Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Khánh Hà Đề Thơ


Thơ: Khánh Hà
Thơ Tranh: Kim Oanh

Đăng U Châu Đài Ca - 登幽州臺哥 Trần Tử Ngang

Nhân đọc bài "Ngày Trở Về-Ông Giáo Già và Nỗi Cô Đơn" của Thầy Phạm Khắc Trí, trong đó Thầy có đề cập đến bài "Đăng U Châu Đài Ca", Quên Đi kính gởi đến Vườn Thơ những cảm nhận của riêng mình.
Tâm trạng của một người biết lo đến an nguy cho xã tắc. Các bậc minh quân ngày xưa đã khuất, chẳng lẽ từ nay về sau không còn có minh quân? Trần Tử Ngang đã nói lên nỗi bi thiết trong lòng qua bài thơ Cổ Phong "Đăng U Châu Đài Ca".



登幽州臺哥
陳子昂

前不見古人,
後不見來者;
念天地之悠悠,
獨愴然而涕下。

Diễn Dịch Hán Việt:

Đăng U Châu Đài Ca
Trần Tử Ngang


Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Độc sảng nhiên nhi thế hạ

Diễn Nghĩa Nôm: Bài ca lên U Châu Đài

Phía trước không còn thấy người xưa
Phía sau cũng không thấy người được như người xưa xuất hiện
Nghĩ trời đất thật mênh mông
Một mình thương cảm nước mắt tuôn rơi.

(*) U Châu thuộc phía Bắc nước Yên. Đài U Châu thời Đường chỉ là một thành trì nhỏ. Nay là Bắc Kinh.

Các Bài Dịch Thơ:
(1)

Phía trước vắng người xưa
Đời sau ai kế thừa
Gẫm trời đất thênh thang
Riêng xót lệ tuôn tràn

(2)

Nhìn về phía trước người xưa vắng
Ngoảnh mặt ra sau chẳng thấy ai
Trời đất thênh thang ôi vận nước
Thương cho bá tánh lệ tuôn dài.


Quên Đi
***
Đăng U Châu Đài Ca


Thuở trước người xưa có những ai...
Hậu sinh lại thiếu bậc anh tài...
Mênh mông Trời Đất sao bi thảm!
Giọt lệ thương tâm cứ thấm hoài!


Mai Xuân Thanh
Ngày 27 tháng 06 năm 2015
***
Đăng U Châu Đài Ca


Người đời trước đã không còn nữa
Kẻ đến sau nào thấy một ai
Ngẫm đất trời bao la xót dạ
Lệ riêng tuôn cảm giọt u hoài

Kim Phượng
***
Bài Cảm Tác:

(Xin cảm khái qua bài phỏng dịch " Đăng U Châu Đài Ca " của Quên Đi)

Lịch sử vẻ vang của Việt Nam,
Anh hùng dân tộc mấy ngàn năm...
Ngày nay thắp đuốc tìm không thấy,
Quá khứ trăng sao tráng sĩ thăm!
Đất nước đông dân hơn thuở trước,
Non sông chữ S nhớ xa xăm.
" Sơn hà xã tắc " nhân tài vắng,(thiếu)
Trời đất mênh mông chẳng tiếng tăm...


Mai Xuân Thanh
Ngày 27 tháng 06 năm 2015
***
Đăng U Châu Đài Ca


Bóng nào là của người xưa tá?
Chỉ biết tôn thờ nghĩa chúa tôi
Tư tưởng ngày nay chưa thoát được
Trọn đời lệ thuộc định xong rồi!


Nguyễn Đắc Thắng
2015.06.28
***
Các Bài Họa: Qua bài thơ phỏng dịch Đăng U Châu Đài Ca của Kim Phượng

Bài Xướng: Đăng U Châu Đài Ca

Người đời trước đã không còn nữa
Kẻ đến sau nào thấy một ai
Ngẫm đất trời bao la xót dạ
Lệ riêng tuôn cảm giọt u hoài


Kim Phượng
***
Các Bài Họa:
Đăng U Châu Đài Ca

Thức giấc mộng huỳnh chưa quá nửa
Hồn xưa ngày cũ chả còn ai
Áo cơm hai bữa còn lưng dạ
Chén đắng người đưa cứ uống hoài!


Cao Linh Tử
(Họa ngẫu hứng)
***
Sĩ Khí Tìm Ai?


Anh hùng thuở trước xưa mô nữa,
Kẻ hậu sinh tìm kiếm được ai...
Quanh quẩn ngô khoai ăn đỡ dạ,
Minh quân hào kiệt đợi mong hoài


Mai Xuân Thanh
Ngày 27 tháng 6 năm 2015
***
Tâm Sự Kẻ Tha Hương

Rượu bầu chửa cạn hơn phân nữa!
Tri kỷ tìm đâu mấy được ai?
Tâm sự trót mang còn nặng dạ
Nước non ngàn d
m nhớ thương hoài

Song Quang

Mùa Đông


Hoa sẽ héo khi người đi buổi sáng
Buổi chiều nay vạn thọ bổng dưng buồn
Cây cỏ trong vườn sẽ đẵm mù sương
Trái sẽ rụng để cười em lãng mạn

Chim ngừng hót khi người đi buổi sáng
Buổi chiều nay con sáo nhỏ trong lòng
Sao bổng im lìm như mặt nước sông
Em thơ thẩn mình ên bên hàng dậu

Nhìn lại đi hỡi người trai yêu dấu
Trên con đường hoa cúc đã già nua
Người có bỏ quên những quãng đời thơ ấu
Vẫn còn xanh bao tảng đá nên thơ

Em nhắc lại một lần cho người nhớ
Dù trái tim nào đã ngủ mùa đông
Em nhắc lại một lần cho người nhớ
Ngoài vườn kia vẫn nở những bông hồng

Xin nhắc lại một lần cho người nhớ
Cháy hồn em một ngọn lửa trăm năm
Xin nhắc lại một lần cho người nhớ
Trăng khuyết kia trăng khuyết để trăng rằm...


Lâm Hảo Khôi


Mối Tình Học Trò

Hà là một cậu học sinh con nhà nghèo được sinh ra và lớn lên tại một tỉnh nhỏ rất thanh bình thuộc đồng bằng sông Cửu Long, được bao bọc bởi nhiều nhánh sông nhỏ chi chít bên cạnh gìòng sông Hậu hiền hòa mà đất phù sa luôn bồi đắp nên đã tạo thành một vùng đất phì nhiêu với không biết bao nhiêu hoa quả thơm ngon như xoài và mận đủ màu đủ loại, bưởi, cam, đặc biệt loại cam sành với lớp cỏ sần sùi không đẹp mắt nhưng chất ngọt rất dễ làm người ăn mê thích. Rồi đến những trái quit mọng nước ngọt ngào làm mát lòng người ăn nhất là vào mùa hè nóng nực. Mảnh đất dịu hiền này đồng thời cũng đã sản sinh ra biết bao cô gái xinh đẹp mỹ miều nổi tiếng miền Đồng Tháp.


Vùng Sa Giang hiền lành này cũng là nơi đào tạo ra nhiều nhân tài xuất chúng cho miền Nam Việt Nam vào những thập niên 40, 50 với những vị có học vấn uyên bác làm hãnh diện cho người dân địa phương mỗi khi nhắc đến một vài vị khoa bảng đã từng một thời giữ chức vụ Bộ Trưởng Giáo Dục hay giữ chức vụ lãnh đạo trong guồng máy chính quyền dân sự hay quân sự đương thời cùng các lĩnh vực khoa học kỹ thuật của miền Nam Việt-Nam. Hà không nằm trong số đó nhưng cũng là một trong những học sinh xuất sắc trong vùng. Vì là con nhà nghèo nên câu ta đã chuyên tâm cố gắng học để mong sao đạt được những thành quả tốt đẹp cho tương lai. Những cố gắng không ngừng của Hà đã được đền bù xứng đáng khi cậu ta đậu Tiểu học nhất tỉnh, và những thành tựu sáng chói ớ bậc trung học sau này, điều khiến thân phụ mẫu Hà vui mừng khôn xiết và hãnh diện với hàng xóm và những người thân. 

