Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015

Paris Có Gì Lạ Không Em- Ngô Thụy Miên - Tuấn Ngọc

Bỏ Paris ra đi để lại người yêu với nhiêu nỗi nhớ,nhớ nhất là quê hương mình nơi đó đã xa lắm rồi vẫn còn vương vấn vị cớm xanh đầu mùa với bàn tay gói lá sen làm nên vị cớm của Hà Nội.
Hy vong sẽ về gặp lại người xưa ở chốn kinh đô ánh sáng,em vẫn chờ và em vẫn đẹp như ngày nào trong mắt anh.


Sáng Tác;Ngô Thụy Miên
Tiếng Hát: Tuấn Ngọc
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Màu Nhung Nhớ


Dòng mực tím in tình lưu bút
Mỗi hè về đỏ rực phượng màu
Buổi chia tay lòng xao xuyến trao
Tim héo hắt niềm đau lưu luyến

Dòng mực tím thì thầm kể chuyện
Đầy trang thơ nhờ gió đưa duyên
Từng hạ này sang mùa hạ khác
Đầy nhớ nhung ..giữ trọn tinh tuyền!!!

Kim Oanh
2010

Hội Ngộ CHS Tống Phước Hiệp - "Lớp Tứ B"

 Chị Tuyển Thục, Chị Dung(ngồi bìa)
Anh Cao Khải, Ông Xã chị Dung(ngồi bìa)


Nguyễn Cao Khải

Cho Em Mùa Hạ



Dặm dài phơi nắng mật ong
Em vui theo lũ sen hồng rực quê
Ao sâu, nước mát gánh về
Tắm chi, em để hương thề thoảng bay

Cau trầu thương tráp nhớ khay
Anh xa mùa cưới, nhớ người vóc thon
Nhớ mi rung cánh bướm non
Mềm tay phẩy quạt, xinh tròn đôi vai

Sáng hàm răng, cong nét mày
Thướt tha áo lụa lối dài trăng sao.
Nhà em ở tận gò cao
Vông đồng trước ngõ, soan đào trong sân

Tháng tư, mùa hạ đến gần
Hoa chanh nhoẻn nụ, rau cần xanh ao.
Cho em mùa hạ nắng đào
Mít xoài chín ngọt, hương cau dịu lành

Bốn bề rẫy biếc, nương xanh
Chiều oi nồng ngọt bát canh rau giền
Cho em mùa hạ ngoan hiền
Bóng cây tỏa mát đường lên cổng chùa

Tháng năm về hái ổi chua
Lối qua, em lỡ bỏ bùa cho ai...
Cho em tháng hạ ngày dài
Sông xa nước ngập, ngọt lời ca dao

Ngời sương móc, mát mưa rào
Lúa khoai lớp lớp, cỏ lau trùng trùng
Cho em mùa hạ riêng chung
Con ve say nhạc, cái ong say tình.

Nhớ nhung từng thoáng rợn mình
Dậy khơi trí tưởng bóng hình xa xăm
Ngoan ngoan vỗ giấc đêm rằm
Nửa khuya trở giấc, quanh mình ngập trăng.

Hồ Trường An

Vũ Khúc Tình Yêu



Bài Xướng: Vũ Khúc Tình Yêu

Khi ánh hoàng hôn đọng cuối chiều
Ráng vàng gom góp những thương yêu
Ngày lên quay cuốn nơi phiền lụy
Đêm xuống lăn vùi chốn tịch liêu
Hơi ấm giao hòa men mật lịm
Hương nồng trao gửi mắt tình khiêu
Trò chơi tạo hóa luôn linh diệu
San sẻ cho nhau vốn ít nhiều!

Nguyễn Đắc Thắng
20150318
  ***
Các Bài Họa:

Chuyển Ton


(Hoạ theo Luật Niêm Hai của Đường Luật Thi)

Ve kêu rộn rã đã bao chiều
Như báo rằng xuân sắp hết yêu
Liến thoắng chìa vôi vang trước ngỏ
Lim dim chó vện ngủ sau liêu
Hồi chuông uể oải bài kinh dứt
Ngọn nến lụi dần lũ muỗi khiêu
Tango chuyển hướng pasodoble
Góc trọ nhà thơ tiếc ít nhiều.

Cao Linh Tử
18/3/2014
 *** 

Giai Điệu Mùa Xuân

Tuổi trẻ nhanh chân nhót mỗi chiều
Cao niên dõi bước nhảy em yêu
Đêm xuân chén rượu đèn le lói
Gác trọ say mềm đómquạnh liêu
Gió thổi lung lay tàu lá chuối
Mưa rơi lác đác bạn mình khiêu
"Vũ vô kiềm tỏa" đau dừng gót
"Sắc bất ba đào" khổ lụy nhiều!

Mai Xuân Thanh
18/3/2015
 ***
Chùa Xưa

Nhớ mãi chùa xưa lúc nhạt chiều
Năm dài ấp ủ với tình yêu
Sao dầu vi vút che sân trước
Tường cột ơ hờ chống hậu liêu
Mảnh khảnh sư già trong khói tỏa
Lờ mờ chánh điện dưới đèn khiêu
Giờ đây tất cả đà thay đổi
Tráng lệ nhưng sao chẳng thích nhiều.

Mailoc
 ***
Chiều Nơi Gác Trọ

Mỗi lần trông thấy cảnh nương chiều
Gác trọ quê người nhớ Mẹ yêu !
Gốc rạ đun cơm làn khói toả
Bó dừa thổi lửa mái cô liêu
Cầu tre lắc lẻo đôi vai gánh
Đường đất gập ghềnh chiếc cẳng khiêu
Vật đổi sao dời hằn kỷ niệm
Gởi hồn thương xót it hay nhiều

Song Quang
 ***
Bao Giờ?

Nhà ai vương vấn khói lam chiều
Tiếng sáo dặt dìu khúc nhạc yêu
Dưới bến con đò nằm lặng lẽ
Bên cầu bụi trúc đứng cô liêu
Người đi chẳng kịp trao lời hẹn
Kẻ ở không còn đưa mắt khiêu..
Biết đến bao giờ quay trở lại
Để lau dòng lệ xót xa nhiều.

