Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

Tình Thu Gửi Bạn


Xướng:
Chút tình gởi bạn ở phương xa
Viết vội vần thơ ấy gọi là...
Thu đến,bâng khuâng rừng* xứ lạ
Hè đi nhung nhớ phượng quê nhà
Heo may nhẹ thổi lòng se lạnh
Chiếc lá vàng rơi dạ xót xa
Gởi gió đôi dòng thơ lạc lỏng
Tri âm mời uống mấy chung trà

Song Quang
Thân tặng Sỷ Bình và các thân hữu Tây thành
9/18/2014
* Rừng xứ lạ:ở đây ý muốn nói rừng phong chỉ ở Mỹ và Canada mới có rừng phong,chứ ở VN không có.

Kính họa vận:

Thu nhớ nhung nhiều bạn chốn xa
Cảm nhau dào dạt bấy nhiêu là…
Rừng phong rụng lá rơi vàng đất
Bước khách tìm ai ngóng trắng nhà
Khắc khoải heo may vào biển động
Mơ màng lữ điếm đẫm mưa sa*
Nhìn Ngâu sùi sụt cơn giông bão
Giọt lệ quê hương đọng chén trà!…

Sỹ Bình (Tây Ninh)

Xót xa


(Từ Tình Thu Gửi Bạn của Song Quang)
Thương nhớ người đi mãi cách xa
Cõi lòng quay quắt biết bao là…
Thu sang ngày ấy còn hò hẹn
Đông đến giờ đây lạnh mái nhà
Nhớ thuở ban đầu trao nguyện ước  
Ngờ đâu lời cuối tiễn tình xa
Mai này gặp lại còn lưu luyến
Xin hãy cùng nhau nhấp chén trà

10/2014
Thiên Thu

Mùa Nước Ngập


Mười bảy năm nay nước lớn
Thêm mưa tháng chín kéo về
Nước tràn như bờ đê vỡ
Lũ dâng phủ trắng đường quê.

Nước cao dậy miền ký ức
Theo cha săn chuột trong mưa
Cánh đồng mênh mông trắng xóa
Chuột bơi đeo bám gốc dừa.

Mùa lũ dịu dàng ít nắng
Mưa bay phủ ráng nắng chiều
Nước lên bốn bề phẳng lặng
Tràn đầy tâm sự buồn hiu.

Mẹ tôi năm nào cũng cực
Xắn quần chạy lũ trong nhà
Hằng đêm chong đèn thao thức
Canh chừng mực nước đêm qua.

Lũ về thuở còn đi học
Đặt lờ ruộng nước mênh mông
Bây giờ đến mùa nước ngập
Âm thầm nỗi nhớ không quên.

Dương Hồng Thủy
(10/10/2014 – 17/9 âl)

Thơ Tranh: Mùa Nước Nổi



Thơ: Kim Quang
Thơ Tranh: Kim Oanh

Cháo

Người miền Nam không phân biệt cách phát âm cháu với cháo, nên phải hiểu theo cái ngữ cảnh.
Cháo ở đây là món ăn hóa thân từ gạo mà ra như cơm vậy. Nên cụm chữ cơm-cháu được người mình dùng chung riết rồi thành quen, có khi chỉ cơm cũng có khi chỉ cháo và cũng có khi ẩn dụ một cái gì khác nữa, không dính dáng gì với cháo, với cơm!
Cháo xuất hiện hàng ngày trong bữa ăn của người mình: Cho người già, người bịnh, người ưa ăn cháo và đặc biệt là cho trẻ sơ sanh.
Thế mới có câu:
- Thuộc như cháo.
- Ăn cháo, báo cơm.
Thuở mới sanh ra chúng ta đã được bà, được mẹ, được chị cho ăn cháo rồi. Cháo nuôi ta lớn dần và ta lại “nuôi cháo” còn mãi đến ngày nay.
Ngày nay trẻ con sanh ra tập ăn sữa, nên ít gần gũi, gắn bó với chén cháo đơn sơ nhưng đậm đà tình mẫu tử như thế hệ ông bà, cha mẹ ngày xưa.
Nói “thuộc như cháo” nghĩa là đã rành rồi, nhưng nói về cháo chợ, cháo quê có khi ta đã quên ít nhiều!

Này nhé!
Trước hết là cháo trắng. Có lẽ cháo trắng có mặt sớm nhứt trong dòng họ cháo, do nhu cầu của các bà mẹ ở cái thời xa xưa, dùng để thay sữa nuôi con.
Cháo trắng chỉ là gạo nấu loãng, nấu nhừ, mà thành. Nhìn nó màu trắng nên đặt tên là cháo trắng. Gạo thì cũng nhiều loại chớ đâu phải là một loại. Nhà nghèo thì gạo đỏ, gạo nát, gạo mốc; có tiền thì gạo ngon, gạo Nàng Thơm Chợ Đào!

Để lửa “riu riu”, hột gạo nở bung ra như cánh hoa nên nghe nói bà con ngoài Bắc gọi là “cháo hoa”. Còn ở Lục Tỉnh có người pha trò gọi là “cháo cò” vì trắng như con cò (chớ không phải nấu với thịt cò).
Văn minh hơn các bà cho vào nồi cháo một ít “thuốc muối” cho cháo mau nhừ, mau rục rả, ăn ngon và dễ tiêu hóa.
Nghèo thì ăn cháo trắng “ên” thôi, hoặc có được vài lát đường tán thì ngon hơn.
Người lớn thích ăn cháo trắng với nước mắm kho quẹt, cá kho tiêu. Người Tàu khoái ăn với mắm ba khía, hột vịt muối. Sang hơn thì cháo trắng với trứng gà, với tiêu và hành. Dân dã thì cháo trắng với dưa mắm cũng ngon đáo để.
Nợ trả lần, cháo húp quanh

Ăn cháo lúc nào cũng phải ăn nóng, vừa thổi vừa húp. Húp phải húp xoay quanh tô cháo nếu không sẽ phổng miệng !
Kiểu nói trên ẩn dụ một cách sống, cách xử sự của người Việt ta ngày xưa, người Tây Phương làm sao có được.
Ngày nay ở quê mình vẫn còn nhiều bà mẹ nuôi con bằng cháo trắng và cũng đã có bao thế hệ lớn lên như vậy, họ cũng đã làm ông nầy bà nọ như thường chớ thua ai.
Xin nói tiếp về cháo vịt. Con vịt nấu cháo rất quen thuộc ở quê mình có thể để cúng, để đãi khách phương xa tới chơi, để ăn trong gia đình và để nhậu nhẹt.
Vịt thì có vịt Tàu, vịt ta, vịt Xiêm và vịt Xiêm lai.
Thông dụng là vịt Tàu, vì nó dễ nuôi, miệt vườn có nhà nuôi cả 1000 con để lấy trứng, chở lên vựa của người Tàu ở miệt cầu Chà Và bán cho họ ấp thành trứng hột vịt lộn, thành vịt con rồi bán lại cho dân mình !!!