Sau bậc tiểu học, ba mẹ Hà nộp đơn xin cho cậu vào trường Trung học Chasseloup Laubat, Sài-Gòn nhưng vận may không mỉm cười với cậu khi hồ sơ xin miễn tuổi (dispense d’âge) cho cậu chỉ được Viện Đại học Đà-Lạt (Recteur de Dalat) chấp thuận sau ngày nhập học hơn một tuần lễ nên cậu mất cơ hội vào học một trường nổi tiếng ở Sài-Gòn cũng như trường Albert Sarraut ở Hà-Nội lúc bấy giờ. Do vậy, cậu xin nhập học trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, nhưng những biến cố về trò Trần Văn Ơn sau đó nên thân phụ Hà xin cho cậu về học Collège de Vĩnh-Long vừa mới mở niên học đầu tiên. Tại nơi này, Hà đã nhận được học bổng toàn niên (bourse entìère) do những cố gắng không ngừng của cậu ta trong học tập và do tình trạng gia đình quá eo hẹp của cậu ta. Học bổng này đã tạo điều kiện cho Hà mua một số sách giáo khoa ở Pháp để việc học sau này được thuận lợi hơn,. 
Nơi đây, cậu là một trong vài học sinh nhỏ tuổi nhất lớp nên được xếp vào học chung với các bạn nữ học sinh khiến cậu khóc cả buổi vì bị mắc cở nên cuối cùng Ban Giám Hiệu đánh phải ra đặc ân cho Hà bằng cách chỉ định một nam học sinh khác thay thế, có thể sự lựa chọn này đã khiến cậu đánh mất cơ may được thăng tiến xa hơn nữa vì biết đâu chừng khi học chung với các bạn gái cậu ta sẽ chẳng cố gắng hơn vì sợ bị thua sút bạn bè nhất là phái nữ? 


Tháng đầu tiên khi ông Hiệu trưởng đến viếng trường và gọi các học sinh lên xếp hàng theo thứ tự cao thấp thì Hà đã mừng rỡ vô hạn khi được xếp vào hạng cao nhất lớp. Trường Trung học này quy tụ học sinh của cả ba tỉnh Sađéc – Vĩnh-Long và Trà Vinh nên các học sinh đã cố gắng tranh đua học tập hầu đem vinh dự về cho tỉnh nhá. Ngoài việc đạt thành tích học vấn đồng đều về mọi môn học, Hà còn là một học sinh khá giỏi về môn Vẽ nên được giáo sư môn hội họa (danh xưng giáo viên bậc trung học ngày xưa) luôn khen ngợi, ngay cả sau này khi Hà tốt nghiệp bằng Thành Chung (DEPSI) tại trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu (Collège Le Myre de Villers), vị giáo sư này đã khoe với các giáo sư đồng nghiệp trong Ban Giám khảo đây là học trò ưng ý nhất của ông. Cuối năm học cuối cùng ở bậc Trung học Đệ Nhất Cấp, Hà đã lãnh phần thưởng hạng nhất toàn trường với sự hiện diện của thân phụ cậu.

Niên học kế tiếp, Hà phải qua cuộc thi concours vào lớp Tân Đệ Nhị tại Trường Trung học Phan Thanh Giản/Lycée Phan Thanh Gian, Cần Thơ tuyển lựa vì có nhiều học sịnh ghi danh. Lúc bấy giờ, trường Trung học Phan Thanh Giản, Cần Thơ là một trong ba trường trung học đệ nhị cấp của miền Nam Việt-Nam cùng thời với trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu (Le Myre de Villers) tại Mỹ-Tho và trường Pétrus Trương Vĩnh Ký tại Sài-Gòn.
Trường Trung học Phan Thanh Giản Cần-Thơ là nơi hội tụ nhiều học sinh của đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh Cần-Thơ, Sóc-Trăng, Bạc-Liêu, Kiên-Giang, An-Giang, Châu-Đốc, Cà-Mau nên sự ganh đua học tập càng diễn ra gay go, quyết liệt hơn.
Hà rất chăm chỉ học hành mong được thành đạt vẻ vang với hy vọng duy nhất xóa bỏ mặc cảm nghèo nàn của gia đình do sự phá sản gây ra. Ngoài việc chăm chú học tập, Hà không quan tâm đến việc gì khác. Nhưng, chữ “nhưng” quái ác này là khúc quanh quan trọng và nghiệt ngã trong quảng đời học sinh của Hà. Nếu năm Tân-Đệ-Nhị (Seconde Moderne) là khoảng thời gian dễ thở thì lớp Tân-Đệ-Nhất (Premìère Moderne) lại là giai đọan cực kỳ khó khăn để thí sinh chuẩn bị thi Tú Tài phần I tại trường Trung học Chasseloup Laubat ở Sài-Gòn. 
Trong thời gian gay cấn này, thật bất ngờ làm sao khi Hà để ý đến một nữ sinh học dưới Hà bốn lớp. Cô ta là một cô gái khá xinh xắn có thân hình cân đối với làn da trắng như trứng gà bóc cộng với với đôi mắt một mí giống như người Nhật Bổn. Vì có sự quan tâm đến người đẹp nên Hà đã tìm mọi cách để làm quen với các em gái của anh bạn học cùng lớp với Hà đang trú ngụ cùng chỗ với cô ta. Qua sự trung gian này, Hà được biết cô ta có cái tên rất đẹp, đẹp tựa như chị Hằng của mùa thu. Hà tìm cách để làm quen với cô ta nhưng không biết bằng cách nào. Bí mật này được Hà giữ thật kín nhưng làm sao qua mặt được những ông ma mãnh chỉ xếp hàng sau “nhất quỷ, nhì ma” này nên một thời gian sau cả hai lớp Tân-Đệ-Nhất và Đệ Ngũ đều biết có một anh chàng học sinh Tân-Đệ-Nhất đang trồng cây si to tổ bố bên cạnh người đẹp của đảo Phù Tang. 


Bọn học trò quỷ sứ này còn trêu ghẹo Hà là Napoléon Bonaparte đang chuẩn bị tấn công nước Nhật? Sở dĩ bọn chúng kháo nhau như vậy là vì đã có một lần Hà đã dám trêu chọc vị giáo sư Sử học từ Pháp về bằng cách trả bài một cách dí dỏm gần giống như cách giảng bài bằng Pháp văn của thầy dạy Sử này về trận đánh thắng vang dội của Napoléon Đệ Nhất vào Trafalgar khi ông ta đang là vị tướng trẻ nhất của thế giới lúc bấy giờ. Tuy đang trồng cây si nhưng Hà chưa có dịp nào để được tiếp xúc trực tiếp hoặc trò chuyện với cô ta. Cậu ta chỉ có cơ may được ngắm nhìn dung nhan kiều diễm của cô ta vào mỗi sáng Thứ Hai khi lớp họp của cô ta phải xuống lầu và đi ngang qua lớp Tân Đê-Nhất của Hà để chuẩn bị dự lễ chào cờ hằng tuần. Cứ mỗi lần như thế thì các bạn học của Hà được dịp để tha hồ trêu chọc cô ta và Hà bằng cách la lên khá lớn “Hà ơi, chừng nào bạn sẽ đánh thắng trận ở Nhật Bổn đây”? làm cô ta mắc cở cuối đầu mà chẳng dám ngước lên nhìn ai vì e thẹn, chắc hẵn các cô bạn gái của cô ta, đồng thời cũng là em gái mấy anh bạn quỹ sứ nghịch ngợm của Hà đã tiết lộ cho cô ta biết về bí mật học trò này. Nhìn rõ dáng điệu luống cuống của cô ta, Hà lẩm bẩm trong cuống họng với niềm vui thích tột độ “Thật đáng yêu làm sao”. Và chỉ có thế thôi. 


Cho đến một hôm vận may đã mỉm cười với Hà khi mùa Giáng Sinh đến. Không phải là một tín đồ Thiên Chúa Giáo nhưng Hà cũng tìm mua cho bằng được một thiệp Giáng Sinh thật đẹp và nắn nót viết những lời chúc rất chân thành và dễ thương. Hà rất tự tin ở những dòng chữ mà bạn bè thường khen Hà có nét chữ bay bướm đẹp nhất trường. Muốn cho chắc ăn, Hà phài đạp xe đạp đến tận nơi cô ta nghỉ trọ để biết chắc chắn là địa chỉ hoàn toàn chính xác rồi mới chạy u về nắn nót ghi địa chỉ vào phong bì trước khi gởi đi. Kế tiếp là thời gian chờ đợi trong sự hồi hộp khó tả xen lẫn một chút tự tin vì trước đây Hà đã có gởi thiệp chúc Tết cho vài cô bạn không có cảm tình sâu đậm như với người đẹp Phù Tang này và đều nhận được câu trả lời rất nhã nhặn.