Sông Thu(Phương Hà)
 ***
Hồi Tưởng

Thời gian thoáng chốc tuổi về chiều
Tóc bạc phai sương cạn lối yêu
Cay đắng phủ phàng vui đón nhận
Trái ngang chua chát nỗi cô liêu
Bạn bè dăm đứa còn hay mất?
Tình cũ giờ đây mỏi mắt khiêu
Kỷ niệm thuở xưa còn giữ mãi
Lòng hồi tưởng nhớ quắt quay nhiều

04/2015

Thiên Thu

Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Mừng Sinh Nhật Con Nguyễn Đình Duy

Mừng Sinh Nhật  Con - Nguyễn Đình Duy - Thơ& Thơ Tranh Tú Yên

Nửa Đời…

Muộn mằn
Nào nghĩ đến Xuân
Cúc vàng - nắng xế
Bướm dừng bén hơi
Bên hồ, mấy mẹ con côi
“Tình…như làn Gió”
Xa vời
...vời xa.

Vui buồn ?
Vẫn phải bôn ba
Từ là út mọn, sinh ra cận ngày...
Ví mà chắp được cánh bay
Thiên đình gõ cửa...lá lay - thể nào ?

Ai người vọng ước Trăng_Sao
Mong con đỗ đạt.
Lao đao tự mình…
Dâu hiền và cháu thật xinh
Ngoại tôn nở mặt tiền trình của con

(Dẫu cho tâm nguyện chẳng tròn
Quên đi con nhé - hao mòn trái ngang)

Cung trầm ru mộng Cung thang
Bên con sớm tối
...Cô nàng dễ trông

Mong con - Sinh Nhật thắm nồng
Hữu duyên thiên lý - cho lòng xốn xang.

Tú_Yên
(31-03-2015)
***
Nhân đọc bài thơ cho ngày Sinh Nhật Út Duy.
TiCa cảm nhận được rất nhiều điều...
Xin được chia sẻ cùng Tú Yên qua mấy dòng thơ gọi là...
"Một chút gì cho nhau trong những năm tháng còn lại của cuộc sống con người"​.

Một Ngày...

Một ngày dù vẫn còn Xuân
Nắng hanh hao nắng
Én chừn​g hụt hơi
Lối về trơ gốc Mai côi
Gió liu riu gió
Mây trời mù xa

Xót lòng ?
Ngày cuối tháng ba
Ba mươi năm lẻ - ngày qua lại ngày
Tảo tần
... trĩu gót - mùa bay
Long lanh mắt Mẹ.
Con hay chăng nào ?

Ý trờì - lạc lõng vì Sao
Nghe lời Mẹ nguyện.
Nao nao
- ngỡ mình...
Hòa cùng ngọc Tú - Yên xinh
Kết thành "quà nhỏ" chùng chình
Chúc con...

"Mai sau Loan Thúy vẹn tròn
Cầu kia lỗi nhịp vẫn còn đò ngang
Đường vạn lý
Bước thênh thang
Có cô yếm thắm bên đàng - chờ trông"
...
Bên nhau ngon ngọt - ấm nồng
Trăm năm son sắc
Chỉ hồng - xênh xang.

TiCa Nguyễn Xuân Hòa
Mừng SN con NĐD (3.31.2015)

Có Những Niềm Riêng - Lê Tín Hương - Nguyễn Đức Tri Ân



Sáng Tác:Lê Tín Hương 
Đàn & Hát: Nguyễn Đức Tri Ân

Em Muốn Hỏi Cây Sầu Riêng


Cửa sổ nhà anh sớm mai khép lại
Tờ lịch cuối tuần ai xé bỏ ngoài hiên
Em muốn về hỏi những ngọn sầu riêng
Cho em mượn hết những lá vàng sắp rụng

Mới hôm qua áo em màu tươi thắm
Vườn thơ ngây hoa sứ gọi chim về
Xui lòng ai rộn rả những duyên quê
Hương lúa mới rủ nhau về nguyên đán

Mà hôm nay gió tây nào lãng mạn
Cho buồm anh phiêu bạt tới chân trời
Lá trầu xanh e ấp miếng cau trươi
Hoa súng nở thương đầm ao bướm trắng

Ai có qua sông khi chờ xuồng buổi sáng
Thấy trên tay em héo đóa hoa hồng
Biết lòng anh vẩn là ngọn gió đông
Thổi hiu hắt bên đời em mây tím

Còn lá thơ xanh giữ làm kỷ niệm
Cửa sổ nhà anh mở sớm mai hồng
Em bước qua đường tà áo thêu bông
Thấy trên tay anh mấy cành hoa nở..

Lâm Hảo Khôi


Thơ Tranh: Một Chút Tình Cho Thơ


Thơ: Song Quang
Thơ Tranh: Kim Oanh

Lưu Bút - Cẩn Bút


Lưu Bút

Bạn đã đến đây mời ngồi lại
Dùng chén trà thanh vừa mới pha
Nếu vui để lại đôi ba chữ
Hoặc cứ đề thơ trên vách nhà

Trực nhớ bồi hồi trang Lưu Bút
Cái thuở học trò rất ngây ngô
Nay đã trở thành viên ngọc quý
Ai cũng yêu vô bến vô bờ

Hôm nay cũng lại trang Lưu Bút
Mong bạn vui lòng… mấy dòng thơ

Yên Sơn
***                 
Cẩn Bút


Đến đây lòng ai không để lại?!
Thưởng thức trà người mới vừa pha
Niềm cảm xúc ghi nhanh lên vách
Thay quà xuân gửi tặng chủ nhà

Chúc Thi nhân đẹp từng nét bút
Lãng mạn thời tuổi trẻ thơ ngây
Thiết tha đong đầy từng trang giấy
Như dòng sông êm chảy tràn bờ

Dẫu ngu ngơ khách xin cẩn bút
Cảm mến người kính mấy lời thơ

Kim Oanh
Australia 2015

Tiễn Thầy Mạc Kỉnh Trung Về Mỹ

Chỉ còn gần một tuần nữa là Thầy Mạc kỉnh Trung về Mỹ. Chúng tôi chọn Chủ Nhật ngày 29/03/2015 mời Thầy ăn sáng để chia tay.
Địa điểm là quán cà phê, điểm tâm “ Gió và Nước “ cạnh bờ hồ Xáng Thổi, cuối đường Đề Thám. Vì nơi đây có khoảng không gian là một cái hồ rộng và bốn bề chỉ có … Gió và Nước.
Hiện diện gồm :
- Thầy Mạc Kỉnh Trung
- Thầy Trần Bá Kiễm
- Thầy Võ Văn Mít
- Thầy Nguyễn tiến Pháp
- Sư huynh Huỳnh phúc Duyên
- Sư huynh Nguyễn lương Sinh
- Anh Ngô văn Thanh
- Hia Ngũ Hài
- Anh Phan lương Hiển
- Anh Vương thủy Tùng
- Chị Tư Bé
- Chị Lê thị Thảo
- Chị Huỳnh Mai
- Chị Quách thị Phụng…

                      Chị Huỳnh Mai chúc thầy thượng lộ bình an.