Vịt nấu cháo rất nhanh. Trong lúc nhổ lông vịt thì bắt lửa nấu nồi nước, độ tàn điếu thuốc thì vịt làm xong và nồi nước cũng vừa sôi.
Thả con vịt vào luộc vừa chín tới thì vớt ra và cho gạo vào nồi nước luộc vịt mà nấu cháo. Thế là bạn có nồi cháo vịt nóng hổi, ngon lành.
Vịt chặt ra từng miếng vừa gắp, cháo nêm với tiêu, hành và nước mắm ngon, ăn kèm với rau thơm trộn bắp chuối hột, chấm với nước mắm gừng thì hết chỗ chê!
Nhìn tô cháo nóng bốc khói, mùi thơm của tiêu hành, mùi của con vịt bốc theo làm cho ta phải húp nóng mới thấy đã. Ăn cháo húp quanh là vậy.
Cháo nấu “vịt ta” hay “vịt Xiêm” lai thì ăn rất độc, mấy ông già xưa bảo người yếu trong mình ăn vô sẽ bị “phát lảnh” (phát lạnh, phát rét).
Cháo vịt Xiêm là loại cao cấp. Vịt Xiêm thường phải nấu với cháo đậu xanh mới đúng điệu. Vào mùa nóng, nhà có tiền, nhà giàu dư ăn dư để hay bày nấu cháo vịt Xiêm đậu xanh cho con cháu ăn phòng ngừa bịnh thời khí, không bị nổi trái, nổi sải.
Vịt Xiêm tơ nấu cháo, xương mềm, nhai rất béo, rất ngọt, ngon hơn vịt tàu, vịt ta nhiều.
Nhiều người ăn cháo vịt với cơm, với bún vừa ngon, vừa no và không cần ăn thêm gì nữa.
Nhớ thuở nhỏ, khi ở nhà mần vịt nấu cháo là mình lấy phần lông vịt, phơi khô bán cho mấy bà mua “ve chai lông vịt”. Hôm sau, có tiền đi học ăn cà kem, nước đá nhận.
Còn con gà nấu cháo gọi là cháo gà.
Cháo gà ngon và bổ dưỡng, dễ tiêu hóa hơn cháo vịt và nhứt là ăn “không độc”.
Phải lựa con gà giò, gà trống vừa lớn, mới vỗ cánh tập gáy. Lúc đó con gà vừa đủ lớn, xương thịt phát triển đầy đủ, sung sức, mập nhưng không có mỡ.
Gà nấu cháo ăn ngon độc đáo nhờ “xé phay” chớ không chặt như vịt. Dùng tay xé gà lúc còn nóng, xé sao cho miếng gà còn nguyên không bị nát; trộn với rau răm, nặn một trái quít lấy nước rưới lên làm cho thịt gà ngon hơn nhiều.


Có một món cháo mà nếu không cẩn thận, nói lộn tên dễ gây mít lòng lắm nhé !
Đó là cháo lòng. Bà con đặt tên món cháo nấu với lòng, với thịt heo là cháo lòng chớ không kêu là cháo heo!
Cháo heo là cháo nấu gạo lức với tấm, cám, chuối cây... để nuôi heo, muốn biết rõ hơn xin tìm đọc tác phẩm “Ngọn Cỏ Gió Đùa” của nhà văn Hồ Biểu Chánh, trong đó có nhân vật Lê Văn Đó ăn cắp nồi cháo heo...

Cháo lòng có lẽ do sáng kiến từ các buổi lễ hội cúng đình. Thuở xưa người dân nghéo ít khi có dịp ăn thịt heo nên chỉ mong dịp cúng đình.
Nồi cháo lòng ở đình rất to, nấu với nước luộc đầu heo, luộc lòng, luộc thịt.
Đầu, lòng, thịt luộc chỉ dành cho các chức sắc ban hội tề; còn dân đen chỉ được hưởng phần cháo lòng với bún, cũng “quí” rồi, nên mới có câu tục ngữ:
“Mượn đầu heo nấu cháo”
Cháo lòng ở nhà mẹ nấu thì ngon hơn, nhưng cháo ở quán cóc, ở chợ quê lại có cái ngon khác.
Lòng heo sắt mỏng chấm với nước mấm trong, dằm ớt ăn với cháo rất ngon và cũng là món đưa cay của các bác xích lô, của người lao động.

Mấy cô, mấy cậu học trò cũng thích ăn cháo lòng buổi sáng, rẻ mà no.
Khi Sài Gòn phát triển, có những nhà máy làm ca đêm là dịp để cho các gánh cháo lòng xuất hiện. Cháo lòng tiện lợi là phục vụ nhanh, ăn bổ dưỡng, nhứt là hợp với ban đêm.
Nay cháo lòng đã trở thành một phần của đời sống về đêm của dân Saigon, phục vụ cho cả các doanh nhân, văn nghệ sĩ, các cô cậu choai choai đi chơi đêm về.
Nay nói về “cháo cá”, và đặc biệt cháo cá nhà quê. Nói là cháo cá nhà quê chớ đâu phải người nhà quê nào cũng ăn qua. Có người chỉ có nghe thôi, có người chưa hề nghe nói!


Đó là món cháo cá lóc với rau đáng đất.
Mấy lão nông Lục Tỉnh nói rằng cá lóc tát đìa nấu cháo mới ngon.
Khi nước rút xuống –mấy cụ lão nông kể, con cá lóc tìm xuống đìa, xuống vũng, xuống đầm để sống, Con cá trụ lại, lo ăn, không “bay nhảy” đó đây nên mập ra vì ăn nhiều sinh vật tích tụ trong đìa.
Tát đìa vào lúc đó, lựa cá lớn, có trứng, làm sạch để nguyên con nấu cháo.
Gạo thời điểm nầy là gạo mới đầu mùa, nấu cháo có mùi thơm.
Con cá nấu cháo vớt nguyên con ra để trên dĩa bàn, rồi tùy thích: Đầu, bụng, trứng hay đuôi mà chấm nước mấm gừng.

Cháo nóng múc ra tô, cho vào vài đủa rau đắng đất, chan một ít nước mắm gừng, chúng ta có một tô cháo cá lóc rau đắng đất tuyệt diệu, khó tìm.
Tin chắc rằng bạn không tìm đâu có được món ngon như thế. Đâu đó ở Saigon, trong nhà hàng mà bạn đã ăn qua cũng chẳng qua là phó bản, là nhái theo, không lừa được cái lưỡi của người sành điệu!
Đến món cháo cá bống kèo độc nhứt vô nhị xin giới thiệu cùng khách mộ điệu.
Cá bống kèo cũng năm bảy dường khác nhau. Nổi tiếng nghe nói là cá bống kèo miệt ruộng muối Bạc Liêu, nhưng ngon nhứt là cá ở miệt Cửa Tiểu –Cửa Đại vùng nước lợ.
Từ xưa ông bà kể là con cá bống kèo do đất sanh ra, và sống chỉ ăn bọt nước.
Ở quê vừa mưa xuống đã thấy có cá bống kèo con rồi, nó sống nhờ phiêu sinh vật, rong rêu nổi theo bọt. Đến mùa lúa trổ đầy đồng, mài non của hột lúa rụng khắp ruộng, là mồi nuôi cá bống kèo miệt Cửa Tiểu, Cửa Đại.
Cho nên tháng 10, tháng 11 ta, sắp Tết, con cá bụng to đầy mở, và mập tròn đẩy đà.
Bắt nồi cháo gạo mới đầu mùa lên bếp, canh lửa riu riu cho gạo nở từ từ bạn sẽ nghe mùi thơm mời gọi, độc đáo từ nồi cháo gạo mới bốc ra.

