịt, những thành của tế bào Ung Thư sẽ sản xuất nhiều Enzym hơn, tấn công các Protein của các tế bào Ung Thư và cho phép hệ thống miễn dịch (Immune System) tiêu diệt các tế bào Ung Thư.

D. Một số chất bổ sung giúp xây dựng lại hệ thống miễn dịch (Immune System):
● Floressence, Essiac, chất chống Oxy hóa, Vitamin, khoáng chất, EPA, dầu cá … giúp các tế bào để chiến đấu và tiêu diệt các tế bào Ung Thư.
● Các chất bổ sung khác như: Vitamin E được biết đến bởi vì nó gây ra Apoptosis, cách bình thường của cơ thể để loại bỏ các tế bào vô dụng hoặc bị lỗi.

E. Ung thư là một căn bệnh của cơ thể, tâm trí và tinh thần:
● Một thái độ hoạt động và tích cực hơn sẽ giúp các bệnh nhân Ung Thư chiến đấu và sống còn.
● "Giận dữ và không hiểu biết, không tha thứ sẽ đặt cơ thể vào tình trạng căng thẳng và một môi trường Acid”.
● Học để có tâm hồn khả ái và yêu thương với một thái độ sống tích cực là rất có lợi cho sức khỏe.
● Học thư giãn và tận hưởng cuộc sống.

F. Các tế bào Ung Thư không thể sống trong một môi trường dưỡng khí (oxygénée):
● Luyện tập thể dục hàng ngày, hít thở thật sâu giúp lấy thêm nhiều Oxy vào các tế bào.
● Liệu pháp Oxy là một yếu tố giúp tiêu diệt các tế bào Ung Thư.
● Không để hộp nhựa trong Microwave.
● Không để chai nước trong tủ lạnh.
● Không để tấm nhựa trong Microwave.

G. Các hoá chất như Dioxin gây Ung Thư, đặc biệt là Ung Thư Vú:
● Dioxin rất có hại, đặc biệt là đối với các tế bào cơ thể.
● Đừng để trong tủ lạnh chai nước nhựa bởi vì nhựa sẽ "đổ mồ hôi" Dioxin và làm nhiễm độc nước uống.
● Gần đây, Tiến sĩ Edward Fujimoto, Giám Đốc chương trình Wellness ở bệnh viện Castle, xuất hiện trong một chương trình truyền hình giải thích sự nguy hiểm của chất “Dioxin”.
● Ông nói rằng: Chúng ta không nên đặt hộp nhựa trong Microwave, đặc biệt là các loại thực phẩm có chứa chất béo.
● Ông nói rằng: Do sự kết hợp của chất béo và nhiệt lượng cao, nhựa sẽ truyền Dioxin vào thực phẩm và do đó vào cơ thể chúng ta.
● Thay vào đó, các Bạn có thể dùng thủy tinh như: Pyrex hoặc gốm sứ để đun nấu.
Mặc Thái Thủy Sưu tầm 

Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

Thơ Tranh: Mắt Em Trong


Thơ: Lê Kim Thành
Thơ Tranh: Kim Oanh

Lòng Mẹ




Tơ trời ai để lọt qua rây
Từng sợi vây quanh dáng mẹ gầy
Khắc khoải hằng đêm nhìn góc bếp

Thẫn thờ mỗi buổi ngóng chân mây
Thương chồng nguyện ước chưa tròn vẹn
Xót cháu nồi cơm chẳng được đầy
Sinh kế lo toan, con tứ tán
Bao giờ mới đủ mặt về đây?!

Phương Hà
( Mùa Vu Lan 2015 )

***
Mẹ Ơi!

Lá biếc trời thanh nắng sớm rây
Mẹ thêm tàn tạ sức hao gầy
Mẹ thân cò trắng dầm sương tuyết
Mẹ,mẹ bồ nông hứng gió mây
Mẹ đức khiên nhu luôn tỏa sáng
Mẹ lòng quảng đại mãi đong đầy
Mẹ nay đã khuất,thương xa Mẹ
Mẹ thứ tha con bất hiếu đây!

Thái Huy
8-30-15

Tự Giác


Ngàn năm chôn xác chẳng chôn râu
Tây độ Lưu Sa cát đỏ ngầu
Sắc tức thị không từng thấy đó
Vô vô minh tận đã thiền đâu
Ngũ thời bát giáo còn chưa thuộc
Lục tặc tam bành mãi chấp câu
Cũng rắp tầm sư cầu Pháp Phật
Hiềm vì biển ái lở càng sâu!

Cao Linh Tử

Một Bài Haiku Của Matsuo Basho

Matsuo Basho (1644 - 1694): là một Thiền Sư người Nhật ,nổi tiếng về các bài Haiku , một loại thơ không có tựa đề , mỗi bài gồm 3 câu, thông thường câu 1 có 5 âm, câu 2 có 7 âm, và câu 3 có 5 âm. Sau đây là 1 trong số các bài nổi tiếng của Thiền sư, hậu thế đã tốn nhiều giấy mực luận bàn, một phần bị hấp dẫn bởi hình thức trình bày cô đọng, về một nội dung xúc tích, khó hiểu được hết ý nghĩa tiềm ẩn.


