Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

Xướng Hoạ : Hè Lưu Luyến



Hè Lưu Luyến

Chẳng phải là thu đến trễ hơn
Mà vì hạ mãi dỗ ve hờn
Lá còn tiếc nuối cành xanh biếc
Phượng vẫn rung rinh những cánh đơn
Trời cứ trong ngời màu ấm áp
Mây chưa bàng bạc sắc phai sờn
Em tung tăng hái hoa đồng nội
Để mặc ngôi trường lớp trống trơn
Phương Hà
 ***
Các Bài Thơ Hoạ:

Thu Hoài Cảm
Thu về vội vã bước dài hơn
E sợ ve kêu khúc dỗi hờn
Gió thổi ngập ngừng mây lãng đãng
Chèo khua nhè nhẹ sóng cô đơn
Nhớ hoài tóc lượn chùm phượng đỏ
Chờ mãi tay khâu vạt áo sờn
Hiu hắt chiều mưa mờ bóng nhỏ
Nỗi buồn úp mặt dưới đường trơn
Trầm Vân
 ***
Hè Lưu Luyến
Chẳng thấy chia lìa thế vẫn hơn
Người thì náo nức kẻ căm hờn
Ta về cày ruộng ăn cơm hẩm
Em ở bám trường ngủ chiếu đơn
Lá rụng khô cành thương lá rụng
Vai sờn bạc tóc đổi vai sờn
Mỗi lần rực đỏ mùa hoa phượng
Ngó lại sân trường đâu hết trơn!
Cao Linh Tử
15/8/2014
***
Mưa Hạ
Mưa về rỉ rả lạnh buồn hơn
Từng giọt vấn vương tựa trách hờn
Nắng hạ khó thiêu đời trống vắng
Mưa đêm càng xót cảnh phòng đơn
Ta về trường cũ tình luôn giữ
Em đến trời xa nghĩa vội sờn
Lay cánh phượng yêu còn ướt đẫm
Ngỡ mình đang vuốt má ai trơn!...
Quên Đi
 ***
Người Về

Chiều xuống mơ hồ mỗi lúc hơn
Trên cây trong lá gió may hờn
Đìu hiu thôn xóm sương thu lạnh ,
Lướt thướt mây ngàn cánh nhạn đơn
Chó sủa vang vang nhà mái nhỏ
Người về lặng lẽ áo điêu sờn
Trăng khuya nhàn nhạt hiên mờ tỏ
Trong tối lần mò bước tuột trơn
Mailoc

Thơ Tranh: Vạt Nắng Mong Manh


Trích Thơ: Đông An
Thơ Tranh: Kim Oanh

Hoa Đào Trước Gió Đông…Hoa Đời Trong Giông Bão

      Mấy hôm, trời không mưa nhưng có gió mạnh. Trời không mưa, nên lạnh thêm buốt. Cái buốt giá của mùa Đông, khiến lòng người lạnh lẽo theo. Vậy mà, mới đầu tháng Tám, Anh Đào đã đơm nụ, chi chit trên cành. Mươi ngày sau, nụ chuyển màu phơn phớt, nhuộm hồng cả tàng cây, không thấy đâu là lá, tạo nét quyến rũ riêng cả con đường.
“ Xuân đáo bách hoa khai”!*
“Xuân đến trăm hoa cười”!**

       Nhưng bây giờ chưa là mùa Xuân, còn đang Đông mà Anh Đào lại trổ hoa.
Đây, Xuân của đất trời!
Hay, Xuân của lòng người!?



       Úc Châu, mùa này đất trời âm u. Sương mù giăng giăng lối. Che giấu những tàng cây còn trơ trụi lá. Che giấu cả nỗi lòng của người đang vùi trong sương mai. Úc châu đang giữa mùa Đông. Cảnh buồn. Lòng cô quạnh. Duy chỉ những tàng cây Anh Đào, dọc hai bên đường, trái ngược, mang nét ấm áp, tươi mát, mùa Xuân như trở lại, khi màng sương tan loãng.
       Anh Đào đang trổ hoa!
       Mấy mươi năm, sống nơi đây, tôi đã gắn bó với một cội trong hai hàng cây Anh Đào. Cội Anh Đào này đã che mưa gió, hứng sương mai. mỗi ngày ngày, khi đứng dưới tàng cây chờ đợi chuyến xe sớm và cũng là nơi chiều chiều, trở về sau một ngày mệt mỏi với công việc. Đã mấy mươi năm gắn bó như thế, nhưng tôi như một chiếc máy, chạy đúng giờ. Mấy giờ, phải có mặt đứng dưới cội cây này, đợi chờ xe đến. Mấy giờ, từ trên xe bước xuống, cũng nơi cội cây này. Thế mà, tôi nào nhận ra, lúc nào Anh Đào trổ hoa, khi nào Anh Đào rơi rụng. Mãi đến hôm, cảm nhận ra bước chân mình đang dẫm lên hoa, lòng mang mang một cảm giác lạ, chợt giật mình…thấy hoa Anh Đào trước gió Đông. Có phải tôi vô tình hay nguyên nhân nào…khiến tôi không thấy. Có lẽ cả hai!
       Ngẫn đầu lên, thấy hoa còn trên cành hay cánh chao trong gió. Cuối nhìn xuống, thấy những xác hoa sắc hồng, nhỏ. mỏng manh đã rơi rụng, rải rác, nằm trên mặt đường. Tôi tự hỏi, có bao bước chân vô tình dẫm lên hoa, như tôi đã từng…khiến hoa tan tác càng tan tác thêm. Tôi rùng mình, hồi tưởng, nhớ lại thời gian dài đã qua, của đời mình, của một thời tan tác. Tôi bỗng liên tưởng đến và so sánh với, sắc hoa cùng vẻ đẹp của người thiếu phụ.
     Hoa, có loại sặc sỡ thu hút bướm ong và cả người. Hoa, có loại ngào ngạt hương đêm, lan tỏa, gọi mời. Hoa, có loại được người nâng niu, chăm sóc, được che nắng, hứng sương. Hoa, có loại chịu dãi nắng, dầm mưa, thật phũ phàng. Hoa, dù trên cành hay rơi rụng đều tạo vẻ đẹp riêng.
       Cánh hoa đời, ngoài sự tàn phá của thiên nhiên, còn kể đến con người. Hoa đời, không được may mắn, chẳng lúc nào đẹp như những cánh hoa Anh Đào đang nằm trên đường kia. Bởi, đời người thiếu phụ, có người luống tuổi vẫn giữ được nét xuân sắc mặn mà. Có người, vừa chớm qua thời con gái đã tàn rụi chịu chết non.


       Thế mới biết, lòng người vô tình, nhưng lòng hoa thì không. Giữa cái lạnh lẽo buốt giá của mùa Đông, hoa Anh Đào vẫn âm thầm vươn lên, mang niềm tin yêu, sức sống mãnh liệt vẫn tiềm tàng, căng đầy tạo một đời sống mới, hòa vào vũ trụ và nở hoa trong năm sau. Những cánh hoa Anh Đào kia, dù mong manh, nhỏ nhoi, nhưng vẫn giữ nét đẹp đến phút cuối, dù tàn tạ rơi tan tác trên mặt đường. Đến nỗi, một bước chân dù dẫm lên hoa, hoa vẫn tạo cái đẹp cho đất trời dù tơi tả trước gió Đông và tạo nên niềm cảm hứng cho Văn Thi Sĩ. Hoa Đào trước gió Đông!
       Một cánh Hoa đời, tội tình gì, vẫn bị vùi dập trước giông bão cuộc đời. Cánh hoa đời, chịu tàn tạ khi tuổi xuân vẫn còn đây, sắc xuân có đó. Hoa đời trong giông bão!

       Chỉ một vài hôm nữa, Úc châu sẽ đi vào mùa Xuân…Hoa Đào thì tàn và Hoa đời thì ra sao?
       Làm sao mà biết được!

Kim Phượng

Tôi Cùng Mùa Hạ


Rừng thiêm thiếp dẫu ve sầu réo gọi
nắng vô tình hừng hực nóng như thiêu
tôi với tôi một nơi chốn tịch liêu
ôm nỗi nhớ ôi vô vàn nỗi nhớ

Dẫu vẫn biết cuộc đời đầy trắc trở
vẫn bận lòng với một gánh tình chung
cứ mơ hồ giữa mộng mị mông lung
ngày tiếp nối ngày như bờ sóng vỗ

Bóng thời gian như ngựa qua cửa sổ
để lại sau lưng ước vọng ngậm ngùi
tôi mất chính tôi ở một góc trời
quay mặt lại chỉ thấy toàn tiếc nuối

Biết không lâu rừng sẽ tràn bóng tối
thông bạt ngàn cùng đứng lặng trong sương
tôi với tôi với nghìn nỗi vấn vương
như lũ ve sầu hót vang mùa hạ


Yên Sơn

Thi Luật Trong Thi Pháp Thơ Đường


Thi pháp thơ Đường tiêu biểu cho thi pháp thơ cổ điển Trung hoa. Do rất phong phú đa dạng, phức tạp và sâu sắc. Vì vậy hiểu được nó một cách thấu đáo là việc khó. Cho đến hiện nay, vẫn có vô số nhà nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau, đang cố gắng đạt được mục tiêu đó một cách trọn vẹn.
Quách Tấn, nhà thơ được mệnh danh là người giữ đền Thơ Đường Luật đã lưu lại cho chúng ta một công trình nghiên cứu mang tiêu đề "Thi Pháp Thơ Đường".
Với bản chất khiêm tốn, Ông giới thiệu bài biên khảo "Thi Pháp Thơ Đường" qua hình thức là những Bức Thư. Từ thư thứ Nhất đến thư thứ 26, như gởi cho những người bạn.
Dưới đây là Bức Thư nói về Thi Luật.
Thi Pháp Thơ Đường - Quách Tấn
Bức Thư thứ Ba
Thi luật xuất phát từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc cho nên gọi là đường luật.
Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng thơ . ...

Thật như vậy : từ đời Xuân Thu đến đời nhà Ðường, trên 1.000 năm, thơ Trung Quốc lần lần biến chuyển từ giản dị đến phức tạp, từ tự do đến câu thúc. Thơ trong bộ Kinh Thi do Khổng Phu Tử san định thời Xuân Thu (722- 479) trước Kỷ nguyên Thiên Chúa, số câu trong mỗi thiên, số chữ trong mỗi câu, đều không nhất định, cách hạ vần cũng tùy nghi.

Ðến đời Tấn (265-420), thơ mới bắt đầu khép vào khuôn là mỗi câu 5 chữ, nhưng số câu thì dài ngắn tùy hứng tùy thích của thi nhân. Sang đời Lục Triều (420- 621), thi nhân lại tìm thêm một khuôn nữa là mỗi câu 7 chữ.

Thời ấy văn học lại xu hướng thể biền ngẫu . Thẩm Ước lại xướng thiết tứ thanh, bát thể (bát bệnh) đem áp dụng vào thơ ngũ ngôn. Từ ấy, thi nhân phải theo những quy tắc về âm thanh về đối ngẫu; nhưng quy tắc không mấy chặt chẽ, ngòi bút vẫn tung hoành được tự do.

Thi sĩ đời Ðường (618-907) phát huy phép đối ngẫu và thuyết thanh bệnh của Thẩm Ước. Âm vận và cách luật được giảng cầu tinh tường : Thi Luật được sáng chế và được phần đông thi nhân hoan nghênh. Người có công lớn trong việc chỉnh đốn Thi Luật là Tống Chi vấn và Thẩm Thuyên Kỳ thời Sơ Ðường . Rồi từ đời Ðường đến đời Thanh (1616- 1911), trên 1.000 năm, thể thơ Ðường luật rất được phần đông thi nhân ưa chuộng.

Nước Việt Nam chúng ta có thơ từ nghìn xưa . Và thể thơ thông dụng nhất lá thể Lục Bát và Thể Vè 3, 4 và 5 chữ giản dị và tự do . Mãi đến đời nhà Trần (1225-1400), Hàn Thuyên mới dùng thể Ðường luật để làm thơ Nôm. Thi nhân đương thời nhiệt liệt hưởng ứng và từ đời Trần, sang đời Lê đến đời Nguyễn, thể Ðường luật được thịnh hành trong làng thơ Quốc âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong trường khoa cử . Thơ quốc âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong trường khoa cử. Thơ quốc âm làm theo thể Ðường luật, cổ nhân gọi là thơ Hàn Luật .

