Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

Sau Vườn Lãm Thúy - Viên Ngọại Nguyễn Khắc Nhân - Hồi Thứ Sáu

SAU VƯỜN LÃM THÚY - TÁC GIẢ : VIÊN NGỌAI
Phỏng theo Nguyên tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.


HỒI THỨ SÁU
Kiếm chu vô nghĩa bất nhân
Hoàng kim trao tặng nghĩa ân bồi hoàn
Tạm dịch : 
 Diệt phường vô nghĩa bất nhân
Ngàn vàng trao tặng ân nhân cứu mình.

Kiều từ ngày gặp Từ Hải. môt đời dễ mấy anh hùng,khen cho con mắt tinh đời, đến bây giờ mới thấy đây mà lòng đã chắc những ngày một hai, con én nay đã sổ lồng , con chim hồng đã bay bổng,, loan phương hài hoà Từ công sánh với Phu nhân cùng ngồi, Từ Hải liên ra lệnh thưởng tướng khao binh, thì thùng trống trận rập rình nhạc quân, vinh hoa bõ lúc phong trần chữ tình ngày lạ thêm xuân một ngày, người đời có câu rượu vào lý sự ra , Kiều nhân lúc say rượu say tình mới kể cho Từ Hải nghe những nỗi èo le, đoạn trường gian khổ bị Hoạn Thư hành hạ bắt làm nô tỳ cạo đầu rồi cho ra ở Chùa Quan âm Các, được Sư Giác Duyên cho tá túc, Bạc Hạnh dối lòng đem bán vào thanh lâu ở Châu Thai, Mụ quản gia thưong tình, chỉ cho chỗ tai vách mạch rừng….Từ Hải nghe nói nổi giận cho quân đi truy nã bắt hết về dưới trướng cho Kiếu trả oán đền ân.

Truy nã phạm nhân
163- Ba quân trỏ thẳng ngọn cờ đào
Phụ bạc những người phải được trao
Vô Tích đạo ra tìm bắt Hoạn
Lâm Thành quân xuống Thúc nhà bao

Tầm Phạm bài hai
164- Giác Duyên Sư trưởng cũng mời về
Mụ Quản gia nô có mặt kề
Bạc Hạnh,Bạc Bà cùng Mã Giám,
Khuyển Ưng, Khuyển Phệ, thấy mà ghê,

Trướng hùm
165-Trướng hùm đặt giữa chỗ quân trung
Đối diện Từ Kiều, xắp đặt xong
Hồi trống Nam đình vừa lắng giọng
Lệnh truyền can phạm giài vào trong

Tử Hải bảo Kiều
166-Ân oán hai bên phải rõ rường
Ân thì đền trước oán sau thường
Mặc Nàng sử quyết cho minh bạch
Bảo kiếm, không nhường chỗ nạc, xương,

Kiều vâng lĩnh ý
167-Thiếp xin lĩnh ý của Phu quân
Oán phải sau thường, trước nghĩa ân
Kiếm lệnh truyền đòi danh Thúc Mỗ
Bạc vàng gấm vóc tặng nghìn cân

Ân thường
168- Giác duyên Sư trường đến phiên đòi
Mở mặt cho nhìn thấy rõ coi
Hoa, Trạc, hai tên cùng một kẻ
Ngàn vàng Phiếu Mẫu cứu đời tôi

Oán thường
169-Hoạn Thư thủ phạm có đây chưa
Ngẩng mặt , nhìn coi, đã chẳng ưa,
Hầu rượu, tráo thây, ngồi đội đuốc,
Thất kinh, hồn lạc, rạp mình thưa,

Hoạn Thư kêu ca
170 -Rằng tôi thân phận cũng đàn bà
Bởi máu ghen nhiều mới xẩy ra
Nhờ lượng từ bi lòng bác ái
Rộng đường thương đến Thúc dòng gia,

Kêu ca bài hai
171-Nghĩ cho khi gác viết kinh, ra,
Chuông khánh bên mình, cũng bỏ qua
Lòng vẫn kính yêu tài sắc ấy
Chồng chung người khác, cũng như ta,

Hoạn Thư sổ lồng
172- Khen rằng thật cũng, đả nên lời
Biết tội tình mình, hận cũng vơi
Kiếm lệnh truyền ra tha tội chết
Cạo đầu trọc lóc, lại sơn vôi,

Oán thường
173- Kiếm truyền tội phạm kể sau đây
Mã giám, Bạc Bà, Bạc Hạnh bay,
Ưng, Phệ, Sở Khanh, cùng Mụ Tú
Tội tình chúng phải đến tàn thây,

Quan chiêm
174-Ân oán hai bên đủ lý, tình,
Người người trông thấy thất hồn kinh,
Cơ trời báo ứng không sai sót
Rành rẻ chi ly cả ngọn ngành

Nhẹ gánh hận thù
175-Rạp mình qùy gối tạ Từ công
Ân oán đôi đường đã trả xong
Thiếp đội ơn Chàng bao xiết kể
Ngậm vành kết cỏ vẫn hằng mong,

Nhẹ gánh hận thù bài hai
176- Trộm nhờ sấm sét đã ra uy
Ân trả oán thường phận nữ nhi
Nặng chĩu bên lòng năm tháng chịu
Một ngày rũ sạch hận thù đi,

Từ Hải nói
177- Từ rằng quốc sĩ tự xưa nay
Tri kỷ một ngày dễ kiếm đây
Thâm tạ cớ gì bầy truyện thế
Huống chi việc cũng việc nhà này,

Từ Hải nối tiếp
178- Anh hùng tiếng gọi tự xưa rầy
Những truyện bất bằng phải tiếp tay
Còn chút Thông Huyên xa cách mặt 
 Sao cho xum họp thỏa lòng đây

Liên hoan Khao quân
179-Yến diên tiệc đẵt giữa quân trung
Ty trúc xõn xao , trống đập thùng…
Trúc trẻ ngói tan , từ dạo ấy
Binh uy lừng lẫy một vùng đông,

Từ Kiếu mãn nguyện,
180- Trào đình riêng một khoảnh trời Đông
Văn võ gồm hai dốc một lòng
Sẻ nửa sơn hà năm cõi rộng
Bá vương ngôi ấy cũng tương đồng,

Mãn nguyện bài hai
181- Đòi cơn gió táp với mưa sa
Dũ sạch phong trần chính lệnh ra
Giá áo túi cơm đâu xá quản
Công hầu khanh tướng nở như hoa