Hai ngày, rồi ba ngày đã trôi qua mà không có một tin tức nào cả. Khi thấy bóng dáng người phát thư vừa ở trước cửa nhà là Hà vội nhảy phóc ra để xem có thư mới đến hay chăng, nhưng một tiếng “không” lạnh lùng đưa gió lộng qua cỏi lòng hồi hộp đợi mong một cái gì hết sức thân yêu mà không thấy!!! Có lẽ Hà thất tình mất rồi, cậu ta bắt đầu hơi chểnh mảng việc học hơn trước, cứ theo đà này chưa chắc Hà sẽ giành được mãnh bằng Tú Tài I sau cuối niên học ??? Không nén được sự hồi hộp, Hà bèn đánh liều cầu cứu anh bạn cùng lớp nhờ cô em gái học chung lớp với cô ta để kín đáo hỏi xem tin tức về “bức thư đã gởi đi mà không được hồi âm” này. Tin tức giữa bạn gái với nhau đi rất nhanh, và ô kìa, cô em gái của anh bạn, chứ không phải là chính cô ta, đã tiết lộ cho Hà biết nguyên văn như sau: “Bồ chuyển lời hộ cho anh ấy biết: (Mình đã có người yêu rồi, anh ta đang học kỹ sư ở bên Pháp, mình xin lỗi không thể đáp lại ân tình của anh ấy, xin anh ấy hãy quên mình đi mà chuyên tâm học hành). Khi nhận được tin chẳng lành này, Hà như người mất hồn, nhưng khi thấy bản thân mình còn quá kém bạn trai cô ta nên Hà cố tự nhủ với lòng mình để cố gắng học giỏi hơn vì bây giờ mình còn thua xa người ấy. Mối tình học trò tự dưng chết lịm trong tức tưởi, tuy nhiên cũng có tác động tốt đến việc học của Hà sau này. Cậu ta không còn có những giấc mơ viễn vong nữa mà dồn hết nổ lực vào việc học đã bị tạm thời gián đoạn trong vái ba tuần lễ đầy mộng mơ.

Năm đó, Hà thi dỗ Tú Tài I một cách chật vật vì phải thi lại phần vấn đáp vào kỳ hai, sau đó cậu cũng lấy luôn được mảnh bằng Tú Tài II. Cậu ta tiếp tục chuẩn bị dự thi vào cả hai trường Đại học Sư phạm và Học viện Quốc Gia Hành Chánh nhưng không ngờ Hà lại có duyên với binh nghiệp nên cậu ta đã tình nguyện ghi danh vào Trường Võ Bị Liên Quân Đà-Lạt, sau cải danh thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt-Nam, ngược hẵn với ước mơ của người cha yêu dấu của Hà mong muốn cậu trở thành một giáo sư hay bác sĩ. Trong thời gian này, tuy đã không biết tin tức gì về “người đẹp Phù Tang”, nhưng Hà vẫn âm thầm theo dõi việc học hành của cô vì Hà đã biết trước đây cô ta là một học sinh rất xuất sắc của trường Phan Thanh Giản Cần Thơ. Trong một lần xem báo, Hà được biết cô ta đã thi đậu Tú Tài II Toán với kết quả “ưu hạng”.


Sau thời gian khá dài thụ huấn tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt-Nam và tu nghiệp gần một năm tại Trường Bộ Binh Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ, cậu ta đã trở về Việt-Nam để phục vụ cho quê hương.
Sau hơn 10 năm phục vụ trong Quân đội, vào một buổi trưa đẹp trời, Hà, lúc bấy giờ là một Đại-úy ngành Quân Huấn, đến thăm một người bạn trước đây cũng học trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ hiện cũng là Đại Úy phụ trách thanh tra huấn luyện. Và thật bất ngờ khi vợ anh ấy, trước đây cũng từng học chung lớp vời “người đẹp” của Hà, kéo Hà qua phòng khách để tâm sự với Hà. Chị ấy hỏi Hà; “Anh có biết bây giờ người đẹp Nhật Bổn của anh đang làm gì và ở đâu không”? Hà khựng người lại vì đống tro tàn đã nguội lạnh bây giờ bị khơi dậy. Dĩ nhiên là Hà không biết gì cả nên đã yêu cầu chị cho biết tin tức người bạn cũ với câu nhận xét :"Chuyện đã xưa lắm rồi, nhắc lại cũng có ích gì đâu, tuy nhiên tôi cũng rất cám ơn cô ấy đã cho tôi biết sự thật để tôi không sa vào mê hồn trận ở tuổi học trò, nhờ vậy tôi đã thực sự yêm tâm lo việc học sau này”. 
Nhưng sự thật đã khác xa với những điều Hà suy đoán khi nghe chị ấy tiết lộ sự thật như sau: “Anh biết không, tôi là bạn rất thân với cô ta. Sau lần anh bị từ chồi, thấy dáng vẻ tiu nghỉu của anh, cô ta cũng thấy tội nghiệp anh vô cùng, nhưng cô ta tự nhủ phải làm như vậy thôi và đã tâm sự với tôi là cô ta chưa hề có người yêu nào cả, nhưng nếu cô ta không dứt khoát như vậy thì đường học vấn đang lên của anh sẽ bị ngưng trệ ảnh hưởng không tốt sau này. Cô ta cũng có biết anh đã đi theo binh nghiệp, một con đường mà trước đây chắc anh chưa bao giờ nghĩ đến”. Hà thật sự bàng hoàng khi hay tin trên, và nhẹ nhàng hỏi chị: “ Bây giờ cô ta đang làm gì hả chị”? thì được chị cho biết là sau khi tốt nghiệp kỷ sư Công Chánh, cô đã được bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công Chánh ở một tỉnh miền đông Nam phần, đồng thời chị hỏi tôi có muốn lên thăm cô ấy không vì dường như cô ta vẫn còn sống độc thân? 


Hà thấy bồi hồi trong tấc dạ nhưng biết làm sao bây giờ khi cậu ta vừa mới lập gia đình? Tuy nhiên trong tận đáy lòng, Hà cảm thấy lòng mình rưng rưng khi nghĩ đến cô bạn gái ngày xưa ở độ tuổi ô mai, mà cho mãi đến bây giờ Hà vẫn chưa bao giờ được hân hạnh trực diện để nói chuyện riêng tư dù chỉ trong năm ba phút ngắn ngủi, nhưng lòng cao thượng tuyệt vời của cô ta khi đã biết tự kiềm chế mình, quên mất niềm vui tuổi học trò, quên mất bản thân mình để lo lắng cho tương lai của người khác đã khiến Hà chân thành cám ơn và cảm động thật sâu sắc.

Trần Bá Xử
Springfield, MA, mùa thu 2011

Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

Cựu Giáo Sư&Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp - Đệ Nhị A-Đệ Nhất A - NK 1962,1963

Hàng đầu:Cô Ba Hưng, Cô Song An, Cô Trưng Trắc, Cô Ngữ ,CôHai, Cô Ngọc Hà.
Hàng sau: Cô Lan Phương , Cô Kim Chi , Cô Phương Phi , Cô Ánh Tuyết, Cô Lựu, Cô Phan, Cô Hượt, Cô Lan
Hàng đứng: Thầy Vỹ, Thầy Thuyên, Thầy Long, Thầy Đình Thu, Thầy Nhi.
Hàng đứng: Cựu học sinh bên trái( Kim), Phải(Hiệp Nguyễn)
Hàng ngồi:Các cựu học sinh:Lan Phạm, Nhàn, Yến, K Châu, N Dung, Cúc, Hiếu

Đệ Nhất A2

Nguyễn Phương Lan

Láo Thiên Láo Địa




Láo Thiên Láo Địa

Bơi xuồng tới Mỹ chả cần đô
Nón lá dùng tay tát ngũ hồ
Dắt Tổng Bama chơi xị đế
Vời Trùm Bill gates cúng Lăng Cô
Cá linh nhúng giấm cười toe toét
Tiếng Việt tranh lời nói xí xô
Láo địa láo thiên chơi chút vậy
Ai cười tui rót rượu mời khô!

Cao Linh Tử
***
Quá Giỏi Rồi!

Quên Đi góp phần trong "Những bài thơ láo" cho vui.

Chỉ mượn người xưa để giải sầu
Ba hoa khoác lác bởi vì đâu
Binh thư thảo luận cùng Tôn Tử
Trị thế mạn đàm với Khổng Khâu
Giận ghé Hạng Vương thi cử đỉnh
Vui tìm Khương Thượng học buông câu
Thưa rằng chẳng phải đây thường láo
Chỉ mượn người xưa để giải sầu.