Và để phân biệt với thơ có trước đời Ðường, thơ Cổ Thể, người ta gọi thơ làm theo thể Ðường luật là thơ Cận Thể .
Quy tắc thơ Cận Thể rất tinh mật. Muốn sử dụng thể Ðường luật được hữu hiệu, tưởng chúng ta nên biết rõ mọi chi tiết, ít nhất là phải rành những điểm cốt yếu, về chương pháp, về cú pháp, về hài ngẫu, thanh điệu...

Chương pháp là phép tắc trong toàn bài .

Như trên đã nói, phép tắc thơ Cận Thể, tức thơ Ðường luật, rất chặt chẽ. Mỗi thiên có định số câu, mỗi câu có định số chữ, mỗi chữ có định tiếng bằng Trắc, và câu nào đối với câu nào, câu nào niêm với câu nào v. v... người làm thơ phải tuân thủ nghiêm chỉnh .

Luật thi lấy tám câu làm chính. Mỗi câu gồm có hoặc 5 chữ hoặc 7 chữ. Thơ 7 chữ 8 câu gọi là Thất Ngôn Bát Cú, hay là Thất Ngôn Luật Thi, gọi tắt là Thất Luật. Thơ 5 chữ 8 câu gọi là Ngũ Ngôn Bát Cú, hay Ngũ Ngôn Luật Thi, gọi tắt là Ngũ Luật.

Khi Luật thơ mới ra đời, các câu thơ trong bài không có tên. Ðường nhân chỉ gọi là câu NHẤT NHỊ, câu TAM TỨ, câu NGŨ LỤC, câu THẤT BÁT mà thôi.
Ðến đời Tống (960 - 1297), Nghiêm vũ mới đặt tên : câu Nhất Nhị gọi là Khởi Liên hay Phát Cú (cũng gọi là Phát Ðoan), câu Tam Tứ gọi là Hạm Liên, câu Ngũ Lục gọi là Cảnh Liên, câu Thất bát gọi là Lạc Cú hay Kiết Cú.

Qua đời Nguyên (1234 - 1368), Dương Tải đổi tên câu nhất nhị gọi là Phá Ðề và chia bài thơ làm 4 phần là Khởi (hay Khai), Thừa, Chuyển, Hiệp (*) và dạy : “Khởi như mở cửa thấy núi, đột ngột tranh vanh, hoặc như mây nhàn từ trong hố bay ra, nhẹ nhàng thong thả. Thừa như con rắn cỏ, sợi dây chuyền, chẳng đứt chẳng rời. Chuyển như sóng lớn muôn khoảnh, tất có nguồn cao đổ xuống . Hiệp như gió quanh khí tụ, ngậm chứa sâu thẳm. (Khởi như khai môn kiến sơn, đột ngột tranh vanh, hoặc như nhàn vân suất hát, khinh vật tự tại, Thừa xứ như thảo xà trắc tuyến, bất tức bất ly. Chuyển xứ như hồng ba vạn khoảnh, tất hữu cao nguyên. Hiệp xứ như phong hồi khí tụ, huyên vịnh hàm súc).

Vương Ngư Dương thời Thanh (1634 - 1711) nói rõ thêm rằng : Khởi, Thừa, Chuyển, Hiệp là phép chung trong việc làm văn. Trong một câu có khởi thừa chuyển hiệp của câu, trong một thủ có khởi thừa chuyển hiệp của thủ, trong 10 thủ có khởi thừa chuyển hiệp của 10 thủ, chớ không thể ấn định câu thứ mấy, đối thứ mấy là khởi thừa là chuyển là hiệp. Tức là Vương Ngư Dương không muốn người làm thơ phải ép mình trong sự phân chia cứng nhắc.

Nhưng một khi luật được đem vào trường thi để làm khuôn thước chọn nhân tài, thì khuôn khổ bài thơ luật lại chặt chẽ thêm một bậc nữa. Tên của các câu thơ trong bài đều được thay đổi. Câu Thứ nhất gọi là Phá Ðề, câu nhì gọi là Thừa Ðề, cặp tam tứ gọi là Thích Thực hay Trạng, cặp ngũ lục gọi là Dẫn Luận hay Bồi Thấm, câu bảy gọi Thúc Kiết hay Chuyển, câu tám gọi là Hoàn Kiết hay Kết.

Những câu 1- 2 (Ðề) và 7- 8 (Kết) không phải đối nhau. Chỉ có cặp 3 - 4 (Trạng) và cặp 5 - 6 (Luận) là phải đối nhau, cặp nào đối với cặp nấy, và phải niêm với nhau: câu 1 với câu 8, câu 2 với câu 3, câu 4 với câu 5, câu 6 với câu 7. Ðó là luật nhất định .

Nhưng từ khởi thủy, thi nhân mới định vị cho các câu trong bài chớ chưa phân nhiệm cho từng câu. Nguồn thơ theo nguồn hứng mà đi, không cần phải sắp xếp ý nào trước ý nào sau, miễn sao cho nhất khí quán hạ, cho thủ vỹ tương ứng, miễn sao mạch lạc được liên tiếp, ý tứ đừng trùng điệp... là hay. Khi đã dùng vào trường thi, thì nhiệm vụ của Ðề, Trạng, Luận, Kết đều được ấn định rõ ràng. Quy tắc phải được sĩ tử tuân thủ triệt để. Ðó là luật thơ cử nghiệp .

Về vấn đề này cũng như các vấn đề về luật bằng và Trắc trong câu, phép đối ngẫu... tôi sẽ nói rõ trong khi bàn về Cú pháp

Tôi xin nói tiếp về Chương .
Chương dùng ở đây là bài thơ, chớ không phải một bộ phận trong bài văn, lớn hơn tiết. Nói một chương tức là một thủ, và thủ cũng thường gọi là Thiên. Nhưng Thiên trong thơ Liên Hoàn, lại dùng để gọi cả nhóm hoặc 10 thủ, hoặc nhiều hơn hoặc ít hơn. Còn chỉ để chỉ từng bài một thì dùng tiếng Chương hay Thủ. Cùng một đề mục mà phải dùng nhiều bài nối nhau để diễn đạt cho hết ý, mà không theo lối liên hoàn (nối nhau bằng ý chớ không bằng lời) thì cả nhóm cũng gọi là Thiên, từng bài một thì gọi là Chương, là Thủ, như trong thơ liên hoàn. Song đó là danh xưng chớ không phải là quy tắc .

Ðể làm mẫu về chương pháp, xin dẫn một trong những bài thơ được truyền tụng, bài GỞI PHAN SÀO NAM của Trần Kế Xương :
Mấy năm vượt bể lại trèo non
Em hỏi thăm qua bác hãy còn
Mái tóc Giáp Thìn đà nhuốm tuyết
Ðiểm đầu Canh Tý chửa phai son
Vá trời gặp hội mây năm vẻ
Lấp bể ra công đá một hòn
Có phải như ai mà chẳng chết
Dang tay chống vững cột càn khôn

Bài thơ nhất khí quán hạ. Nêm luật chặt chẽ sít sao .

Nhưng đúng pháp thơ cử nghiệp, nghĩa là trạng, luận thật phân minh, thì bài VỊNH TRÂU GIÀ của Ðặng Ðức Siêu sau đây có thể dùng làm kiểu mẫu :
Một nắm xương khô một nắm da
Bao nhiêu cái ách cổ từng qua
Ðuôi cùn biếng vẫy Ðiền Ðan hỏa
Tai nặng buồn nghe Ninh Thích ca
Nương bóng rừng đào nơi lểu lảo
Nhìn gương cung quế thở phì phà
Bôi chuông nhớ thuở thân gần lụy
Ơn đội Tề vương mạng được tha .

Mới học làm thơ, các bạn nên học tập lối làm thơ cử trước. Tôi sẽ nói kỹ hơn sau khi đã lược giảng xong những điều thiết yếu. Và trong bước đầu của bạn, tôi chú trong đến thơ Thất Luật. Bởi kinh nghiệm bản thân cho thấy rằng một khi chân đã vững vàng trên đường thơ cử nghiệp rồi thì bước sang thơ tài tử rất dễ dàng, và hễ thơ bảy chữ đã thạo rồi thì thơ năm chữ không còn thấy bỡ ngỡ .

Và thơ Ngũ Ngôn cũng như thơ Thất Ngôn, đều lấy 8 câu làm luật. Nhưng phần đông thi nhân vẫn coi thơ Tứ Tuyệt là luật thi, bởi Tuyệt Cú là cắt luật thơ ra làm đôi mà lấy nửa. Phàm trong một bài tuyệt cú mà hai câu sau đối nhau, đó là cắt lấy 4 câu trước - cổ nhân gọi là tiền giải - của bài thơ luật; nếu hai câu trước đối nhau là cắt lấy phần hậu giải; bốn câu đều đối nhau là cắt lấy 4 câu giữa; còn toàn bài không có đối, là cắt lấy hai câu đầu và hai câu sau của bài thơ luật mà hợp lại . Số câu tuy có khác nhưng cách bố trí vẫn không khác nhau, cũng khởi, thừa, chuyển, hiệp , một bên từng cặp, một bên từng câu, mạch văn vẫn tiếp, khí văn vẫn nổi, không dứt không ngừng. Và tuy có 4 câu nhưng ý tứ phải sung mãn như 8 câu thì mới xứng danh là Tuyệt Cú, là Tứ Tuyệt. Bởi Tuyệt vừa có nghĩa là Tiệt (cắt) vừa có nghĩa là tuyệt diệu.
Xin cử mỗi loại một tuyệt để làm mẫu:
Hai câu đối nhau như bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông;

Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương
Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường
Tay ngọc đẩy đưa thoi nhật nguyệt
Gót vàng dậm đạp máy âm dương


Hai câu đối nhau như bài SONG CHIỀU của TX :

Ngày trôi chậm chậm sông đưa lá
Thoi liệng xa xa én dệt mù
Mở rộng song thơ chờ ánh nguyệt
Nửa lòng xuân sắc nửa lòng thu


Bốn câu đều đối như bài TỨC CẢNH của Nguyễn Tư Giản làm lúc đi sứ sang Trung Hoa thời Tự Ðức:
Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt
Khói tỏa ngô đồng khóm khóm sương
Thuyền mọn năm canh người Bích Hán
Ðịch đài một tiếng khách tầm dương

Bốn câu đều không có đối như bài MỜI TRẦU của Hồ Xuân Hương:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thời thắm lại
Ðừng xanh như lá bạc như vôi 

 
Chỉ có 4 câu mà ý tứ phải đầy đủ, phải trọn vẹn thì bài thơ mới thật hoàn hảo. Bằng còn có thể thêm thắt, thì đó là một bài bát cú mới làm nửa chừng, Ví dụ bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông, đọc lên chúng ta cảm thấy thiêu thiếu như xem chưa hết lớp tuồng mà đã bị hạ màn. Do đó đời sau, nhiều người đã thêm những câu sau thành một bài bát cú, như Tôn Thọ Tường là một:

Thấy dân rét mướt chạnh mà thương
Phải bước lên khung sửa mối giường
Tay ngọc lẹ đưa thoi nhật nguyệt
Gót son lần đạp máy âm dương
Xuân riêng hoa liễu canh dàn cuốn
Ý hiệp rồng mây chỉ vấn vương
Dâng gấm sân chầu mong có thuở
Sánh bường Tô Huệ bức văn chương


Sửa đổi một vài chữ rồi thêm vào bốn câu thành một bài bát cú lời đẹp ý giàu, lại nói lên được chút tâm sự thầm kín .
Những bài Tứ Tuyệt có đối thường bị nối đuôi hoặc nối đầu, để ngầm bảo rằng chưa phải thơ Tuyệt Cú. Nhưng nếu ý tứ trong bài không được phong phú, thì loại không có đối cũng dễ biến thành thơ bát cú. Ví dụ bài VẤN NGUYỆT sau đây, tương truyền là của Hồ Xuân Hương:

Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
Ba mươi mồng một đi đâu vắng
Hay có tình riêng với nước non


Cụ Tú Nguyễn Khuê đã biến thành một bài bát cú rất được thưởng thức:

Dì Nguyệt mình ơi ! Tớ hỏi đon :
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
Hỏi con ngọc thố chừng bao tuổi
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con
Ðêm vắng cớ chi soi gác tía
Ngày xanh lại thẹn với vầng son
Ba mươi mồng một đi đâu vắng
Hay có tình riêng với nước non .