Mùa Thu Năm Kỷ Sửu sau tiết Cốc Vũ
Dương lịch ngày 29-4-2009
Viên Ngoại: Nguyễn Khắc Nhân(Thái Hanh)

Hạt Sinh Tồn - Tiếng Nói Tâm Hồn


Đừng buồn chẻ gió nghe em
Xé hai vạt nắng bôi lem mặt trời
Vén mây rách nửa cuộc đời
Buông đuôi tóc thả rối bời mà thương

Đừng hờn cắt vụn mùi hương
Cột nhan sắc muộn trên vuông vải mành
Vo tròn màu nước tuổi xanh
Trong tranh thiếu nữ chưa lành vết khâu

Đừng đùa cợt hái trăng sao
Trái tim anh nứt khô bầu trời em
Chén tình nồng đẫm hơi men
Dấu môi lạ chớ làm quen nhúng vào

Đừng yêu bóng ngả chiều sâu
Hôn thầm chiếc lá bạc đầu hoàng hôn
Hoa thời gian có tâm hổn
Xin gieo hạt giống sinh tồn xuống đây

Cỏ đêm chờ giọt sương mai
Vườn xanh còn một chút nầy nữa thôi
Cứ vui trong lúc ngậm ngùi
Như đang mót lượm tiếng cười bỏ quên.

Phong Tâm
27/11/2014

***
Tiếng Nói Tâm Hồn

(Từ Hạt Sinh Tồn của Phong Tâm)

Người buồn xua gió miền em
Thổi tan sợi nắng, nhuộm đen mây trời
Rót mưa nặng hạt xuống đời
Đêm sâu vắng tiếng ru hời bến thương

Đừng hờn ong bướm say hương
Giận hoa khoe sắc, vấn vương tơ mành
Để sầu nhuộm tím trời xanh
Vụng về nhòa nửa mộng lành mới khâu

Đừng hờn chẻ ánh trăng sao
Tim anh rạn nứt, úa màu mơ em
Hương tình xưa vẫn nồng men
Chén mơ lạ vị chớ nên uống vào

Đừng vu vơ mộng thêm sâu
Vần thương rớt xuống bên cầu hoàng hôn
Lắng nghe tiếng nói tâm hồn
Để lòng cảm nhận tình còn quanh đây

Bình minh hương thoảng sương mai
Hạt tình chờ nắng xuân đầy nở thôi
Đừng như thu cảm ngậm ngùi
Đông buồn, tim lạnh, hồn vùi ngủ quên! 

Yên Dạ Thảo
29/11/2014
***
Tình Mãi Còn Đây

(Họa từ Hạt Sinh Tồn của Phong Tâm)

Ngóng tìm quê ấy nhớ em
Khi nhen bếp lửa soi lem nhem trời
Một ngày vừa biết mến đời
Gặp môi mắt đó bời bời yêu thương.

Em đi để lại mùi hương
Bám khung cửa sổ, từng vuông mành mành
Hướng ra đồng mạ lúa xanh
Rập rờn đùa gió mát lành từng khâu.

Vào đêm ngắm ánh trăng sao
Tưởng đâu chúng vốn thuộc bầu trời em
Uớt vai… sương đẫm hơi men
Tim anh …lần lối làm quen len vào.
Đây là tình vội không sâu?
Có ghi khắc đến trắng đầu hoàng hôn?
Hạt giống tình gieo vào hồn
Đến nay còn mãi sinh tồn nơi đây.

Mỗi khi thức dậy ban mai
Cám ơn còn thở phổi nầy chưa thôi.
Chia ly là nỗi bùi ngùi
Tồn sinh cố giữ tiếng cười yêu thương!

Anh Tú
04/12/2014

Hạt Mưa Rơi Nhẹ Hiên Ngoài



Em ngồi hứng những giọt cay cuối đời
Gió buồn thinh lặng không lời
Bâng khuâng nắng nhạt rớt rơi bóng ngày
Ngậm ngùi chút hoàng hôn phai
Hồn mang nỗi nhớ theo mây phiêu bồng
Người đi như một dòng sông
Mà thuyền tình mãi trôi không bến về
Còn đây đêm trắng não nề
Khuya sâu trăng lặn cuối đường lãng du
Chỉ cô lạnh, chỉ hoang vu
Đợi người cánh nhạn xa mù mênh mông
Góc trời riêng em ngóng trông
Chông chênh giấc ngủ cô đơn riêng mình
Đau nhưng nhức buốt buồng tim
Chợt nghe mặn đắng môi mềm khát nhau
Anh nơi đâu … ghé về mau
Thời gian rũ xuống bạc màu tóc xưa…

Trần Thị Dã Quỳ


Loạn Hậu Đáo Côn Sơn - 亂後到崑山感作 - Nguyễn Trãi


Loạn Hậu Đáo Côn Sơn Cảm Tác
Nguyên tác: Nguyễn Trãi

亂後到崑山感作
阮廌

一別家山恰十年
歸來松匊半翛然
林泉有約那堪負
塵土低頭只自憐
鄕里纔過如夢到
干戈未息幸身全
何時結屋雲峰下
汲澗烹茶枕石眠

- Phiên âm -

Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác
Nguyễn Trãi

Nhất biệt gia sơn kháp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên
Hương lí tài qua như mộng đáo
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên

Dịch nghĩa:

Sau loạn về Côn Sơn cảm tác

Từ giã quê hương vừa đúng mười năm
Nay trở về, tùng cúc một nửa đã tiêu sơ
Đã hẹn với rừng suối mà sao nỡ phụ
Trong cát bụi cúi đầu tự thương mình
Vừa qua làng, tưởng như chiêm bao
Chiến tranh chưa dứt, may được toàn thân
Bao giờ được làm nhà dưới núi mây
Múc nước suối nấu trà, gối lên đá mà ngủ

Bản dịch:

Xa quê hương mười năm ròng rã 
Nay trở về tùng nửa tàn phai 
Suối rừng ước hẹn chẳng sai 
Cúi nhìn cát bụi xót thay nỗi mình 
Vừa qua làng tưởng chừng như mộng 
Chiến chinh dài còn sống là may 
Ước nhà xây giữa ngàn mây 
Pha trà gối đá lăn quay ngủ vùi 

Mailoc
***

Về Côn Sơn Sau Loạn Lạc

Mười năm thấm thoát biệt quê nhà
Tùng cúc giờ đây nửa úa già
Xưa hẹn núi rừng lòng khắc nhớ
Nay nhìn bụi đất xót thương ta
Tưởng trong mộng lúc về thôn xóm
Thân vẹn toàn chiến sự trải qua
Mơ một túp lều vùng gió núi
Giấc nồng gối đá suối pha trà

Quên Đi
***
1. Phỏng dịch:

Về Lại Côn Sơn

Thắm thoắt mười năm biệt cố hương
Cúc tùng quá nửa nhuốm thê lương
Núi rừng hẹn ước ngày quay lại
Mảnh đất đê đầu mối cảm thương
Thôn xóm thoáng qua như giấc mộng
Chiến tranh còn mãi tựa tơ vương
Bao giờ kết thúc trời mây tạnh
Gối đá nằm ru ngủ dưới sương.