Quên Đi
***
Hoạ bài Quên Đi

Túng tiền mở tiệm bán mua sầu 
Nói dóc mau giàu có khó đâu 
Cố điện Cẫm Linh chừng nửa chỉ 
Cầm tòa Bạch Ốc cả ngàn khâu 
Ơ rô dễ kiếm trăm kho chứa 
Khương Thượng khó bì một lưỡi câu 
Vương Khải Thạch Sùng còn nể mặt
 Thọ hơn Bành Tổ cớ sao sầu?

Cao Linh Tử
2/7/2015
*** 
Nói Dóc Chơi

Xin được trổ nghề nói dóc góp vui chơi
Ra thi chắc chắn đổ ông Nghè
Khoác lác bùi tai rất dễ nghe
Hồi đó Clin-ton làm thợ mộc
Cùng thời Goerge Bush tập lơ xe
Thanh niên mơ cuộc bình thiên hạ
Hải ngoại chen vai mở bước về
Lỡ chọn dóc nghề nên láo tuốt
Ngày nào được nói cứ vo ve

Nguyễn Đắc Thắng
20150702
***
Nói Láo Mà Chơi
 
Rung đùi nói láo thử ...mà chơi!
Ai thích thì nghe...chả cấm cười
Đeo cánh chuồng chuồng thăm các bạn
Níu càng châu chấu viếng muôn nơi
Xuống sông chẻ củi về đun bếp
Lên núi gom mây lót nệm ngồi
Ứng cử ra làm Vua, Tổng Thống
Nếu mà trúng được....sướng như Trời!
 
Song Quang
 

Thơ Tranh:Tím Xưa



Thơ: Yến Hồng & An Nguyen
Thơ Tranh: An Nguyen

Bến Đỗ - Cầu Ơn Trên - Đò Ngang Trở Về?



Bến Đỗ

Đêm về lặng ngắm bóng mình
Ngậm ngùi tủi phận thuyền tình đứt dây
Lênh đênh theo nước vơi đầy
Cho tan dáng ngọc cho lầy gót son.
Đêm đêm dõi mắt mỏi mòn
Ngóng chờ bến lạ ? Hay tròn tuyết trinh !
Tình cũng là một chữ tình
Thói thường trọn vẹn thói mình dở dang
Chiếc đò dọc lại trôi ngang
Bến không bến đỗ ngổn ngang cuộc tình

Kim Phượng
(27/06/2015)
***
Cầu Ơn Trên
(Từ Bến Đỗ của Kim Phượng - Úc Châu)

Dáng ai thơ thẩn một mình
Bơ vơ thấp thoáng như tình đứt dây
Thuyền chao theo nước vơi đầy
Hẩm hiu bến đậu môi gầy màu son.

Người đi dặm nát lối mòn
Thương người ở lại giữ tròn tuyết trinh!
Trời cao đùa cợt chữ tình
Để người gánh chịu một mình dở dang.

Trách ai sớm bước sang ngang

Bỏ người ở lại thở than cuộc tình
Đậm đà hương lửa ba sinh
Nửa chừng cô quạnh như Quỳnh héo khô.

Cầu người đời đẹp như thơ
Mộng lòng như ý, đón chờ gió Xuân.

Dương Hồng Thủy
( 29/06/2015)
***
Đò Ngang Trở Về?

(Từ bài Bến Đỗ của Kim Phượng)

Bến xưa chỉ bóng với mình
Sông sầu lặng lẽ sóng tình bủa vây
Nhớ thương bồi đấp cạn đầy
Lỡ yêu phiền lụy đầm lầy bước son
Dù cho núi lở đá mòn
Thủy chung bến vẫn nguyện tròn hương trinh
Luyến lưu chuốc khổ vì tình
Lỡ làng duyên phận dẫu mình dở dang
Đò xa tách bến sang ngang
Muộn màng bến đỗ đò ngang trở về?

Kim Oanh

Bằng Hữu Của Tôi


Thất thập, trước sau trãi mấy mươi!
Ngày nay tám chục vẫn vui tươi.
Nổi trôi vận nước giàu kinh nghiệm,
Tản mát nương thân có nụ cười.
Thế hệ sinh sau nhiều kiến thức,
Ông, cha lớp trước biết bao người.
Kho tàng văn hóa là di sản,
Nước Việt Nam ta trãi nghiệm đời.

Cảm tác bài thơ, xướng họa hay,
Tâm hồn bình thản ngắm mây bay.
An nhiên thoát tục như thiền tọa,
Tự tại phi phàm trí huệ khai.
Ẩn dật từ tâm luôn  hỉ xã,
Mai danh độ lượng kiến nhân tài
Quê hương nước mắt khô nhìn lại,
Bạn hữu tùy duyên  vận thái lai...

Mai Xuân Thanh
Ngày 16 tháng 03 năm 2015

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Độc Ẩm Trăng


Thơ: Quên Đi
Tranh Thơ: Hữu Đức

Màu Thời Gian


Âm thầm giờ_khắc giao thoa
Màu thời gian cứ phôi pha qua đời
Tuổi xuân vừa đó - xa rời
Tóc xanh điểm bạc
Lòng bồi hồi đau

Cuộc đời cứ mãi trôi mau
Vì sao nên nỗi lao đao thế nầy ?
Ngày qua
Rồi lại qua ngày
Giũ buồn gác trọ - heo may bên thềm

Màu thời gian
- Là bóng đêm
- Là bình minh
- Là ánh đèn
...Hoàng hôn.

Tứ thơ chan chứa tâm hồn
Cớ sao vần điệu bồn chồn, bơ vơ?

Thương Người!
Lữ khách khóc thơ
Nhớ ai?
Lữ khách bơ thờ bên song

Thơ ơi!
Tôi mãi chờ mong
Xuân sang - Hạ đến
Thu
Đông
Ơi buồn!

Tú_Yên

Không Ai Chờ Mưa Ướt Bài Thơ - Sáng Tác Ngu Yên


Sáng Tác: Ngu Yên
Trình Bày: Nguyên Thảo
Phối Nhạc: Lý Giai Niên


Tiếng Sáo Trưa Hè


Tặng Lê Quang Xuân

Tuổi thơ tôi trải vùng châu thổ
Ruộng trủng, ruộng gò, mộng ngát xanh
Tre trúc la đà đường xóm nhỏ
Hiu hiu trong nắng, gió khua cành.

Lòng của bé thơ: vuông lụa trắng
Thênh thang trải khắp nẻo đường đời
Hồn nhiên mở mắt nai âu yếm
Lắng vọng bên trời tiếng viễn khơi.

Cắt khúc trúc già làm ống sáo
Lưng trâu thả nhạc buổi trưa hè
Véo von tiếng mỏng bay cao vút
Âm hưởng dạt dào, tôi lắng nghe.

Ơi, những trưa hè vàng rực nắng!
Sáo đưa người thả giấc thiu thiu
Chợt nghe tận đáy hồn sâu thẳm
Sôi réo đời qua tiếng nhạc thiều.

Lối về cuối xóm sao gần gũi!
Mà sáo dặt dìu bay đến đâu?
Để khách yêu quê nhìn bóng khói
Chân mây còn vọng tiếng còi tàu.

Cuống rún đứt lìa, tôi bỏ xóm
Miệt mài trôi giạt khắp quê hương
Nhà xưa có buổi về thăm lại
Bỡ ngỡ chừng như kẻ lạc đường.

Cảnh lạ người thân trôi giạt hết
Bé xưa đất lạnh đã vùi sâu
Nhưng còn lối trúc xanh qua xóm
Còn bóng đong đưa giấc mộng đầu.

Lưng trâu, một bé ngây thơ khác
Cũng đẹp hồn nhiên cặp mắt nai
Thả sáo du dương vào nắng tỏa
Trúc tre lắng đọng điệu u hoài.

Tiếng sáo ru trưa, ru quá khứ
Chập chờn từng thoáng rợn mong manh
Để tôi ngùi ngậm niềm man mác
Gửi sóng thời gian chút ý tình.

Em xưa có phải đầu thai lại
Trên mảnh đất nhà trộn thịt xương?
Giao cảm nối liền qua kiếp trước
Tặng tôi bằng điệu sáo quê hương.

Để tôi sống lại bao năm trước
Những buổi trưa hè vàng xóm quê
Những buổi mênh mông nhìn nắng đẹp
Thương người đã mất dấu đường về.

Dồn dập tang thương, ơi xóm cũ!
Bóng tà dương úa lạnh hồn quê
Để rồi thêm một lần sai bước
Lỡ chọn đường bưng bít lối về.