Đi theo chân ông lão nông bước ra đầu ruộng kéo “cái đó” lên bắt cá bống kèo còn sống nhảy soi sói, đem về trút thẳng vào nồi cháo đang sôi trên bếp. Con cá vùng vẫy, trong nước sôi, nghe tiếng kêu “rồ rồ” rồi tắt hẳn.
Lúc đó con cá vừa chín tới. Đem nồi cháo xuống, vớt cá ra dĩa bàn to, con cá bống kèo nứt da, dựng kỳ, dựng vi nhìn không quen thấy “ớn” nhưng ăn ngon, có vị ngọt, thịt mềm.
Thưởng thức món cháo bống kèo kiểu nầy rồi bạn sẽ chán kiểu nấu cầu kỳ: Làm sạch, chặt đầu, nấu với cải bắc thảo và nói theo dân quê thì ăn như “dậy” là “hổng biết” ăn cá bống kèo nấu cháo.
Hột cháo hột cơm, gắn với người mình từ thuở mới sanh ra, nó đi vào tim can, huyết quản của từng người.
Cháo không chỉ là món ăn nuôi ta lớn mà đã trở thành cái gì ở trong ta như một thứ tình cảm nho nhỏ, có lúc có khi tưởng như đã quên rồi.
Nay nhắc lại, nó sẽ trở về như một kỷ niệm, thôi thúc ta quay về với thuở ngày xưa, với bao cảnh cũ vô cùng đẹp đẽ.

Nam Sơn Trần Văn Chi

Tiếng Chuông Chùa


Xướng:

Tiếng Chuông Chùa

Ngân nga đêm vắng tiếng chuông chùa
Theo tiếng gió ngàn lơ lửng đưa.
Lay tỉnh người khôn còn đắm mộng
Giải mê kẻ dại vẫn nằm mơ.
Thương đời, lòng rỗng vang muôn tiếng
Vì đạo, tâm không vọng bốn mùa.
Trầm lắng dìu tôi vào chánh niệm
Hỏi mình phủi sạch bụi trần chưa?

Quang Tuấn
***
Các Bài Họa:


Chuông Chùa


Tôi thích lang thang ngoạn cảnh chùa 
Thông ngàn réo rắt vẳng xa đưa 
Hồi chuông thanh thoát ru hồn mộng 
Tiếng khánh diệu hiền dỗ giấc mơ 
Cay đắng trần ai sầu mấy thuở 
Gian nan bể khổ khóc bao mùa 
Phù du một thoáng làn mi khép 
Cát bụi đường về giũ sạch chưa?

Mailoc
9-25-14
***
Nghe Tiếng Chuông Chùa

Ngồi tựa gốc tùng trước cổng chùa
Lắng nghe chuông mõ thoảng đong đưa
Như ru nhân thế rời bờ mộng
Tựa muốn trần gian thoát bến mơ
Bớt cảnh bon chen vòng tục lụy
Thêm tâm thanh tịnh lúc vào mùa (mùa tu tập)
Hồn tôi lắng đọng vào sâu thẩm
Tự hỏi lòng mình giác ngộ chưa??

Song Quang
***
Nặng Nợ Đời

U tịch bên sông lộ bóng chùa
Lững lờ con nước nhẹ nhàng đưa
Chuông ngân mở nẻo xa phiền tục
Mõ vọng khai đường đến chốn mơ
Ánh đạo sáng soi về vạn hướng
Câu kinh thanh tịnh suốt bao mùa
Nợ trần sao vẫn còn dao động
Ý muốn nhưng lòng mãi bảo chưa.

Quên Đi

Trót Vướng Bụi Trần
Chiều vắng , dừng chân ngắm cảnh chùa
Tiếng chuông thanh thản nhẹ nhàng đưa
Đất trời rộng mở ru hồn mộng
Mây nước chan hoà gợi cõi mơ
Chân đến chốn thiền đà lắm bận
Lòng vào cõi tịnh được bao mùa?
Bụi trần trót vướng làm sao giũ
Mà biết tâm mình đã sạch chưa?

Phương Hà
***
Tiếng Chuông Chùa

Ẩn hiện từ xa một bóng chùa
Hàng sao dẫn lối gió đong đưa
Hồi chuông ngân lắng ru chiều tục
Tiếng mỏ cốc buồn vẳng thức mơ
Nhân thế còn lao vòng khổ nạn
Thiền môn vẫn lặng buổi sang mùa
Sắc không rồi cũng về u tịch
Mà nếp phong trần đã sạch chưa? 

 Nguyễn Đắc Thắng 
27/9/2014
***
Rũ Sạch Bụi Trần

Thấp thoáng đầu thôn một kiểng chùa,
Ngân nga trầm lắng thoảng chuông đưa,
Động lòng tiếng mỏ khơi hồn mộng,
Ý kệ lời kinh tỉnh giấc mơ.
Giọt nước cành dương đều tưới tắt,
Lửa lòng trần tục cũng qua mùa.
Mùi thiền xóa hết bao phiền lụy,
Nào sợ bụi trần rũ sạch chưa!?

Đỗ Chiêu Đức

Gởi người


Người ơi, câu thơ mắc nợ.
Gởi người một sáng chớm đông.
Mắt buồn như màu lá cỏ.
Tàn thu ai có chạnh lòng?

Rồi người quên mất ngày xưa.
Nắng cũng thôi vàng lối cũ.
Đường xa ray bụi mịt mù.
Một mình riêng ai- bóng lẻ.

Sợ ngày vừa nắng vừa mưa.
Đôi ta vừa quen vừa lạ.
Nhìn nhau- như kẻ qua đường.
Thẩn thờ- mình chẳng nhớ nhau!...

Hương Ngọc

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

Anh Hãy Về Cần Thơ - Sáng Tác Vương Thủy Tùng




Sáng Tác:Vương Thủy Tùng

Trăng Xanh


Trăng tự tình đã hoá màu xanh
Lạnh vô cùng như trái tim anh
Tình yêu xưa đã thành kỷ niệm
Theo dòng đời chìm đắm mong manh

Em bây giờ xa cách từ lâu
Giữa biển đời như đã chìm sâu
Điệu nhạc buồn chập chùng quá khứ
Từng trái sầu rụng giữa mùa đau

Trong tận cùng giữa những xôn xao
Mình được gì với những hư hao
Đêm âu sầu hồn như lạnh cóng
Xa nhau rồi ......em biết vì sao

Gió bây giờ lạc giữa mùa đông
Khi tình mình như có như không
Trăng xanh xao ngậm ngùi nỗi nhớ
Không còn gì ngày tháng buồn trông

Khiếu Long

Thương Con Trai Người Thợ Xây Cầu Cần Thơ


Mười một tuổi còn được học
Sao đi khiêng,cõng gạch dọc công trình?
Em buồn nói để thanh minh:
"Từ khi ba mất một mình má lo
Tiền ăn,học phí thật to
Ruộng đồng vất vả,mẹ ho đã nhiều
Nhà luôn thiếu thốn mọi điều
Thôi đành nghỉ học trưa chiều làm công"
Mong Trời giải cứu công nông
Trò nghèo đến lớp mới mong đổi đời


Phượng Trắng
Winnipeg,tưởng niệm ngày 26/9(2007-2014)

Thơ Tranh: Thơ Em Ta Đọc Buồn Hơn Trước


Thơ: Vĩnh Trinh
Thơ Tranh: Nguyễn Đức Tri Ân

Chú Bé LuLa

Sinh ra vào tháng 10 năm 1945, con một gia đình nông dân ở Brasil. Vì nhà nghèo, nên từ lúc mới 4 tuổi, thằng nhỏ đã phải đi bán đâu phụng ngoài đường, nhưng vẫn quần áo tả tơi, và thiếu ăn. Sau khi
được lên tiểu học, lúc đó gia đình đã dọn lên thủ đô Rio de Janeiro, sau các buổi học chú bé thường hay cùng với 2 người bạn cùng lứa đi đánh giầy ở đầu đường, hôm nào không có khách, thì coi như là nhịn đói.