Nguyễn Đắc Thắng

***
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây:
1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ.

Loạn Hậu Đáo Côn Sơn Cảm Tác            亂後到崑山感作

Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,              一別家山恰十年
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.               歸來松菊半翛然
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,            林泉有約那堪負
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.                       塵土低頭只自憐
Hương lý tài qua như mộng đáo,              鄉里纜過如夢到
Can qua vị tức hạnh thân tuyền.               干戈未息幸身全
Hà thời kết ốc vân phong hạ,                   何時結屋雲峰下
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên      汲澗烹茶枕石眠

Nguyễn Trải


2. CHÚ THÍCH :
1. GIA SƠN 家山 : Nhà ở trên núi, thay vì nói GIA HƯƠNG là Quê Hương, thì ông nói là GIA SƠN vì Quê hương của ông là Vùng Núi.
2. KHÁP 恰 : Phó Từ chỉ Vừa Vặn, Đúng Lúc.
3. NA KHAM 那堪 : Đây là từ BẠCH THOẠI lẫn trong VĂN NGÔN, tức là Văn nói lẫn trong Văn Viết. Tiếng Hán Hiện Đại vẫn còn sử dụng từ nầy. Có nghĩa : Làm sao mà..., Làm sao có thể...
NA KHAM PHỤ : Làm sao mà Phụ rãi cho đành. Làm sao mà có thể quên được !
4. TÀI QUA 纔過 : Phó Từ, cũng là Bạch Thoại, Tiếng Hán Hiện Đại còn rất thông dụng từ nầy trong Đàm Thoại.
TÀI QUA : là Mới vừa qua. Đáng lẽ phải đọc là TÀI QUÁ, như DƯƠNG QUÁ trong Thần Điêu Hiệp Lữ của KIM DUNG vậy, có bản dịch là DƯƠNG QUA. Tất cả đều do bằng trắc mà thôi !
5. CAN QUA 干戈 : CAN là Cái Mộc để đở, QUA là ngọn Giáo để đâm. Một đâm một đở, chỉ sự đánh nhau, nên CAN QUA nghĩa rộng là CHIẾN TRANH.

3. DỊCH NGHĨA :
CẢM TÁC ĐẾN CÔN SƠN SAU BUỔI LOẠN LY.
Rời xa quê hương vùng núi nầy thoắt cái mà đã mười năm rồi. Nay về thăm lại thì hỡi ôi những cây tùng và các khóm hoa cúc ngày xưa đều đã tiêu điều quá nửa. Nhưng vì có ước hẹn trước với rừng xanh và dòng suối nơi đây cho nên phải quay trở lại ( không nở phụ ước ), cúi đầu nhìn xuống đất quê nơi cố thổ mà tự cảm thương thân mình lưu lạc . Làng xóm năm xưa vừa thoáng qua như trong cơn mộng, chiến tranh còn dai dẵng chưa yên, may mà thân mình vẫn còn được bảo toàn. Không biết đến bao giờ thanh bình để được kết một mái tranh dưới đĩnh núi phủ đầy mây trắng nầy, lấy nước suối để pha trà và gối đầu lên các tảng đá mà ngủ ( 1 giấc cho ngon lành ! ).

4. DIỄN NÔM :

Quê nhà cách biệt thoát mười năm,
Tùng cúc tiêu điều trở gót thăm.
Hẹn ước lâm tuyền sao phụ rãy,
Cúi đầu cố thổ những bâng khuâng.
Xóm làng như mộng vờn qua đó,
Chinh chiến chưa yên chẳng lụy thân.
Ước dưới núi mây ta kết cỏ,
Suối trà gối đá ẩn lều tranh!

Lục bát :

Xa quê thoắt đã mười năm,
Tiêu điều tùng cúc âm thầm xót xa.
Lâm tuyền ước hẹn cùng ta,
Cúi nhìn đất Tổ quê Cha chợt buồn.
Xóm làng như mộng vấn vương,
Chiến tranh dai dẳng xót thương thân mình.
Khi nào dưới núi kết tranh,
Suối trà gối đá rừng xanh ngủ vùi!

Đỗ Chiêu Đức.

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014

Tình Theo Lá Bay


Thôi nhé em đừng gởi lá bay
Mộng tàn năm cũ lỡ cơn say
Vì nghe trong lá thu đang rớt
Có giọt sầu xưa lạc chốn này

Thôi nhé em đừng nhặt phấn hương
Gởi vào trong gió gởi theo sương
Đường xa sẽ ướt màu nhung nhớ
Em muộn phiền thêm nhạt má hường

Thôi nhé đừng em góp gió trời
Nhốt vào trong tóc dẫu buông lơi
Vì mây sẽ khóc đời không gió
Như thuở tình ta sớm đổi ngôi

Em muốn tình em tỏa sáng gương
Khắc sầu trên mặt đá hoa cương
Mà em đâu biết tình tan vỡ
Bởi chúng mình không bước một đường

Nhược Thu

Thơ Tranh: Giăng Tơ


Thơ: Đắc Thu
Thơ Tranh: Kim Oanh

Buổi Sáng Đầu Năm


Sương Lạnh Mùa Đông Bám Dầy Cửa Kính
Mờ mờ dáng cây trụi lá xa xôi
Thật im vắng, rõ tiếng kêu máy sưởi
Buồn không tên lảng đảng lên ngôi.

Trông lên vách thấy bóng mình cô độc
Hỏi bao lần nhìn tờ lịch đầu năm
Và còn nữa, được bao lần như thế?
Lòng nao nao chút xao xuyến âm thầm!

Vuốt mặt vết nhăn tay nghe cảm giác
Tim đập nhanh đua giây phút trôi qua
Nhịp phổi mệt nhoài len trong hơi thở
Cái gì đây? Chào ngày mới ngọc ngà!

Miên man nghĩ, thời gian trôi êm ả
Quay nhìn ra ngoài nắng sớm lên cao
Sương trên kính bắt đầu tan thành nước
Hơi ấm mặt trời: sức sống dạt dào!