Hồ Trường An

Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2015

Đám Cưới Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp NK 1962/1969 - Huỳnh Hữu Đức









Huỳnh Hữu Đức


Gọi Nhớ


Đôi tình nhân tay trong tay bước xuống
Miệng tươi cười cùng ánh mắt long lanh
Chiếc xe bus vội vàng rời bến đổ
Để lại sau lưng vệt khói mong manh

Tôi đứng bên lề ngó theo xao xuyến
Ước cùng em xuống bến đậu cuộc đời
Cây hạnh phúc sẽ nẩy mầm miên viễn
Khúc nhạc tình êm dòng chảy em ơi

Từ gặp em trái tim tôi rung động
Như thoạt nhìn đóa quỳnh nở trong đêm
Rất kiêu sa, mùi hương bay vào mộng
Rất thanh tao thơm giấc ngủ êm đềm

Nghe tiếng gọi trong mơ hồ dừng lại
Cơn gió lùa, bàn tay vẫy xa xăm
Như có đôi mắt nhìn tôi ái ngại
Nhớ nhung theo từng chân bước âm thầm

Tiếng chim lẻ giữa từng không réo gọi
Trên đầu cành hai chú sóc đùa vui
Tôi nhớ em chín nỗi buồn vời vợi
Khi tháng ngày cũng rượt đuổi qua mau

Trọng Thu 18112011
Yên Sơn

Thầy Trò




Học trò học nghề hay là học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy trò. Học trò phải kính trọng thầy, phải quý mến thầy, mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa. Học trò khi mới vào học gọi là nhập môn, phải kiếm buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy. Lúc học gặp khi mồng năm ngày Tết như Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan dương, Tết Trung thu, mùa nào thức ấy hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đương mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.

Khi nhà thầy có việc, hoặc việc hiếu, hoặc việc hỉ, hoặc khi có kỵ, học trò cũng kiếm lễ vật đến lễ, và giúp đáp công việc cho nhà thầy. Cả bao nhiêu học trò hội lại gọi là hội đồng môn. Hội đồng môn của thầy lập ra, hoặc của học trò hội lại mà đặt ra. Thầy xem trong môn sinh ai là người hiển đạt hơn hoặc có tuổi hơn thì bầu làmTrưởng tràng để đứng đầu mà coi sóc việc môn sinh. Lại bầu một người làm Giám tràng để hiệp trợ vối Trưởng tràng. Ngoài nữa thì liệu xem ai là người mẫn cán đặt ra năm bảy người hoặc mươi, mười hai người Cán tràng, để giúp cho Trưởng, Giám, mà coi công việc chạy chọt vành ngoài.

Thầy đặt ra trưởng, giám, cán, phải có chữ của thầy, thì đồng môn mới phục tùng. Khi thầy có việc cần đến đồng môn phải giúp thì thầy bảo qua với Trưởng, Giám một tiếng, Trưởng, Giám tuần lời thầy đặt tờ cho cán tràng, Cán tràng lại thông báo cho các môn sinh hội lại bổ bán mà giúp đỡ cho thầy.

Khi cha mẹ thầy mất, đồng môn cũng phải hội giúp thầy ít tiền, và phải sửa lễ phúng viếng đưa đón phân minh. Đến khi thầy hoặc vợ thầy mất thì đồng môn phải xử trọng thể hơn, mà phải phục tùng quyển thế huynh là người kế tự của thầy. Phải bổ bán mỗi người dăm ba đồng bạc để giúp cho thế huynh. Lúc đưa ma, hết thảy môn sinh phải khăn trắng áo trắng đưa đến huyệt, lạy tạ bốn lạy mới trở về. Về đến nhà, hội họp với nhau giết bò giết lợn tế thầy một tuần.

Môn sinh cũng phải để tang thầy học 3 năm song không phải phục tang chế, gọi là tâm tang, nghĩa là đế tang trong bụng mà thôi.

Trong môn sinh thể thống rất nghiêm, ai đã vào học đều phải đóng đồng môn cả. Hể ai bỏ không đóng góp hoặc ai trái lễ phép với nhà thầy, Trưởng, Giám tràng có phép bắt bớ cùm trói, cho nên có câu rằng: Môn sinh tiểu triều đình.

Từ sau mỗi năm đến ngày giỗ thầy hoặc vợ thầy, đồng môn phải biện lễ đem đến lễ giỗ. Hoặc nhà thầy suy đồi đi rồi, không có người kế tự thì đồng môn họp 3 nhà Trưởng tràng mà làm lễ giỗ thầy và vợ thầy. Giữ giỗ cho đến hết đời thì thôi

Có nơi môn sinh đóng tiền làm nhà thờ thầy và tậu đất ruộng đê làm ruộng kỵ, cứ năm năm lấy hoa lợi mà sung vào việc cúng giỗ cho khỏi phải đóng tiền. Nơi ấy thì học trò thường đời đời nối dõi giữ giỗ ông thầy và vợ thầy.

Người ta ở đời nhò có cha mẹ sình ra mình, lại phải nhờ có thầy dạy cho mình thì mình mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên con người, cho nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một môi luân thường của Á Đông ta.

Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dỏ. Kìa như các bực đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ, có ân đức giáo hóa nhuần thấm đến người thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ nửa mường nửa mán để hộ khẩu cho qua đời. Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ.

Huỳnh Hữu Đức
Trích Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính

Gửi Người Bên Ấy


Gửi người bên ấy mối tình tôi
Tuy sống xa xôi nhưng rất gần
Lướt trên trang giấy hồng trần
Góp tình thi hữu gieo vần trong thơ

Gửi người bên ấy một dòng sông
Sóng nước mênh mông có con đò
Mời ai ghé bến hẹn hò
Bên ly trà nóng chuyện trò hàn huyên

Gửi người bên ấy một vầng trăng
Đêm xuống lâng lâng mối thâm tình
Tình người luôn ở bên mình
Mỗi khi lặng lẽ đăng trình có nhau

Gửi người bên ấy nắng ban mai
Rơi xuống bờ vai ấm áp lòng
Lòng ta tươi thắm nụ hồng
Gió lay nhè nhẹ bềnh bồng cành mai

Gửi người bên ấy một cụm mây
Như những sợi dây buộc vào đời
Chúng ta chung một bầu trời
Dù cho vạn nẻo không rời tình thân

Gửi người bên ấy một bài thơ
Lời lẽ đơn sơ nhưng thật thà
Bạn ơi, xin nhận món quà
Có tình tri kỷ đậm đà của tôi

Đỗ Hữu Tài ( May 20-15 )

Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

Thơ Tranh: Mừng Ngày Độc Lập


Thơ: Mailoc
Thơ Tranh: Kim Oanh
***

Bài Họa:Mừng Ngày Độc Lập July 4th

Ngày lễ Hoa Kỳ độc lập đây!
Mọi người nô nức đón vui này
Pháo bông soi sáng trời cao rộng
Cờ thắm tưng bừng khắp ngọn cây
Giữa lúc Hè về khoe phượng tím
Trong khi Hạ đến ngắm trời mây
Tự Do ngọn lửa còn gieo khắp  
Dân Chủ thỏa tình mặc sức bay

Dân Chủ thỏa tình mặc sức bay
Pháo hoa rực rỡ đắm mê say!
"July four" lễ người hoan hỉ
Độc Lập Hoa Kỳ vui vẻ thay
Sức Khoẻ, An Sinh người được hưởng
Thiên tai cứu trợ giúp liền tay
Văn minh, nhân ái nơi nào có?
Nước Mỹ tình thương mãi đổ đầy

Song Quang

Thơ Tranh: Nữ Thần Tự Do ( Mừng Ngày Độc Lập July 4th




Thơ: Song Quang
Thơ Tranh: Kim Oanh

Dư Vị Một Mùa Hè


Hè về sẽ dẫn "nhỏ" vui chơi !
Dạo khắp năm châu ,khắp đất trời
Trông thấy mây bay đầu núi thẩm
Ngắm nhìn sóng lượn biển ngoài khơi
Ve sầu trổi nhạc sầu da diet
Phượng tím khoe màu tím khắp nơi
Hạ hết, quay về vùng quá khứ
Để tìm dư vị một mùa trôi.

Song Quang

Bạc Mộ 薄暮 - Đỗ Phủ

Cảm xúc trước nỗi nhớ quê hương của Các Thầy kính mến qua những bài thơ cổ, hôm nay Quên Đi xin gởi đến Vườn Thơ bài "Bạc Mộ" của Đỗ Phủ:
Giữa cảnh mây núi chập chùng, khi bóng chiều dần tắt, không gian thật yên tĩnh thanh bình, khiến tác giả liên tưởng đến vận nước đang đảo điên, mà bùi ngùi cảm xúc. Biết đến bao giờ nhìn thấy được quê hương của ngày xưa.