Bài VẤN NGUYỆT của cụ Tú cũng như bài DỆT CỬI của ông Tôn, tuy là thơ chắp nối, song theo đúng khuôn phép. Ý tứ trong toàn bài luôn luôn đi sát đầu đề. Những câu Ðề, Trạng, Luận, Kết, câu nào cương vị nấy, nhiệm vụ nấy, không chút sai lệch. Mạch thơ khí thơ, như nước suối cao, gió đồng rộng, không bị gián đoạn hay ngưng trệ. Nếu đi thi thì quan trường dù khắt khe đến đâu cũng không thể đánh hỏng .

Hai bài đó, nếu các bạn xem xét kỹ, sẽ giúp các bạn nắm vững thêm về Chương Pháp.
Con đường đưa đến diệu xứ của Thơ còn xa lắm .
Nhưng trong BẰNG HỮU KIM KÝ của Nguyễn Ðôn Phục có câu :
Ðất đã đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao ;
Ðường dù đi đi dốc đến nơi, nghìn dặm chi nài khó nhọc .

Mong các bạn đừng chán nản
Quách Tấn
  --------------
Huỳnh Hữu Đức Biên Tập

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2014

Câu Đối: Vu Lan 2014


Câu Đối: Huỳnh Hữu Đức
Trình Bày: Kim Oanh


Phải Chi Tôi Mù


Phải chi mắt tôi mù
Để mặc đời âm u
Hay là không ai cả
Chỉ mình tôi và thu

Phải chi nhân sinh này
Cũng mù hnư tôi đây
Quờ quạng tìm nhau tới
Chắc còn chút thương thay

Phải chi không mặt trời
Loài người là cát thôi
Nằm bên nhau theo sóng
Cho mát cả biển khơi

Phải chi mặt đất khô
Không có những cơ đồ
Người chỉ là viên sỏi
Giữa núi đồi hư vô

Phải chi tình là tình
Cho hoài trong lặng thinh
Không biết làm đổi chác
Thế gian còn chút xinh

Phải chi những con người
Mù cả con tim nôi
Tham chưa lần học hỏi
Chắc còn vui cuộc đời

Phải chi tôi người mù
Mù cả tình hoang vu
Như đá nằm trơ bóng
giữa khối người âm mưu

Hàn Trân 
 11/14/97

Sầu Đông


Chiều về mang nỗi nhớ mênh mông
Mây trôi lờ lững giữa trời đông 
Kẻ đi luôn nhớ người cố quận
Người về người có nhớ ta không?

Đã bao mùa đàn én qua sông
Ta tìm nơi sưởi ấm tim lòng
Nhà ai hun khói màu sương đục
Hay chỉ mình ta giữa lạnh lùng.

Biện Công Danh
Jul 14

Làm Bánh Canh



Yên Đỗ sưu tầm 

Áo Lụa - Thái Phương

     

     Cô gái, có lẽ là người giúp việc, lễ phép mời chàng ngồi vào chiếc bàn rộng có hai dẫy ghế nệm sang trọng xếp gọn ghẽ, gần bộ xa lông. Trên bàn, một chiếc bình bằng pha lê đặt giữa tấm vải lót trắng tinh với những đường viền đăng-ten. Quỳnh vốn thích hoa huệ, chàng gặp lại đây những cành hoa xinh tươi, lưa thưa, với những đóa hoa trắng muốt mang theo thứ hương thơm nhẹ nhàng, thoang thoảng.
- Mời ông ngồi chơi, mợ tôi ra bây giờ.
- Vâng.
      Cô ta bật chiếc quạt ở góc phòng rồi vào trong chuẩn bị nước trà.
      Còn lại một mình, Quỳnh đưa mắt nhìn chung quanh. Căn phòng của ngôi biệt thự nho nhỏ bầy biện thật đơn giản: vài bức tranh thủy mạc lồng kính, một bộ gồm hai chiếc muỗng, một chiếc nĩa dài khoảng một thước bằng gỗ quý treo trên tường. Ngoài sân, một đôi chim công thơ thẩn kiếm ăn. Chúng đi gần nhau, dừng lại mổ mổ những đám rêu bám dưới chân một chậu cây kiểng. Đâu đây có tiếng chim sâu lích chích tìm mồi trên ngọn cây nhãn đang đơm bông, một điều khá lạ Quỳnh ít thấy trong cảnh tấp nập của thành phố. Chủ nhà ra. Đó là mót thiếu phụ đã đứng tuổi, rất đẹp, nước da trắng, mặc chiếc áo lụa màu nguyệt bạch, dáng điệu thong dong, gương mặt trông rất quen. "Quái, mình đã gặp bà này ở đâu rồi nhỉ?".
Quỳnh vội vàng đứng dậy. Thiếu phụ đưa tay, vẻ trang trọng :
- Xin mời ông ngồi! ...
- Vâng ạ.
Người làm bưng nước ra. Chủ nhà đỡ lấy đặt trước mặt chàng :
- Mời ông dùng nước!
- Dạ.
Quỳnh không uống, chàng lựa lời vào đề :
- Thưa bà tôi được bạn bè và thân nhân ở nước ngoài cho biết tranh của bà ở các nước bên đó rất được hâm mộ. Người ta cho tôi địa chỉ ...
Thiếu phụ nhíu mày dường như không để ý lắm :
- Nước nào vậy ông?
- Dạ thưa Canada,Pháp, Mỹ ...
Bà ta bật cười :
- à, mấy người tại các nước đó! Chắc lại Tiệc ly, Vinh quy, Vu quy, Hội chùa Hương ... ?
- Vâng ạ.
- Tôi vẽ như cái máỵ Bên Pháp còn đỡ, bên Mỹ và Canada họ bắt chước nhau, nhà này có nhà kia cũng có, treo trong phòng khách cho oaị Họ đặt toàn những bức lớn, tranh lụa, chiều dài thước sáu, thước tám, hai thước hai, thậm chí tới hai thước tư, hai thước sáu và cùng một loại giống y hệt nhau, vẽ khác họ không bằng lòng. Tôi cũng tính tiền theo công thức : bức một thước sáu kể cả công bồi lẫn ống nhôm đựng để gửi ra nước ngoài giá một cây sáu tức cỡ bảy trăm đô, bức thước tám giá một cây tám, hai thước hai giá hai cây hai tức chín trăm chín mươi đô, cứ thế mà tính, ba tuần được lấy, trả bằng tiền Việt cũng được. Nghe nói ở bển tiền khung gỗ mỗi bức cỡ năm trăm độ. Nếu khung gỗ quý lại càng mắc hơn.
Quỳnh im lặng, suy nghĩ. Họa sĩ nói tiếp :
- Nghệ sĩ thì phải sáng tạọ Đàng này, tôi được đặt vẽ, không mang tính chất sáng tạọ Dường như người ta cần cái tên, chữ ký và con dấu của tôi đóng dưới bức tranh nhiều hơn tác phẩm. Nhiều khi những ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu óc, tôi thèm muốn để ra chút ít thì giờ sáng tác nhưng bận rộn quá. Bây giờ tôi phải hẹn tới năm tuần, giá vẫn giữ nguyên như cũ. Chắc ông cũng đặt Tiệc ly, Vinh quy, Vu quy gì đó để gởi sang cho thân nhân nước ngoàỉ
- Thưa không.
Họa sĩ ngạc nhiên. Chàng bưng tách nước :
- Mời bà dùng nước ! ...
- Dạ, mời ông.

      Mùi trà thơm thơm nhè nhẹ. "Quái, mình đã gặp hương trà này ở đâu rồi nhỉ? Hoa sói không phải hoa sói, hoa lài không phải hoa lài, hương sen không hẳn hương sen ... "
- Thưa bà cho phép tôi hút thuốc? Tại tôi có tật hút thuốc mỗi khi nói chuyện.
- Dạ được, ông cứ tự nhiên.
Họa sĩ với tay lấy chiếc gạt tàn ở phía mặt bàn xa-lông trong khi chàng bật lửa
- Thưa bà tôi đã được coi tấm thiệp Trong trắng của bà ở các nước bên ấy gửi về nên tìm đến đây ...
- Có tôi có biết. Người ta in thành thiệp bán tại các nước phương Tây dùng trong các dịp Giáng sinh, Hôn lễ, tết Dương lịch, âm lịch ... , dịp nào cũng được.

- Đó là một bức tranh lụa rất đẹp, có thể gọi là một tác phẩm bà vẽ hoàn toàn theo cảm hứng hoặc sáng tạo. Tôi hết sức kính trọng bà nên hỏi địa chỉ, tìm tới đây định nhờ bà vẽ giúp một họa phẩm theo tôi đề nghị.
- Bức tranh đó thế nào?
- Một bức tượng khỏa thân, nho nhỏ, cao khoảng ba tấc hoặc ba tấc rưỡi, mô tả một cô gái rất trẻ, rất đẹp, vừa mới tắm xong, ngồi quỳ trên một tảng đá, mặt hơi ngửa lên, hai tay vuốt tóc, chiếc khăn mặt vắt ngang trên đùi
- Ông định gởi ra nước ngoài?
- Không, tôi vẽ cho tôi. Bà cứ vẽ đi vẽ lại nhiều lượt cho đến khi nào bà vừa ý, tôi vừa ý, nhất là khuôn mặt.
Từ bức vẽ đó tôi đo thước tấc, tạc nó thành một pho tượng bằng đá cẩm thạch.
- Ông là một nhà điêu khắc?
- Dạ không, từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng điêu khắc một lần nào cả và cũng không hề biết một chút gì về nghệ thuật hội họa, bởi vậy nên phải nhờ bà.
- Tạc tượng đâu phải việc dễ? ông chưa từng biết điêu khắc.
- Có lẽ tôi làm được. Quyết chí thì phải làm được miễn là đầu óc có kế hoạch và bà đồng ý vẽ giúp. Tôi bất ngờ mua được ở ngoài Bắc một khối đá tốt, trắng muốt như sữa do người ta đào lên, cao khoảng bốn tấc, không ai hiểu là đá gì nhưng tôi biết nó là một trong các loại đá hoa rất quý. Họ bán rẻ, tôi mua. Từ hồi đó tôi mơ ước sẽ tạc được một pho tượng.
Chàng dụi mẫu thuốc vào chiếc gạt tàn rồi lại đốt thêm điếu khác :
- Kế hoạch của tôi là sẽ mua đất sét trắng có pha silicát trong nhà máy sứ Thiên Thanh, đem về phơi khộ. Sau khi có bức vẽ của bà tôi sẽ bắt đầu với khối đất cùng kích thước với khối đá. Cứ làm đi làm lại nhiều lần tất nhiên sẽ quen taỵ. Bao giờ thật vừa ý tôi sẽ bắt đầu với khối đá.
- Ông dự trù làm trong bao lâu?
- Có thể một tháng, hai tháng, ba tháng ... , một năm, hai năm, ba năm ... , tôi chưa biết rõ nhưng nhất định phải làm được.
Họa sĩ im lặng.
- Tôi đã ra tận Ngũ Hành Sơn quan sát người ta điêu khắc các pho tượng ông thọ, đứa trẻ chăn trâu bằng loại đá hoa - marbre - Ngũ Hành Sơn, xuất khẩụ Họ làm được thì tôi cũng làm được và tôi đã tìm kiếm, đặt ở chỗ lò rèn chuyên môn của họ một bộ đồ đục đá gồm năm mươi hai chiếc, giá khá caọ Ở Bình Dương, chỗ Lái Thiêu đi lên thì họ đục tượng bằng gỗ, bộ đồ có hăm nhăm cây nhưng nước thép khác hơn. - Ông làm nghề gì?
- Kỹ sư công nghiệp. Tôi đã lăn lộn nhiều trong cuộc sống, bây giờ muốn nghỉ ngơi ít lâụ Trong khi nghỉ ngơi như thế, tôi muốn sống cho riêng tôi, cho những kỷ niệm của tôi ... Những tiếng "cho những kỷ niệm của tôi ... " khách nói rất nhỏ. Chủ nhà nhíu mày, thông cảm :
- Chắc lại hình ảnh về một mối tình nào đó rất lớn? Tôi hiểu ý ông nhưng ông biết là tôi rất bận. Tiệc ly, Vinh quy, Vu quy, Hội chùa Hương ... Tôi chẳng cần phải suy nghĩ gì cả, cứ thế hái ra tiền như một người thợ. Ông không trả nổi số tiền tôi gác mọi chuyện khác dành thời gian cho pho tượng của ông đâu
- Tôi trả được. Bà tính tới đâu tôi trả tới đó không nói một tiếng và tôi rất biết ơn bà.
- Thế còn người ta đặt hàng? Họ đặt nhiều lắm tôi vẽ không kịp ... Không lẽ ...
- Bà làm xen kẽ, ưu tiên cho tôi
- Cũng được, để tôi suy nghĩ xem đã. Nhưng tôi hỏi thiệt ông điều này trước khi quyết định ...
- Được xin bà cứ hỏi.
- Ông đục pho tượng làm gì? ông không phải là nhà điêu khắc trong khi đục tượng đá quý rất khó. Những đường nét, cử chỉ, dáng điệụ Nhất là khi lấy mặt phẳng. Ông nên nhớ một pho tượng khỏa thân luôn luôn có những mặt phẳng. Ví dụ gò má, cánh tay, bộ ngực, cái lưng, cái đùi ... tất cả đều là mặt phẳng. Đá quý không như đá đen, chỉ hơi sơ suất nó sẽ lộ hẳn rạ Đôi mắt cũng vậy phải có linh hồn. Tạc tượng mà mắt như mắt "tượng" là hỏng, không chấp nhận được. Với những chiếc đục và chỉ có những chiếc đục cộng thêm giấy nhám cao cấp, ông phải tạo nên những mặt phẳng nhẵn thín giống như da người, thứ da của một cô gái trẻ đẹp, mới tắm.
- Tôi sẽ làm được. Tôi là kỹ sự Tôi sẽ làm được y hệt bức vẽ của bà.
- Ông chưa cho tôi biết ông bỏ công ra như vậy để làm gì? Không lẽ tặng ... nàng? Theo tôi hiểu, ông lớn tuổi rồi, ngang với tuổi tôi, chúng ta nhìn đời bằng con mắt thực tế, không sôi nổi bồng bột như lúc còn trẻ.