Bài Haiku Bằng Tiếng Nhật - Matsuo Basho (1644 - 1694)

Furu ike ya
Kawazu tobikomu
Mizu no oto
Dịch Nghĩa : Furu = xưa , cũ , ike = ao , kawazu = con ếch , tobikomu = nhảy vào , mizu = nước , oto = tiếng động. Còn "ya" và "no" ở đây được hiểu như là 2 liên tự. (Nguồn Internet )
Tạm Dịch:
Ao xưa
Con ếch nhảy vào
Tiếng động của nước âm vang

Bài Haiku Bằng Tiếng Việt
1/
Ao xưa mặt nước lặng
Vô tình ếch đâu bỗng nhảy vào
Tiếng xuân nào lao xao

2/
Ao xưa mặt nước lặng
Ếch đâu bỗng nhảy vào
Tiếng động nào lao xao
Buồn!
3/
Ao xưa mặt nước lặng
Ếch đâu bỗng nhảy vào
Tiếng động nào lao xao
Vui!
Lời Thêm: Tiếng động của một con ếch nhảy xuống ao xưa, như thể đã khơi dậy một dĩ vãng, tưởng như đã quên, mà thực ra, vẫn còn nằm yên đâu đó trong tiềm thức. Tiếng xuân nào lao xao, của đất trời một năm bốn mùa thay đổi hay của lòng người xa xứ, vốn đã ê chề vì mưa gió, một cảm giác êm đềm của tuổi thanh xuân, dù chỉ là trong một khoảnh khắc? PKT 08/21/2015

Phạm Khắc Trí
***
Các Bài Dịch Khác

1/
Đừng khuấy động
Hãy để mặt hồ êm ả giữa hoang sơ
Ếch vô tình rời bờ..
.
2/
Làm thân ếch tự chủ
Tuỳ ý nên không khuấy động nước hồ thu
Sướng.

Quên Đi
***
1/
Lặng lờ nước ao xưa,
Ếch mô sao vọt đại gương trong
Vang lên tiếng động lòng.

2/
Ao xưa nước trong veo
Ếch đâu vọt lẹ nghe cái vèo
Xao đọng lòng bỗng thấy vui theo

Mai Xuân Thanh
Ngày 21 tháng 08 năm 2015
***
Nơi chốn xưa ấy
Ếch vùng vẫy mặt ao
Làn nước lao xao động


Kim Phượng
***
1/

Và cả tui đây nữa
Lang thang đất khách đã nhiều năm

Đang mơ một chỗ nằm.

2/
Sương rơi và lá rụng
Ngơ ngẩn ta nhìn theo gió cuốn
Về đâu một kiếp người ?

Thái Huy
***
Mưa chiều ngập sân sau
Đêm tĩnh mịch ễnh ươn gợi nhớ

Trái mù u chợt tắt!

Cao Linh Tử
***
Sau cơn mưa chiều,
Chạng vạng ểnh ương kêu,
Cây bần lặp lòe đom đóm chiếu!...

Đỗ Chiêu Đức
***
Ao xưa nước bình yên
Con ếch nhảy vào làm xao động
Cho ếch đi trước đã! 


Nguyễn Đắc Thắng
20150824
***
Ao xưa khuấy đọng
Âm thừa dĩ vãng xáo lòng người xa
Ếnh nhởn nha rời bờ


Kim Oanh

***
Giọt sương rơi
Hồ gợn sóng
Thuyền lay động
Trôi 

Phương Hà
***
Mặt nước ao lặng lẻ
Bổng đâu thấy lao xao
Ếch con đã nhảy vào
Khuấy động hồn biết bao!
Vui hay buồn nói sao??


Song Quang

Bí Ẩn Của Cái Chết

"Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống. Hoặc là ta tảng lờ nó, hoặc là ta chạm trán với viễn ảnh cái chết của chính mình, và bằng cách tư duy sáng suốt về nó, ta cố giảm thiểu những khổ đau mà cái chết có thể mang lại. Tuy nhiên, trong cả hai cách, không cách nào chúng ta có thể thực thụ chinh phục được sự chết.". Đó là lời bình phẩm của Đức Đạt Lai Lạt Ma về sách "Tạng Thư Sống Chết", nguyên tác Anh ngữ "The Tibetan Book Of Living And Dying" của hòa thượng Sogyal Rinpoche.

Ai lại không chạm trán với cái chết vào một lúc nào đó? Hôm nay tôi lại nhận được sách cũng nói về cái chết, sách do một nhà văn Việt Nam viết. Đó là "Bí Ẩn Của Cái Chết", mà tác giả là nhà văn Thinh Quang. 