Mở đầu cuộc gặp gỡ, chị Huỳnh Mai đại diện ngỏ lời tri ân đến Thầy Trung và kính chúc Thầy thượng lộ về Mỹ bình an.
Dịp nầy, chúng tôi cũng giới thiệu với Thầy và các bạn:- Giáo sư Trần bá Kiễm, cựu gs Trung học PTG dạy môn Anh Văn từ năm 1970. Phu nhân Thầy là cô Lê thị Mai Phương, chs trường Nguyễn Thông Vĩnh Long, một luật sư có tiếng ở Cần Thơ. Tuy nhiên, cô Mai Phương còn là giáo sư Trung học PTG hai niên khóa 72-73 và 73-74 dạy các lớp đệ tứ môn Doanh Thương.
Đặc biệt, từ năm 2009 hai ông bà khi thì phong bì chứa tiền, lúc lại là bao gạo nhờ chúng tôi chuyển đến các bạn cựu hs PTG hoặc Thương Phế Binh có hoàn cảnh khó khăn. Thông thường, chúng tôi tạo điều kiện để Thầy và Cô Mai Phương trao tận tay các món quà tình nghĩa nầy cho những mãnh đời bất hạnh.

Từ trái : Hiển-Tùng-Hài-Sinh-Duyên-Mít-Pháp-Thanh- Thầy Trung -
Thảo-Tư Bé-Mai -Gs Kiễm- Phụng- (em bé).

- Thầy Võ văn Mít cũng là cựu hs PTG vào trường từ niên khóa 54-55. Sau khi ra trường, Thầy về làm giáo viên ở tỉnh Cà Mau.
- Thầy Nguyễn tiến Pháp, cựu hs PTG vào trường từ niên khóa 52-53. Sau khi ra trường Thày về dạy học ở Long Khánh. Có thời gian Thầy là chuyên viên Kế Toán của Sở Tài Chánh Cần Thơ. Hiện nay, Thầy là nhóm trưởng cựu hs PTG cùng niên khóa đang còn hiện diện tại Cần Thơ.
- Hia Ngũ Hài cũng là một chs PTG vào từ niên khóa 62-63. Hiện nay, hia đã trên 70 tuổi và là người kế thừa lò nước tương Nam Hưng Lợi Cái răng. Tính đến nay lò nước tương nầy đã trải qua 4 đời : từ ông nội hia Ngũ Hài, cha và đến hia ngũ Hài. Người sắp kế nghiệp là con trai của hia Ngũ Hài tên Ngũ thượng Năng vừa tròn 22 tuổi. Hia Ngũ Hài luôn tự hào là nhà sản xuất nước tương và tương hột không xử dụng hóa chất gây hại cho sức khỏe. Có thể để từ 4 đến 6 tháng không lên men, không đổi màu, hư hỏng.
Ngày nay, nếu bạn có về chợ Cái Răng hỏi lò nước tương Ngũ Hài ai cũng biết. Sản phẫm hia Ngũ Hài làm ra ngoài hương vị truyền thống còn là một món nước chấm sạch, bổ dưỡng vì có nhiều vitamin và khoáng chất...


Chs PTG - chủ lò nước tương Ngũ Hài, thăm hỏi Thầy Trung.
Quán có nhiều món ngon như: hủ tiếu xương, hủ tíu Nam Vang và các loại mì. Đặc biệt cà phê sữa đá rất ngon.
Chúng tôi tan hàng gần 10 giờ sáng, sau khi tiễn thầy lên taxi về nhà…

Dương Hồng Thủy (29/03/2015)

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Chiều Xuân Xưa

Cùng Bạn,
Buồn buồn đọc lại vài trang sách Giáo Khoa Thư năm xưa, từng bài từng hình ảnh đơn sơ trong sách gợi trong tôi bao nỗi nhớ thương thời thơ ấu .Bây giờ trọng tuổi mình càng thấm thía những bài học trong sách . Đọc bài " Chổ Quê Hương Đẹp Hơn Cả " mình cảm thấy bùi ngùi nhớ quê xưa vô cùng . Quê tôi có đẹp gì đâu ,chỉ là đồng ruộng sông nước bình dị phẳng lặng quanh năm , không đồi núi hùng vĩ, không rừng cây hay lăng tẩm uy nghiêm , không nhà cao cửa đẹp hay phố xá sang trọng , nhưng dân cư quê tôi mộc mạc chân quê , học trò hiền lành trọng lễ giáo , chỉ vậy thôi nên nghĩ lại mà thương , mà nhớ những ngày xưa thân ái. Suy ra cho cùng tôi thấy chỉ có cái tình mói làm mình cảm động quyến luyến khó quên.

Tôi xin chép lại bài " Chỗ Quê Hương Đẹp Hơn Cả " mời các bạn đọc chơi và một bài thơ cảm tác của tôi nhân khi đọc bài nầy:
Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc ,hàng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm.Một người bạn hỏi: "Ông đi du sơn du thủy, thế tất đã trông thấy nhiều cảnh đẹp. Vậy Ông cho ở đâu là thú hơn cả? " Người du lịch đáp lại rằng: " Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được "
Xin chào Bạn , chúc cuối tuần an vui.

Thân kính 
Mailoc

Chiều Xuân Xưa

Thời gian chồng chất mãi
Quê cũ tình không phai 
Trả tôi thời trẻ dại 
Hồn lắng tháng năm dài 

Những chiều tan học hay thơ thẩn  
Bên gốc trâm bầu man mác sông 
Duyên dáng nhịp cầu tà áo trắng  
Thuyền ai chầm chậm nước xuôi dòng 

Bần , tràm rủ bóng đan chiều mọng  
Lau lách đìu hiu ngọn gió bồng 
Rải rác ven bờ chà lố nhố 
Thằng chài trên cọc , nước đang ròng 

Sau Tết quê tôi êm ái lắm 
Trời cao gió thoảng điểm mây hồng.
Lúa vàng đã gặt còn trơ rạ 
Ngất ngưởng lưng trâu những mục đồng 

Thấp thoáng cây rơm vờn nắng nhạt 
Hương thơm lúa chín vẫn còn nồng 
Là là cò trắng từng đôi xuống 
Nhún nhẩy tre già mấy ngọn cong 

Ơi ới ! từ xa văng vẳng tiếng 
Cơm chiều khói tỏa giữa trời trong 
Mái chùa ẩn hiện hàng sao rậm ,
Chuông mõ trầm buồn gợi sắc không 

Thoi thóp hôn hoàng chiều sắp tắt 
Màn đêm chầm chậm tối mênh mông
Hồn quê lai láng còn ôm ấp ,
Cảnh ấy chiều xưa khắc mãi lòng...