 

薄暮

江水長流地
山雲薄暮時。
寒花隱亂草
宿鳥擇深枝。
舊國見何日
高秋心苦悲。
人生不再好
鬢發白成絲。

Dịch Hán Việt

Giang thuỷ trường lưu địa
Sơn vân bạc mộ thì
Hàn hoa ẩn loạn thảo
Túc điểu trạch lâm chi
Cựu quốc kiến hà nhật
Cao thu tâm khổ bi
Nhân sinh bất tái hảo
Mấn phát tự thành ty
Đỗ Phủ

Dịch Nghĩa : Chiều Tàn

Vùng đất này nước sông vẫn chảy mãi
Lúc này ánh chiều mỏng manh về trên mây núi
Cánh hoa bị lạnh lẩn vào trong đám cỏ lộn xộn
Chim tìm chỗ ngủ đêm chọn những cành rậm rạp
Biết đến ngày nào mới thấy lại đất nước cũ
Trời thu vòi vọi càng khiến lòng thêm buồn
Đời người không thể nào gặp lại dịp tốt
Mái tóc giờ đã trở nên những sợi tơ bạc

Dịch Thơ:
1
Nơi đây sông vẫn chảy
Chiều xuống phủ non mây
Hoa lạnh nép vào cỏ
Chim yên trong lá dày
Quê hương nay đã mất
Thu hỡi xót lòng này
Cơ hội bao giờ có
Bạc đầu đến chẳng hay

Quên Đi

2
Nước sông vẫn chảy mãi nơi này
Ánh ráng chiều hôm phủ núi mây
Lạnh giá hoa nương nhờ cỏ loạn
Đêm về chim ngủ giữa rừng cây
Quê hương thuở trước bao giờ thấy
Một cõi thu buồn dạ não thay
Dịp tốt biết bao giờ đến nữa
Sầu tuôn mấy chốc bạc đầu phai
Quên Đi
* * *
Chiều Hôm

(1)
Triền miên sông nước chảy qua đây ,
Núi thẩm chiều tà phủ khói mây .
Hoa lạnh ẩn mình trong cỏ dại ,
Chim muông về ngủ giữa tàn cây .
Bao giờ thấy lại nước non cũ ?
Thu muộn sầu thương chất ngất đầy .
Heo hút thời may không trở lại ,
Chưa chi sương nhuộm trắng đầu ai!
 Mailoc
(2)
Sông mênh mông nơi nầy chảy mãi ,
Áng mây chiều dệt dãi núi xa .
Lạnh về trong cỏ núp hoa ,
Chim muông cành rậm ngủ qua đêm trường .
Biết ngày nao quê hương thấy lại ?
Trời thu lồng , khắc khoải sầu ai .
Dịp may khó đến lần hai ,
Như tơ ai nhuộm tóc mai trắng ngần!

Mailoc
* * *
Ánh Tà Huy

Sông sâu uốn khúc chảy hoài,
Tà huy phớt nhẹ non đoài mây trôi.
Hoa rừng cỏ rối lạnh rồi,
Chim muông núp bóng ngủ thôi, rậm cành.
Xa quê khắc khoải lênh đênh,
Gió thu lồng lộng trời xanh đượm buồn.
Cả đời may rủi đành buông,
Tóc xanh mô nữa pha sương rụng dần...

Mai Xuân Thanh
* * *
Xứ Người..Nhớ Quê

Nơi đây, giòng nước nhẹ trôi
Núi đồi quyện với mây trời chiều pha
Cỏ hoa trốn lạnh la đà
Chim muông tỏ ngủ làm nhà ngọn cây
Quê hương cách trở dậm dài
Vào Thu dạ nhớ tháng ngày buồn thay
Đời người chỉ một lần may
Sầu buông tóc ngã màu phai mất rồi!

Song Quang
(Cảm tác theo ý bài thơ Bạc Mộ của Đổ Phủ)
6/23/2015

Tình Ngỡ Xa Rồi



Nhớ ngày nào ta trao nhau niềm tin
cùng cố gắng đi kiếm tìm hạnh phúc
luôn lo sợ những lọc lừa không thực
cố tạo cho mình khoảnh khắc yêu thương.

Tình yêu là gì ? luôn mãi vấn vương
hạnh phúc là chi ? cho mà không nhận
em luôn bước tung tăng nhưng cẩn thận
có bao giờ : nhìn lại kẻ đi sau ?

Em không bao giờ nhận mình là sai
ta cũng chưa nói một lần xin lỗi
tuổi còn trẻ mà tâm hồn già cỗi
cảm xúc nồng nàn - không chịu thứ tha.

Lúc nào tim em thổn thức kiêu sa ?
mình bên nhau nhưng như phà không bến
em thường quay mình khi ta bước đến
khiến đôi chân hụt hẩng đến bây giờ !

Ta gởi tâm tình với những vần thơ
vào buổi đầu em cười vui rất thực
và những lần giận hờn em bật khóc
nước mắt nào cho mặn chát nỗi đau.

Ta ví như kẻ hàn sĩ không giàu
nhỡ chạm vào gốc cây đau thắm thiết
nhưng thời gian sau khi mình giã biệt
gối hết sưng - chẳng nhớ một lần đau.

Thế rồi chúng mình lại phải xa nhau
em hay hàng cây - âm thầm còn đó
chỉ riêng ta trong nắng chiều tan vỡ
đứng nhìn em hạnh phúc vẫy tay chào.

Mưa đêm nay âm thầm qua phố chợ
trong lãng quên nén tâm sự buồn chưa
ta không khóc nhưng nghẹn ngào hơi thở
tê tái màu mây trời đã sang mùa...

Dương hồng Thủy

20-10-20114

Có Phải Em Là...


Bình minh mới tinh khôi
Áo em bay nghiêng trời 
Mùa thu về qua ngõ 
Ngập ngừng chiếc lá rơi

Nắng hồng đậu bờ môi
 Ngát thơm lên nụ cười 
Dòng me rơi rất vội
 Chải tóc rẽ đường ngôi

Có phải em là mưa
 Hàng cây nhẹ đong đưa 
Cho tình anh sũng ướt 
Đẫm nhớ lối hẹn chờ

Có phải em là mây
 Dìu nhẹ tiếng thơ bay 
Ru xanh lời chim hót
 Nụ hôn đầu ngất ngây

Có phải em nắng hồng
 Đỏ lên cánh hoa rung 
Chiều trôi qua bến hẹn
 Sóng nhớ tím dòng sông

Có phải em cánh diều 
Gió lồng lộng tin yêu 
Cho tình anh tắm mát
 Ngút ngàn tiếng suối reo

Có phải tình hẹn hò 
Từ muôn kiếp xa xưa
 Vòng tay ôm sao đủ 
Tình đắm đuối cơn mơ

Trầm Vân

Khi Xa Thạnh Ở Bồng Sơn


Anh cũng biết ngày đi là mất mát
Chút tình riêng gởi lại mắt sầu em
Hay những tối lang thang đời quán vắng
Nhớ hồn em ngan ngát mái buồn tênh
Thôi đã lỡ những thiên đường ký ức
Những ngày vui lửa ấm bến hồn xưa
Em có khóc anh về sao biết được
Nên đời sông hiu quạnh chảy xơ rơ
Khi ở lại mới thương người vạn dặm
Mới chia buồn trăm nhánh nhớ mênh mang
Khi ở lại niềm vui như đánh mất
Bởi vườn xưa xa vắng bước chân vang

Lâm Hảo Dũng

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

Cựu Giáo Sư & Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp - ĐệTứ B, A4 Niên Khóa 1962

 Cô Hà, Cô Phi,Cô Hượt
Huynh Kim Lài, Võ Ngọc Lan, Trương Thị Nguyệt Hồng, Lan ( Nguyễn)
 