Xoa hai tay với nhau lên hơi ấm
Áp vào tim nghe tiếng đập nhịp nhàng
Nụ cười cháu thơ thức giấc vang vang
Chợt tìm thấy niềm tin yêu trở lại!

Anh Tú
Đông Bắc Hoa KỳJanuary 1st, 2012

Nỗi Lòng Người Ði - Anh Bằng - Tuấn Ngọc

Năm mười tám tuổi đã rời xa Hà Nội,bỏ lại kỹ niệm tuổi ấu thơ,bỏ lại người yêu bé nhỏ .Những hình ảnh ấy đã vào trong tâm trí theo về nơi có cuộc sống mới.
Đó là Sài gòn.hôm nay cũng rộn ràng nhộn nhịp người qua kẻ lại trên phố với những tà áo dài thướt tha của những cô nàng xinh tươi,nhưng không đâu bằng Hà Nội thuở trước, thuở mà một thời trai trẻ mới lớn đầy ấp kỹ niệm tuổi thơ ...


Sáng Tác:Anh Bằng 
Tiếng Hát:Tuấn Ngọc
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình


Ngóng Về Phương Đó


Ở phương đó người ngồi nhìn ra biển
Sương giăng mờ hay nắng nhạt vàng hanh?
Lẽ dĩ nhiên là mỗi ngày mỗi nhớ
Nhưng càng ngày thì nỗi nhớ nhiều hơn
Từ sáng tinh sương cho tới hoàng hôn
Nhớ nhớ nhớ hàng trăm, ngàn chữ nhớ
Thu đã về, trăng đã vơi rồi đó
Người ơi người ngày tháng quá xanh xao
Ta nhớ người trong từng giấc chiêm bao
Thể xác gọi tên, tâm hồn giao động
Ta nhớ người nên đêm đêm vào mộng
Nắm tay đi bên suối vắng, lưng đồi
Trên thuyền tình chỉ hai đứa mình thôi
Vui quắn quýt, lênh đênh không bờ bến
Ta nhớ người với vô vàn trìu mến
Cây tương tư càng xanh lá, trổ bông
Hồn trôi theo dải mây trắng bềnh bồng
Nương cánh gió về bên người ấp ủ
Ở bên người có bao giờ vừa đủ
Mà thời gian như một gã vô tâm
Ta riêng một phương thương nhớ âm thầm
Luôn quay quắt làm tâm hồn rệu rã

Trung tuần tháng 10/2014
Yên Sơn

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Thơ Tranh: Lụn Tàn


Thơ& Thơ Tranh: Kim Quang


Lời Ước Hẹn

Cả hai đang ở độ tuổi 17. Họ gặp nhau trong 1 bệnh viện khi đang đi dạo. Trong 1 chớp mắt, 2 trái tim non trẻ rộn lên 1 niềm xúc động. Họ đọc trong mắt nhau 1 tình cảm sâu sắc. Họ đọc trong mắt nhau một tình yêu nồng nàn. Kể từ hôm đó họ không còn cô đơn nữa.

Đến 1 ngày, cả 2 được thông báo rằng bệnh tình của họ không có cách nào chữa trị được nữa. Trước khi được gia đình đón về nhà, họ ngồi bên nhau 1 buổi tối, hẹn cùng nhau vượt qua số phận…. Họ hứa mỗi tuần sẽ viết cho nhau 2 lá thư để chúc phúc và động viên nhau. Rồi hôm sau họ chia tay nhau.


Thấm thoát đã 3 tháng trôi qua. Cô gái ngày càng yếu ớt. Một hôm cô gái cầm trong tay bức thư chàng trai gửi đến rồi thanh thản khép đôi bờ mi, miệng thoáng mỉm cười mãn nguyện. Bà mẹ cuống cuồng gọi con. Nhưng cô gái đã ra đi, bà gỡ lá thư trong tay cô gái và đọc: “khi số phận đùa giỡn với sinh mạng của em, em không nên sợ hãi vì bên cạnh em luôn có anh và mọi người quan tâm đến em. Anh đang khỏe dần lên, anh sẽ đến với em một ngày gần đây, em sẽ không cô đơn.”

Hôm sau, bà mẹ mở tủ của con gái, phát hiện ra vài chục lá thư do con gái bà viết, bỏ sẵn vào phong bì, dán tem đàng hoàng. Phía trên tập thư là mẩu giấy cô gái viết cho bà mẹ: 
“mẹ ơi, đây là tập thư con viết cho 1 người bạn trai mà chúng con đã có lời hẹn ước đi cùng nhau suốt quãng đời còn lại. Nhưng con thấy mình yếu đi nhanh chóng, sợ không giữ được lời hứa ấy. Con đã viết sẵn những lá thư này, mỗi tuần mẹ gửi giúp con 1 lá cho anh ấy để anh ấy nghĩ con vẫn còn sống và đang động viên anh ấy vượt lên trên bệnh tật. Con chỉ mong anh ấy đủ niềm tin để sống tiếp. Con gái của mẹ.”

Bà mẹ lần theo địa chỉ ghi tên bìa thư để đến nhà chàng trai. Bà nhìn thấy trên bàn là một tấm ảnh của một thanh niên trẻ, tràn đầy sinh khí và sức sống được viền dải băng đen. Bà vô cùng ngạc nhiên khi biết chàng trai ra đi cách đây 1 tháng.'


Bà mẹ chàng trai nước mắt lưng tròng chỉ vào chồng thư đặt bên cạnh khung ảnh và kể rằng: “con trai tôi đã mất cách đây 1 tháng, nhưng trước khi ra đi, nó dành 3 ngày 3 đêm để viết những lá thư này. Nó nhờ tôi mỗi tuần gửi cho cô bạn gái nào đó 1 lá. Nó bảo cô gái đó cũng đang mong chờ sự cổ vũ động viên của nó. Thế là cả tháng nay tôi thay con trai gửi những lá thư này đi, ko biết cô gái đó có nhận được không ?…”

Bà mẹ cô gái lao đến ôm chầm lấy bà mẹ của chàng trai và khóc không thành tiếng. Khi cả 2 bà mẹ đã hiểu ra tất cả, 2 bà quyết định vẫn cứ hàng tuần gửi cho nhau 1 lá thư mà con họ đã để lại. Họ bảo làm như thế vì 1 ước nguyện cao cả./

Đặng Anh Tuấn chuyển

Nhớ Thu




Trên đồi hoang, nắng chiều vương vấn
Lá phong vàng lấm tấm sương thu
Thông ngàn theo gió vi vu
Cánh chim bạt gió, mịt mù hoàng hôn

Chiều chầm chậm còn hôn trên tóc
Mắt mơ nhìn mấy nóc nhà xa
Áo ai nhuộm ánh dương tà
Nắng thu hiu hắt thướt tha tơ sầu

Mưa giăng mắc giọt ngâu trên phố
Mấy bóng dù lố nhố hành lang
Đèn đường mờ ảo sương đan
Trăng thu lãng đãng mơ màng cánh cung

Chung cư quạnh, mông lung tiếng trẻ
Không gian mờ khe khẻ giọng ru
Buồn tênh lắng đọng chiều thu
Như dày như xéo tâm tư lạnh lùng!