      Khách cúi mặt, nhíu mày, tay bóp trên trán. Lát sau, chàng ngửng lên, ánh mắt rất buồn pha lẫn một vẻ cương nghị :
- Tôi muốn chứng tỏ tài năng và lòng kiên nhẫn của mình bà ạ. Bên cạnh đó là một tình yêu lạ lùng, bất diệt. Bà có thể bớt chút thì giờ quý báu nghe tôi kể một vài kỷ niệm thời còn nhỏ dại, lý do khiến tôi quyết tâm thực hiện pho tượng mặc dầu tôi biết là rất khó khăn. Cái bóng điện ấy nó đã đâm nát lưng tôi, xuyên thấu da thịt tôi không biết hàng bao nhiêu mảnh. Một thứ tình yêu khờ dại, xé da rách thịt. Tôi khóc, nàng khóc ...
Người nữ nghệ sĩ run giọng :
- Hồi nhỏ ông ... Ông bị nàng ... nàng làm cho đau đớn vì cái bóng điện?
- Vâng. Tôi chỉ xin bà vài phút thôi, không dám làm mất thì giờ của bà.
- Được, ông cứ nói, tôi rất muốn nghe.
Và bà ta nuốt nước miếng, rót thêm trà, hai tay lễ phép bưng lên mời khách :
- Ông uống thêm nước đi đã! ...
- Dạ được, bà mặc tôi.
      Lúc tôi còn nhỏ gia đình tôi nghèo lắm, ở trại định cư Qúy Hiệp nằm cách Bến Cát tỉnh Thủ Dầu Một vào khoảng 3 km về phía Lai Khê, Lộc Ninh, Hớn Quảng. Cả làng đều là Công giáo, chỉ có một mình gia đình tôi là người bên lương nên mọi người thường gọi mẹ tôi là "nhà bà Lương".
Trại có ngôi nhà Thờ ở ngay giữa làng, lợp tranh, vách đất, cha xứ ở trên Bến Cát, trông coi cùng lúc mấy trại định cư : Bến Cát, Rạch Bắp, Qúy Hiệp 1, Qúy Hiệp IỊ
      Cha tên Phao-lô Đàm Quang Qúy nên đặt tên hai trại là "Quý" Hiệp với nghĩa đồng tâm, hợp nhất. Mọi việc trong làng do ông trùm trông nom. Mỗi buổi tối, cỡ khoảng 7 giờ, ông đánh tiếng trống cái "thùng", chờ mười lăm phút rồi xách cây roi mây dài đi lùng từng nhà, đứa trẻ nào chậm trễ chưa đến học kinh hoặc đang đọc mà ngủ gật thì ông giơ thẳng cánh quất đánh véo một cái vào mông, đau quăn đít. Càng khóc ông càng đánh. Lơ là không thuộc ông cũng đánh. Cha mẹ bằng lòng lắm, bảo nhau ông có dữ đòn thì chúng mới thuộc.

      Tôi không bao giờ bị đánh. Bởi vì tôi là "Gia đình nhà lương", cha dặn phải đối xử thật tử tế, không được ép buộc. Hơn nữa tôi ngồi ngoài cửa nhưng rất mau thuộc. Anh Hải con trai ông trùm chỉ đọc vài lần là tôi thuộc, không cần phải khảo
      Ban ngày, hễ hôm nào cha có công việc xuống, trông thấy chiếc xe ô tô hòm bít bùng màu đen giống như con cóc của cha từ ngoài đường nhựa rẽ vào trong làng thì người ta đánh một hồi trống báo cho dân làng biết. Lúc cha đi cũng đánh ba tiếng trống. Người cha mập, bụng bự, thấp lùn nhưng đi rất nhanh. Tính cha mau mắn, luôn luôn xuống làng để hỏi han mọi chuyện và cha coi tất cả dân chúng trong làng như người trong gia đình. Hễ ai có điều gì cần trình, họ luôn luôn mở đầu bằng hai tiếng "Lạy cha".
      Một hôm, như mọi sáng chủ nhật khác, cha xuống làm lễ Misa cho giáo dân. Tôi đứng bên ngoài nhà Thờ. Tôi là người ngoại đạo, thường đứng lẫn với những người thanh niên đến trễ, không bao giờ bước chân vào trong nhà Thờ vì không hiểu mình có được phép vào hay không. Hơn nữa, vào trong nhà Thờ, được ngồi trên những bạnh gỗ, được quỳ trên những bạnh gỗ nhưng phải bỏ tiền lễ vào trong những chiếc rổ nho nhỏ khi người ta đưa tới trước mặt mình, mà tôi thì không có tiền; gia đình tôi nghèo, tôi còn ít tuổi, cả năm không có lấy vài hào trong túi để bỏ tiền lễ.

Lễ xong, cha ra. Đi ngang qua, trông thấy tôi, cha dừng lại, ngạc nhiên :
- Con là con nhà ai?
Tôi vội vàng khoanh tay, ông trùm đỡ lời :
- Thưa cha nó là con nhà bà Lương.
Cha nhíu mày :
- Lạ nhỉ, trông mặt mũi sáng sủa khác hẳn với trẻ con trong làng mình! Con đã học hành gì chưa?
- Bẩm cha ...
- Nói trình cha, không nói bẩm cha!
- Dạ, thưa trình cha, con không đi học.
- Sao vậy? Làng có lớp, có thầy giáo dạy kia mà?
- Thưa cha, ở trên Sài Gòn con đang học lớp đệ Lục trung học, ba con mất nên phải về đây. Dưới này anh Hải chỉ dạy những đứa mới biết đọc biết viết là cao nhất, con không đi học.
Cha giật mình, kinh ngạc :
- Con bằng bây nhiêu tuổi đã học đệ Lục cơ à? trường công hay trường tư?
- Dạ, thưa trường công. Con đậu hạng nhì vào lớp đệ Thất trường công.
- Còn giữ được giấy tờ đầy đủ không?
- Dạ, thưa còn. Mẹ con giữ đủ. Con mới phải nghỉ gần một năm naỵ
Cha nhắm mắt, suy nghĩ :
- Thôi được, con còn nhỏ, thông minh như vậy không học rất uổng. Cha mắc đi chút công việc lát sẽ trở lại. Con về nói với mẹ cỡ chừng mười giờ cha sẽ đến nhà nói chuyện. Nếu đồng ý, mẹ con nên thu xếp trước quần áo, đồ dùng cá nhân cho con bỏ vào tay nải. Nói chuyện xong cha sẽ giúp đỡ, đem con lên Bến Cát dùng mọi cách cho con đi học. Nhớ nhé! Về nói ngay với mẹ.
- Dạ, vâng ạ.

      Từ nhỏ tôi đi học rất sớm do anh và cha tôi dạy, lúc thi Tiểu học và thi vào lớp đệ Thất phải làm giấy miễn tuổi kèm theo học bạ với lời đề nghị của ông giám đốc Nha Trung Tiểu học chứng nhận học sinh đặc biệt, được đặt cách thi trước một năm. Cha tôi ở trại định cư, gửi tôi ở nhà người bác để ăn đi học. Tôi còn một đứa em gái rất nhỏ. Cha tôi đi cưa cây, đốt than trong rừng, bị con rắn cắn vào chân, làm độc rồi mất.
Anh tôi cũng còn ít tuổi, làm tay trái, không đủ sức đắp lò than, gia đình cực kỳ túng thiếu nên mẹ tôi phải lên xin cho tôi nghỉ học.
      Cả làng đồn um lên tôi được cha nuôi cho đi học. Mẹ tôi mừng lắm, không biết kiếm ở đâu được cây nhang cắm lên, khấn vái trước bàn thờ cha tôi và thu xếp quần áo cho tôi. Sự thực chẳng có gì nhiều, một chiếc quần ka ki rách mẹ tôi đã vá rất kỹ dùng để đi học ở trên Sài Gòn, hai chiếc áo sơ mi cũ, ngắn tay, hai chiếc áo may ô ba lỗ do người ta phát, hai chiếc quần xà lỏn, một chiếc bàn chải đánh răng và một chiếc khăn mặt. Ngay kem đánh răng tôi cũng không có nữa, thường đánh bằng muối, nếu tiết kiệm muối thì đánh bằng tro củi, cũng sạch. Ở nhà quê từ người lớn đến trẻ con đều không đánh răng, sáng chỉ súc miệng rồi thò ngón tay vào chà chà, nhổ toẹt nhiều lượt. Nhiều người không có cả khăn mặt nữa, múc nước giếng rửa bằng hai tay không rồi kéo vạt áo lên lau sơ qua, vậy là xong.

      Mẹ tôi nhét vào túi ngực tôi tờ giấy năm đồng, cài kim băng cẩn thận, dặn đi dặn lại :
- Phúc đức ông bà tổ tiên để lại được cha thương tình giúp đỡ, lên đấy ngoan ngoãn lễ phép thì ai cũng quý. Đây, mẹ cho năm đồng để dành xài dần, có gì cần thì mua
Tôi xốn xang trong dạ, mở kim băng ra đưa lại mẹ tôi :
- Mẹ không có tiền, giữ lấy, con không mua gì cả.
- Không, mẹ còn tiền, đừng lo
      Vậy là tôi đi với cha, ngồi lên chiếc xe con cóc do cha lái, dân làng ra xem sát tận cửa kính. Mẹ tôi thẫn thờ nhìn theo. Tôi nhìn thấy chiếc áo trắng ngắn tay của mẹ tôi có vá một miếng lớn ở trên vai.