Mailoc
***
Các Bài Cảm Tác:
Tình Quê Lai Láng 

Chiều xuân xưa, nhớ quê hương
Thuở còn cắp sách tới trường thât vui
Thuyền chài sông nước chảy xuôi,
Cầu tre lắt lẻo ngọt bùi vấn vương.
Nữ sinh duyên dáng khiêm nhường,
Thướt tha tà áo dễ thương trắng ngần.
Đâm đà tình nghĩa thôn lân,
Chùa chiền ẩn hiên xa gần vọng chuông.
Bên đồng lúa chín chân bùn,
Hương thơm ngào ngạt gió luồn heo may.
Trời xuân mát mẻ đẹp thay,
Bên lòng canh cánh những ngày tuổi xanh...
Tình quê lai láng như tranh,
Ghi lòng hoài niêm trưởng thành chẳng quên.
Tha hương lữ thứ lênh đênh,
Tuổi đời chồng chất chông chênh điu buồn....!

Mai Xuân Thanh
Ngày 29 tháng 03 năm 2015
***
Quê Hương Đẹp Hơn Cả

Dù có chu du khắp thế gian
Đâu bằng đất Mẹ đẹp,giàu sang
Rừng vàng rộng lớn dài vô tận
Biển bạc bao la trải ngút ngàn
Thắng cảnh mơ màng:tranh cổ tích
Thôn trang bình dị :ảnh thiên đàng
Quê hương mình đẹp hơn đâu cả
Dù có chu du khắp thế gian.

Song Quang
***
Cánh Đồng Quê Tôi

Quê tôi vùng đất hạ Mê-kông
Bát ngát mênh mông cảnh ruộng đồng
Bông lúa trổ vàng niềm khát vọng
Cánh cò bay lả nỗi hoài mong
Hai mùa mưa nắng đời gian khổ
Những hạt phù sa sắc đẫm hồng
Giấc mộng trôi theo dòng thế sự
Chuỗi ngày lạc hậu chửa khơi thông!

Nguyễn Đắc Thắng
20150104

Lúc Xuân Vừa Về - Ngập Ngừng Bước Chân



Xướng: Lúc Xuân Vừa Về

Mưa phùn khắc khoải bâng khuâng
Giọt chia ly rớt lúc xuân vừa về
Người đi cởi bỏ muội mê
Vào miền thanh tịnh tràn trề khói hương

Bỏ sau lưng vùng trời thương

Những đôi mắt lệ đẫm vương nỗi sầu
Từng cơn đau thắt đậm sâu
Con đường sinh tử cơ cầu lòng rưng

Lâm râm lời nguyện xin đừng

Rời xa! Người hỡi! Hãy ngừng dời chân!

Anh Tú (March 13, 2015)
***
Họa: Ngập Ngừng Bước Chân

Mưa Xuân rơi nhẹ bâng khuâng
Giọt dài giọt ngắn ngàn phương kéo về
Em đi vương vấn bến mê
Anh về gói lại ê chề mùi hương


Mưa về chợt nhớ người thương
Nhớ đôi mắt lệ vấn vương bụi sầu
Nhớ em tình nặng thâm sâu
Chiều nay mưa ướt mái đầu rưng rưng

Em đi ngoảnh lại – thôi đừng
Kẻo anh hy vọng ngập ngừng bước chân.

Dương Hồng Thủy (March 26, 2015)

Tìm Hiểu Về Âm Nhạc Chăm-Pa

      Vừa qua, tôi là một trong số các thành viên của nhóm Văn-Nghệ sĩ Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Long đi thực tế sáng tác trong gần 10 ngày tại một số tỉnh miền Trung và Tây nguyên, mà trạm dừng chân cuối cùng là cố đô Huế.

      Trong quá trình đi thực tế để tìm nguồn cảm hứng sáng tác, tôi đã ký họa được một số tranh bằng chất liệu màu nước và bút sắt về cảnh vật và con người dọc đường thiên lý. Song song đó, tôi cũng đã có dịp khảo sát và thu thập được một số tư liệu về dân nhạc Chăm-pa.


      Theo sự nhận định chung của các nhà nghiên cứu, nền văn hóa Chăm-pa có ảnh hưởng rất lớn lao từ văn hóa Ấn Độ: lấy tiếng Phạn làm tiếng bác học, lấy mỹ thuật Ấn làm gốc để đắp tượng và căn bản nhạc thuật cũng bắt nguồn từ đó! Tuy sống trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhưng người Chăm vẫn theo hai tôn giáo cổ là Bà la môn giáo và Hồi giáo, có văn tự và ngữ ngôn riêng. Đa số dân chúng vẫn theo chế độ mẫu hệ.

      Đối với người Chăm cổ, âm nhạc là một nghệ thuật mang nhiều thần tính. Tính chất căn bản của nhạc Chăm là mối dây nối liền con người vào thần thánh. Cũng như các tượng Apsara Ấn Độ, những tượng Chăm chúng ta thấy trên các tháp cổ đã ghi lại cử chỉ của các nàng tiên đang múa hát trong cõi thượng giới. Và có lẽ vì quan niệm là của thần thánh nên người Chăm đã không có những mạnh mẽ, oai hùng, mà trái lại, đều mang tính chất buồn!

      Cũng giống như âm nhạc của dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số khác trên đất nước Việt Nam của chúng ta là chỉ truyền lại bằng đường lối truyền khẩu, người Chăm cổ chỉ ghi chép lại các sự kiện của âm nhạc của dỉ vãng mà không hề nghĩ đến chuyện ký âm các điệu thức âm nhạc. Vì thế, ngày nay phần lớn các điệu thức âm nhạc đều đã thất truyền. Hiện tại, chúng ta chỉ còn biết vớt vát được một số cung điệu Chăm hiện nay còn sót lại tại một số tỉnh ở cực Nam Trung bộ, mà nhiều nhất là Ninh Thuận, là nơi có đông đảo người dân tộc Chăm sinh sống và giữ nguyên phong tục, tập quán xưa.