Năm 12 tuổi, vào 1 buổi xế chiều, có 1 người khách, là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố, 3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhin vào 3 cặp mắt đều đang khẩn khoản, không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng ông nói : "Đứa nào cần tiền nhất, tôi sẽ cho đứa đó đánh giầy, và sẽ trả công 2 đồng". Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu, 2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn. Ba cặp mắt đều sáng lên.


Một đứa nói : "Từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay, cháu sẽ chết đói !“ Đứa khác nói: "Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…“. Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ-tiệm, nghĩ ngợi 1 lúc, rồi nói : “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này, thì cháu sẽ chia cho 2 đứa đó mỗi đứa 1 đồng !”. Câu nói của Lula làm ông chủ tiệm và 2 đứa kia kinh ngạc. Lula giải thích thêm : “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi, còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó, ông cứ để cháu đánh đi, chắc chắn ông sẽ hài lòng”.

Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ, Ông chủ tiệm đã trả đủ 2 đồng bạc, sau khi được đánh bóng đôi giầy. Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời, đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng.

Vài ngày sau, Ông chủ tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông, cứ sau buổi tan học, và bao cả bữa cơm tối. Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp, nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.

Thằng bé hiểu rằng : Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời. Từ đó, miễn là có khả năng, chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình.


Về sau, Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy, và để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ, cậu tham gia vào công-đoàn, năm 45 tuổi, Lula là một thành viên thành lập đảng Lao-Động.

Năm 2002, trong cuộc tranh cử Tổng-thống, khẩu hiệu của Lula là :"Ba bữa cơm no cho tất cả mọi người trong quốc gia này". Và Lula đắc cử làm Tổng Thống Brasil. Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2, cho nhiệm kỳ 4 năm tiếp.

Trong 8 năm tại chức, Ông ta đã thực hiện đúng lời mình đã hứa : 93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm. Thực hành đúng tâm niệm : giúp đời !

Và Brasil, dưới sự lãnh đạo của Ông đã không còn là "con khủng long nhai cỏ“ mà đã trở nên "Con mãnh sư Mỹ Châu“, và trở nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới, nằm trong nhóm BRICS.

Luiz Inácio Lula da Silva: Đó là tên của vị Tổng thống Brasil, đã giải nhiệm ngày 31.12.2010 sau 2 nhiệm kỳ.


Haley(Dịch từ Historystories)Võ Thị Kim Đính Sưu tầm

Đài Loan Cầu Nguyện Và Tri Ân Trú Dân

      Hàng năm, Giáo Hội Đài Loan dành riêng ngày Chúa Nhật áp chót hoặc cuối tháng 9 đề cầu nguyện và tri ân Trú Dân các quốc gia đã đến phục vụ xã hội và Giáo Hội. Mỗi Giáo Phận tự sắp xếp, tổ chức Thánh Lễ hay Đại Hội. Riêng GP. Gia Nghĩa, theo đề nghị của ĐGM, đã thành lập một ban do các linh mục đặc trách và giáo dân phụ giúp để tổ chức Thánh Lễ và Đại Hội.

      Nhưng không may, ngày Chúa Nhật 21.9, một cơn bão bao trùm toàn bộ Đài Loan. Mưa rất to đã làm cho số người tham dự không như dự tính, chỉ khoảng 260 - 270 người có mặt gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương , Thái Lan, Ba Lan và giáo dân Đài Loan.

       Sau Thánh Lễ có chương trình biểu diễn "bỏ túi" của các sắc dân. Kết thúc, Cha Peter Nguyen đại diện, phát biểu cảm tưởng, tri ân ĐGM, các Linh mục, các sisters, các trú dân và giáo dân Đài Loan đã đến hiệp thông và cầu nguyện.

      Một vài hình ảnh do giáo dân (chụp hình không chuyên nghiệp) đã chụp gởi về bạn bè xem để biết thêm tin tức từ GH Đài Loan, đặc biệt GP Gia Nghĩa.
Cha Peter Duong và cô thư ký Tòa GM Gia Nghĩa trong bộ áo dài truyền thống Việt, cô cũng là một vũ công trong nhạc cảnh. Co Lieu Huệ Chuyên thường đánh đàn cho các Thánh Lễ Việt Nam: Nhóm giáo dân Việt Nam khoảng 20 em nam nữ, 3 Sisters và 6 Linh mục người Việt.


  Lời nguyện giáo dân với 6 giáo dân và 6 ngôn ngữ khác nhau.
Sau phần Rước lễ, nhóm giáo dân Việt Nam đã cùng hát bài "Khúc cảm tạ" khá xúc động.
Thánh Lễ khai mạc, do ĐGM Gia Nghĩa chủ tế.
18 Linh Mục đồng tế với 6 quốc tịch: Viet Nam - Phi Luat Tan - Nam Duong - Thai Lan - Ba Lan
và 1 LM, 1 Thầy Phó Tế người Đài Loan. Cha Peter Duong ngồi ghế thứ 3 bên trái ĐGM.
 Một giáo dân người Nam Dương đọc Bài Đọc 1.
Sau Bài Đọc 1, 1 giáo dân VN hát Đáp Ca: "Chúa chăn nuôi tôi... Chúa đưa tôi đi qua mọi nẻo đường...
Người đưa tôi đi lên núi cao, say sưa gió biển, vui uống suối miền Nam, vững tâm qua rừng mịt mù...            
 Dâng lễ vật với 6 giáo dân. 2 giáo dân Việt Nam ở hàng đầu.
 Dâng bánh rượu với 4 giáo dân Thái Lan, Nam Dương và Phi Luật Tân
 Văn nghệ "bỏ túi"
 ĐGM rất vui thích và khích lệ nhóm múa Việt Nam qua nhạc cảnh "Cô Thắm về quê"
rất vui nhộn với trang phục Việt Nam.Còn nhiều màn hợp ca, "Nhảy gậy" truyền thống của cộng đoàn Phi Luật Tân trong buổi diễn...
Một LM Việt Nam đang tặng bằng khen cho nhóm giáo dân Nam Dương.


 LM Peter Dương Bá Hoạt

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2014

Sau Vườn Lãm Thúy - Viên Ngọại Nguyễn Khắc Nhân - Hồi Thứ Nhất


SAU VƯỜN LÃM THÚY - TÁC GIẢ : VIÊN NGỌAI
Phỏng theo Nguyên tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.

HỒI THỨ NHẤT: 

Thanh Minh viếng Mộ, Đạm, tố Đoạn trường,

(Tam dịch: Thanh Minh viếng Mộ hôm qua, 
Chiêm bao Nàng Đạm , kể ra Đọan Trường) 

Gia đình Vương ông vào bậc trung lưu , ông bà có ba người con là Thúy Kiều, Thúy Vân , và Vương Quan, nhân ngày Thanh Minh, Kiều cùng hai em, du xuân, viếng mả Đạm Tiên, đêm nằm mộng thấy Đạm Tiên hiện hồn về cho mười bài thơ Đoạn trường, và hẹn sau 15 năm sẽ đợi Kiều ở sông Tiền đường. 