      Nhà cha cũng lợp tranh, nền đất tối um um nhưng vách đóng ván sơn màu xanh. Cụ cố tám mươi tuổi ngồi trên giường ở góc nhà, hai mắt đã lòa. Tôi chắp tay lạy một lạy. Cụ bảo : "Đứa nào đấy ?".
- Trình cố thằng bé này học giỏi, con đem nó về đây gửi cho nó đi học.
- Ừ cha làm như vậy là phải. Bảo nó lại gần đâỵ
Tôi thò đầu lại gần. Cụ sờ đầu tôi, sờ mặt mũi tôi :
- Ừ, chịu khó mà học con ạ. Ngày trước cố ông mất sớm, nhà cố nghèo, cố nuôi cha cũng khó lắm, tất cả là nhờ ơn Chúạ
- Bẩm cố vâng ạ.
      Cha dặn tôi ở nhà ngồi chơi với cố rồi lái xe đi. Một lúc lâu sau, cha về, bảo tôi cầm gói quần áo lên xe đi theo cha
- Con gửi thằng bé này vào trong quận cố ạ. Con mới nói chuyện, ông bà quận rất bằng lòng.
- Ừ, tùy cha định liệu
Chúng tôi đi vào dinh quận. Cha về xong, ông quận hỏi kỹ mới biết tôi học trung học trong khi ở Bến Cát lúc ấy chỉ mới có đến lớp Nhất là hết mức, học sinh muộn thi, học tiếp lớp đệ Thất thì phải lên tỉnh.
- Thôi được, cha đã có lời nói, mi cứ ở lại đây, ngày mốt tao có việc lên tỉnh sẽ đem mi gởi lên tỉnh cho ông bà bác sĩ anh chị của bả.

      Tôi ở lại, ăn cơm ở dưới nhà bếp, ngủ tạm ở ngoài phòng khách. Hai hôm sau, ông quận chở bà quận và tôi bằng chiếc xe jeep còn người tài xế thì lái chiếc xe màu xanh đi phía đằng trước. Hình như họ bắt được một chiếc xe nhà màu xanh da trời rất đẹp, không biết của ai bỏ ở trong rừng, phải đem lên tỉnh giao nạp.
- Trong khi tôi nói chuyện với anh bác sĩ ở văn phòng thì mình đem thằng nhỏ này vô trong nhà riêng nói với chỉ trước xem sao. Cứ kêu là của cha xứ gởi tất nhiên ảnh chỉ phải nghe lời. Dường như hồi trưa hôm qua cha có lên trển gặp ảnh.
- Làm sao cha biết mình định gởi nó lên anh chị bác sĩ ?
- Biết. Tôi có nói chuyện. Cha kêu để ổng lên nói trước, nhận là người của ổng.
- Được mà, cha hổng cần nói cũng được. Ở trển ảnh chỉ bồi bếp hà rầm, thêm một đứa nhỏ đâu có bao nhiêu.
Và bà quận cho tôi hai chục đồng :
- Nói ông bác sĩ can thiệp cho vô học tiếp lớp đệ Thất đệ Lục gì đó trường công, hổng thèm học trường tự Ráng học thiệt giỏi, bỏ qua cả mấy cô mấy cậu con ổng bả luôn!
- Bỏ qua sao nổi, mấy đứa đó nó lớn, học trường Pháp trên Sài Gòn. Họa chăng nó bằng tuổi với con gì đó nhỏ nhứt, học trường đầm.
- Con Mari
- Ờ, con Mari
Ông quận cười :
- Bây bằng tuổi cổ hoặc nhỏ hơn chút đỉnh, ráng học thiệt giỏi, kỹ sư bác sĩ đặng lấy được cổ luôn tao kể làm tài. Cổ xinh lắm, mỗi tuần thường theo mấy anh về chơi.
Bà quận cũng cười nói đùa :
- Sao, liệu được không bây, Quỳnh? Phải mày tên Quỳnh không mày?
- Dạ, thưa bà con còn nhỏ, nhà con nghèo ...
- Giàu nghèo mà ăn nhằm gì, cứ có bằng cấp lớn là người ta gả.
      Vâng, nhà tôi quá nghèo, và tôi cũng không biết muốn học kỹ sư thì phải mất bao nhiêu năm, liệu có đủ sức hay không. Nhưng, với khái niệm đầu tiên do ông quận vô tình nói ra, tôi nghĩ rằng kỹ sư lớn lắm, sau này tôi nhất quyết sẽ phải cố gắng
oOo 

      Tư thất của vị bác sĩ nằm trên một khu đất rộng và cao, có nhiều cây lớn giống như một ngọn đồi. Bên trái là nhà, bên phải là phòng khám bệnh với những bãi cỏ luôn luôn cắt xén, rung rinh, sang trọng. Đằng trước có một con đường trải nhựa, lên dốc, vắng lặng đến nỗi mỗi buổi trưa người ta có thể nghe thấy cả tiếng chim hót ở trên những ngọn cây cao. Nếu đi hết con đường đó, đổ dốc, sẽ tới một con đường khác, nằm ngang, chạy dọc theo bờ sông. Tôi đoán con sông này từ Lái Thiêu lên, rộng mênh mông.
Nhà riêng rất lớn. Từ ngôi nhà có bậc thềm cao bên trên ngăn cách với dẫy ngang bên dưới của bồi bếp là một sân gạch khá rộng và một bể nước. Trên sân có hai mái "cầu kiều" cũng lợp ngói nối liền nhà trên nhà dưới với nhau, mưa không bị ướt. Phía dưới "cầu kiều" bắc một chiếc võng bằng vải hoa. Loại võng này tôi chưa nhìn thấy bao giờ cả.

      Lúc đầu tôi rất ngạc nhiên không hiểu tại sao người ta lại phí của, cắt các vải bông ra bện thành võng mặc dầu ngồi rất êm và trông rất đẹp mắt
. Sau tôi mới hiểu đó là những mụn vải ở các tiệm may, bỏ cũng uổng, các bà đan võng mua về, rọc nhỏ, chắp lại bện thay cho sợi. Ông bác sĩ không bao giờ ngồi võng, chỉ có bà với cô út thỉnh thoảng mới ngồi. Mát lắm và tất nhiên là êm lắm.
      Tôi ngủ trong căn phòng nhỏ phía bên trái, chỗ cửa sổ lên. Phía tay mặt là phòng tắm và phòng vệ sinh dành riêng cho gia đình ông bà. Bồi bếp dùng riêng, ở dãy nhà ngang bên dưới
      Vì đã gần cuối niên học, người ta xếp cho tôi học tạm trong lớp đệ thất, năm tới sẽ lên đệ Lục ngang sức với tôi. Vậy cũng được, nếu vào đệ lục thì tôi bị hẫng vì ở trên Sài Gòn tôi chỉ mới lên đệ Lục được hơn một tháng.
      Bồi bếp người nào cũng có vợ con ở ngay trong biệt thự nên ăn cơm với gia đình, hàng tháng cùng lãnh lương như mọi người khác. Chỉ riêng tôi thì ăn cơm của ông bà bác sĩ. Buổi sáng, trước khi bưng khay lên nhà trên, bác bếp để cho tôi thường là nửa ổ bánh mì và hai trái chuối hoặc một ly sữa thay cho chuối. Ăn xong tôi chuẩn bị đi học. Trưa về, chờ ông bà ăn xong, bác bếp bưng mâm xuống, tôi đứng ăn một mình trên chiếc bàn ở dưới bếp. Tôi đứng, không ngồi, mặc dầu bếp cũng có một chiếc ghế. Tôi thấy ai đun nấu gì ở bếp cũng đứng, không ngồi ghế nên tôi bắt chước. Món gì ăn dư thì bà để riêng ra, dặn bác bếp khi bưng mâm xuống, tôi ăn những món bà đã dùng đũa vạch riêng ở các góc đĩa. Cứ tôi ăn xong thì đến phiên mấy con chó : Hai con chó Nhật, một con bẹc- giệ Bác bếp sẽ trộn cho chúng, chia làm ba phần, mỗi con một nơi rồi bắt đầu thu dọn, đi rửa bát đĩa. Buổi tối cũng vậỵ
Công việc hàng ngày của tôi những khi có mặt ở nhà là lúc có khách thì rót nước bưng ra mời khách, và thỉnh thoảng, mỗi tuần một lần, dẫn mấy con chó ra sông tắm. Tôi bơi thì nó cũng bơi. Tôi bơi giỏi hơn mấy con chó.

      Ông bà là người Nam, cũng theo Công giáo nhưng không đọc kinh, mỗi sáng chủ nhật thường chỉ bắt tôi đi lễ. Tôi vẫn tiếp tục đứng phía ngoài nhà thờ và không bao giờ nghĩ tới việc theo đạo. Ngoại trừ ...
      Vâng, ngoại trừ cô Mari bảo tôi theo đạo thì tôi theo ngay nhưng cô không để ý tới việc đó. Mỗi tuần cô về một lần. Hình như trên Sài Gòn cô học trường Pháp, ở trong nội trú. Cứ chiều thứ bảy người tài xế đem xe lên đón, sáng thứ hai lại đi sớm cho kịp giờ vào học. Có khi cậu Rọt, cậu Bôn, cậu Ri cũng cùng về nữa.Tôi không hiểu sao ông bà bác sĩ người Việt mà các con lại toàn tên tây : Rọt tức George, Bôn tức Paul còn Ri là Henri, có lẽ quốc tịch Pháp.
      Họ lớn hơn tôi nhưng chơi với tôi thân lắm, coi tôi nửa như người ở, nửa như đứa bạn. Cái trò mà các cậu thích bày ra nhất là đi bẻ trộm bắp non. Bác Hai tài xế răng vàng cũng thích ăn trộm, lái xe tới những chỗ ruộng bắp thật vắng, đậu lại rồi các cậu xúi tôi với cô Mari vô bẻ trộm, đem về nướng ăn với nhau.


      Cô mặc chiếc áo lụa, nước da trong, mái tóc dài kẹp một chiếc kẹp, đuôi tóc thả xuống ngang lưng : "Bắp hái trộm mới ngon, bắp mua hổng ngon!". "Tôi sợ lắm". "Kệ, cứ hái đi, đừng sợ. Bất quá họ bắt được thì mình thường tiền, đã có chú Hai và mấy ảnh ở ngoải dàn xếp, lo gì !". Ấy vậy mà một lần chúng tôi đang hái bỗng nghe có tiếng người ho, tiếng chân bước và tiếng ông già thều thào : "dường như có đứa nào đang hái trộm bắp ?" cô không dám hái nữa, đưa mắt nhìn tôi. Người tôi hơi cao, sợ cái đầu ló lên khỏi ngọn cây, tôi bèn núp xuống, ngồi im phăng phắc. Cô cũng ngồi xuống, sát bên cạnh tôi. "Tao có roi đây, bắt được uấn chết tụi nó!" ôi chao, cô nép chặt vào người tôi, má kề bên tôi Tôi nghe rõ hơi thở của cô phập phồng, hồi hộp, tim đập loạn xạ. Da thịt cô mềm mại với chiếc áo lụa và những sợi lông măng sao mà rõ rệt đến thế. Môi cô cong cong, phịu ra, đôi mắt trong sáng, long lanh, thơ dại. Tôi ôm chặt cô, nắm bàn tay cô như muốn truyền cho cô sức mạnh, nhắc cô đừng sợ đã có tôi đây
      Chợt những tiếng cười phá lên. Ba người anh xuất hiện, ôm bụng cười ngặt nghẹo. Cậu Rọt lớn nhất bóp tay trên mũi bắt chước y hệt giọng "ông già" : "Uấn chết tụi nó đi bà con ơi!". Cậu Bôn la lớn : "Ủa, hai đứa làm gì vậy nè ?". Thì ra chúng tôi vẫn còn cầm tay nhau. Cô út đỏ mặt, phụng phịu hất hàm : "Đồ quỷ!". Cả bọn lại cười
      Đêm ấy hình như tôi đã lớn dậy. Hình như tôi mơ hồ thức giấc từ trong tiềm thức vẫn quen ngủ yên một cái gì đó khát khao, vô cớ, không tên tuổi. Tôi mơ thấy một tà áo lụa với làn da thịt ấm áp, hơi thở dồn dập, và cả cánh đồng biến thành ruộng ngô, những hoa ngô non lắc lư, dật dờ xa thẳm tới tận chân trời, mênh mông, cô quạnh.