      Âm nhạc dân tộc Chăm-pa có một số điểm tương đồng và có một số điểm khác biệt với âm nhạc của dân tộc Kinh. Trong âm nhạc Chăm cổ, dàn nhạc Chăm gồm có đàn Kuni Kara, kèn hay sáo Sanarai, trống, tù và, kèn đồng và mõ. Dàn nhạc Chăm hiện nay gồm có một hoặc hai nhạc sĩ thổi kèn dăm 7 lỗ gọi là Sarinai (kèn này có họ hàng với kèn Sonah của Trung Quốc và kèn Sahnai của Ấn Độ). Đàn Nhị của người Chăm gọi là Kanhi có điểm đặc biệt là hộp đàn không phải bằng gỗ hay vỏ dừa mà bằng một cái mu rùa.

Trống đôi Ganâng
      Trống Chăm có nhiều loại: trống đôi Ganâng là ai chiếc trống dài buộc vào nhau, do hai người ngồi đối diện đánh trống bằng cùi tay và dùi gõ. Trống một mặt da Barinưng thì có dây chằng để căng mặt trống do nhạc sĩ đánh một mình, ôm trống vào lòng, dùng hai tay vỗ vào vành tang trống và ít khi gõ vào giữa mặt trống. Còn trống lớn thì gọi là Hagar, chuyên để dùng trong loại nhạc lễ. Một chiếc thanh la gọi là Chêng giống như cái chiêng của người Kinh, dùng để đệm theo nhịp trống.

       Một cây đàn rất thông dụng của người Kinh cũng được dùng trong âm nhạc Chăm là cây đàn độc huyền (còn có tên là đàn bầu), người Chăm gọi nó là Rabap Katoh (đọc là ra-bạp ca-tọa), thường được dùng khi hát những bản tình ca.

      Về thể nhạc, loại nhạc phổ thông nhất trong xã hội Chăm là nhạc lễ. Lễ nhạc được dùng trong trong những cuộc lễ kỷ niệm các vị thần thánh. Người Chăm rất chú trọng đến việc tín ngưỡng. Đời sống hàng ngày của họ dường như là một cuộc lễ bái không ngừng. Bất cứ một việc vui mừng, u buồn hay lo sợ nào cũng là cái cớ để người Chăm lễ bái. Bởi vậy, lễ nhạc của họ rất phong phú, mỗi vị thánh hay mỗi loại cúng lễ đều có nhạc điệu riêng.

      Mừng thánh trong gia đình, người Chăm có điệu Patra Thagai (điệu trống một cây) hay điệu Ragâm Tagoh Chang (điệu trống vỗ nhiều hơn là đánh dùi) và điệu Tapơ là điệu trống khi xưa mừng tướng thắng trận, nay được dùng để nhớ lại vị anh hùng hiển thánh đó! Điệu Dân bôi (đọc là tần-bồi), nghĩa đen là "chôn đu", được người Chăm gốc Mã Lai sử dụng trong ngày lễ Java. Vào dịp này, họ thường hay dựng những cây đu và đánh trống thổi kèn điệu Dân bôi để giúp vui cho người chơi đu.

      Nhạc lễ của người Chăm dễ dàng biến thành nhạc hội với điệu trống Padit (đọc là pa-tịt) có nghĩa là con bướm, phụ họa cho các cô gái Chăm cầm quạt bắt chước bướm bay trong những ngày giỗ các bà hoàng, các công chúa. Điệu Jalitai (đọc là chà-li-tai) thì được dùng trong cuộc lễ kỷ niệm một vị thần người Java, khi xưa vượt biển đến cứu nguy cho người Chăm, nhưng chẳng may bị chết chìm dưới biển.

      Theo sử sách ghi chép lại, trong âm nhạc Chăm có hơn 100 điệu trống để dùng trong các điệu nhạc lễ. Ngoài những lễ kỷ niệm các thần thánh và anh hùng liệt sĩ, người Chăm còn có nhiều lễ khác như Pơ Pahâng Yang (lễ mở cửa tháp), Yuông Yang (lễ khai mương, cầu đảo), Trung Li Ua (lễ hạ điền), Pakap Hlâu Krong (lễ xin đừng mưa trong mùa gặt)... Mỗi lễ đều có một điệu nhạc riêng.

      Xét chung, nhạc lễ của người Chăm là một loại nhạc tôn nghiêm nhưng vương vấn nhiều nhạc tính buồn. Có lẽ họ đã mượn dịp lễ bái để tưởng nhớ thời oanh liệt xa xưa của tổ tiên họ. Nỗi nhớ nhung đó được phô bày trong các loại truyện ca, anh hùng ca của người Chăm. Họ có nhiều nhân vật lịch sử để đưa vào huyền sử ca, như Chây Talim là một vị tướng khi còn trẻ nhà nghèo, sống nhờ một cây lựu, rồi ra cứu nước phò vua và lập chiến công hiển hách. Khi chết đi, người dân nhớ ơn gọi là “cậu Lựu” (Chây Talim). Cậu (Chây) có nghĩa là thần thánh.

      Chây Axit, Chây Prông là truyện hai anh em nhà nọ, sinh ra trong thời tao loạn, quyết tâm cứu nước và chết tại xứ Ra Đê.

Trống Barinưng
      Truyện ca Chăm thường được các cụ già ôm trống Barinưng hát cho con cháu nghe về chuyện xưa, tích cũ.

      Tình ca Chăm là loại hát đối mang tên là Doh Dam Dara (đọc là tọ-tâm tà-rà) có nghĩa là bài hát ân tình. Nó thường được hát với sự phụ họa của đàn bầu Rabap Katoh, được trai gái hát đối đáp nhau trong ngày hội hay lúc nghỉ ngơi. Lời ca phần nhiều là thơ bình dân của người Chăm, nội dung rất trữ tình, hình thức là là thể thơ lục bát gieo vận lục tứ (6-4) và bát lục (8-6):

      Thây mai mưng dêh thây ô
      Drơh phik kâu lô yom thau rang
      Chek tian mưng asit dih đang
      Mai hu ka urang oan lô nghk…

      (Ai đến từ đàng kia ai đó
      Giống mật (lòng) ta dường như một người
      Để bụng yêu từ nhỏ còn nằm ngửa
      Bây giờ cho người khác tiếc quá trời ơi…)

      Qua bài Doh Dam Dara này, ta thấy thể thơ bình dân Chăm giống như ca dao của người Kinh, theo thể lục bát gieo vận lục tứ (6-4):

Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chửa lấy chồng còn đợi chờ ai?

So với lễ nhạc và truyện ca mang tính chất hoài cổ và bi lụy, tình ca (Doh Dam Dara) là những bài thơ trữ tình gắn liền con người vào công việc hàng ngày:

Dun tian gơp biak atah
Loh mai talah oan tian lô lingik
Lingik halây pajơng klong mai
Urang yâu padai klong yâu râlang
Ai râu min hu urang dok taphia
Adây râu mưjua doh tha dray.