Người đời có câu.
Thú nào bằng? Đánh Tổ Tôm
Uống Trà Vĩnh Phú, Ngâm Nôm Thúy Kiều,

Phần Mở đầu:

1- Kiếp người ngắn ngủi tựa gang tay
Bẩy nổi ba chìm nhuộm đắng cay
Mưa nắng truyện đời đeo dính mãi
Đoạn trường nhìều lúc thật là gay…. 

Gia Cảnh Họ Vương
2- Ngôi nhà cổ kính, nếp Nho phong
Mái ấm từ đừơng chính của Ông
Gia cảnh trung thường ngày tháng đủ
Vợ chồng con cái vẫn thong dong 

Thanh Minh viếng mả
3- Đạp Thanh mở Hội để du xuân
Quan, với Vân, Kiều, cất bước chân,
Tơi tả tàn tro bay phất phới
Ngổn ngang gò đống nhích đi dần 


Viếng Mộ Đam Tiên
4-Mé tây một nấm , thấp xè xè
Kiều hỏi Vương rằng Mộ chỗ kia,
Vương đáp Đạm Tiên người kỹ nữ
Lỡ vòng tình ái, chậm đường xe….,


Kiều cảm động
5- Tiện đây ta thắp nén nhang lòng 
Người dưới Tuyền đài hẳn cảm thông 
Hiển hiện cho xem ngay tức khắc
Thơ đề mấy vận, đã làm xong

Kim, Kiếu, gặp gỡ
6= Nhạc vàng sang sảng ở đâu đây
Bước tới dừng chân tại chỗ này
Quen mặt Vương Quan chào hỏi bạn 
Vân, Kiều, e lệ, cúi đầu ngay,

Mối duyên kỳ ngộ,
7- Thoạt trông đã thấy cảm tình rồi 
Rạo rực trong lòng , chút ít thôi
Bên sắc bên tài đồng hội ngộ,
Tơ tình vướng vít chắp thành đôi,

Mộng gặp Đạm Tiên cho thơ
8- Giấc mộng vừa rồi thật gớm ghê
Người đâu âm phủ hiện ngay về
Đoạn trường ra đủ mười bài vịnh 
Lại bảo Ông Chài , vớt giữa khe…..

Kim Trọng sang Lãm Thúy
9- Ngẫm từ hội ngộ đến hôm nay
Mong ước chỉ hồng được nối dây
Vội vã tìm sang Vườn Thúy ngóng 
Những mong gặp mặt thỏa lòng say

Kim Trọng Thuê Hiên Lãm Thúy nhòm Kiều
10- Khách thương nhà sẵn để phòng không
Kim Trọng tìm sang hỏi mướn phòng
Lại có Thúy hiên từng đối diện
Thỏa lòng khao khát khỏi hao công 

Kiều bỏ quên khăn quàng trên cành cây
11- Chiều hôm mát mẻ , bước ra ngoài
Lững thững bên thềm dạo gót chơi
Giở chiếc khăn là treo ngọn cỏ
Rồi quên không lượm bỏ đi hoài,

Kim Trọng nhìn thấy chạy ra lượm
12- Phòng thư vừa lúc hẻ nhòm ra
Nhác thấy trên cành có chiếc Thoa
Vội vã chạy ra tay đỡ lấy
Lòng mừng khấp khởi miệng ha ha,…

Kiều tìm thoa trên cây
13= Vội vàng rảo bước tời bên thềm 
Tìm chiếc thoa vàng lỡ bỏ quên
Đang lúc băn khoăn hồi hộp kiếm
Bỗng nghe tiếng nói , ở sau rèm

Kim Kiều tương ngộ
14- Khăn là thoa qúy của em đây
Anh thấy rõ ràng trước ngọn cây
Gỡ lấy đem về làm của báu 
Mùi hương rung động đáy lòng ngay 

Kiều nghe thấy đáp lời lại
15- Tạ lòng Quân tử buổi hôm nay
Nhặt được thoa vàng tiện nữ đây
Trao trả cho em xin cảm …đội, 
Trọng tài khinh nghĩa, qủa không hay

Kim Trọng lên tiếng
16- Bấy lâu nhớ trộm với thầm yêu
Nay được Kim thoa chính của Kiều 
Dừng lại đôi lời xin nạp đủ
Đài gương mong đoái chút thân bèo,

Kim Kiều giao kết
17- Dù khi lá thắm với chỉ hồng 
Cha mẹ so xem ý có đồng 
Con trẻ quê mùa đâu dám cưỡng
Chỉ xin cam kết trước là xong,

Vương gia vắng nhà
18- Vắng nhà được buổi mấy hôm nay
Em lẻn sang đây nói truyện này
Hai đứa chúng mình cùng gắn bó
Giao thề nguyện có đất trời hay,

Giao kết bài hai
19- Chính thức tuy chưa gọi vợ chồng 
Nhưng lòng đôi trẻ đã cùng thông
Hai bên từ đó càng thân mật
Sờm sỡ bên nhau dạo phím đồng,…

Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe
20-Tiếng tình tiếng tính , tiếng khoan khoan
Đây khúc Tý Bà ở Ải Quan ,
Sùi sụt . Chiêu Quân lòng tưởng nhớ
Nhớ nhà, nhớ nước, nhớ giang san,

Kiều gẩy đàn bài hai
21- Khúc đâu Tư Mã Phượng cầu hoàng
Réo rắt tiếng cầm lựa phím loan
Khúc Quãng nghe ra nhiều ý lạ,
Hành vân. Lưu thủy, giọng càng vang,

Kim Trọng chau mày
22- Rằng hay thì thật qủa là hay
Ngậm đắng nuốt cay, dạo phím này 
Những khúc tiêu tao em chọn ấy,
Thiệt lòng, mà dạ cũng ngây ngây

Kim Trọng vê hộ tang
23- Cửa sài vừa ngỏ chốt then hoa
Vội vã gia nhân báo tín nhà
Thúc phụ từ đường về cõi thọ
Dậy Kim về gấp hộ tang ma

Kim Trọng bào hung tín đến Kiều
24- Cáo thư nhận được sáng ngày qua
Thúc Phụ dậy Kim trở lại nhà
Đường Thúc quy tiên vừa đột ngột
Hộ tang mãn lệ kíp thời, qua

Kim Kiều tạm biệt
25- Trên ngựa lòng Kim những rối bời
Dặn dò cẩn thận một đôi lời
Gìn vàng giữ ngọc cho hay nhé
Một bước chân đi một ngậm ngùi

Kiều đáp từ
26- Mưa nắng trên đường trở lại quê
Ra đi xin nhớ những câu thề
Phu thê đạo cả , cương thường nặng
Gạt lệ chia tay thật não nề, 

Mùa Thu Năm Kỷ Sửu sau tiết Cốc Vũ
Dương lịch ngày 29-4-2009
Viên Ngoại : Nguyễn Khắc Nhân(Thái Hanh)


Sắc Màu Đêm



Đêm lạnh quá anh chưa về chung lối
Dòng sông em vẫn hoài ngóng thuyền xa
Trăng nhung nhớ cong dáng huyền chờ đợi
Hắt hiu buồn theo từng tháng ngày qua

Đèn hiu hắt soi dáng mềm tóc xỏa
Giá buốt ùa về phủ kín bờ vai
Từng bước nhỏ lạc loài nghe rất lạ
Gõ nhịp rơi lạc lõng tiếng thở dài

Trong im lặng dấu trong em khắc khoải
Chiều nghiêng ngày mang hơi giá mùa đông
Ngơ ngẩn nhìn bao xác lá thu phai
Nhưng nhức nhớ theo vần thơ sầu muộn

Đêm thao thức xanh xao từng nhịp thở
Mắt u hoài đọng lại giọt buồn rơi
Xác xao hồn nghe tim mình nhức nhối
đau đáu thèm vị ngot một bờ môi....