      Một trò chơi khác của các cậu là đem bình ra rừng cao su dốc trộm các chén mủ người ta đang hứng. Cũng lại sai tôi. Về, khuân hết các bàn ghế ra ngoài sân, chỗ có ánh nắng. Đổ mủ cao su lên thành những khoảng hình tròn giống nhưngười ta tráng bánh tráng.
      Mủ cao su lúc mới thì trắng đục như sữa, phới khô sẽ trong vắt như chiếc bánh tráng chưa nướng nhưng vẫn hơi dính. Chúng tôi viên thành cục tròn rồi cứ như thế lăn mãi, nhiều lớp, lớp nọ chồng lên lớp kia thành những trái banh to cỡ nắm tay, dùng để ném nhau. Cứ một đứa xung phong đứng ra, đeo chiếc mặt nạ làm bia cho những đứa kia liệng. Phải liệng thật trúng, thật nhanh, thật mạnh kẻo "cái bia" bắt được thì phải ra đứng, đau lắm.
- Quỳnh đừng đứng trước. Mấy ảnh khôn bắt Quỳnh đứng trước là hổng công bình. Cứ uấn tù tì ai thua người ấy làm bia
Tôi bắt banh thì hay nhưng uấn tù tì lại dở, cô út uấn thay, bao giờ cũng thắng.
- Nhỏ nầy gian lận, nó toàn ra sau không hà! ...
- Ra sau hồi nào? Anh ra cái búa tui ra tờ giấy chớ bộ!
Cô út nhanh lắm, rõ ràng cô ra cùng lúc mà người ta xuất cái kéo cô đổi ngay thành chiếc búa thiệt lẹ chẳng ai "ăn" nổi. Cô nói nhỏ với tôi rằng học sinh trường Pháp thường chơi như vậy, cái gì cũng uấn tù tì nên cô rất quen.
      Chúng tôi cũng làm những cây cung, đầu mũi tên bịt mủ cao su, lấy phấn màu đỏ cà ra, trét vô, bắn nhaụ Mấy đứa núp dưới gốc cây, một đứa đi tìm. Phải bắn thiệt lẹ kẻo nó bắn mình. Một lần tôi đang "trinh sát" bỗng thấy nhúc nhích, bắn liền. Bỗng nghe tiếng kêu : "Ui da, trời đất ơi, đau quá, chết tui !". Đó là cô út. Tôi bắn phải mạng mỡ cô. Tôi liệng cây cung, quỳ xuống xem xét. Cô khóc :
- Trời đất ơi, bắn người ta hổng bắn, bắn tui ...
- Cô làm gì ở đây?
- Tui bắt mấy con kiến cho nó đá nhau ... Ui da, đau quá bắn chết tui rồi !
Cô ôm cạnh sườn rên rỉ, nước mắt lã chã. Tôi gỡ tay cô ra coi :
- Đâu, tôi bắn trúng cô chỗ nàỏ
Cô buông tay, vạch áo. Trên áo có vệt phấn đỏ, da cô trắng mịn và cũng có nốt đỏ ở chỗ xương sườn. Tôi xoa xoa, nắn nắn bóp bóp cho cô. Một cảm giác nào đó mát rượi truyền vào tay tôị
- Ui da, lợi càng đau nữa! ...

Những người anh xách cung đi tới, cô vội vàng kéo áo xuống. Họ cười ngặt nghẹo :
- Y cha, thằng này giỏi, nó bắn được một "nữ tướng"!
Cô hếch mặt, tức giận :
- Dẹp mấy người đi, chuyên nhạo người ta không hà!
      Những tháng nghỉ hè đối với chúng tôi thật vui. Cô út về hẳn dưới tỉnh, không phải nội trú trên Sài Gòn. Tôi lại càng mừng hơn khi được cha cho biết cha đã xin với ông quận cho anh tôi làm chân thư ký hộ tịch trong quận thay ông Phán Đàm về hưu, lương tháng một ngàn một trăm sáu mươi đồng, gia đình cũng đỡ chật vật. Chữ anh tôi đẹp, ông quận bằng lòng lắm. Anh tôi viết thì viết tay mặt.
Các cậu về chơi đem về cho tôi một lô các quần áo cũ đã bỏ không xài tới. Đồ của cậu Ri tôi mặc vừa vặn còn những bộ của hai cậu lớn thì chị Hai răng vàng vợ bác Hai tài xế may lại giùm, tôi bận y như đồ may ở tiệm.
      Những tháng hè cũng là mùa mưa, ban đêm đom đóm bay nhiều và cả cà cuống từ phía bờ sông cũng bay lên nữạ
- Nè, Quỳnh, tụi mình đi bắt đom đóm đi Quỳnh !
- Đựng bằng cái gì bây giờ ?
- Kệ, tui gói vô chiếc khăn mùi soa ...
Cô gói vô khăn mùi soa, đom đóm không sáng, cô chán không chơi trò chơi đó nữa
- Nè Quỳnh, chiều mơi cho chó đi tắm cho tui đi theo được không?
- Được nhưng sợ bà rầỵ
- Hổng sao đâu, không nói thì má hổng biết, má không rầỵ
Chiều hôm sau có cả mấy cậu cùng đi nữa. Thấy chúng tôi bơi lội, đùa nghịch, cô thích lắm, về kể um sùm.
- Má, mai mốt má cho con con tắm nữa nghe má?
- Trời đất, con gái mà tắm cái gì? Người ta trông thấy người ta cườị
- Thì cũng giống như tắm biển Vũng Tàu chớ có gì lạ ?
- Thôi được, tắm cũng được nhưng phải kiếm chỗ thiệt vắng. Mà coi chừng đừng bơi ra xa, chết đuốị
- Dạ.
      Cô mừng lắm, chuẩn bị đồ tắm từ buổi sáng. Lúc đi, bà dặn tôi trông nom cho cô.
Hai đứa chúng tôi đang tắm thì trời đổ mưa. Tắm sông trời mưa là một cái thú vô hạn. Cả vùng trời dường như sụp xuống, sẫm lại, mặt sông nổi sóng, dường như bốc khói. Chân trời đen kịt, sấm chớp đùng đùng, mưa tới giá lạnh.
- Thú quá há cô ?
- Ừa, nhưng thôi lên đi, tôi lạnh rồi, tóc ướt hết trơn ...
Người con gái lên bờ. Nàng quỳ trên hai đầu gối, ngửa mặt lên trời đón những giọt nước mưa, cả hai cánh tay đưa ra phía sau vuốt mái tóc ướt. Thân hình nàng đẹp như một pho tượng ...
Nước mắt người nữ họa sĩ giàn giụa. Bà ngồi hai tay khoanh trên bàn, không cần che giấu :
- Ông chưa kể đoạn ông bị nàng làm cho chiếc bóng điện đâm nát da thịt.

oOo

      Vâng, một hôm tôi vô tình tìm được chiếc bóng đèn điện đã đứt dây tóc bỏ trong chiếc thùng đựng than để dưới góc bếp. Tính tôi ham sửa chữa các đồ vật, không nỡ vứt đi. Tôi rửa sạch, lấy cát đánh bóng cái đui đồng, định tìm cách nối sợi dây tóc nhưng nối không được. Một ý nghĩ chợt thoáng qua trong óc tôi. Nếu bây giờ ta đập vỡ cái đuôi bằng đồng thì xài không được, thủy tinh sẽ lởm chởm. Chi bằng ta dùng mũi dao nhọn khoét ra, thấy đuôi nó bằng nhựa và chì, có lẽ khoét cũng dễ. Nghĩ là tôi làm. Tôi hì hục một lúc quả nhiên khoét được "Ồ, cái này mà đựng đom đóm thì nhất". Tôi sung sướng đem khoe với cô út.
- Hay quá ta. Tối nay tụi mình đi bắt đom đóm.
Nhưng tối hôm đó trời quang, đom đóm không có
Hôm sau cậu Ri rủ tôi ra rừng cao su bắn chim, mỗi đứa có một giàng ná, trời mưa, tôi về bị cảm.
- Chà, thằng này bịnh rồi ạ, trông cái mặt bây là tao biết liền. Uống thuốc chưa?
- Dạ, thưa bà con uống rồị
- Uống rồi thì đi nằm. Muốn ăn cháo biểu chú Ba nấu cháọ
- Dạ, thưa bà con ăn được cơm.

      Tôi đi nằm. Người tôi nóng hừng hực nhưng bên trong lại rét. Tôi đắp mền, mồ hôi vã như tắm, mặt đỏ bừng bừng, ngay đến hơi thở cũng nóng.
- Nó bịnh rồi nghe Mari, hổng được rủ nó ra ngoài vườn bắt đom đóm nữa a.
- Dạ.
Ban đêm, tôi nghe tiếng suỵt suỵt ở cửa sổ. Tôi gượng ngồi dậy. Cô Mari thì thầm :
- Nè, vườn nhiều đom đóm lắm, xuống bắt với tui đi.
Trời ơi, tôi đang bịnh, trời lạnh, ngoài vườn lại mới mưa ướt, bây giờ mà đi bắt đom đóm thì chắc tôi chết. Nhưng cô bảo đi là tôi đi. Tôi mặc thêm chiếc áo blu - dông cũ do cậu Rọt cho. Cô kéo tay tôi, giọng vẫn thì thầm, hơi thở con gái phả vào mặt tôi. Nếu cô bảo tôi chết thì tôi cũng chết, tôi quen với thứ hơi thở ấm cúng thơm thơm mùi tóc và mùi da thịt ấy lắm :
- Leo qua lối nầy, đừng đi lối kia má biết. Có đèn pin đây rồi ...
- Tôi kiếm cây vợt.
Chiếc vợt băng vải mùng do chị Hai khâu giùm dùng để bắt bướm. Hễ bươm bướm mắc vô đó là sẽ bị bắt, cả đom đóm nữa.
- Có, tui đem đủ rồi.
      Hai con chó Nhật làm biếng, ở trong nhà ấm không chịu ra ngoài, con chó bẹc-giê kèm sát bên tôi. Trời hơi lành lạnh, người tôi ơn ớn, run run, đi đứng không vững.
- Quỳnh làm sao vậy? Bịnh lắm hả?
- Không.
      Cố gắng lắm tôi mới ra được tới vườn, chỉ sợ đụng phải con chó thì té nhưng nó khôn, không vướng chân tôi. Mặt cỏ ướt nước. Các lá cây cũng ướt nước. ánh sao mờ nhạt, hình như không có ánh trăng. Đom đóm bay cao, thỉnh thoảng có những con bay thấp, và đôi khi, ở những chỗ có đám lá mục, có những con cứ nằm nguyên đấy chập chờn theo nhịp đều đặn như những tín hiệu.
- Nè, Quỳnh, cột sợi dây đồng nầy vô cái bóng đèn cho tui xách.
      Cô đưa tôi sợi dây đồng nhỏ tí, tôi đứng lại cột. Sợi dây đồng nhỏ, hai cái chấu trên đui dèn cũng nhỏ nhìn không rõ lắm. Phải cột thiệt kỹ, thiệt đẹp cô xách cho tiện kẻo nó tuột thì hỏng. Tôi ngồi xuống, quỳ hai đầu gối trên cỏ, cắm cúi. Hễ làm việc gì là tôi chú tâm hết vào đó. Cô cũng ngồi quỳ hai đầu gối trước mặt tôi, xem tôi cột. Có con đom đóm bay qua thật cao, chớp nháy, chớp nháỵ Cô ngửa mặt lên nhìn, khao khát :
- Đom đóm xuống đây ăn cơm, ăn cá, ăn thịt ...
Môi tôi trễ ra, định nói đom đóm thì ăn cơm ăn cá sao được nhưng lại thôi. Tôi nể cô lắm, không muốn bắt bẻ cộ. Tự nhiên cô xích tới, áp mặt vào mặt tôi, tóc cô chạm vào trán tôi, che khuất cả mắt. Cô lùa hai lòng bàn tay trên má tôi, kéo mặt tôi lên rồi cô hôn lên trán tôi, lên má tôi, lên môi tôi. Môi cô mềm và ấm, hơi ướt nhưng rất ngọt ngàọ
- Thích há, tụi mình cứ sống với nhau thế nầy thì thích há? Sau này lớn lên. Quỳnh học giỏi rồi cưới tui nhả
Tôi khẽ gật đầụ
- Thiệt không?
- Thiệt..
- Thì hun tui đi! Hổng có được nói xạo a ...
Tôi ôm ngang qua người cộ. Thân hình cô ấm, mái tóc cô mềm, gọn gàng mướt mát dưới bàn tay tôi.
- Ui cha, hun chi dữ vậy. Cái kẹp siết vô lưng tui ...
- Tại cô biểu
- Người ta biểu hun sơ sơ chút đỉnh chớ bộ. Mà người Quỳnh cũng nóng quá, in hệt cái lò lửa ...
Lại một con đom đóm bay qua. Cô đứng dậy, sủa lại nếp áo, sửa lại mái tóc :
- Thôi tụi mình đi bắt đom đóm đi
- Dạ.
- Vợ chồng thì ừa chớ dạ, Quỳnh thấy ba có dạ với má bao giờ đâu
Đêm ấy chúng tôi bắt được nhiều đom đóm bỏ vô chiếc bóng đèn. Con chó đi trước, hai đứa đi sau :
- Tui lấy cái này soi đường nghen? Ủa, mà phải đóng nút nó lại ...
Cô trao cho tôi một miếng vải mùng để cột.
- Mệt lắm hả?
Tôi khẽ gật đầu, không trả lời. Cô đặt tay lên trán tôi :
- Nóng quá. Tội nghiệp! Thôi, đi về.
Cả cửa chính lẫn cửa sổ đều khép hờ chứng tỏ bà bác sĩ đã biết chúng tôi đi bắt đom đóm. Cô rón rén bước, thì thầm :
- Tui đi lối này, Quỳnh leo cửa sổ.
      Khốn khổ, tại sao cô cứ bắt tôi leo cửa sổ? Người tôi rời rã, nóng hừng hực. Tôi trèo vào được trong phòng, cài cửa, cởi chiếc áo Blu- dông rồi nằm vật ra giường.
      Khoảng năm giờ sáng, khi có tiếng chuông nhà thờ Thánh Du-se đổ, mọi người đã dậy, tôi nghe tiếng bà rầy :
- Đó, thấy chưa, nó bịnh nặng hết dậy được rồi đó. Đã biểu đừng rủ nó đi bắt đom đóm mà hổng nghe lời. Vô coi nó ra làm sao lát kêu chị Hai cạo gió giùm nó ...
Có tiếng dạ khe khẽ, và giọng bà bác sĩ nói tiếp :
- Biểu anh Bếp nấu giùm nó tô cháo, bỏ nhiều hành vô đặng ra mồ hôị
- Dạ.
Có tiếng chân bước rồi một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên trán tôi. Tôi nằm nghiêng, nhắm mắt làm bộ ngủ. Cô ghé ngồi lên giường, khe khẽ thở dài :
- Nóng quá! Rên la suốt đêm. Tội nghiệp!
Cô kéo chăn cẩn thận đắp lên tới vai tôi rồi đi ra. Tôi có cảm tưởng cô là một người mẹ.
- Sao?
- Dạ, ngủ yên rồi má à.
- Đó, kêu nó đi bắt đom đóm nữa đi, nó chết cho bây coi. Nói chị Hai cạo gió giùm nó, lát cho nó uống thuốc.
- Chỉ đang đâm gừng dưới bếp.
Chị Hai có lối đánh cảm là đâm gừng ra, đổ rượu vô, nấu sôi trên bếp. Sau khi cạo gió chị dùng miếng vải mùng tẩm thứ nước gừng nóng đó thoa khắp mặt, khắp lưng và ngực, lòng bàn tay, bàn chân người bịnh rồi bắt trùm mền cho ra mồ hôi, đỡ lắm.
- Nè, cô coi, bầm hai bên lưng hết trơn, vậy là cảm nặng lắm.
Chị dùng đồng hào bạc cạo cạo và bắt gió hai bên thái dương.
- Đau không Quỳnh?
- Dạ, khá đau
- Chị cạo nhẹ nhẹ taỵ ý, đừng có bắt gió ở trán, mai mốt nó bầm lại coi kỳ cục lắm.
- Dạ, em biết mà cô. Em bắt khéo hổng có bầm.