(Chiều lòng nhau quá thật lâu
Bây giờ chia ly đau lòng trời ơi
Trời nào sinh tôi ra
Người ta như hột lúa chắc
Tôi như hột lúa lép
Anh buồn nhưng có người ở gần
Em buồn em sống lẻ loi một mình).

Đàn Kanhi
      Táng ca cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người Chăm. Người chết, trước khi đem hỏa thiêu, được các thầy cả coi việc lễ trong làng tới ru hồn bằng những điệu Doh Dam Mưtai được hát với sự phụ họa của đàn nhị mu rùa Kanhi. Lời hát thường nói rằng:

Sống trên đời là sống tạm
Coi như đi buôn bán về tinh thần
Trời cho sống thử thách ai gian ai ngay
Sinh ra trần truồng hai bàn tay không
Chết đi hai bàn tay trắng
Sống có đức thì lên thiên đàng
Sống không có đức thì xuống địa ngục.

      Tóm lại, qua một số điệu nhạc lễ, điệu hát kể truyện, điệu tình ca, điệu táng ca… chúng ta thấy trong nhạc ngữ Chăm, có hai hệ thống ngũ cung được họ thường sử dụng là hệ thống DO, RÊ, MI, FA,SOL, SI(b), DO, RE giống như âm giai Bắc của người Kinh và hệ thống DO, MI, FA, SOL, LA rất gần gũi với hơi điệu của hát bài chòi Bình Định và hơi Nam giọng Oán của dân ca Nam Bộ. Trong nhạc Chăm không thể có hơi Nam giọng Ai của nhạc Huế, vì ngũ cung nhạc Chăm là hệ thống DO, MI, FA, SOL, LA, trong khi loại nhạc Nam của Huế lại được xây dựng trên hệ thống DO, MI, FA, SOL, LA(non). Có thể trong dỉ vãng, người Kinh ở miền Bắc, vốn quen dùng ngũ cung đúng (DO, RÊ, FA, SOL, LA), khi vào phương Nam đã bị nhạc Chăm với ngũ cung oán (DO, MI, FA, SOL, LA) quyến rũ, rồi sáng tạo ra ngũ cung ai (DO, RE non, FA già, SOL, LA non) chăng?

Tín Đức 

*Tài liệu tham khảo:

- Thái Văn Kiểm: Loạt bài viết về dân tộc Chăm
- Trần Văn Khê: La Musique Vietnamiene Traditionelle.

Xuân Mai


Ngoài sân rực rỡ chậu hoàng mai
Đứng giữa thinh không dáng tượng đài
Dưới nắng bung xòe năm cánh mỏng
Trên cây kết chặt mấy nhành sai
Gọi duyên thục nữ nơi khuê các
Nhắc khách tha hương buổi thái lai
Thanh khiết hồn hoa màu sáng đẹp
Sắc xuân muôn thuở chẳng mờ phai.

Nguyễn Đắc Thắng
20150326

Hương Lan CHS Tống Phước Hiệp Gặp Gỡ Bạn Xưa - Vĩnh Long2015







Trương Văn Phú

Viết Mãi...Dòng Thơ


Không gian lặng
Cho cuộc đời tĩnh lặng
Ta hoài mong một khoảng trắng tâm hồn
Chiều yên ả mà nhân sinh rối rắm
Mộng an bình để ngồi ngắm hoàng hôn

Ta dệt mãi giấc mơ ngày xưa cũ
Đêm buông mành cho liễu rũ bờ ao
Cành tha thướt lao xao cười với gió
Trăng ưu tư từ cái thuở xa nào ?

Không gian lặng
Như thầm ru phiến đá
Trơ vơ buồn và xa lạ miên man
Đời vất vả giữa dòng quay tất bật
Biết tìm đâu ?
Ôi! Góc nhỏ địa đàng

Và cứ thế
Ta đếm ngày lặng lẽ
Đêm trầm tư cùng quạnh quẽ thâu canh
Tháng năm cũng...qua dần
Và cứ thế
Một dòng thơ
Viết mãi vẫn không thành.

TiCa Nguyễn Xuân Hòa

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Thơ Tranh: Chút Tình Xuân...


Bonsai: Lê Kim Thành
Thơ: Khánh Hà & Lê Kim Thành
Trình Bày: Kim Oanh

Huế Đón Anh Về


Huế sẽ vui khi nào anh trở lại
Giòng Hương Giang nhẹ soi bóng đôi mình
Ngôi nhà xưa tràn ngập ánh bình minh
Câu thơ cũ reo vang lời say đắm

Tình năm nao giờ lại càng nồng thắm
Con đò xưa giờ nhớ bến quay về
Tô đậm tình hồng hai chử phu thê
Cuộc đời ngắn tình ta dài muôn thuở

Đây Đập Đá vẫn nụ cười rạng rỡ
Tóc mây bay thơm ngát nhánh sông dài
Cầu Tràng Tiền tay lại nắm bàn tay
Nối nhịp bước đời không còn cô lẻ

Đôi vai thon trong tay anh mạnh mẽ
Đưa em đi qua năm tháng cuộc đời
Tình ngọt ngào tình vẫn mãi đầy vơi
Qua Thượng Tứ Kim Long đầy hoa nở

Cửa Hoàng thành tim vẫn hoài rộng mở
Câu Nam Ai tha thiết đón người về
Hoa phượng hồng nở ngập nẻo đường quê
Áo dài trắng mơn man vờn trong gió

Thanh Long vang tiếng cười đùa trong nắng
Chiều ta về hương lúa ngát tình xưa
Giọt nắng hồng rơi rớt xoá tan mưa
Cầu Bạch Hổ vai kề vai sánh bước

Trăng Vỹ Dạ tựa vai anh đằm thắm
Tình ngọt ngào xoá hết nỗi thương đau
Đôi mắt em là cả một trời sao
Nhìn tha thiết như ngàn lời muốn nói

Huế hôm nay cũng vui mừng hớn hở
Đón anh về ca lại khúc tình quê
Dẫu đời còn đầy dẫy những đam mê
Quên anh nhé, bên em tràn hạnh phúc...

Hoàng Kim Mimosa
AL 3/20/2015 

Tiếng Thu Nhè Nhẹ


Em từ mộng ước mới ra
Bước đi một bước, xa xa lại dừng
Người quen bỗng ngỡ người dưng
Em ơi, em hỡi, thôi đừng nhìn nhau!