Cơn gió nào làm rung màn cửa?
Hal-lo-ween đêm giữa âm u
Bên đèn lạnh lẽo lù mù
Lạc loài một chiếc lá thu trên giường!!

( Mùa thu 1986 thành phố ERIE – Pennsylvania )
Mailoc
***
Thu Đông Lạnh Lùng

Rừng phong nhớ lại sao vương vấn,
Lá vàng khô thơ thẩn đưa Thu.
Đâu đây tiếng sáo vi vu,
Nghe buồn tiễn biệt khói mù ôm hôn.

Đôi môi, khóe mắt, hôn làn tóc,
Đâu nỡ chia tay khóc xót xa.
Bâng khuâng bóng ngã dương tà,
Tàn Thu hơi lạnh tình ta âu sầu.

Mưa bay lất phất đầu đường phố,
Nam nữ sinh cuốc bộ hành lang.
Dung dăng mấy nhỏ tay đan,
Rủ nhau ngắm nửa trăng vàng cánh cung.

Bóng nguyệt khuyết mông lung dỗ trẻ,
Giọng mẹ quen khe khẽ hát ru.
Con ơi hãy ngủ, buồn Thu,
Như cơn gió thỏang cương nhu lạnh lùng.

Chuyển mùa Đông ai cùng đứng đợi?
Trang trí vườn ma tới âm u,
Quỹ vương giả dạng lù mù,
Chong đèn song cửa lá Thu vô giường!

Mai Xuân Thanh 
 
Ngày 20 tháng 11 năm 2014
***
Sầu Đông

Có những lúc hoang mang tự vấn
Sao lá vàng rơi rụng chiều thu
Mùa đông, phong cảnh hoang vu
Mênh mông tuyết ngập, sương mù hoàng hôn ?

Đâu còn nữa nụ hôn trên tóc
Khi vầng trăng vừa mọc đồi xa
Chỉ còn đêm lạnh trăng tà
Cô đơn buốt giá, lòng da diết sầu

Màn sương xám một màu trên phố
Vệt rêu mờ hoen ố hành lang
Lệ buồn chan chứa sầu đan
Cánh chim chấp chới theo hàng vòng cung

Nhìn tóc bạc, nhớ nhung thời trẻ
Những đêm nào gió nhẹ như ru
Bên nhau cùng ngắm trăng thu
Mà nghe xao động tâm tư lạ lùng...

Nghe gió giật mưa rung ngoài cửa
Thèm ánh đèn ngọn lửa mù u
Nhưng trong đêm tối mịt mù
Chỉ vầng trăng lạc từ đâu đến giường.

Phương Hà
***
Lạnh Tàn Thu

Cây lặng lẽ như đang tự vấn
Hay buồn vì xa tấm áo thu
Gió ngàn về chốn hoang vu
Giờ đây tình đã biệt mù môi hôn

Dòng đời đã hoàng hôn nhuộm tóc
Khói chiều đang vương nóc xóm xa
Phải chăng tiễn ánh chiều tà
Khiến lòng ray rức thiết tha cung sầu

Tí tách vang mưa ngâu đẫm phố
Bóng xa mờ nhấp nhố tình lang
Khuê phòng vắng lạnh mộng đan
Thuỷ chung giữ vẹn đâu màng lầu cung

Trong đêm vắng trăng lung linh trẻ
Gió thì thào cất khẻ lời ru
Cũng rồi thêm một mùa thu
Thêm mùa thương nhớ niềm tư mơ lùng

Sương sủng ướt lẻn rung song cửa
Đem cô đơn vào giữa thâm u
Hồn như lạc bước mây mù
Tình còn đọng mãi hơi thu bên giường

Quên Đi 

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014

Xin Tạ Ơn


(Nhân dịp Thanksgiving Day)

Tạ ơn ai trong ngày lễ Thanksgiving?
Tuỳ theo tín ngưỡng và tôn giáo.
Trước hết xin tạ ơn Người: Đấng Thiêng-Liêng cao cả,
Rồi tạ ơn tổ tiên, cha mẹ, anh chị em.

Sinh ra trên quê hương Việt Nam yêu dấu,
Xin tạ ơn quốc tổ Hùng-Vương.
Hiện là công dân trên đất nước cưu mang,
Xin tạ ơn dân tộc, quê hương mới.
(.....)
Xin cảm ơn vợ con, họ hàng, thân thuộc,
Hiện sống cùng tôi hay trong thời thơ ấu đã qua.
Cảm ơn thầy cô, bạn bè, thân hữu gần xa
Và cộng đồng xã hội đã giúp tôi trong cuộc sống.

Cũng không quên cảm ơn người yêu dĩ vãng,
Nay đã xa rồi nhưng kỷ niệm đẹp chưa phai.
Trong cuộc sống cuối đời, tình thân nhân đang nhạt,
Mối tình xưa xoa dịu trái tim này.

Và cũng nên tạ ơn cả thiên nhiên vĩ đại:
Mặt trời, mặt trăng, ánh sáng, bóng tối
Không khí, nước, lửa, đất đai, sinh vật, thảo mộc
Đã và đang nuôi dưỡng sự sống cho nhân loại.

Xin nguyện cầu Đấng Thiêng-Liêng tôn kính
Cho tâm con được vui sống cảnh an bình,
Xin tạ ơn Người, nhân dịp Thanksgiving
Với tất cả tấm lòng con thành tín.


ChinhNguyen/H.N.T. USA.2012-14

Mùa Lễ Tạ Ơn



Khi những chiếc lá vàng cuối cùng rơi và khí trời càng trở lạnh cũng là lúc cả đất nước Hoa Kỳ đang chuẩn bị bước vào những ngày lễ trọng đại và thiêng liêng. Một trong những ngày lễ quan trọng đó là Lễ Tạ Ơn . 