Nhìn vào hình bìa sách Bí Ẩn Của Cái Chết ta thấy ngay có chút gì nhá nhem kinh dị vì họa sĩ vẽ hình con ma và lưỡi đao, một dấu ấn biểu tượng cho tử thần bên mạng sống. Vậy nội dung sách của tác giả Thinh Quang là gì? và tại sao ông cho ra tác phẩm biên khảo này? Tôi nghĩ suy nhiều câu hỏi lắm, nhưng thôi xin phép quý bạn cho tôi tiết kiệm chữ nghĩa xin thưa ngay vào những gì tôi sẽ trình bày về Bí Ẩn Của Cái Chết và tác giả Thinh Quang (TQ), một nhà văn lão thành vốn tốt bụng, rộng lượng với tôi, chính ông đã dang tay đón tôi vào vườn hoa chữ nghĩa. Ngày xưa tôi đi ban toán, hết học luật sang kinh tế, rồi chạy nạn sang xứ Mỹ theo ngành điện tử như tình thế của những năm nước Mỹ khống chế lãnh vực điện tử khắp hoàn cầu. Khi đầu óc bận rộn với kỹ thuật thì tâm trí mệt mỏi, tôi tìm quên lãng vào sách báo, nhất là báo Việt ngữ. Vì sinh sống tại vùng Nam Cali nên báo chí ê hề đọc cả ngày, đọc hoài không hết chữ. Nhà văn Thinh Quang (TQ) trong những năm 1987 đến 1995, ông làm chủ bút tờ Viễn Xứ do nhà văn Phong Vũ làm chủ nhiệm. Ông tìm kiếm những cây bút trẻ để khuyến khích và nâng đỡ trao đổi ý tưởng khi viết văn. Có những dịp tôi và nhà văn Dương Viết Điền xuống vùng Monterey Park thăm ông, vì ông lớn tuổi không lái xe được, chúng tôi gặp nhau tại quán cơm Pháp Victory hay các quán Phở bàn bạc về văn, thơ và các số báo phát hành. Ông kể chúng tôi nghe nhiều chuyện xưa như vào năm 1942, 3 nhà thơ lớn Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Mộng Đài rủ ông ra sông Vực tại Thu Xã, Quảng Ngãi, chèo ghe trong đêm trăng rằm chiếu sáng lấp lánh, ông bỗng cảm hứng ra bài thơ "Hoa Thơ", ba nhà thơ đàn anh khen hay và đề nghị sửa ít chữ cho hoàn mỹ. Sau đó tờ Đông Pháp tại Hà Nội đăng và ông nhận được nhiều thơ khen tặng để rồi từ 1942 nhà văn Thinh Quang đã bước vào làng văn thơ Việt Nam. Nhạc sĩ Dương Viết Điền sau này phổ nhạc bài "Hoa Thơ " mà tôi nghe anh ca trong một dịp kỷ niệm họp ban biên tập tờ Viễn Xứ. Lời nhạc của bài "Hoa Thơ": 



"Nhấp nhô dòng sông VựcBuổi sáng dậy tình Xuân
Mái chèo tung ngọc ướt
Sao rớt nhẹ xuôi dòng
Nghe nước rào róc rách
Là tiếng nhạc chiều thơ
Tre cong mình xỏa tóc
Nhìn bóng rũ sông cười
Nghe như tình thiếu nữ
Vừa chớm nụ đôi mươi
Nghe như hồn lãng tử
Trôi dạt giữa dòng đời
Sông nằm treo bãi cát
Mình nạm hạt trân châu
Mây lặng lờ phiêu bạt
Điểm điểm giọt mưa ngâu
Xuân chiều nghe bỡ ngỡ
Thuyền lặng ngắm mây mờ
Bên kia trời Thiên Ấn
Khuất sau lũy tre xanh
Bên đây trời Long Phụng
Ẩn hiện khóm mây vàng
Phượng mào lông sắc tía
Điểm điểm cánh mơ giăng
Nhìn ra ngoài biển cả
Sóng nước dậy tung tăng
Hương thơ chừ bốc khói
Đẹp tợ mộng thiên thai
Xuân tràn lên biển ái
Nhạc vàng quyện mây say
Ngự thuyền nơi sông Vực
Cúi hái mãnh trăng mờ
Mơ cảnh Động Đình Hồ
Đôi ta chừ Lý Bạch
Vỗ tay cười khanh khách
Cầm bút trổ hoa thơ.
(Thinh Quang, sông Vực, 1942)




Nhà văn TQ từng làm giáo sư dạy các môn Việt văn và Pháp văn. Ông trải qua một quãng đời thật dài trong ngành báo chí, ông cộng tác viết bài cho nhiều báo Việt ngữ, cũng như giữ chức chủ bút trong rất nhiều tờ báo từ trước và sau 1975, tôi nhớ là Tin Điển, Tin Mới, Tin Sớm, Trường Sơn, Dân Luận, Hồn Việt, Trắng Đen, Viễn Xứ, Tri Thức, Đại Chúng, tuần báo New York Times (tiếng Việt). Ông có những chuyện dài đượm màu sắc quê huơng, hay miền quê có hương đồng gió nội mà tôi đọc trên các báo như: Mưa Bên Này, Nắng Bên Kia, Như Loài Hoa Dại hay Như Hạt Sương Mai. Ông cũng viết nhiều văn chương biên khảo, và cho xuất bản các sách như:
- Văn Hóa Đông Phương (Biên Khảo, năm 1943) 
- Chú Mẻng (Chuyện Dài, năm 1944) 
- Nắng Thôn Đoài (Chuyện Dài, 1983) 
- Hỏa Thiêu Thiên Đàng (Tiểu Thuyết Phóng Sư, 1986) 
- Hy Mã Lạp Sơn (Biên Khảo, năm 1987) 
- Con Rắn Lửa Huyền Bí Trong Nền Triết Học Đông Phương (Biên Khảo năm 1988) 
- Bí Ẩn Của Cái Chết (Biên Khảo, 2005) 
*** 
Phần hai của bài viết tôi xin điểm qua vài nét tiêu biểu của tác phẩm "Bí Ẩn Của Cái Chết". Tôi có lý do riêng tôi thích nó, dù là tính cách riêng tư, cá nhân hay tôn giáo hay trách nhiệm của một bản thể trong xã hội, cái chết có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào, và bất cứ từ nơi đâu…Trang 14 của sách, TQ mô tả những dòng cảm giác trước cái chết thì người ta chợt nghĩ gì. Hình như người ta có khuynh hướng dựa vào niềm tin tôn giáo để an ủi mặt tâm linh. Điều này đúng với cá nhân tôi. Hãy đọc những dòng văn trong sách TQ về phút cuối khi lâm chung: 