Nhìn chi mà nát lòng đau
Đường tình giờ đã thay sầu xót xa
Trăng gầy tàn rụng cánh hoa
Yêu đương tình tự.. như là phù vân..

Em đi .. đi mãi biệt tâm
Lá mùa thu vẫn.. thì thầm bên thu
Thu sang tan lớp sương mù
Gió thu vàng lá.. cho dù ai mong..

Một đêm thức dậy dòng sông
Bước khua hè phố.. chợt lòng quặn đau
Con tim.. nghe những thì thào
Bờ môi rồi đã.. đổi màu hồn nhiên..

Rừng thu cây lá ngủ yên
Bầy chim thôi hót.. ưu phiền bay cao
Nắng thu lên, gió rì rào
Tiếng thu nhè nhẹ ngõ vào hư vô…

VA, trời sang thu
Ngày 1-10-13
Bùi Thanh Tiên

Hỏi Nhỏ


Hỏi Nhỏ Gió ơi hỏi nhỏ chút thôi
Có bao giờ gió xa rời làn mây ?
" Ồ không, mây vẫn phiêu bay
Yêu thương cùng với gió này phiêu du "

Hỏi đôi cánh bướm, bao thu
Có xa xôi để hoa chờ nhớ thương ?
" Ồ không, hoa bướm vấn vương
Tình nồng sao thể gieo buồn cho nhau "

Hỏi con sóng xoáy chân cầu
Có bao giờ xoáy mòn mau nghĩa tình
" Ồ không, tình mãi lung linh
Sóng bên cầu lượn nép mình lứa đôi "

Hỏi người, người đối với người
Sao đem thù hận gieo đời lầm than
" Ồ ta, cũng bởi lòng tham
Sân si quên hết lòng vàng từ tâm... "

Yêu thương từ ấy xa dần
Cái ta lớn quá, trầm luân từng ngày
Túi tham vét mãi chẳng đầy
Chiến tranh máu lửa hận gây hoang tàn

Hỏi tình sao mãi đa đoan
Nỗi đau vò xé lỡ làng chia xa ?
" Thôi người, đừng hỏi nữa mà
Trót yêu, thương nhớ đậm đà sao quên ! "


Trầm Vân
***
Hỏi

Hỏi gió bao giờ xa áng mây
Tạm ngưng quấn quít suốt đêm ngày?
- Ồ không ! Nào dễ chia lìa được
Đã hẹn một đời chắp cánh bay!

Hỏi bướm khi nào chê chán hoa
Cánh tàn, nhụy rã, sắc phôi pha ?
- Ồ không ! Trái đẹp vừa mây mẩy
Hạnh phúc tình yêu đâu dễ xa ! ( * )

Hỏi sóng khi nao bỏ mạn cầu
Để dòng sông cạn, bãi hoang vu ?
- Ồ không ! Nước với cây cầu gỗ
Sẽ mãi bên nhau đến bạc đầu !
            
Hỏi thác khi nào bỏ núi cao
Xuống nơi vườn ruộng, nước tuôn trào ?
- Ồ không, xa dốc sao còn thác
Lờ lững chỉ là lạch nước sâu !

Hỡi cánh chim xanh hãy bỏ rừng
Về đây, trái ngọt trĩu trong vườn
- Ồ không ! Khoảng hẹp sao tung cánh
Đành đổi trời xanh lấy đáy lồng ?!

Hỡi ánh trăng vàng trong bóng đêm
Hãy ra ngày sáng sẽ vui thêm
- Ồ không ! Khi ấy màn tăm tối
Ập xuống trần gian suốt mỗi đêm !

Hỡi kẻ hoài mong một bóng xa
Hãy vui duyên mới, dến cùng ta
- Ồ không ! Lời hẹn còn trăng đó
Kỷ niệm trong tim chửa nhạt nhòa !...

Phương Hà

( Tháng 3/ 2015 )
( * ) Trái cây là kết quả sự giao hòa giữa bướm và hoa

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

Duyên Với Thi Văn

      Đến với thơ văn ở mỗi người mỗi khác, đều có một nét riêng, tuỳ vào hoàn cảnh, môi trường đưa đẩy. Cho dù thế nào, người tìm đến thơ văn vẫn có những điểm chung, trước hết là yêu thích thơ văn, tiếp theo có đôi chút lãng mạn, có trí tưởng tượng phong phú... Riêng tôi, con đường đi đến thi văn do ảnh hưởng từ những người mà tôi có dịp thân cận, gần gũi.                

     Vào năm học Đệ Ngũ, tôi đã say mê tìm hiểu về thơ Đường Luật. Có lẽ do ảnh hưởng của Ông Nội lúc ông còn sinh thời, khi tôi còn  học ở bậc Tiểu Học.
      Tôi không hề biết Bà Nội, chỉ nghe ba tả lại thôi, vì Bà mất lúc Ba chưa lập gia đình. Còn với ông Nội thì tôi nhớ rất rõ. Tướng ông cao ráo, dáng gầy gầy, thường mặc bộ đồ bà ba màu trắng, chân mang đôi guốc vông, với cây dù đen, không hề rời mỗi khi ông ra khỏi nhà. Tuy đã gần 80, nhưng nội tôi còn rất khỏe, tóc của Nội chỉ mới lấm tấm trắng, riêng bộ râu thì bạc hoàn toàn.

      Quê Nội tôi ở Cầu Dừa, Chợ Lách, Vĩnh Long (tên ngày xưa của Phú Phụng), hiện tại mồ mã ông bà, ba má, các cô cùng đứa em trai thứ bảy của tôi đều an nghỉ nơi đây. 
       Lúc sinh thời, Nội cũng đúng góp ít nhiều công sức cho đình làng địa phương, nên được bà con chợ Cầu Dừa đề cử chức danh Kế Hiền.  Tôi nhớ mãi hình ảnh Ông, nhất là trong những ngày gần Tết, từ dưới vườn lên chơi với cháu nội, Ông thường viết câu đối để dán trong nhà, hay đọc thơ Đường và giải thích ý thơ cho cháu nội nghe. Thú thật tôi chẳng hiểu gì, nhưng lại chăm chú nghe. Thấy cháu nghe có vẻ say mê, ông càng hứng khởi mặc dầu đứa cháu nội mới có 8 tuổi.