Lễ Tạ Ơn như đem những người sống trên đất nước Hoa Kỳ trở về với những ngày đầu của tổ tiên họ… Vào ngày 6 tháng 9, 1620, có 102 người, vừa đàn ông, đàn bà, trẻ con cùng một số vật dụng bước lên con tàu Mayflower rời Anh Quốc, vượt đại dương để tiến về Tân-thế-giới. Họ ra đi và mang trong lòng một nỗi khao khát: tìm tự do tôn giáo (seeking religious freedom). Họ được gọi bằng tên mới “Những người hành hương” (Pilgrims). Một vài nhà sử học coi đây là Lễ Tạ Ơn đầu tiên mặc dầu không có tiệc tùng, ăn uống, vui chơi… 

Mùa đông đầu tiên quá lạnh, thật vô cùng khắc nghiệt, đến với họ. Thực phẩm lại thiếu thốn trầm trọng. Tháng 12 năm ấy có sáu người qua đời, qua tháng Giêng có tám người, tháng Hai tăng lên 17 người, và 13 người qua đời trong tháng Ba. Những người này đã âm thầm chôn cất những thi hài trong đêm tối vì sợ Thổ Dân (Native Indians) biết được có thể tấn công họ chăng! May mắn thay, không có một xung đột nào đáng kể giữa Người Da Đỏ và Người Hành Hương như họ dự đoán. Trái lại Thổ Dân rất thân thiện và tận tình giúp đỡ những Người Hành Hương trong cuộc sống mới về việc dạy cách trồng tỉa, săn bắn, nấu nướng các thứ hoa quả lạ… 

Tháng Tư họ cùng nhau trồng bắp dưới sự chỉ dẫn của một Người Da Đỏ tên là Squanto. Những luống bắp nầy quyết định sự sống còn của họ trong mùa Đông sắp tới. Họ vui mừng vì mùa Xuân và mùa Hè năm 1621 thật quá tuyệt đẹp! Bắp lên tươi tốt hứa hẹn một vụ mùa no nê như lòng họ mơ ước. Mùa Đông lại về, nhưng bây giờ không còn là một đe dọa nữa. Mùa màng đã gặt hái xong, họ có dư thực phẩm để sống qua những ngày đông giá rét. Cũng không còn sợ lạnh vì đã làm được 11 cái nhà vững chắc đủ chỗ để quây quần sum họp. Họ quyết định tổ chức một Hội Ngày Mùa (Harvest Festival) để tạơn Thượng Đế cho họ sống sót qua mùa đông đầu tiên. Đó là lễ Tạ Ơn đầu tiên trên đất Mỹ. Ngày tháng chính thức của "First Thanksgiving" nầy không được chép lại, chỉ biết đầu tháng 11 năm 1621. 

Thực phẩm chính trong Lễ Tạ Ơn nầy gồm: Bắp, bí đỏ, chim, vịt, ngỗng và gà tây. Họ cũng mời khách là các Thổ Dân. Tù trưởng Massasoit dẫn 90 dũng sĩ đến dự "party" và cũng đem biếu Thống Đốc của nhóm Người Hành Hươnglúc bấy giờ là Bradford năm con nai nhân ngày Lễ Tạ Ơn đó. Họ ăn uống vui chơi suốt một tuần lễ. 

Lịch sử ngày Lễ Tạ Ơn của người Mỹ cũng thăng trầm, trôi nổi theo vận nước của họ. Các tiểu bang thuộc địa đầu tiên không thống nhất được ý kiến chung về một ngày Lễ Tạ Ơn. Họ giữ ngày lễ tùy ý mà họ cho là thích hợp. Khi cuộc cách mạng giành độc lập từ tay Người Anh thành công họ mới nghĩ đến một Lễ Tạ Ơn chung cho 13 tiểu bang. Tổng Thống đầu tiên của nước Mỹ, George Washington, kêu gọi dân chúng giữ ngày thứ năm 26 tháng 11 năm 1789 làm ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên cho toàn quốc (First National Thanksgiving). Nhưng sau đó lễ tạ ơn cũng không được mọi người công nhận theo một ngày tháng nhất định. Dầu vậy, càng ngày càng có nhiều người đưa ra ý kiến nên có một ngày nhất định, đưa lễ Tạ Ơn thành quốc lễ (National Holiday) và đưa quyền quyết định cho chính phủ Liên-Bang. 

Một trong những người có công trong việc thúc đẩy việc thành hình ngày Lễ Tạ Ơn là bà Sarah Josepha Hale. Vào năm 1837 bà Sarah trở thành chủ bút của một tạp chí phụ nữ nổi tiếng có tên "Godey's Lady's Book". Bà đã viết hàng trăm lá thư gởi đến các nghị sĩ Quốc Hội và những người có thế lực lúc bấy giờ hầu vận động đưa ngày Thanksgiving vào quốc lễ. Trong thời kỳ nội chiến (Civil War) năm 1861, bà viết một tâm thư kêu gọi hai phe buông súng một ngày để giữ Lễ Tạ Ơn, nhưng không phe nào chịu nghe cả. Bà thất vọng! 

Mãi đến năm 1863, Tổng thống Abraham Lincoln nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc nên chỉ định ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc. Chẳng may ông bị ám sát, Andrew Johnson lên làm Tổng Thống, tiếp tục truyền thống cũ, nhưng đổi lại ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm Lễ Tạ Ơn. Rồi trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến 1941, Tổng Thống Franklin Roosevelt chỉ định ngày thứ năm của tuần lễ thứ ba trong tháng 11 làm lễ Tạ Ơn thay vì thứ năm trong của tuần lễ thứ 4.Nhưng lần nầy Roosevelt bị các thương gia và các đảng viên Đảng Cộng Hòa chống đối dữ dội, cho rằng Tổng Thống đã đi ngược lại truyền thống cũ. Hai năm sau Tổng Thống Roosevelt rút lại quyết định và đặt ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc mãi cho đến ngày hôm nay.


Lễ Tạ Ơn là dịp để chúng ta đếm các ơn lành Trời ban. Nhìn lại những ngày tháng tại quê nhà, cuộc hành trình tị nạn đầy gian nan vừa qua và những thành quả mà Người Mỹ Gốc Việt đạt được ngày hôm nay để chúng ta dânglên Thượng Đế lời Tạ Ơn sâu xa nhất. Tạ ơn Trời vì Ngài đã ban cho ta sự sống, hơi thở, sức khoẻ và bao nhiêu là ân huệ. Chúng ta cũng nên cảm ơn nhau. Cảm ơn thân quyến, bạn bè, những người thân quen và ngay cả những người chưa từng biết về sự chan hòa của họ trong cuộc sống của mỗi chúng tatrong cộng đồng nhân loại. 