"Chết" - quả hãi hùng đến cực điểm - chẳng có lời nào làm xóa nhòa hay chứng minh cho nó. Tuy vậy người ta vẫn nói đến sự kiện hiện hữu của mình ở giữa không gian và luôn cả thời gian cùng khoảng cách nhau giữa con người với con người. Khoảng cách không rõ cái vỏ tạm thời được mượn đó còn bao xa nữa thì sẽ đến phiên mình sẽ được vùi sâu dưới lòng huyệt lạnh, bao xa nữa thì cái thây ma này sẽ xa rời vĩnh viễn cái cõi đời này?! Cái khoảng cách đó biểu trưng cho sự lo âu khác biệt của mỗi người chúng ta hoặc tự chọn lấy bóng đêm làm sự an ủi cho mình hay chọn lấy niềm tin ở một trong các tôn giáo hiện hữu giữa trên thế gian để dẫn độ mình đến chốn Thiên Đường hay miền Cực Lạc..." 

Tôi nhớ lại cái cảm giác sợ hãi lần đầu tiên tôi bị chứng bệnh tai biến mạch máu não. Nhìn đồng hồ trên tường trong phòng làm việc của tôi chỉ 6:30 chiều tối mùa đông vào dịp lễ cô hồn Halloween, tôi cảm thấy tức ngực, tay chân bên trái có cảm giác tê rần rần như kiến bò, mắt hoa, tai ù, miệng tôi chỉ ú ớ kêu cứu. Buổi chiều vào ngày thứ năm Halloween các cô thư ký, nhân viên phòng về hết, cả khu hành chánh rộng lớn nghe trong hiu quạnh, lặng lẽ, và xung quanh tôi sao im lìm buồn bã, yên tỉnh như khu nhà ma, người tổng giám đốc tài chánh, sếp trực tiếp của tôi nghe được tiếng la thất thanh cầu cứu của tôi, ông vội chạy qua văn phòng tôi, huhu… ông thấy tôi té ngã xuống sàn nhà từ bao giờ, tôi mệt mỏi liếc nhìn ông như một vị cứu tinh. Ông CFO này đã gần 70 cổ lai hi, người ốm yếu chẳng giúp tôi nổi vì tôi to con hơn ông. Vả lại vì lần đầu tiên ông đối diện với tình huống như thế này, tôi biết ông luống cuống mất bình tỉnh thấy rõ khi cầu cứu đến một đồng minh khác, ông gọi ngay ông CEO sang vấn kế sau khi gọi ambulance, tôi nhìn hai ông già sếp tôi mỗi lúc càng mờ hơn, hai ông trao đổi ý kiến xem tôi bị chứng bệnh gì. Cá nhân tôi lần đầu bị chứng tai biến mạch máu nên chẳng có kinh nghiệm, rồi tôi cũng hoang mang và mỗi lúc tôi linh cảm mình sắp chết vì sức đuối. Khi các mạch máu li ti trên vùng não bộ phải bị vỡ ra, tim bơm nhồi làm tràn máu vào các vùng trên bán não, tôi bắt đầu rơi vào cơn hôn mê, mắt tôi nhắm nghiền lại, cơ thể run rẩy co quắp lại trong đau đớn. Tôi có cảm tưởng mình sắp chết, vì dưỡng khí thiếu trên óc làm cho óc tắt lịm từ từ, tôi yếu ớt và rồi tôi hôn mê thiếp đi. 

Trước cơn nguy khốn con người dựa vào niềm tin vô hình nào đó, tôi nhớ lại rằng mỗi đêm tôi thắp nhang khấn vái Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Bà Quan Âm tại nhà tôi, vì đó là nhu cầu tâm linh mà tôi vẫn quen nương tựa hay bám víu vào khi gặp khổ nạn chúng sinh, và trong phút lâm nguy khi té ngã đó trước khi choáng váng té ngã, tôi niệm kinh cho tâm tôi bình tỉnh hơn. Khi bệnh nhân cầu cứu các đấng tối cao thì không có nghĩa là mê tín, mà nó chỉ là nhu cầu của bản ngã tâm linh, nhu cầu tâm lý được cứu rỗi mà thôi. Trang 15, Thinh Quang dùng lý luận của Léon Denis trong tác phẩm “Sau cái chết” (Apres La Mort) là nhu cầu tâm linh thuộc phần linh hồn, còn cơ thể là phần xác, thể xác khi chết đi chỉ trở về với cát bụi. Trên thế gian này tất cả vật thể chịu sự chi phối của một nguyên tắc bất biến của vũ trụ bao la, những bản thể vật chất cuối cùng đều chịu sự tan rã, mục rửa để biến thể khi vào lòng đất. Tuy nhiên các tôn giáo đồng ý với nhau phần tâm linh như linh hồn hay hương linh vẫn lãng vãng trong thế giới siêu hình, mà người sống hay các thân nhân còn hiện hữu muốn cầu xin cho người ra đi sớm về cõi phúc của cõi Thiên Đường hay miền Cực Lạc mà Thinh Quang đề cập phần trên. 