Hình Lớp Đệ Tứ B - Niên khóa 1962 
 Hàng 1: Cô Tuyết, Cô Hượt, Cô Phương Phi, Cô Ngữ, Cô Liêm.
Hàng 2: Giám Thi Chi, Thầy Mạnh (Hán Văn), Giám Thi Bảo, 2 Thầy không nhớ tên,Giám Thi Tỏ và Thầy Lễ, Thầy Thuận, Người đứng cuối Thầy Điếu.
 Hàng 1 Trái qua phi: Cô Lựu( Nữ Công Gia Chánh), Cô Trắc ( Vạn Vật)
Hàng 2 Trái qua phi: Cô Giám Thị Liêm, Cô Lan,Cô Hượt ,Cô Giám Thi  Ba Hưng, Cô Kim Chi, Cô Tuyết (Lý-Hoá), Cô Phương Phi, Cô Giám Thị Lan, Cô Ngữ, Cô Ngọc Hà( Việt Văn) Cô Trà Mi ( Sau Cô Ngoc Hà), Cô Giám Thị Hai
   Đứng giữa:Cô Ngọc Hà, cô Phương Phi(Sau lp gia đình với con tiệm Huệ Hòa) và các bạn nữ Lớp 4A ( Anh Văn) không nhớ tên
Hinh Lớp Đệ Tứ B1, Cô Phương Phi:
Tu trai qua phai:
Hồ Văn Lân, Trương Hữu Phước(chết) Toại, Nguyễn Hữu Năng, Lý Văn Phinh, Đỗ Văn Quang, Trần Văn Hoà Vương Bé Vinh (Lớp 4B2), Cô Phương Phi, Lê Văn Bình, Cai Thế Hưng, Lê Văn Lắm
Đinh Văn Đắc.
H1: Cô Hượt, Giám thị Chi, Giám thị Bảo, Thầy Lung, Thay GT Tỏ, Co Phi Thay Dương Văn Lưng, Thay Thuận, Thay Bữu.  
H2:Thầy Điếu (AnhVăn) Thay Thuận, Thay Bữu và các bạn Nữ  trong lớp 4A
Không nhớ tên, Ẩn, Không nhớ tên, Không nhớ tên, Không nhớ tên, Cô Ngọc Hà, Cô Phương Phi, Vẹn, Phú, Thọ
Thầy Hiệu Trưởng Lễ ,Cô Ngọc Hà, Cô Phương Phi và Các bạn lớp Nữ 4A chụp với 

 Đinh Văn Đắc

Trăng Và Nỗi Nhớ


Trăng khuya len lén vào phòng
Bắt gặp Nỗi Nhớ mênh mông lặng chờ
Nhìn quanh gối chiếc chơ vơ
Làm sao giấu được đành vờ lặng im

Trăng xuyên suốt tận đáy tim
Thấu tình Nỗi Nhớ thệ nguyền cùng Trăng
Âu yếm đầu tựa vai nằm
Đêm dài bất tận.. thì thầm lời ru

Song ngoài dày đặc sương mù
Trăng thưa dần khuất …thiên thu ảo mờ
Nỗi Nhớ hụt hẫng tỉnh mơ
Ôm ghì hạnh phúc vật vờ ...tìm Trăng

Kim Oanh

Nửa Vầng Trăng Muộn


Một nửa vầng trăng muộn
Ngóng khe phố đêm buồn
Em nửa đời chạy trốn
Ta tìm mỏi linh hồn

Qua khe phố lặng im
Cơn sóng gợn con tim
Tựa biên cương chết lịm
Chắn nghẻn những nỗi niềm

Em còn đó chăng em
Mắt ta, vầng trăng đêm
Những hóc đời đã tím
Ta leo loét đến tìm

Có lẻ em đã xa
Có lẻ ta đã già
Trên vỉa hè sỏi đá
Trăng muộn màng lê la

Đêm này em nơi đâu
Mắt ta rọi vệt sầu
Đêm tàn không chỗ đậu
Phố thành hun hút sâu

Hoài Tử

Đề Đại Dữu Bắc Dịch - Tống Chi Vấn (636 - 712)

Về nỗi quê nơi đất khách , thêm một bài thơ đã được tôi đọc nhiều lần ,bài Đề Đại Dữu Bắc Dịch của Tống Chi Vấn, một danh tác đời Sơ Đường mà mỗi lần đọc là mỗi cảm xúc. Dù không thể diễn tả được nên lời muốn nói, tôi vẫn không cưỡng lại được chút "tham vọng" và "ngông cuồng " của tuổi già là muốn được chia xẻ một vài nét đẹp của chữ nghĩa trong thơ xưa. Vâng, chỉ là thế thôi. Mong được thông cảm và lượng thứ . PKT 06/10/2015

ĐỀ ĐẠI DỮU BẮC DỊCH
Tống Chi Vấn (636 - 712)

Dương nguyệt nam phi nhạn
Truyền văn chí thử hồi
Ngã hành thù vị dĩ
Hà nhật phục quy lai
Giang tĩnh triều sơ lạc
Lâm hôn chướng bất khai
Minh triêu vọng hương xứ
Ưng kiến lũng đầu mai

 ***
Tạm Dịch : Bài Thơ Đề ở Trạm Bắc Núi Đại Dữu

Tháng 10, trốn lạnh, đàn nhạn bay xuống phương nam/Nghe nói, không hiểu sao, trên đường bay lại quay ngược trở về/ Còn ta thì cứ đi mãi / Không biết ngày nào mới được trở lại / Mặt sông lặng sóng, nước triều vừa mới rút/ Rừng cây mờ tối , lam chướng chưa tan / Mai sáng trông về hướng quê nhà/ Chắc hẳn sẽ thấy được hoa mai (hoa mơ) nở ở đầu lũng.
Phụ Chú : Núi Đại Dữu, còn gọi là núi Mai (Mai Lĩnh), là một dãy núi lớn thuộc Triều Châu, tỉnh Quảng Tây, mênh mông rừng mai, triền núi bên này mai nở, triền núi bên kia mai tàn. Hồi nhạn, chỉ đàn nhạn, tháng 10 bay về nam trốn lạnh, bay qua khu rừng mai chỗ nở, chỗ tàn, có thể tưởng nhầm mùa lạnh đã dứt mà bay ngược trở lại chăng? 

Đề Đại Dữu Bác Dịch
Xuống nam, tháng trở lạnh
Sao nhạn ngược bay về
Còn khách phải đi mãi
Ngày nao trở lại quê
Sông yên triều mới rút
Rừng ám chướng chưa tan
Mai sáng, hướng làng cũ
Hẳn thấy lũng mơ vàng 

Phạm Khắc Trí
06/10/2015
  ***

Thơ Đề Nơi Trạm Núi

Đàn nhạn xuôi Nam trốn lạnh
Vì đâu bay ngược trờ về
Còn ta, đi hoài mải mê
Biết đến ngày nao trở gót
Sông lặng nước triều vừa rút
Rừng chiều sương khói mờ loang
Ngóng quê, chờ sáng trời quang
Hẳn thấy mai vàng dưới lũng.

Phương Hà phỏng dịch
  ***

Đề Nơi Trạm Bắc Đại Dữu
(1)
Sải cánh tháng mười nhạn ruỗi Nam
Nghe đâu quay lại lúc đông tàn
Sao ta cứ mãi chân lê bước
Không biết ngày nao trở lại làng?
Sông lặng thủy triều đang rút xuống
Rừng mờ chướng khí vẫn chưa tan
Sớm mai đứng ngóng về quê cũ
Mường tượng rừng mai lũng rực vàng 

Mailoc

(2)
Nhạn tháng mười về Nam cánh sải ,
Nghe đồn tới đó lại về ngay .
Sao ta lê bước chân hoài ,
Ngày nao không biết được quay về làng ?
Sông nước lặng triều đang rút xuống ,
Rừng thiêng mờ khí chướng chưa tan ,
Sớm mai đứng ngóng quê làng ,
Lũng sâu ngỡ thấy mai vàng ánh tươi ..

Mailoc
 ***
Dịch Thơ:

Thơ Đề ở Trạm Bắc Núi Đại Dữu 


Nhạn tháng Mười(*) di nam trốn lạnh
Gặp mùa xuân vỗ cánh quày ra
Còn mình mãi miết phương xa
Bao giờ mới được quê nhà về thăm
Sông yên tĩnh nước âm thầm rút
Chướng chiều rừng heo hút chưa lan
Sớm mai nhìn phía thôn làng
Nơi đầu non Lũng(**) ngập tràn những mai.