Kính chúc mọi người, mọi nhà một kỳ Lễ Tạ Ơn tràn đầy ý nghĩa.


Mai Xuân Thanh

Mừng Lễ Tạ Ơn


Lại về ngày Lễ Tạ ơn
Mừng nhau tiếng gió qua hồn thênh thang
Cành cây níu đóa cúc vàng
Chớm đông về lạnh, thu tàn bóng rơi

Chắp tay cảm tạ ơn đời
Đưa bàn tay đỡ niềm vui bềnh bồng
Chào em má đỏ môi hồng
Nắng tràn thương nhớ vào trong mắt tình
Nõn nà mười ngón tay xinh
Giữ đời nhau đẹp bóng hình lứa đôi

Tiệc vui lấp lánh tiếng cười
Mời dùng squash soup, món khoai chiên dòn
Gà Tây nướng chín vàng ngon
Bánh Pumpkin pie mùi thơm ngọt ngào

Nâng ly cụng với trăng sao
Nghe bao ân sủng trời cao rải về
Niềm vui hạnh phúc đam mê
Xua tan bao nỗi tái tê cuộc đời

Nâng ly uống cạn tình người
Từ thành thị tới xa xôi xóm làng
Tấm lòng tình nghĩa cưu mang
Men tri ân ngấm ngút ngàn trời xanh

Trầm Vân

Tạ Ơn



(Tặng Biển Xanh)

Tạ ơn em
những lời ru
Cho ta mãi nhớ
sương mù phố xưa

Tạ ơn em
những cơn mưa
Cho ta ướt sũng
hồn vừa chớm đau

Tạ ơn
dù áo phai mầu
Cho ta mãi nhớ
tình sầu năm xưa

Tạ ơn
sớm đón chiều đưa
Đầu con dốc nhỏ
cho vừa nhớ nhung

Tạ ơn
biết mấy cho cùng
Tình xưa lối cũ
lạc vùng đau thương

Suối Dâu,
Hai sáu mười một 2ngàn10

Tạ Ơn Đời




Tạ ơn đời đã có anh
Vườn thơ đơm nụ trĩu cành ngày xanh
Tạ ơn tình mộng an lành
Hoa đời đua nở đầy cành tỏa hương

Tạ ơn giấc ngủ miên trường
Mơ màng em ngỡ người thương hiện về
Tạ ơn lụa nắng chiều quê
Để ta thêu dệt ngày về có nhau

Tạ ơn cho ta khổ đau
Vết hằn kỷ niệm phai màu phôi pha
Tạ ơn đời chút thật thà
Cho ta trú ngụ mưa sa cuối đời

Tạ ơn giấc mộng tuyệt vời
Quên đi ngày tháng thả lơi gánh sầu
Tạ ơn anh mối tình đầu
Cầm bằng như nước qua cầu ... mất nhau!

Kim Oanh

Nhân Lễ Thanksgiving ở Hoa Kỳ


Tạ ơn cha mẹ đã sanh ta,
Nuôi dưỡng nhọc nhằn sánh hải hà.
Cực khổ sơ sinh không kể xiết,
Gian truân tấm bé chẳng kêu ca.

Dòng đời hổn độn luôn che chở,
Cuộc sống khó khăn bế ẳm quà.
Nước Mỹ dân tình lo báo đáp,
Của đồng, công lượng, nghĩa bao la.*

Ngày 13 tháng 11 năm 2014
Mai Xuân Thanh

* Của1đồng, công1lượng 

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Thi Phẩm Da Diết - Thơ Thuơng Hà - Vân Khanh Diễn Ngâm


Thơ: Thuơng Hà 
Diễn Ngâm:Vân Khanh 

Giăng Tơ


Nhện giăng tơ để bắt mồi
Em giăng những sợi tơ đời bắt anh!
Gửi mây giữ hộ lòng thành
Phân đường phổ rộng để dành riêng em
Lời thơ thao thức hằng đêm
Nhớ người thục nữ bên thềm ngày qua
Thả hồn theo ánh dương xa
Trọn đời soi mãi vóc ngà thân thương
Năm dài ngày nắng đêm sương
Sợi tơ buộc lạt - lòng vương khôn rời!

Đắc Thu

Thơ Tranh: Phượng Tím


Thơ: Trầm Vân
Thơ Tranh: Kim Quang

Phượng Tím


Nơi anh ở chưa có trồng phượng tím
Đà Lạt em, phượng tím dịu nắng hè
Trên đồi Mộng Mơ, phượng tím chờ ai?
Khi ta đã không còn bên nhau nữa…

Chỉ anh biết em yêu màu hoa tím
Và chỉ anh biết em thường mong ước
Phượng đỏ kia sẽ hóa tím dịu buồn
Những hè về, phượng tím gợi nhớ thương…

Anh không có tâm hồn người nghệ sĩ
Anh sinh viên mê sách nhất giảng đường
Không hiểu em cô bạn học mộng mơ
Mắt u sầu, em buồn và khẽ nói:

Phượng tím nở là tuổi em mười chín
Phượng tím buồn cho sự học dở dang
Phượng tím hờn khi tình bạn sang trang
Phượng tím sầu cho tình mình hai ngả…

Hết khóa học, mỗi người đi mỗi hướng
Biết ai còn có nhớ đến ai chăng?
Hôm nay, đứng lặng trên đồi phượng tím
Lòng nhớ về em, cô bạn mộng mơ

Có những ước mơ muôn đời không thực
Nhưng mơ ước em hiện thực rồi đây
Để anh vẫn mãi là chàng mê sách
Biết ôm chùm phượng tím, nhớ người xưa…

Phượng Trắng
Winnipeg, hạ 2004

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Môt Số Nhận Xét Về Phật Giáo Nam Tông Và Phật Giáo Bắc Tông