Chương kế tiếp khi Thinh Quang bàn luận về cái thế giới huyền bí của mộng và thực trong bí ẩn của thế giới của cõi chết vốn siêu hình trong quan niệm của người Đông Phương. Tiến sĩ người Anh quốc W.Ỵ Evans Wentz năm 1927 sau khi sang Tây Tạng tìm hiểu những huyền thoại bí ẩn của người Phương Đông trở về, ông viết cuốn sách "Tạng Thư Về Cái Chết" (Tibetan Book of The Dead), xuất bản bởi đại học Oxford. Ông nghiên cứu những trạng thái theo ý nghĩ thần thoại của người dân sinh sống vùng núi Hy Mã Lạp Sơn, đối với cái chết có 3 giai đoạn quan trọng, gồm trước khi chết, phút lâm chung ngắn ngủi trước khi xa lìa trần thế, và sau khi chết. Theo quan điểm biên khảo hay phân tích có tính cách lý luận, người đi tìm sự thật họ dùng bút pháp tìm hiểu cặn kẽ tới nơi tới chốn, để rồi đề tài Huyền Bí Đông Phương được xem là một môn học cấp đại học. Trong ba giai đoạn như đã nói, phút lâm chung rất quan trọng vì đó là khoảng khắc sát na khi linh hồn lìa thể xác. Có thể rằng ta thấy kẻ hấp hối than khóc, hối tiếc hay có những cử động lưu luyến là vì họ vẫn bám víu lấy cõi nhân thế, họ chưa biết đi về đâu trong sự lạc lỏng của thế giới bên kia, trong khi thân nhân họ trong sự thương yêu muốn giữ chân họ lại hay là cầu xin cho họ được an bình ở nơi chốn thánh thiện nhất. Các thiền sư Tây Tạng trong ý niệm chết là giải thoát nợ chúng sinh, nên họ suy luận cái chết của con người không ở ngoại vi của thể xác, mà nó nằm bên trong của vị thế thiêng liêng cao quý nhất để con người được về cõi vi diệu của thế giới bên kia. 

Trong giới nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng thường biết đến một danh sư về Phật học, nhất là chủ đề sự giải thoát của bản ngã hay sự sống và chết qua quyển hồng thư "Tạng Thư Sống Chết", do thiền sư Sogyal Rinpoche viết. Thiền sư Rinpoche được ngài Đạt ma Jamyang Khyentse Chökyi Lodrö nuôi dạy, truyền bá kinh kệ, lý thuyết Phật học. Do kiến thức uyên thâm hấp thụ từ một trong các vị cao tăng danh tiếng trong hàng giáo phẩm Phật giáo Tây Tạng, các đại học lớn của Anh Mỹ từ Oxford, Cambridge đến Havard hay Yale rất trọng vọng ngài. Những năm đầu thập niên 70 ngài theo học tại Cambride, sau khi hoàn tất xong nhiều văn bằng cao học, ngài thường được mời làm giảng sư trong các chủ đề chuyên môn về Phật học. Cuốn sách ngài viết đã nói trên được dịch ra 29 ngôn ngữ khác nhau, được truyền bá ở 56 quốc gia trên thế giới như một tài liệu diễn giảng và tham luận biên khảo. Nhà văn TQ dùng ý tưởng của thiền sư Sogyal Rinpoche trong các trang 26 và 27. 

Sau cái chết chúng ta đi về đâu? 
Đây là câu hỏi rất hay, rất chí lý. Sống gởi trần tục, thác về nơi mô (?). Người quá cố được người ở lại lo cho nơi an táng đẹp đẽ tại những nghĩa trang êm ấm hay tẩm liệm trong bộ cỗ quan lộng lẫy, đắt tiền kia mà. Đức Khổng Phu Tử ngôn là "tử giả biệt luận" vì chết là hết, hết những ràng buộc, hết những suy tư hay những khổ đau, ưu phiền. Câu nói trên vô cùng hữu lý vì cứu cánh của sự sống là sự chết như sách của học giả Rinpoche đề cập để mọi bản thể quay về với cát bụi trần gian. Như vậy xác thân ta trở về với cát bụi. Trang 29 sách TQ nói về sự Thiện Ác khi chúng ta còn sống để liên hệ về phần an ủi cho tâm linh. Do vậy khi hữu sinh, con người luôn luôn khuyến khích làm điều lành, tránh điều dữ, phải chăng đó là cứu cánh của giá trị chân thiện mỹ cho tâm hồn? 