      Thông thường, nếu một vấn đề nào mà mình đã yêu thích, say mê nhưng không có người để đàm đạo, thảo luận, các điều đó như bị đè nén trong lòng, khi có dịp thì không thể nào chặn lại được.
       Nội tôi cũng vào hoàn cảnh này, ở dưới quê, những người lớn tuổi thường thất học, thì lấy ai nghe, cũng không ai kiên nhẫn để nghe những điều Nội nói. Là một người theo Nho Học, sau chuyển sang Tây Học, Nội tôi vừa có quan niệm của một nhà nho, vừa có những tư tưởng phóng khoáng. Mỗi khi lên chơi cùng cháu nội, Người thường nói thật nhiều về đạo làm người... nhất là về những nhà thơ Đường... đến sau này, tôi cố moi lại trong ký ức những điều Ông nói, nhưng chỉ còn rời rạc những mảnh vụn. 

       Có lẽ từ những mảnh vụn này đã khiến cho Thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng trong tôi. Cũng như đến giờ, tôi mới hiểu được, vì sao Nội đem một loại thơ mà ông thường cho rằng "Đường Luật Thi Vi Tiên", nói với một đứa con nít, trong khi chữ Quốc ngữ vẫn chưa rành.
       Khi bước vào năm học đầu tiên, lớp Đệ Thất ở trường Trung Học Tống Phước Hiệp. Lần đầu tiên, tôi được học thơ qua những bài ca dao Lục Bát với cô Từ Tiểu Linh. Cô người Bắc, tuổi khoảng 30 ngoài, có giọng nói thật ngọt ngào, dáng người mảnh khảnh. Tôi rất thích Cô và thích tất cả những gì Cô dạy. Từ nơi Cô, tôi cảm thấy say mê những vầng thơ Lục Bát. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ đến vóc dáng và tên họ của Cô, trong khi ở lớp Đệ Lục tôi không còn nhớ ai đã dạy Văn lớp mình và mình đã học được những gì.
       Đến những năm học kế tiếp, tôi mới thật sự làm quen với thơ Đường và Hán Tự qua sự dìu dắt của Thầy Ngôn. Thầy cũng là người miền Bắc. Dường như Thầy cũng đam mê thơ Đường và các thi nhân Lý Bạch, Đỗ Phủ..như Nội tôi. Mỗi khi dạy những bài thơ Đường của các Thi Nhân này, Thầy giảng giảng, nói nói thật say sưa, đến nước bọt đọng hai bên khóe miệng mà Thầy cũng không biết hay quan tâm. Nhiều lúc tôi cứ ngỡ không phải Thầy đang giảng bài, mà Thầy đang diễn tả cảm xúc của bản thân, Thầy và bài thơ như hoà quyện như Lý Bạch trong bài thơ "Độc Toạ Kính Đình Sơn"

..."Tương khan lưỡng bất yếm"...  

(Cả hai nhìn nhau mà không thấy chán )
       Một hình ảnh giông giống như Nội tôi ngày trước.
...
      Nơi trường, thời gian dạy về thơ Đường luật không nhiều và rất khái quát, không đi sâu vào chi tiết, không thể thỏa mãn, tôi thường tìm tòi học hỏi thêm từ các sách của Phan Kế Bính, Quách Tấn, Dương Qung Hàm... Tìm đọc và sưu tầm thơ Đường Luật, tôi vẫn thường xuyên đọc các quyển Luận Đề về Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Khuyến...hay các tác phẩm Kiều, Bích câu Kỳ Ngộ, hay Chinh Phụ Ngâm... với thể thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát...Từ việc đi tìm các sách về thơ Đường, tôi được làm quen với Thơ Mới trước khi học về loại này ở Đệ Nhị Cấp, qua các bài Tình Già của Phan Khôi, Hổ Nhớ Rừng của Thế Lữ, Ông Đồ của Vũ Đình Liên...

      Thật cũng nực cười, tuy yêu thơ, khi chọn Ban vào lớp Đệ Tam, tôi lại chọn Ban B là ban Toán Lý, mà không chọn Ban C Văn. Đến đổi sau này có người bạn thắc mắc:
- Sao Đức không chọn Ban C mà lại chọn Ban B?
Tôi cười và giải thích
- Đi Thi khi giải đề Toán, đúng sai rất rõ ràng. Còn với một đề văn khi mình phân tích và bình luận, 
đúng ý Giám Khảo thì không gì phải nói. Nếu không hợp ý, dầu hay cách mấy thì cầm chắc đi đời hết 50% điểm cho môn chính. Mình không dám đánh cuộc, thời buổi bấy giờ, thi rớt là đi lính. Trong khi Ba và anh đang là lính nên Ba không muốn mình cũng lính.


      Có những chuyện không thể tin nổi. Khi đi dạy, dư thời gian, tôi xin dạy thêm giờ bên Trung Học, vì tôi vốn là một giáo viên Tiểu Học. Được sắp xếp dạy môn toán lớp 9, đúng với văn bằng Ban Toán của tôi, nhưng sau đó nghịch lý xuất hiện, được Hiệu Trưởng của trường giao dạy thêm môn Văn, cũng lớp 9. Nhà Trường tiếp tục giao cho tôi dạy Văn lớp 10. Tôi thật sự ngạc nhiên, trong những Môn chính của tôi học ở trường sau khi phân Ban, chỉ là Toán Lý Hóa, cũng như Chứng Chỉ Văn Bằng không hề có môn văn chương, thế mà Hiệu Trưởng vẫn tin tưởng và đề nghị tôi dạy Văn lớp 10. 
       Cơ duyên lạ lùng này đến với tôi là kết quả của sự yêu thích thi văn.
      Giờ nghĩ lại, có lẽ Nội, Cô Linh, Thầy Ngôn, chính là những người đem đến cho tôi tình yêu thơ văn, khai thông con đường đi đến thi văn của tôi. Ông Nội, người đầu tiên gieo vào đầu óc non nớt của tôi một thể thơ khắc khe nhất. Cô Từ Tiểu Linh đem đến cho tôi sự thích thú với thơ của dân tộc qua ca dao. Thầy Ngôn tiếp bước Nội khơi dậy trong tôi niềm say mê Thơ Đường Luật. Tôi đã yêu thích thơ từ đó và chắc chắn là mãi mãi..   

     Học Thơ Đường Luật
Mười ba đã thích học thơ Đường
Hán Tự làm quen cũng ở trường 
"Độc Toạ Kính Đình Sơn" Lý Bạch
"Tranh Hai Tố Nữ" Hồ Xuân Hương   
Vừa Bằng lại Trắc sao kỳ quá
Đã Đối thêm Niêm thiệt khó đương
Kiên nhẫn mài mò giờ đã thấu
Trắc Bằng Niêm Đối cũng bình thường
                                                Quên Đi

Huỳnh Hữu Đức