Trước đây, người ta thường cho rằng giáo lý Nguyên Thủy là giáo lý Tiểu Thừa không đưa đến quả vị tối hậu thành Phật, mà chỉ có giáo lý Đại Thừa mới là giáo lý chân chính của Phật giáo. Ngược lại, một số khác lại cho rằng giáo lý Nguyên Thủy mới chính truyền là của Phật, còn giáo lý Đại Thừa là ngoại đạo. Sự bất đồng quan điểm ấy đã làm băng giá mối quan hệ cả hai truyền thống đến hàng ngàn năm!
Ngày nay, với những phương tiện tiến bộ, quan điểm như thế về Tiểu Thừa và Đại Thừa đã không còn thích hợp! Phần lớn các nhà nghiên cứu Phật giáo đều chấp nhận một số tư tưởng Đại Thừa là những tư tưởng của Phật giáo Nguyên Thủy. Nếu chúng ta chịu khó so sánh bốn tập A Hàm của Trung Quốc với các tập Pàli Nikàya tương đương, chúng ta sẽ thấy có nhiều đoạn văn A Hàm lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pàli.
Thái độ của một số Phật tử Đại Thừa xem tư tưởng Tiểu Thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi, cũng như phủ nhận ba tạng Pàli, bốn bộ A Hàm và các Luật, Tạng không phải là những tinh hoa tốt đẹp và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy, cũng là một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản tri thức!
Trong lịch sử Phật giáo, thời kỳ Phật giáo Nguyên Thủy cho đến thời kỳ Bộ Phái (sau Thích Ca Mâu Ni 400 năm) chưa có danh từ Đại Thừa hay Tiểu Thừa! Hai danh từ này xuất hiện đồng thời với kinh điển Đại Thừa khoảng thế kỷ I trước hoặc sau Công nguyên. Các danh xưng Tiểu Thừa và Đại Thừa chỉ là sự tranh chấp về đường lối hành đạo do lúc bấy giờ người ta quá chú trọng về lý luận và hình thức.
Vào năm 1950, Hội Phật tử Thân hữu Thế giới (World Fellowship Buddhists) đã họp tai Colombo (Tích Lan-Sri Lanka ngày nay-) đã nhất trí quyết nghị loại bỏ danh từ “Tiểu Thừa” khi nói đến Phật giáo Nam Tông. Từ đó đến nay, Phật giáo được phân thành hai truyền thống: truyền thống Nguyên Thủy (Phật giáo Nam Tông) và truyền thống Phát Triển (Phật giáo Bắc Tông). Từ ngữ “Nguyên Thủy” và “Phát Triển” khi sử dụng, đã nói lên tính xuyên suốt, giống như một cây đại thọ (tức giáo lý Phật giáo) mà với phần gốc rễ là Nguyên Thủy và phần thân cành là Phát Triển! Không một cây nào có thể gọi là cây khi không có gốc hay ngọn! Sự nhất quán trong hệ thống giáo lý phải được thiết lập và không ra ngoài hai hệ thống Nguyên Thủy và Phát Triển, bởi vì cả hai đều cần thiết phải bổ sung cho nhau! Nói cách khác, mọi tư tưởng của Phật giáo Phát Triển đều phải mang tính kế thừa giáo lý Nguyên Thủy; nếu không, giáo lý Phát Triển sẽ mất đi giá trị của nó!

Với nhận định trên, khi học tập và nghiên cứu, chúng ta cần phải thoát ra khỏi những tượng đài quá lớn của các học giả có một bề dày nghiên cứu, nhưng chưa có quá trình tu tập; cần phải có sự độc lập trong nhận thức để tránh tình trạng nô lệ kiến thức -bởi một con sư tử được làm bằng vàng thì râu hay đuôi, cũng đều có giá trị như nhau trong mắt của người thợ kim hoàn- và cũng bởi vì Phật giáo là một tôn giáo “khi tìm đến để nắm bắt chứ không phải để chiêm ngưỡng”!


(26/11/2014)
Hà Nguyên

Về Mùa Nước Nổi - (Quê Nghèo, Phạm Duy)


Nhạc Đệm: "Quê Nghèo"
Sáng Tác: Phạm Duy, 
Đàn bầu: Phạm Đức Thành
Hình ảnh & Thực hiện: Khúc Giang

Xướng Họa Ẩn Dật




Càn qua gió bụi nhuộm thêm sầu
Áo rách vẫn còn Khảm dạ châu
Ngược gió lỏi luồn mà chạy Cấn
Xa nơi Chấn động để ngồi câu
Nuôi thân gạo Tốn ngày hai bữa
Dưỡng khí thân Ly tháng một chầu

Khôn dại thường lên voi xuống chó
Tôi Đoài mạc kiếp được gì đâu ?


Cao Linh Tử

13/11/2014
***
Số Kiếp 


Càn quét địch quân, thấy thảm sầu,
Chẳng qua họ Khảm hạt minh châu.
Mang thai em bé nghe như Cấn,
Bung chửa làm sao Chấn lưới câu.
Nếu biết buông ra mà Tốn của,
Nào hay thất thủ bị Ly thân.
Khôn ngoan một chút đừng nghe họ,
Số kiếp tôi Đoài chạy được đâu!


Mai Xuân Thanh
Ngày 17 tháng 11 năm 2014

** *
Bát Tiên

Lộn xác ăn xin Thiết Quảy sầu (1)
Tiên Cô rực rỡ tựa minh châu
Hàn Tương truyền sấm khuyên ông chú (2)
Trương Quả tướng người giống lão câu
Lam Thái trẻ trung hay nhảy múa
Chung Ly quan lớn chán đi chầu
Hoàng thân Quốc Cữu không màng đến
Chó cắn Đồng Tân chẳng có đâu.(3)

Quên Đi

- (1) Lý Thiết Quảy xuất hồn đi gặp Lão Tử, căn dặn học trò quá 7 ngày mới được chôn. Nhưng vì mẹ bệnh nặng nên người học trò phải chôn sớm. Khi hồn Thiết Quảy về không thấy xác, đành phải nhập vào xác ăn mày bị chết đói.

- (2) Hàn Tương Tử khuyên chú là Hàn Dũ đi tu đạo. Nhưng Hàn Dũ chê mê tín. Hàn Tương mới tặng cho Hàn Vũ 2 câu thơ : 
Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại (Mây giăng Tần Lĩnh nhà nơi đâu) 
Tuyết ủng Vân Quan mã bất tiền ( Tuyết phủ Vân Quan ngựa không đi tới được) 
Hàn Dũ không hiểu. Sau đi nhậm chức ở Triều Châu đếm Lam Quan thì gặp cảnh y như 2 câu thơ trên. Bấy giờ mới hiểu ra. 

- (3) - Câu " Cẩu Yểu Lữ Đồng Tân" dựa vào câu chuyện của Cẩu Yểu và Lã Đồng Tân, ý nói không biết lòng người tốt, nghĩ xấu cho lòng tốt của người khác. Vì chữ Cẩu Yểu đồng âm với "cẩu giảo" (chó cắn) nên truyền tới truyền lui thành ra "Chó cắn Lữ Đồng Tân"