Đêm rồi đêm ... vẫn là đêm thức trắng
khung tranh đen thăm thẳm sắc màu buồn

Trần Thị Dã Quỳ

Thế Sự Thăng Trầm


Thế sự thăng trầm quân mạc vấn 
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu.(*)
Chuyện đời lên xuống xin đừng hỏi 
Bến vắng ngồi nhìn cá cắn câu.

Trần tục người xưa còn chỗ lánh 
Tôi giờ không biết trốn vào đâu.
Thị phi phải quấy nghe buồn quá 
Đen trắng đục trong nghĩ lại rầu.

Vẫn biết, buông thôi, là được chứ 
Nhưng sao lòng vẫn nặng lo âu.
Tri âm tri kỷ ai đâu nhỉ 
Năm tháng qua nhanh đã bạc đầu 

Phạm Khắc Trí
 09/26/2014

(*) Hai câu mở đầu lấy ở trong bài thơ "Thú Nhàn" của Cao Bá Quát (? - 1854). Dịch nghĩa : Chuyện đời lên xuống xin anh đừng hỏi / (chỉ biết có) khói sóng, bến vắng, một chiếc thuyền câu.

***
Các Bài Hoạ:


An Nhiên Tự Tại
Cõi thế bao la đừng tự vấn
Ta là ai đó giữa năm châu?
Là ai cũng thế cần chi hỏi
Miễn được an nhàn một buổi câu
Sao phải quan tâm tìm chỗ lánh
Mà không thanh thản : có chi đâu!
Công danh, địa vị - cho người giữ
Ganh ghét, bon chen - để họ rầu!
Đã biết cuộc đời là ảo ảnh
Thì nên rủ bỏ mọi lo âu
Ung dung cùng bạn vui thi phú
Tự tại an nhiên chẳng nặng đầu

Phương Hà

***
Đã Mang Lấy Nghiệp

Mang mang thế sự hà tu vấn ?(*).
Bất túc nhân tâm thạch hóa châu!
Cuộc sống mịt mờ sao phải hỏi?
Khuyên người nhớ lại một đôi câu,
Đã mang lấy nghiệp vào thân... xác,
Trời nào cho lánh, lánh đi đâu ?!
Thị phi tốt xấu, nhân tình thế !
Gác hết ngoài tai sẽ chẳng rầu !
Nhân sanh tri túc, thì là..." túc " !
Bất " Nhàn " nên lòng mãi lo âu,
Chả lẽ suốt đời không tri kỉ ?
Kén lừa chi lắm...dễ bạc đầu !!!

Đỗ Chiêu Đức.


(*)Mang mang thế sự hà tu vấn ? 茫茫世事何須問?
   Bất túc nhân tâm thạch hóa châu ! 不足人心石化珠 !
Có nghĩa:
Chuyện đời vốn mờ mịt, sao lại phải hỏi làm gì?
Lòng người thường không biết ĐỦ, là đá mà cứ muốn hóa thành châu ngọc hoài!

***
An Nhàn


Thiên địa mang mang đa nhiễu sự
Ngã tâm hữu hữu nhất minh châu (*)
Ước thân như áng mây nhàn hạ
Há lo gì thấm thoát bóng câu
Mấy mươi năm đắm mình sinh kế
Đến cuối cùng có được chi đâu
Rằng hoạn lộ công danh dang dở
Gẫm lòng đây chẳng chút vương sầu
Nay nắng chiều nghiêng soi tuổi hạc
Qua bão giông vững cánh chim âu
Vui cùng bạn thi ca xướng hoạ
Quí nào hơn khi bạc mái đầu. 

 Quên Đi
(*)

(*)
Thiên địa mang mang đa nhiễu sự 天 地 茫 茫 多 擾 事
Ngã tâm hữu hữu nhất minh châu 我 心 有 有 一 明 珠
(Trời đất thật mênh mông nhiều việc rối rắm
Lòng ta luôn có một viên ngọc sáng.)

***
Hoạ Tá Vận Ngũ Ngôn
Xót Xa

Đôi khi lòng vương vấn 
Lệ thắm đôi dòng châu 
Thời gian xin cho hỏi 
Sao mi tựa bóng câu?
Cái già làm sao lánh ?
Ai có tránh được đâu !
Tuổi xanh thật khó giữ ,
Để mặt hoa rầu rầu .
Phù du và ảo ảnh ,
Sao người mãi lo âu .
Thôi thì hãy cứ phú ,
Xót xa thêm bạc đầu.

Mailoc
 

Thơ Tranh: Miên Viễn


Thơ & Thơ Tranh: Nguyễn Đức Tri Ân

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Mối Hờ - Lãng Quên




Mối Hờ

Không duyên chẳng nợ vì đâu
Vô tình hay đã thắt sâu mối hờ
Mắt xanh chi lắm đục lờ
Tình trong chẳng thấy dật dờ mù sương
Tim ngoan trăn trở còn vương
Hoa đời thôi đã nhạt hương sắc màu
Bóng ai dần khuất Cầu Lầu
Trời ơi kẻ ở nhặt sầu đánh rơi

Giấc mơ vàng đá chưa vơi
Phòng không lạnh ngắt rõ nơi điêu tàn
Thời gian lặng lẽ nhịp nhàng
Hồn đây lá chết trút vàng hiên thu
Cô đơn trở giấc thâm u
Não nùng ai oán điệu ru chẳng rời
Niềm đau chôn giấu một đời
Chiêm bao thảng thốt vang trời tiếng la

Xa nhau mình đã mấy xa
Mong tin cánh én lượn qua chốn này
Tương tư chất ngất tình đầy
Trời cao ông hỡi chỉ đày thân tôi
Bao giờ sao sớm đổi ngôi
Nụ hôn kỳ tích trên môi lạ lùng
Cho xin một chút ngại ngùng
Nói lên thầm kín trĩu chùng con tim
 

Kim Phượng
***
Lãng Quên


(Từ Mối Hờ của Kim Phượng Úc Châu)

Cải trời vàng rực đường đi
Bước chân nhẹ hẫng thầm thì lối quen
Chìa vôi ngồi đứng không yên
Trách ai lỗi hẹn nỡ quên đường về

Mưa phùn rơi nhẹ bốn bề
Đêm mù sương tỏa tỉ tê đắng lòng
Nhìn sang bến đợi bên sông
Chờ ai mòn mỏi bóng hồng còn xa

Đâu đây vang tiếng lời ca
“Bậu đi phận bậu để ta một mình"
Thương cây trúc mọc bên đình
Tháng ngày đơn lẻ chung tình với ai ?

Thôi đành vàng đá nhạt phai
Nửa đêm trở giấc thở dài nhớ em
Lặng thầm ngõ vắng mông mênh
Dư hương người cũ còn bên… lối nầy


Dương Hồng Thủy

(12/10/2014)

Thi Thánh Đỗ Phủ Và Thi Hào Nguyễn Du

       Những ai thích và nghiên cứu thơ Đường đều không thể không biết qua 8 bài THU HỨNG của Đỗ Phủ, nhất là bài thứ nhất đã ảnh hưởng rất nhiều đến các thi nhân Việt Nam, kể cả Thi Hào NGUYỄN DU của ta nữa...
      Bây giờ đang là mùa thu, xin kính mời tất cả cùng đọc lại bài thơ nầy và các bài thơ " bị ảnh hưởng " khác....