Quan điểm triết học về nỗi sợ hãi về cái chết: 
Trang 75 hay trang 92 và 93, Thinh Quang dùng sự tham luận lý thuyết của triết gia Arthur Schopenhauer. Triết gia này vốn có những tác phẩm tiêu biểu về đề tài liên quan ít nhiều về cái chết, ba tác phẩm của ông khá nổi tiếng là: "Sống xa hoa trong hiện hữu" (On the Vanity of Existence), "Thế giới khổ đau" (On the Sufferings of the World) và "Tự Vẫn" (On Suicide). Schopenhauer cho là ngày nào mà chúng ta muốn sống trong kiếp hiện tại, thì ta không nên bận tâm làm gì về cái hiện tại của sự hiện hữu của mình chi nữa. Hãy thản nhiên quên đi nỗi lo sợ về cái chết để tâm được bình an. Ông cũng biện luận bằng câu nói của triết gia Socrates là: "Chết chính là nỗi ưu tư không ngừng nghỉ của con người". Thế nên con người cứ mãi bị ám ảnh bởi cái chết. Mặt khác khi trình bày về nỗi lo sợ cái chết của con người, tôi tham luận bài biên khảo của giáo sư Jerry S. Piven dạy tại NYU (New York University), chuyên khoa Phân Tâm Học về Cái Chết, Tôn giáo và Tâm linh. Tiến sĩ Piven diễn giảng tại nhiều nơi về đề tài "Lo âu về nỗi chết, Phân tâm học và Tiến trình tạo ảo giác" (Death anxiety, psychoanalysis and creating illusions), ông dùng sách của Ernest Becker về "Ý Nghĩa của Sinh và Tử" (The Birth and Death of Meaning) đưa ra quan điểm của nhà phân tâm học Sigmund Freud. Trong khi triết gia J.J. Rousseau lập luận con người từ thơ ấu vốn tốt hoàn mỹ, nhưng rồi xã hội làm hủy hoại đi đức tính ban đầu, mà bên Đông Phương Đức Khổng Tử có cùng ý nghĩ: "Nhân chi sơ tính bản thiện". Freud theo tiến trình tương đồng khi lập luận thuở ban sơ con người vô tư chẳng biết gì, theo tiến trình cuộc sống con người trải qua những khổ đau, những ganh tỵ, những đua chen, những tội lỗi xấu xa, những đầy đọa xâm nhập tâm tư. Những nỗi ám ảnh bởi chết chóc của người xung quanh làm ta khiếp sợ, chính vì bản ngã ích kỷ sợ sệt cái đau khổ từ nỗi chết chóc, và tạo ra tâm lý khiến con người không muốn đối diện với chết chóc. Sự sợ hãi cái chết như triết gia Nietzsche phân tích nó chỉ là sự trở về từ ý nghĩ cũ, kinh nghiệm hiểu biết cũ chôn sâu trong tiềm thức. Đó là quan niệm sợ hãi vị kỷ (egoism), khi tâm lý vị kỷ lên cao hơn thì là siêu vị kỷ (super-egoism). 

Ta không sợ lưỡi hái của Tử thần: 
Khía cạnh thứ hai mà sách Thinh Quang đề cập đến nơi trang 20, có những người đối diện với tử thần trong tâm trạng chấp nhận sự kiện khi xảy ra cho họ. TQ viết:"Chết ư?Chẳng có gì đáng sợ.Nó chỉ là một hình thức chuyển tiếp từ sự sống này sang sự sống khác.Chỉ có sự trốn sống mới đáng sợ.Cái chết chỉ là một hư từ để phản nghĩa cho cái sống." 

Với lập luận không sợ tử thần khi con người chấp nhận đối diện thì xứ Phù Tang cho ta nhiều trường hợp để dẫn chứng ví dụ. Trang 96 bàn luận về vấn đề cách chết. Chết như thế nào là chết. Chết do bệnh tật hay thiên nhiên là ngoài ý muốn, chết do tự tử mà báo chí, truyền thông vẫn loan tin mỗi ngày. Những cái chết do sắp đặt, do dự mưu và do ý nguyện của cá nhân. Lý tưởng đấu tranh cho sự sinh tồn hay biểu tượng cho gương hy sinh trong lịch sử cho ta thấy có các nhóm Thermapolyae của quân đội Hy Lạp, nhóm Kamikaze hay các Samurai của xứ Phù Tang hay Jihad của các xứ Hồi giáo. 

Tại Nhật Bản, người ta viết sách dạy con người cách thức tự tử, số thanh thiếu niên tự tử gia tăng, cái chết do tự nguyện, tự ý tạo mối lo âu cho xã hội, lắm khi có những bí ẩn của những cái chết trẻ măng nghe như hoang đường. Chết là một phong trào của tuổi trẻ, chết vì thử cách dạy tự vẫn, hay chết vì tử thần sai khiến... Theo cơ quan WHO số người tự tử mãi gia tăng, cao nhất các xứ ở vùng Baltic cạnh Địa Trung Hải trung bình cứ 100,000 thì có 40 người tự tử, cho đến năm 2020 thì WHO tiên đoán số người tự tử trên toàn thế giới sẽ là 1.5 triệu nhân mạng. Tuy vậy, khi bàn về những lý do để người ta dễ dàng hy sinh mạng mình cũng vì có những ám ảnh bởi mẫu người hùng, phát sinh do sự cuồng nhiệt mà người ta sẵn lòng chết vì yêu, chết vì tôn giáo, chết vì lý tưởng cá nhân. Hiện trong cuộc sống vấn đề tự sát trên thế giới xảy ra do áp lực đời sống, ý kiến cá nhân, ví dụ người ta ôm bom để tự hủy hoại mình và người khác, hay thống kê cho biết tại các xứ Nhật, Trung Quốc và Đài Loan nhiều thanh niên nam nữ tự vẫn vì không hài lòng với cuộc sống xung quanh. 

Tiếp theo phần mạn bàn về xứ Phù Tang kiêu hùng và lạ lùng thì nước Nhật vốn nổi tiếng qua các gương can đảm của các phi đội Thần Phong Kamikaze hay các kiếm sĩ đạo chết cho danh dự và lý tưởng quốc gia. Cái lý tưởng Hagakure chết cho danh dự qua phong cách tự tử lao phi cơ vào mục tiêu của đối phương của những anh hùng Kamikaze hay các kiếm sĩ Samurai tự rạch bụng chính mình để giữ thể diện của đấng nam nhi. Điều chắc chắn họ biết cái chết sẽ đến đấy chứ, nhưng họ không mảy may sợ sệt.
  