Quên Đi
(*) Dương Nguyệt: tháng 10 Âm lịch
(**) Lũng : - Tên gọi tắt của tỉnh "Cam Túc"
- Tên núi Lũng Sơn ở giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc.
  ***

Thơ Đề Nơi Núi Bắc


Nhạn xuôi Nam tìm nơi lành trú lạnh
Có ngờ đâu,quay ngược lại bay về!
Còn thân ta, sao mãi chốn đam mê??
Đâu có biết ngày nao mình lui gót!
Sông lặng gió,nước triều dâng vừa rút
Cây mờ sương ,chướng khí vẫn chưa tan
Hướng quê nhà,mong ước sớm trời quang
Ắc sẽ thấy mai vàng phơi dưới lung

Song Quang Phỏng Dịch
  ***
Núi Mai Lĩnh

Xuôi Nam trốn lạnh nhạn bay đi,
Trở lại quay lui đố hiểu gì...
Chẳng trách người ta sao bước mãi,
Không phiền ai nỡ hỏi làm chi !
Sông sâu mực nước triều lên xuống,
Rừng thẳm sương mờ chướng khí quy.
Nhắm hướng quê nhà xa tít tắp,
Mai vàng dưới lũng nở li ti

Mai Xuân Thanh 
Ngày 11 tháng 06 năm 2015  ***
1. BẢN TIẾNG HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ:

題大庾嶺北驛 ĐỀ ĐẠI DỮU LÃNH BẮC DỊCH

陽月南飛雁, Dương nguyệt nam phi nhạn,
傳聞至此回。 Truyền văn chí thử hồi.
我行殊未已, Ngã hành thù vị dĩ,
何日複歸來。 Hà nhật phục qui lai?
江靜潮初落, Giang tịnh triều sơ lạc,
林昏瘴不開, Lâm hôn chướng bất khai.
明朝望鄉處, Minh triêu vọng hương xứ,
應見隴頭梅。 Ưng kiến lũng đầu mai!

宋之問           Tống Chi Vấn

TỐNG CHI VẤN ( 656-712 ), tự là Diên Thanh, còn có tên là Thiếu Liên. Người đất Phần Châu ( thuộc huyện Phần Dương , tỉnh Sơn Tây hiện nay ). Còn có thuyết cho rằng, ông là người Hoằng Nông Hoắc Châu ( thuộc Linh Bảo, tỉnh Hà Nam hiện nay ). Ông là thi nhân nổi tiếng đời Đường.
Tống Chi Vấn là cậu của Lưu Hi Di, cả hai cậu cháu đều rất giỏi thơ và cùng đậu Tiến Sĩ năm Thượng Nguyên thứ hai đời Đường ( 675 ). Hai cậu cháu có một giai thoại về thơ rất thương tâm, sẽ kể hầu quí vị ở bài thơ sau.....
Tông Chi Vấn vì có dính líu đến vụ án Thái Bình Công Chúa, nên bị biếm làm Trường Sử Việt Châu. Khi Đường Tuấn Tôn lên ngôi, ông lại bị đày đến Khâm Châu ( thuộc Khâm huyện tỉnh Quảng Đông ngày nay ). Chính trên đường đi đày này, khi trọ ở bắc dịch quán ở biên giới Giang Tây và Quảng Đông , ông đã làm bài thơ thương cảm nầy .

CHÚ THÍCH:
ĐẠI DỮU LÃNH 大庚嶺 : là một ngọn núi trong Ngũ Đại Lãnh, đây là ranh giới giữa Bắc Nam nằm giữa tỉnh Giang Tây và Quảng Đông. Ngày xưa theo truyền thuyết : Khi nhạn phương Bắc bay về Nam để tránh lạnh, khi bay đến Nam lãnh nầy thì không bay nữa. có thể vì là giao giới giữa Bắc Nam nên khí hậu đã khá ấm áp rồi. Vì khí hậu ôn hòa ấm áp, tháng mười đã thấy nở đầy cả bạch mai và hồng mai, nên còn có tên là MAI LÃNH 梅嶺.

BẮC DỊCH 北驛: DỊCH là Dịch Quán, nhà trọ cho những công sai, quan viên đi lại nghỉ ngơi. BẮC DICH: là Dịch quán cuối cùng của đất Bắc được xây dưng giữa ranh giới Bắc Nam.
DƯƠNG NGUYỆT 陽月 : là tên gọi riêng của tháng Mười theo cách gọi của dân gian là : Chánh Đoan, Nhị Hoa, Tam Đồng, Tứ Mai, Ngũ Bồ, Lục Lệ, Thất Qua, Bát Quế, Cửu Cúc, Thập DƯƠNG, Thập Nhất Hà, Thập Nhị Lạp 「正端、二花、三桐、四梅、五蒲、六荔、七瓜、八桂、九菊、十 陽、十一葭、十二臘」( Tháng Giêng gọi là tháng ĐOAN, tháng hai gọi là tháng HOA, tháng ba gọi là tháng ĐỒNG... ) Hiện nay rất ít người biết gọi theo cách nầy, kể cả Hoa Kiều ở khắp nơi trên thế giới.

TRUYỀN VĂN 傳聞: Theo Truyền thuyết nghe thấy được . Ở đây có nghĩa là " Nghe nói rằng..."
THÙ 殊 : là Đặc Thù, là đặc biệt, là ngoại lệ.
HÔN 昏 : là Hôn ám, là Âm U. CHƯỚNG 瘴 : là Chướng Khí: Khí độc trong rừng thẳm, nơi ít người lui tới. BẤT KHAI là Không Mở Ra, Không mở ra. Nên câu 6 " Lâm hôn chướng bất khai " có nghĩa: " Rừng già âm U, ngập tràn cả chướng khí chưa mở ra được ! "
LŨNG ĐẦU 隴頭 : là Gò đất cao, ở đây chỉ những ngọn núi ở xa xa. Chữ LŨNG 隴 : khi là Danh từ riêng mới có nghĩa là tên riêng của tỉnh CAM TÚC, một tỉnh ở cực tây TQ, thuộc lãnh thổ của Lưu Bị thời Tam Quốc. Đây là nơi giáp giới giữa 2 dân tộc Hán Hồ mà tôi đã đề cập trong bài LƯƠNG CHÂU TỪ của VƯƠNG HÀN.

DỊCH NGHĨA:
CẢM ĐỀ NƠI DỊCH QUÁN PHÍA BẮC CỦA ĐẠI DỮU LÃNH

Trời tháng mười miền Bắc bắt đầu se lạnh, nên chim nhạn kết đoàn bay về phương Nam. Nghe nói rằng nhạn chỉ bay đến nơi nầy rồi dừng lại ( Vì nơi đây khí hậu đã ấm áp lắm rồi !). Còn hành trình của ta thì ngoại lệ, một kẻ đi đày, nên không thể dừng lại đây được. Và không biết ngày nào mới được trở về quê cũ đây. Hôm nay dừng chân nơi quán dịch giáp giới nầy , nhìn dòng sông phẳng lặng trong lúc thủy triều đang xuống và cánh rừng mờ mịt chướng khí của buổi chiều không tan đi được! Sáng ngày mai khi đứng trên ngọn núi nầy mà trông ngóng về quê nhà, thì chắc cũng chỉ thấy được rừng mai nở rộ phủ kín cả núi đồi mà thôi ! ( chớ đâu có thấy được quê hương đâu ! Cũng như người Việt lưu vong ở MỸ, đứng bên bờ biển Cali mà nhìn, thì chỉ thấy được biển xanh mây trắng, tuy có đẹp, nhưng làm sao thấy được đất nước Việt Nam ở bên kia bờ Thái Bình Dương xa lơ xa lắc !!! ).
Toàn bài toát lên một nỗi sầu cô độc da diết của kẻ đi đày. Chim nhạn còn có chỗ dừng chân và bay trở lại, còn mình thì không biết bao giờ mới trở lại được đây ? Cảnh trí phương nam với sông ngòi phẳng lặng đìu hiu, rừng sát thâm u chướng khí, chỉ có khí hậu là ấm áp nên ngàn mai nở rộ, rực rở cả núi đồi, nhưng cũng không làm cho tác giả cảm thấy cảnh trí tươi đẹp. Mai nở rộ chỉ làm che khuất tầm mắt của tác giả trông ngóng về quê hương mà thôi ! Toàn bài thơ không có dùng một chữ SẦU nào cả, nhưng lòng SẦU TƯ của tác giả thì man mác từ câu đầu đến câu cuối!

Diễn Nôm:

Tháng mười xuôi nam chim nhạn,
Đến đây dừng cánh đợi về
Riêng ta thân đày lưu lạc
Ngày nào mới được hồi quê?!
Sông lặng buồn trông nước xuống
Rừng sâu lam chướng ủ ê
Sáng ngày quê xa trông ngóng
Núi đồi mai nở tái tê!

Lục bát:
Xuôi nam chim nhạn tháng mười
Đến đây dừng cánh xuân tươi lại về
Riêng ta lòng luống ủ ê
Quê hương biết thuở nào về lại đây?!
Sông buồn lặng lẽ nước mây
Rừng sâu lam chướng phủ đầy lối qua.
Sáng ngày trông ngóng quê xa
Quê xa chẳng thấy, mai hoa nở đầy!!!


Đỗ Chiêu Đức