   秋興     其一                       Thu  Hứng        K nhất

玉露凋傷楓樹林,    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, 

巫山巫峽氣蕭森。    Vu sơn Vu giáp khí tiêu sâm. 

江間波浪兼天湧,    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, 
塞上風雲接地陰。    Tái thượng phong vân tiếp địa âm. 
叢菊兩開他日淚,    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, 
孤舟一繫故園心。    Cô chu nhất hệ cố viên tâm. 
寒衣處處催刀尺,    Hàn Y xứ xứ thôi đao xích, 
白帝城高急暮砧。    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
                杜甫                                                  Đỗ Phủ

DỊCH NGHĨA:
Ngày Thu Cảm Khái - Bài 1

1. Sương móc phủ trắng làm cho rừng phong thêm tiêu điều .

2. Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt thâm u .

3. Sóng trên mặt sông từng đợt như nhảy tận lưng trời 

4. Trên cửa ải mây mù cùng sương khói như giăng sát mặt đất 
5. Bụi cúc đã hai lần nở hoa làm rơi nước mắt của ngày xưa cũ.
6. Sợi dây của chiếc thuyền đơn lẻ còn buộc chặc tình cố hương. 
7. Ở đây nơi nơi ai nấy đều đang lo cắt may áo rét .
8. Trên thành Bạch Đế cao cao nầy, tiếng chày giặt áo về chiều
    nghe như càng hối hả hơn thêm.

     Năm Đại Lịch Nguyên niên (766), Đỗ Phủ lưu lạc ở đất Quì Châu, do loạn An Lộc Sơn nên vẫn còn cảnh chiến tranh loạn lạc. Lúc bấy giờ ông đã 55 tuổi rồi mà hùng tâm tráng chí chưa thi thố được gì cả, lại nhiều bệnh tật, bạn bè lại cách trở sơn khê, nên trong cảnh núi non ảm đạm, gió thu hiu hắt của mùa thu, xúc cảnh sanh tình, khơi niềm cảm hứng mà sáng tác 8 bài THU HỨNG nầy. 8 bài đi liền một thể, nhưng cũng có thể tách riêng mà thưởng thức từng bài một. Bài THU HỨNG thứ nhất là bài được mọi người biết đến nhiều nhất và được các danh nhân Việt Nam ta diễn nôm nhiều nhất.       Mời tất cả cùng đọc các bài diễn nôm sau đây :

Lác đác rừng phong hạt móc sa, 

Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa. 

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, 
Mặt đất mây đùn cửa ải xa. 
Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ, 
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. 
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước, 
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.
Nguyễn Công Trứ
***

Vàng úa rừng phong, hạt móc bay, 

Non Vu hiu hắt phủ hơi may. 
Dòng sông cuồn cuộn, trời tung sóng, 
Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây. 
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở, 
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy. 
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh, 
Đập vải trời hôm rộn tiếng chày.
Ngô Tất Tố: 


Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy, 

Vu Sơn, Vu Giáp khí thu dày. 
Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy, 
Đầu ải mây sà mặt đất bay. 
Lệ cũ nở hai mùa cúc đó, 
Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây. 
Nơi nơi áo lạnh địi dao thước, 
Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
Khương Hữu Dụng

***
Sương đọng rừng phong héo hắt cây 

Vu Sơn, Vu Giáp, khí mù bay 

Trên sông sóng cuộn, trời liền nước 
Ngoài ải hơi đùn, đất giáp mây 
Một chiếc thuyền đơn tình cũ buộc 
Hai phen cúc nở lệ xưa đầy 
Nơi nơi áo lạnh tìm dao thước 
Bạch Đế chiều hôm rộn tiếng chày.
Bùi Khánh Đản
***
Dịch ra thơ Lục Bát 

      

Rừng phong xơ xác sương bay, 
Vu sơn Vu giáp hơi may lạnh lùng. 
Ngất trời sóng dội lòng sông, 
Mịt mù mặt đất, mây lồng ải xa. 
Con thuyền buộc mối tình nhà, 
Hai lần cúc nở, lệ sa hai hàng. 
Áo đông may cắt rộn ràng, 
Tiếng chày đập vải, hôm vang Bạch thành.
Trần Trọng Kim
***
Bài Diễn Nôm:


Rừng phong hiu hắt phủ mờ sương,

Núi Giáp non Vu lạnh buốt xương.
Sóng vỗ ngất trời sông nước cuốn,
Hơi mù rợp đất gió mây vương.
Hai lần cúc nở thương ngày cũ,
Một mối thuyền con luyến cố hương.
Thành Bạch nhà nhà may áo ấm,
Tiếng chày đập vải rộn muôn phương.
Đỗ Chiêu Đức

 

     Bài thơ này vừa là bức tranh phong cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của Đỗ Phủ trong cảnh loạn ly. Ông lo cho vận nước đang cơn bĩ cực và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách quê người.

      Cùng một tâm trạng như Đỗ Phủ...
     Ta thấy  hai bài Thu Dạ của Nguyễn Du, cũng làm lòng người cảm thấy nao nao cho tâm trạng  của ông trong hoàn cảnh khốn đốn tản cư lánh nạn giữa thời ly loạn . Hai bài thơ nầy được trích trong Thanh Hiên Thi Tâp ( 78 bài ) nằm trong phần " Mười năm gió bụi" ( 1786-1795 )thời gian ông lẫn trốn ở Quỳnh Côi quê vợ thuộc Thái Bình. Hai bài thơ  tả cảnh ĐÊM THU thật buồn, nhất là Bài 2 nói lên cái hoài bão trong lòng của ông và nhất là lại sử dụng lại các VẦN của bài THU HỨNG 1 của Đỗ Phủ làm cho ta lại càng cảm thấ lí thú và xúc động hơn.  Mời tất cả cùng đọc lại bài thơ nầy...

      秋夜 其二                   Thu Dạ   Bài 2

 白露為霜秋氣深,     Bạch lộ vi sương thu khí thâm,

 江城草木共蕭森。  Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm. 

 剪燈獨照初長夜,    Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ, 
 握髮經懷末日心。  Ốc phát kinh hoài mạt nhật tâm. 
 千里江山頻悵望,    Thiên lí giang sơn tần trướng vọng, 
 四時煙景獨沉吟。  Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm. 
 早寒已覺無衣苦,    Tảo hàn dĩ giác vô y khổ, 
 何處空閨催暮砧。  Hà xứ không khuê thôi mộ châm.
               阮攸                                                Nguyễn Du

CHÚ THÍCH :
- Tiễn đăng 剪燈 : Cắt hoa đèn để cho ngọn lửa cháy sáng. Có lẽ tác giả liên tưởng đến hai câu thơ của Lý Thương Ẩn:

    "Hà đương cộng tiễn tây song chúc,    何當共剪西窗竹,

     Khước thuyết Ba Sơn dạ vũ thì"         卻說巴山夜雨時?
(Bao giờ mới được cùng nhau cắt hoa đèn nơi song cửa phía tây, (để) Kể cho nhau nghe nỗi lòng nơi Ba Sơn lúc đêm mưa lạnh đây ? ).