Võ Phiến viết về cái Chết:
Nhà văn lão thành Võ Phiến viết bài tham luận "Cái Chết Như Một Phát Biểu", ông cho biết những nguyên do của cái chết tại xứ của các con cháu Thái Dương Thần Nữ Nhật Bản là: 
"Kinh doanh thua lỗ: tự tử. Đánh giặc thất trận: tự tử. Yêu nhau gặp trục trặc, người Nhật cũng chết nhiều, và chết đúng phép tắc. Hiệp sĩ tự sát bằng phép mổ bụng; tình nhân muốn chết đúng cung cách phải tự buộc mình thật chặt từng cặp, rồi cùng nhảy xuống nước. Phép ấy gọi là sinju. 

Doanh nhân, quân nhân, tình nhân tự huỷ mình, đối với những cái chết ấy chúng ta dẫu sao cũng ở ngoại cuộc. Đến như về cái tự tử của các văn nhân thì chúng ta không khỏi lấy làm nghĩ ngợi. 

Văn nhân Nhật Bản cũng tự tử nhiều. Nhân cái chết gây chấn động lớn của Yukio Mishima độ nào, một tác giả có liệt kê danh sách mười nhà văn Nhật tên tuổi đã quyên sinh từ đầu thế kỷ. Vả lại chỉ hơn một năm sau Mishima, vị đàn anh lỗi lạc là Kawabata cũng tự ý ra đi luôn, gây tiếc thương khắp hoàn cầu..." 

Và Võ Phiến nói về sự huyền bí của những cái chết như: 
"Thất bại, khổ đau, không phải là yếu tố gây nên những cái chết này. Vậy có một sức huyền bí nào ở chính họ thu hút họ về cái chết chẳng có một sức thu hút khó hiểu như thế, tác động ở Nhật mạnh hơn ở mọi nơi khác chẳng đố ai dám vỗ ngực giải đáp! Chỉ biết trong một số trường hợp dường như có thể nhận thấy những dấu hiệu mơ hồ... Dân tộc Nhật, họ chết lấy thì nhiều, và cái tuyên bố của họ thật phong phú, trong nội dung cũng như trong hình thức. Để phản đối họ dùng cái chết; để bày tỏ sự tán thưởng, họ cũng chọn chết! Vì nội dung phức tạp nên trong phô diễn cần lắm dạng thức cho thích hợp. Hoặc một dàn dựng lâm ly tình cảm cho giai nhân tài tử, hoặc một cảnh hùng tráng xứng với đoàn hiệp sĩ quyết tâm, hoặc dáng cách ung dung thư thái khi thi sĩ đi vào cảnh thần tiên tuyệt mỹ.." 

Võ Phiến dùng ý kiến của triết gia Albert Camus vốn hậu thuẫn khi đề cao cái chết do tự vẫn: 
"Albert Camus đặt nặng chuyện tự tử. Ông bảo: “Chỉ có một vấn đề triết lý thực sự nghiêm trọng: đó là tự tử và cho rằng cuộc đời đáng sống hay không đáng sống, ấy là giải đáp cái thắc mắc căn bản của triết học” (Huyền thoại Sisyphe). Camus có vẽ chuyện ra không có lớn lối quá đáng không? Thường thường khi tự tử mấy ai suy nghĩ về giá trị của cuộc sống, mấy ai chú tâm vào vấn đề cuộc đời có đáng sống hay không đáng sống?Thật tình mà nói, phần lớn các vụ tự tử chẳng qua là để bày tỏ một sự tuyệt vọng, một phẫn uất, một giận hờn, phản đối, oán trách, thù hận v.v... Kẻ tự tử không hơi đâu đánh giá cuộc sống. Nói chung, vấn đề đặt ra không phải “Cuộc sống có đáng sống không”, mà là “Cuộc sống của tôi có đáng sống không, có đáng công tiếp tục không”. Đây không phải là một thắc mắc triết lý. Hẹp hơn nhiều. Ngay cả cái phát biểu của người Nhật — bất cứ là doanh nhân, quân nhân hay văn nhân — cũng không là một giải đáp triết học..." 