Chị Hai tuy lớn nhưng vẫn xưng với cô út là em. Xong, chị trùm chiếc áo tôi đang mặc, đắp mền cho tôi rồi ra. Cô út đem thuốc vô :
- Nè, uống thuốc đi Quỳnh.
Cô bưng sẵn cả nửa ly nước lọc, dục tôi dậy uống. Tôi hơi ngại. Mình là cái thứ tôi tớ, sống nhờ trong nhà người ta mà phải để cho vị tiểu thư cành vàng lá ngọc gia đình người ta hầu. Hơn nữa nếu ngồi dậy ... tôi đang ở trần.
- Dạ, cô làm ơn để đấy lát tôi uống.
- Không, uống ngay đi, má mới rầy tui.
Có lẽ cô nhớ những chuyện ở trong vườn hồi đêm, mặt hơi ửng đỏ :
- Tui nói điều gì thì hổng quên đâu. Lỗi tại tui rủ Quỳnh ...
- Dạ không ...
- Vậy thì uống thuốc đi kẻo bà rầỵ
Uống xong tôi nằm trằn trọc. Cửa đã đóng kín lại thêm cháo của bác Ba đem lên nữa. Cháo nóng, ăn vào muốn toát mồ hôi. Tôi mơ thấy tôi nằm trên lò lửa, nước sông dâng cao, cô Mari biến thành pho tượng ... "Cô, cô" tôi chạy theo, tôi khóc.
- Tội nghiệp, ban ngày mà cũng mớ kêu "cô".
Hình như có người đứng bên cạnh giường tôi. Hình như có bàn tay con gái đặt lên trán tôi và có tiếng khe khẽ thở dài.
Tôi nằm quay mặt vào phía trong. Trời hầm muốn chết. Mồ hôi nhễ nhại. Tòi nóng tới độ hất chiếc áo ướt đẫm mồ hôi từ trong tiềm thức. Đạp tung cả chiếc chăn xuống chân cho mát. Cả một biển ruộng ngô rì rào, lúc lắc "ông già" giống như cậu Rọt giương cung bắn hai chúng tôi, trúng mạng mỡ cô, cô lăn ra chết. "Cô ơi!..".

Lại có tiếng thở dài nhè nhẹ :
- Tội nghiệp, cứ mê sảng tối ngày thế này thì chịu sao nổi ...
Hình như cô quỳ xuống bên giường. Hình như cô khóc. Đã chết sao còn khóc được?
- Thôi, cái nầy làm tội Quỳnh, tui trả cho Quỳnh ...

      Cô trả pho tượng. Hình như cô kéo mền cho tôi rồi cô đi. Pho tượng quỳ hai đầu gối trên bờ sông, ngửa mặt ra phía đằng sau, đưa tay vuốt tóc, miệng cắn chiếc kẹp : "Sau nầy lớn lên học giỏi cưới tui nha ... ". Đám cưới rất lớn, giết ba con chó Nhật, hàng chục con chó béc-giê ...
Không biết tôi ngủ thiếp đi bao lâu, lúc tôi trằn mình vật vã bỗng nghe cái "rốp", những tiếng rào rạo đau xé dưới lưng. Tôi nằm xích ra. Ôi chao, hình như có hàng ngàn hàng vạn mảnh thủy tinh vỡ đâm vào lưng tôi. Tự nhiên tôi sực tỉnh, ngồi dậy, quàng tay ra đằng sau sờ lưng. Đầu ngón tay tôi đau nhói, chính nó cũng bị thủy tinh đâm, chảy máu. Tôi ngạc nhiên không hiểu gì cả.
Sau, nhìn thấy chiếc đui đèn lởm chởm những mảnh thủy tinh vỡ nằm trơ trên giường lẫn với những con đom đóm đã chết, dính máu, tôi bổng lạnh mình : thì ra cô út ân hận vì việc rủ tôi đi bắt đom đóm nên đem cái bóng đèn ấy vô đặt dưới lưng tôi, "đền bù" cho tôi !
      Toàn thân tôi nổi gai ốc, toát mồ hôi lạnh. Máu chảy ướt đẫm thấm xuống đằng sau chiếc quần pijama, chảy thành dòng ra cả mạng mỡ khiến tôi điếng ngườị Biết làm thế nào bây giờ? Có những mảnh lớn đâm ngập trong da thịt ở giữa lưng phía trên bả vai, tôi không nhìn thấy thì làm sao rút ra được? Lại còn những mảnh nhỏ li ti, bén nhọn ... Mà chính tay tôi cũng bị đứt nữạ Máu chảy xuống chiếu. Tôi không sợ đau nhưng sợ bà chủ biết. Tôi ứa nước mắt, không biết phải tính cách nào.
Giữa lúc ấy cô út mở cửa nhè nhẹ đi vô. Trông thấy cái lưng tôi, cô trợn tròn mắt, bưng miệng kêu rú lên nho nhỏ : "Trời đất ơi, làm sao thế nầỷ". Tôi im lặng, lòng tôi xót xa đau đớn. Cô bước tới. Nhìn thấy chiếc đui đèn lởm chởm và những mảnh thủy tinh bê bết máu, tự nhiên cô chợt hiểu. Cô run rẩy, mặt tái mét, quỳ phục xuống bên tôi :
- Trời ơi, Quỳnh ơi tôi giết Quỳnh rồi! Làm thế nào bây giờ?
Tôi lắc đầu, nhíu mày :
- Không sao đâu, đừng la lớn bà biết bà rầy
- Tôi rút miểng ra cho Quỳnh ...
- Không được đâu, cô xuống nói nhỏ kêu giùm chị Hai. Nhớ khép cửa lại kẻo bà thấỵ
- Chị Hai đi chơ ...
Tôi thất vọng :
- Bác Ba cũng được. Nói bác giữ thiệt kín.
- Được
Cô len lén đi ra, giơ tay khép cửa. Lát sau, người vô lại là chị Hai. Chị đã đi chợ về. Trông thấy lưng tôi chị cũng hết hồn :
- Làm sao thế nầy?
- Dạ không, em nằm đè phải cái bóng điện. Chị lấy miếng thủy tinh ra giùm em.
Giọng tôi thì thầm, chị biết là cần giữ kín nên bí mật xuống nhà pha nước ấm vào chiếc chậu rửa mặt, đưa lên qua chỗ cửa sổ, cô út ở bên trong đỡ vô. Chị đặt chậu lên giường, pha thuốc tím, nhúng bông lau máu và rút những miếng miếng lớn. Ôi chao, đau thấu da thịt. Tôi cắn chặt môi, chảy nước mắt, cô út quay mặt đi không dám nhìn.
- Còn ít miếng nhỏ chút xíu chung tuốt vô bên trong. Cô kiếm giùm em cái kẹp hay cái nhíp gì đó cũng được. Phải có kẹp thì mới lấy nổi.
Máu tiếp tục chảy, chậu nước pha thuốc tím nổi bọt do nắm bông gòn luôn luôn nhúng vô kèm theo các miểng, đỏ lòm màu máu thay vì màu tím. Không hiểu cô út kiếm đâu được một chiếc pince đưa ra :
- Đã cần thay nước chưa chị?
- Dạ không, lát em lau lợi nước di- dốt cầm máu rồi thoa bôm-mát. Cô làm ơn xuống nói nhỏ với anh Ba chạy đi mua giùm một cuồng băng-gạc loại dài, cái hộp thiệt lớn, một lọ bút- đờ-sulfa, thứ bột, nắp hộp có các lỗ nhỏ dùng để rắc vết thương ... Cô nhớ nói ảnh đi xe máy, đem theo cái túi đệm em vẫn đi chợ, bỏ vô trỏng kẻo bà thấỵ
- Dạ được.

      Máu tôi rất lành, hàng ngày cứ thế chị lau phiso-hex, rắc pouđre de Sulfa, quấn băng cho tôi, dần dần tôi khỏi, bà bác sĩ không biết gì hết. Chỉ những đêm đầu tiên là tôi không ngủ được, nhức lắm, hễ đặt mình xuống giường là các lớp băng quấn chung quanh người bị đụng chạm, phải nằm nghiêng qua một bên, cứ lúc nào quên, nằm ngửa là lại thức dậy. Cô út có vẻ buồn, thường thường im lặng, ít ra vô trong phòng tôi. Tôi khỏi, cô mừng, dần dần lại vui vẻ như cũ.
- Mau há, quay tới quay lui sắp hết hè rồi. Hết hè tui lợi phải lên trên ở trong nội trú.