- Ốc Phát 握髮 : Ốc 握 Có bộ THỦ là Tay bên trái, nên chỉ động tác của tay, có nghĩa là NẮM, như ỐC THỦ là Bắt Tay ( ta gọi là " Bonjuor " ). Chữ nầy còn được đọc là ÁC, nên Ốc Phát còn đọc là Ác phát:
   Theo điển ỐC PHÁT THỔ BỘ 握髮吐哺 là viết gọn lại của câu : 一沐三握髮,一飯三吐哺  Nhất mộc tam ỐC PHÁT, Nhất phạn tam THỔ BỘ, có nghĩa : Một lần gội đầu phải vắt tóc lên 3 lần, Một lần ăn cơm phải nhả cơm ra 3 lần, nên " Ác phát thổ bộ" là vắt tóc nhả cơm: Do tích Chu Công là một đại thần của nhà Chu rất chăm lo việc nước. Đang ăn cơm, có khách đến nhả cơm ra tiếp; đang gội đầu có sĩ phu tới, liền vắt tóc ra đón, hết người này đến người khác, ba lần mới gội đầu xong, ba lần mới ăn cơm xong. Câu thơ của Nguyễn Du ý nói: Chí nguyện được đem tài mình  ra giúp nước như Chu Công, cuối cùng không biết có toại nguyện hay chăng  ? Nghĩ đến mà lòng vô cùng lo ngại.

DỊCH NGHĨA :
1. Móc trắng thành sương , hơi thu đã già,
2. Cây cỏ quanh thành bên sông đều có vẻ tiêu điều .
3. Một mình khêu ngọn đèn lẻ loi ,đêm bắt đầu dài .
4. Vắt tóc vẫn lo cho cái chí nguyện trong những ngày cuối đời .
5. Non sông nghìn dặm nhìn mà buồn ngơ ngẩn.
6. Phong cảnh bốn mùa riêng mình luống ngậm ngùi
7. Mới rét mà đã thấy khổ vì không áo ấm ,
8. Văng vẳng nơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong bóng chiều tà .

DIỄN NÔM:
                  Đêm Thu - Bài 2   

                                                              

Móc trắng thành sương thu đã sâu,
Bên thành hoa cỏ cũng rầu rầu.
Chong đèn một bóng đêm vằng vặc,
Vắt tóc toàn tâm Ý những sầu.
Ngàn dặm núi sông hằng trông ngóng,
Bốn mùa cảnh trí gợi lo âu.
Khổ thay lạnh sớm chưa may áo,
Tiếng chày giặt tối vẳng đâu đâu!

Đỗ Chiêu Đức

      Sát sao hơn NGUYỄN DU, NGUYỄN LỘ TRẠCH sử dụng lại một cách đầy đủ hơn để họa  các VẬN trong bài THU HỨNG của Đỗ Phủ, nhưng... không phải để than van oán trách buồn thảm cho số phận hẫm hiu của mình, mà là... một tấm chân tình của một Nhà Nho Ưu thời mẫm thế lo cho thời cuộc, cho đất nước trong buổi tàn thu. Ta hãy cùng đọc bài thơ THU HOÀI sau đây của ông...

1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ :
        

            Thu Hoài                                                 秋懷

Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm                      極目蕭條紅葉林,
Thiên Sơn tĩnh lập ảnh sâm sâm                    千山靜立影森森。
Tiểu lâu đoạn giác minh sương lãnh              小樓斷角鳴霜冷,
Chiến lũy trầm luân khốc nhật âm                  戰壘沉淪哭日陰。
Thảo muội kinh dinh tiên thế nghiệp              草昧經營先世業,
Giang hồ ưu ái hủ nho tâm                              江湖優愛腐儒心。
Vạn gia chinh phạt hàn y tận                          萬家征伐寒衣盡,
Sầu sát thu khuê xứ xứ châm                           愁殺秋閨處處砧。
               Nguyễn Lộ Trạch                                          阮露澤

           Nguyễn Lộ Trạch sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, quê gốc của ông là làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế).
          Tổ tiên ông trước ở vùng châu Hoan-châu Ái (tức vùng Thanh Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay), đến thế kỷ 16, theo tướng Nguyễn Hoàng vào vùng Thuận Hóa. Cha ông là Nguyễn Thanh Oai, đỗ Tiến sĩ năm 1843 dưới triều vua Thiệu Trị (cùng khoa với danh thần Phạm Phú Thứ), từng giữ chức quyền Thượng thư bộ Hình, Tổng đốc Ninh Thái (gồm Bắc Ninh và Thái Nguyên)...

         Nguyễn Lộ Trạch là người đọc nhiều sách, biết nghề thuốc, có kiến thức sâu rộng, nhưng không đi thi, chỉ chú tâm vào con đường thực dụng. Ông thường ngao du khắp các tỉnh miền Trung, tìm người cùng chí hướng kết giao, được người đương thời goi là "cậu ấm tàng tàng" .

   2. CHÚ THÍCH:
       CỰC MỤC : là nhìn mút con mắt.

       TIÊU SƠ : là Thưa thớt, Lèo tèo.

       ẢNH SÂM SÂM : là Cái bóng Âm U, Mờ Mịt.
       TIỂU LÂU : là Lầu Nhỏ, Ở đây là Vọng Gác.
       ĐOẠN GIÁC : là Dứt tiếng Tù Và( thổi khi gác ).
       MINH 鳴 : là Thổi, là Kêu, là Hót, là Gỏ.
       TRẦM LUÂN : là Chìm Đắm. Ở đây Nghĩa là Bị Che Phủ, Mờ Mịt.
       THẢO MUỘI : là Buổi Ban Sơ,
       HỦ NHO : là Nhà Nho Hủ Lậu, đây chỉ là lời nói khiêm nhường.
        CHÂM : là Tấm Thớt. Ngày xưa dùng lót ở dưới để đập chỉ, tơ hoặc quần áo... cho sạch. Đây là cách giặt giũ ngày xưa, vì vải vóc ngày xưa rất thô kệt, đọc thơ Đường ta hay thấy từ nầy, tiếng ĐẬP( GIẶT ) quần áo hay làm cho người ta buồn hoặc nhớ nhà....

   3. NGHĨA BÀI THƠ:
                                     Thu Hoài Cảm

             Nhìn mút con mắt cũng chỉ thấy rừng lá đỏ tiêu điều lèo tèo thưa thớt. Ngàn núi đứng yên trong cảnh thâm u mờ mịt của mùa thu. Trên vọng gác đã dứt tiếng tù và thổi lên trong sương lạnh, và chiến lũy thì mờ mịt như đang khóc trong trời thu ảm đạm. Sự nghiệp kinh doanh của đời trước mờ mịt như thuở ban sơ. Sông hồ thì như còn ưu ái với lòng của kẻ hủ nho nầy. Muôn nhà vì chinh chiến mà  hàn Y đã cạn kiệt, nên kẻ trong phòng khuê buồn muốn thúi ruột khi nghe tiếng chày giặt áo quần vải vóc vang lên khắp nơi ( để gấp rút may thêm áo lạnh gởi ra chiến trường ).
   4. DIỄN NÔM:

Mút mắt tiêu điều rừng lá đỏ,
Đứng yên ngàn núi bóng thâm u.

Gác canh vắng ngắt trong sương sớm,

Chiến lũy mịt mờ lúc sáng thu.
Sự nghiệp cha ông con cháu giữ,
Tấc lòng nho hủ nước sông lưu.
Muôn nhà chinh chiến hàn Y hết,
Tiếng giặt chày vang buồn chiến khu!

Đỗ Chiêu Đức