Trong bài bình luận của giáo sư luật khoa George Bachrach dạy tại trường luật khoa Boston được đăng trên báo Boston Globe, bài viết mang tiêu đề "Chết trong nhân phẩm" (Death with dignity) ông biện minh cho việc làm của vị bác sĩ Tử thần, Dr. Jack Kervoikian, khi tiếp tay trợ giúp đưa những bệnh nhân khổ đau của ông sớm về bên kia thế giới. Hậu quả ông bị luật pháp kết án tội sát nhân và tống giam ông vào tù. GS Bachrach nói, khi nền y khoa tiến bộ giúp con người sống lâu hơn, nhưng sống lâu đến 80 hay 90 để làm gì khi có những bệnh nhân thân xác có đó, nhưng tâm hồn không còn minh mẫn, sáng suốt làm chủ lấy mình thì chỉ là khổ nạn hay thân xác chịu nỗi khổ đau bệnh hoạn trầm kha thì bác sĩ Kervoikian làm đúng khi cho bệnh nhân của ông chọn giải pháp ra đi trong danh dự, trong nhân phẩm và theo ý nguyện của họ. Ví dụ khác tôi đọc trong sách TQ, đề cập vụ án xã hội rất thương tâm nhưng nhiều nhiêu khê như mới gần đây, tháng 2, 2005 dư luận Hoa Kỳ đã xôn xao về trường hợp cô Terry Schiavo nên hay không nên cho cô ra đi. Schiavo bị hư hại chức năng của não bộ trong hơn 13 năm được nuôi qua ống truyền thức ăn đặt nơi bụng. Cô nằm liệt giường và mất hết sinh khí của một cuộc sống bình thường, nhưng cô không đủ năng lực sức khỏe và cũng như trí tuệ sáng suốt để nói cho mọi người chung quanh rằng cô muốn sống như vậy hay không để thân nhân khỏi phải tranh cãi vì cô ngoài tòa án. Cũng như tôi có người bạn trai từ Singapore sang Mỹ lập nghiệp, rồi anh bị chứng bướu não gây cho anh bị hôn mê quá lâu ngày, cuộc sống của gia đình vợ con khổ sở, mệt mỏi, bảo hiểm từ chối gia hạn, người vợ tuyệt vọng đành cho anh ra đi. Hậu quả là gia đình chồng bay sang Mỹ nặng nhẹ là chị giết chồng. Tôi có cảm giác như vụ Schiavo thứ hai. Với những ai chẳng may đã bị chứng tai biến mạch máu não hay bướu óc hay một hình thức não bị hư hao, ý nghĩ cá nhân tôi khá rõ ràng, tôi thích quan điểm công bằng trong cuộc sống, khi thời điểm đến hãy chấp nhận sự thật, hãy tự giải thoát cho bản ngã, hầu tránh khổ lụy trầm luân. Tôi nói với gia đình và bạn bè thân tôi muốn ra đi trong danh dự, tôi đồng ý với quan điểm của GS Bachrach về cái chết bảo toàn nhân cách, không phiền hà, phiền lụy người khác. Nếu sống thì phải biết thưởng ngoạn cuộc đời thì mới đáng sống, ngược lại khi tâm hồn không còn làm chủ thể xác hay thể xác quá yếu đuối cho tâm hồn được sống và sinh hoạt bình thường thì vị bác sĩ Tử thần có lý do biện hộ cho ông. Cuối cùng vẫn là khi ta chờ Thần Chết nơi ngõ cụt, khi xác thân trong phiền não, đọa đầy, cứ mãi khốn khổ hay sầu não huhu thì viễn ảnh cuộc đời chỉ là màn đêm buông xuống của sự tịch liêu. Đơn cử trường hợp tổng thống Reagan thật tội nghiệp, tôi mến văn ông viết cũng như óc khôi hài rất duyên dáng, ý nhị của ông. Nhưng những năm tháng cuối đời, ông không nhận diện được chính mình, khi ta đánh mất cái ta chỉ là sự tội nghiệp, đáng thương. Với tôi trong phút giây đó sự danh dự cho bản thân là hay hơn cả. 

Có một lần tôi cùng hai nhà văn Thinh Quang và Dương Viết Điền dùng cơm trưa tại tiệm ăn Victory, nơi chúng rất thích gặp nhau vì tiệm bán cơm Tây, anh Dương Viết Điền nói đùa là cả ba chúng tôi đều là 3 cây bút có lẽ không xa ánh hoàng hôn của cuộc đời, tôi phát lên cười đề nghị rằng hễ ai đi trước thì người còn lại sẽ khóc tiễn đưa bằng ngòi bút hay bằng thơ văn, anh Điền ngâm 2 câu thơ của thi sĩ Thâm Tâm qua bài "Tống Biệt Hành": 
"Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?"
Chú Thinh Quang mỉm cười hòa đồng, tôi biết ông ở tuổi đời hơn bát thập tuần đã mệt mỏi rồi. Những ngày trẻ trung của lứa tuổi 20 khi mới vào Sài Gòn tập sự làm báo với sự nâng đỡ của nhà thơ Hàn Mặc Tử, ông hăng say làm việc, viết lách ngày đêm. Nhờ những tháng ngày xa xưa đó, ông biết cuộc đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử trong những lúc hai ông gặp nhau, ông nói rằng Hàn Mặc Tử dù nổi danh, nhưng tánh tình thường nhún nhường, chính chú  Thinh Quang cung cấp cho tôi những dữ kiện khi viết bài về Hàn Mặc Tử. Khi ông cho tôi biết ông đang viết cuốn biên khảo về cái chết, tôi nhăn mặt nói với ông sao chọn đề tài buồn bã và rợn tóc gáy quá. Ông bảo ai tránh được cửa ải này. Hơn nữa đây là đề tài tự nhiên, mang nhiều triết lý sống, cũng chết, hiện nay nhiều đại học có các môn chủ đề về cái chết giảng dạy cho sinh viên.


Kết Thúc hay Ra Đi Trong Danh Dự: 

Thực vậy, đọc sách Thinh Quang viết về cái chết trong quan điểm biên khảo, ông trình bày các lập luận cho người đọc có nhiều cái nhìn khác nhau và từ đó tự lấy kết luận cho chính mình. Trong vòng lẩn quẩn của tiến trình "sinh, bệnh, lão, tử" thì mấy ai cãi lại được số mạng, và mấy ai cưỡng lại thần chết khi mà thần đến viếng ta, mà trang 65 và trang 156 trong sách Bí Ẩn Của Cái Chết đã bàn nhiều về điểm này rồi. Nếu biết cái Chết sẽ đến, thì tại sao ta không thử tìm hiểu rằng ta sẽ nghĩ gì và đối phó ra sao khi Tử Thần chìa tay bắt xã giao và trao ta vé one-way ra đi trong danh dự cuối đời. Bằng những lời lẽ này, tôi xin kết thúc bài viết về sách Bí Ẩn Của Cái Chết, mà tác giả là nhà văn Thinh Quang. 

Việt Hải, Los Angeles