      Một hôm, ông bà bác sĩ mắc đi thăm các bệnh viện, ủy lạo bệnh nhân gì đó rồi dự tiệc tùng, buổi trưa không về, cô út xuống bếp ăn cơm với tôi. Tôi đứng, cô cũng đứng, cô ăn có hai lưng chén trong khi tôi ăn ba bốn chén.
- Vui há, ăn cơm ở bếp coi bộ lại vui hơn trển. Sau này ...
Nói xong hai tiếng "sau này" tự nhiên cô bỏ lửng không nói thêm nữa. Chừng hai giờ chiều, cô đưa mắt nhìn đồng hồ :
:- Bữa nay ba má mắc công việc, phải chi tụi mình đi tắm như bữa hổm thì thích há Quỳnh?
- Không dám đâu, cô không xin phép sợ về bà rầỵ
- Hổng có, má nói cỡ năm giờ chiều mới về. Bị ba mắc xuống thăm dì dượng dưới Bến Cát.
Tôi im lặng. Cứ nói tới tắm sông tôi lại nhớ tới hình ảnh trời mưa xối xả, cô ngồi quỳ trên bờ, ngửa mặt lên trời hứng những giọt nước mưa, đưa hai tay ra phía đằng sau vuốt mái tóc ướt.
Cô cũng im lặng. Lát sau, cô cúi mặt, vẻ tâm sự :
- Tui ... tui có lỗi với Quỳnh, làm Quỳnh đau đớn dễ sợ bây giờ vẫn còn thẹo trên lưng. Quỳnh thích điều chi cứ cho tui biết ...
Tôi cười :
- Dạ không, việc đó đâu đáng để ý. Tôi chẳng thích cái gì cả.
- Chỉ thích học?
- Dạ không, cũng không nữạ Nhà nghèo thì phải ráng học ...
- Vậy Quỳnh thích cái chi, thử nói nghe coi
Cô lục vấn mãi, cuối cùng tôi phải nói thật rằng tôi ... tôi thích hình ảnh ở bên bờ sông bữa trời mưa và việc ở ngoài vườn lúc cô ngồi xích lại gần tôi, coi tôi cột sợi dây đồng.
Cô đỏ mặt, mắc cỡ :
- Trời đất ơi, bị như vậy mà chưa ớn sao? Tui ... tui tưởng Quỳnh ghét tui
- Dạ hông, tui hông ghét cô.
Tôi bắt chước xưng "tui" theo lối nói của cô. Cô bật cười :
- Cám ơn. Tui chiều ý Quỳnh hổng có gì khó.
Cô đứng dậy đi vào trong phòng, lát sau đem ra một chiếc áo tắm, chiếc áo lập thể nửa đen nửa đỏ vắt chéo trên ngực hôm nàọ
- Hổng có mưa tui mần ra mưa. Tui để hờ cửa, lát thay đồ xong Quỳnh vô coi, giống y bữa hổm.
      Cô cởi kẹp tóc, mở vòi hoa sen nước. Những tia nước tóe ra như trời mưa. Cô ngửa mặt hứng nước. Tóc ướt người ướt. Cô ngồi quỳ chân trên đầu gối, đưa hai tay ra phía đằng sau vuốt tóc, vuốt mặt. Rồi cô từ từ tháo hai hàng nút trên vai, kéo xuống. Ngực cô nhu nhú, thân hình giống như pho tượng.

oOo


      Thưa bà, câu chuyện của tôi chỉ có thế thôi. Nó không phải là một mối tình lớn như lời bà nói nhưng tôi nhớ nàng suốt đời.
Người nữ họa sĩ ngồi bất động, nhíu mày, cắn môi cố nén tiếng thở dài :
- Về sau sao ông trở thành kỹ sư ?
- Anh tôi làm thư ký hộ tịch trong quận, cho tôi biết anh tôi sẽ xin chuyển về Sài Gòn. Ông bác sĩ sắp về hưu và sẽ sang Pháp. Anh sẽ đón mẹ tôi lên Sài Gòn còn tôi thì sẽ gửi lên nhà bác ở nhờ nhà bác như cũ. Thi xong Trung học phổ thông tôi sẽ lên Sài Gòn ... Cuối năm đệ Lục, tôi lên Sài Gòn. Một điều may mắn lạ lùng là sau khi thi xong Tú tài, tôi đậu đầu vào trường Kỹ sư Phú Thọ.
Tây Đức cho ba học bổng với điều kiện là phải biết tiếng Đức và một trong hai ngoại ngữ : tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Tôi biết tiếng Đức, vậy là tôi được ưu tiên.
Trước khi đi tôi có xuống tỉnh nhưng ông bác sĩ đã đi từ lâu hình như sang Pháp, nghe nói cô Mari đã lấy chồng.
- Sao ông không liên lạc từ trước?
- Tôi là học sinh nghèo, trong tay chưa có gì cả. Bà thử tưởng tượng, đồng lương của anh tôi đâu có bao nhiêu, mẹ và em tôi phải buôn thúng bán bưng ở ngoài chợ rất cực khổ. Mãi tới lúc được đi Tây Đức tôi mới dám mong tìm cô, hẹn ngày gặp lại nhưng không được gặp.
- Rồi sau đó?
- Mười năm sau tôi trở lại. Lúc ấy tôi đã đậu bằng Tiến sĩ Khoa học. Cô vẫn biệt tăm, hình như cô ở bên Pháp.
- Ông không sang Pháp?
- Có, tôi có sang một đôi lần dự các hội nghị Khoa học. Nước Pháp không phải là nhỏ mặc dầu tôi đã để tâm tìm kiếm. Tôi mong gặp cô.
- Gặp để làm gì?
- Chính tôi cũng không hiểu nữa. Tôi tha thiết mong được nhìn thấy cô một lần, được nói với cô rằng tôi đã làm hết sức mình như lời cô hẹn trong vườn ngày nào. Tôi luôn luôn gặp may mắn, không phụ công ơn giúp đỡ của ông bà Bác sĩ nhưng không biết làm thế nào hơn.
- Rồi tình trạng gia đình ông bây giờ ra sao?
- Tôi không nghĩ tới việc lấy vợ. Đầu óc tôi chỉ có sự làm việc và linh hồn tôi vẫn vất vưởng, nghĩ tới hình ảnh của một pho tượng. Tính tôi vẫn thế, nửa như nghệ sĩ, nửa như một người thực tế. Chỉ đáng tiếc một điều rằng tôi ... tôi đã quên gương mặt cô, không nhớ một chút nào cả. Tôi xin lỗi, hình như ... hình như hơi nhang nhác với bà. Đại khái như vậỵ
Người nữ nghệ sĩ bật cười :
- Ông quá khen. Thôi được, tôi sẽ tìm cách vẽ cho ông một bức tượng thiệt vừa ý. Đêm nay tôi vẽ, tính sẵn thước tấc đàng hoàng, ngày mai cũng bằng giờ này mời ông tới lấỵ
Khách đặt hàng ngạc nhiên :
- Chiều mai? Sớm vậy được sao? Còn dáng điệu, cử chỉ, khuôn mặt? Xin bà nhớ giùm rằng nàng ... , xin lỗi, nàng rất đẹp.
Họa sĩ vẫn cười
- Tất nhiên. Không đẹp thì làm sao một người như ông, bị những miếng miếng thủy tinh đâm nát lưng mà vẫn nhớ mãi, suốt đời không quên. Tôi đoán rằng lúc ấy nàng vào khoảng mười lăm hay mười sáu tuổị
- Vâng vâng, bà cứ cho mười sáu tuổi đi. Thân hình đầy đặn, ngực vừa nhu nhú ...
- Trời ời, ông cứ nhắc tới bộ ngực đó hoài. Phải chi tôi vẽ được cả những cái hôn thơ dại, ngốc nghếch trong khu vườn nữa.
- Tôi xin gửi tiền ...
- Không, tôi không lấy tiền. Bao giờ ông làm xong, thiệt vừa ý tui mới lấy tiền. Lúc đó tui sẽ lấy thiệt mắc cho ông chết luôn.
Người khách cũng cười :
- Chưa chắc đã chết đâu bà. Tôi sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời cho những gì mà tôi mong muốn.
Hôm sau chàng trở lại. Coi bức tranh, chàng cực kỳ ngạc nhiên :
- Ôi trời ...
- Sao, vừa ý ông không?
- Kinh khủng thật! Giống y hệt nàng. Tại sao bà tài giỏi đến thế, chỉ tưởng tượng mà vẽ được? Bà làm tôi nhớ lại gương mặt và thân hình nàng ...
- Tại ông nói giống tôi nên tôi vẽ giống tôi hồi còn con gái. Ông đem về đi, bao giờ xong mang tới đây cho tôi coi
Ba tháng sau chàng trở lại, hãnh diện đặt pho tượng lên bàn. Đến lượt họa sĩ ngạc nhiên :
- Ông ...
- Tôi không cần phải tạc bằng đất sét trước. Tôi nhớ rõ từng đường nét như bà đã vẽ.
- Nhưng ông làm cách nào tạo nên được các mặt phẳng? Việc đó rất khó và đòi hỏi một thời gian rất lâu trong nghề.
- Tôi nghĩ ra một chiếc máy giống như chiếc Dremel của Mỹ với tốc độ cao nhưng sức mạnh hơn. Sự thực không phải chế tạo mà tôi biến đổi từ chiếc khoan điện ra, máy chạy băng băng không bị trục trặc như chiếc Dremel. Tại tôi bận rộn nhiều công việc, chỉ làm trong lúc nghỉ ngơi chứ nếu không sẽ hoàn tất trong vòng một tháng.
- Ông vẫn còn đầu óc trông nom công việc?
- Vâng, con người tôi là như thế, một nửa dành cho công việc làm một nửa nhớ tới các kỷ niệm cũ.
- Mời ông dùng nước!
- Vâng, không dám, mời bà. Tôi nghĩ ra rồi. Đây là loại trà ngày trước bà bác sĩ vẫn thường dùng để mời khách. Bỏ tất cả các loại trà ngon vô, hương sen, hương sói, hương lài, đủ cả, rất kỳ lạ. Bà bác sĩ cũng hay mặc áo lụa như bà và ... và cô Mari. Xin lỗi, vậy bà ... bà là ai?
- Tôi là một họa sĩ thông thường như các họa sĩ khác. Ông rất minh mẫn nhưng có những điều ông không biết đâu ...
- Ví dụ?
- Ví dụ Marie hay Maria là tên thánh, cùng tên với Đức Mẹ, không phải quốc tịch Pháp. Cả các tên George, tên Paul, tên Henri cũng vậy, gọi theo thói quen của các gia đình giàu có miền Nam lúc ấỵ. Cô Mari là một nữ sinh bình thường, không giỏi gì cả, chỉ riêng xuất sắc về môn hội họa ...
- Tôi chưa thấy cô vẽ bao giờ.
- Cô không theo học các lớp hội họa nên không biết vẽ bằng giá. Hơn nữa hai đứa trẻ cứ quấn quýt với nhau trong ngôi biệt thự, làm gì có thì giờ để vẽ. Đậu xong Bac II nàng lấy chồng rồi theo gia đình sang Pháp. Người chồng mắc tật ghiền rượu, họ không yêu nhau, có với nhau một đứa con gái, sau đó người chồng trong cơn say rượu bị đụng xe chết. Nay đứa con đã lớn, đã lập gia đình, ở lại bên Pháp với ông bà ngoạị Nàng theo học ngành hội họa tại Pháp lúc còn trẻ tuổi, tương đối được một số người biết tiếng ít lâu sau trở về quê hương sống trong ngôi biệt thự cũ của cha mẹ hồi đó.
Đó là ngôi nhà nàỵ
- Bà ...
- Tất cả các hình ảnh của nàng tôi cất trong cuốn album này, ông đem về đi. Ở trỏng có ... có cả nhúm bông thấm máu nữa, ông đem về, pho tượng cứ để lại đây, tôi giữ, bao giờ tiện thì sẽ đến lấy. Ông về, tự động mở cổng, tôi không đưa tiễn.
- Không, tôi không về. Chúng ta đi gần trọn đường trần mà không gặp nhau, lúc gặp thì gặp dễ thế. Tôi không về, đừng bỏ tôi lần nữa tội nghiệp.
Họa sĩ bật cười :
- Lại lì, y hệt hồi đó. Hổng ai bỏ đâu. Cứ yên tâm về đi, lúc khác trở lại
- Được, tôi về
Chàng đi, tay cầm theo tập album. Ra tới cổng, tự nhiên chàng quay nhìn lại.
      Người thiếu phụ đứng bên cạnh pho tượng, áp mặt vào mái tóc pho tượng, đưa mắt nhìn theo. Nàng với pho tượng là một mặc dầu thời gian đã phôi pha. Nàng vẫn mặc chiếc áo lụa màu nguyệt bạch như tự thuở nào.

Thái Phương
( Kim Oanh sưu tầm)