Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

Nhà Tôi


Ôi những ngày xưa dưới mái nhà
mẹ ngồi lựa thóc ngắm mây xa
những lo mưa sớm bên đồng nội
làm mất màu tươi mấy gốc cà

xanh ngắt một màu bên liếp rẩy
giàn dưa leo sớm bỏ vòi cong
còn ghen đậu đủa vừa đơm trái
hay lũ rau thơm đám cúc tần

có mấy hàng cau nhỏ thế thôi
mẹ thường nhắc nhở những khi vui
một mai đám cưới không lo thiếu
trầu tốt cau ngon thuốc đượm mùi

đây đám rơm khô dưới gốc gòn
là nơi con rải mộng lang thang
chờ em từ thuở con trăng tối
cho tới trăng đầy em mới sang

thèm quá nồi canh chua cá lóc
chút bông so đủa cọng rau om
ai lên phố thị mà không nhớ
mùi vị dưa nồng điên điển thơm

mười mấy năm rồi đi biệt xứ
nhà tôi còn đó mẹ tôi không
nghe thương những cánh chim tu hú
mãi gọi bên sông điệp khúc buồn

Lâm Hảo Dũng
(Trích trong tập Những Bài Thơ Của Tôi)


Thơ Tranh: Ngắm Thu Nơi Xóm Ven Sông


Dịch Thơ: Mai Lộc
Thơ Tranh: Kim Oanh

Không Đề


Hà Nội
Tháng Tám còn nắng đỏ mặt đường.
Mùa thu đã ở bên giường vào đêm.
Ngân Hà trong vắt trang nghiêm.
Sao Mai đã thức từ đêm gọi gà.
Nhớ em giấc ngủ đi xa.
Giấc mơ theo ánh trăng tà bay lên.

Hhai

Giọt Nắng Chênh Chao


Nghiêng trút lá, cây thương con phố nhỏ
Lặng lẽ chiều nắng nhẹ xõa bờ vai
Ánh mặt trời chênh chếch bóng vàng phai
Nghe ngớ ngẩn chênh chao lòng xao xuyến

Từng giọt nắng vọng vang vùng kỷ niệm
Ngập ngừng trôi thương cảm những ngày qua
Cánh lá khô khẻ rơi trên phố lạ
Tê đắng nụ cười trầm lắng xót xa

Hoa cúc tím giản đơn con phố nhỏ
Nhạt nhòa theo năm tháng bởi thời gian
Gấp niềm riêng còn vương bụi trong tim
Nào quên lãng được tận cùng u uẩn

Lác đác vàng thu lang thang phố vắng
Ta mộng du miền ký ức xa xăm
Trên vĩa hè xanh nhặt từng sợi nhớ
Chợt nhận niềm đau hiện hữu âm thầm

Giọt sương pha trắng mái đầu
Long lanh rơi xuống giọt sầu mi cong.

Đông An

Vàng Trăng Sương Phụ



Em không là bóng nguyệt
em chẳng là trăng thanh
không gian đời hư ảo
em là giấc mộng lành

Anh là sông chảy ngược
trôi qua thác qua ghềnh
anh là chàng lãng tử giữa giòng đời lênh đênh

Một hôm sông êm dịu
trong muôn trùng bao la
sóng thôi cuồn cuộn vỗ
cho êm lòng Thiên Nga

Sóng dù thôi cuộn chảy
vẫn xô giạt vào bờ
cánh lục bình vời vợi
nhìn nước chảy ngẩn ngơ

Tình thoáng qua rất vội
như mây bay ngang trời
ta là duyên bèo nước
giữa giòng đời nổi trôi

Anh thôi đừng luyến nhớ
phút giây qua hôm nào
dù cuộc đời là thật
hay lẫn lộn chiêm bao

HT Nguyệt Khuyết
Jun 9/2014


Khúc Nhạc Buồn Trong Ký Ức

(Viết cho những người bạn một thời bi thương trong đời tôi)

           Nếu ví cuộc đời của mỗi người như một bản trường ca có nhiều đoản khúc khác nhau, mỗi đoản khúc biểu tượng cho những diễn tiến buồn hay vui, hoan lạc hay bi đát đau thương xẩy ra trong cuộc đời của họ. VN với một dẫy dài lịch sử toàn là chiến tranh và loạn lạc, có lẽ không một ai trong chúng ta không ít hay nhiều cũng phải chịu những những khổ ải do bom đạn đem đến dù ở thị thành hay nông thôn.

            Cá nhân tôi cũng không ngoại lệ. Sinh ra và trưởng thành trong khói lửa của hai cuộc chiến tranh, vì vậy tôi có khá nhiều ký ức buồn đau trong cuộc đời ngay từ lúc sinh ra. Những cảnh chết chóc, đau đớn vì bom đạn đã được tôi chứng kiến từ khi mới 3,4 tuổi cho đến gần hết tuổi thanh niên. Khi mà số phận may mắn đã đem tôi đến Thuỵ Sĩ, một đất nước thanh bình, hơn 600 năm chưa biết gì về chiến tranh. Sống trong cái không khí thanh bình, thịnh vượng đó, đôi khi ngoái nhìn lại những khoảng thời gian đi qua trong đời mình. Nhớ đến những người bạn thủa ấu thơ cũng như những người bạn vì hoàn cảnh mà tôi quen biết họ. Những người đã có số phận hẩm hiu vì những bấp bênh của thời cuộc, họ đã trở về với đất đá khi tuổi còn xanh. Lòng tôi chợt trĩu năng vì cảm thương họ, muốn dành một chút thời gian để viết về những kỷ niệm vui buồn giữ tôi và họ như thắp một nén hương lòng tưởng nhớ và tôn vinh tình bạn của chúng tôi.

Nhập cuộc, vẫn cái lặng lẽ trong đời      
           

( Cần Thơ trước 1975)
             Cuối năm 1971 khi đang dậy học tại Cần Thơ, tôi nhận được lệnh từ bộ quốc phòng phải cắt ngang công việc dậy học để tham dự khoá 1/72  sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Cầm tờ giấy nhập ngũ trên tay, dù không ngạc nhiên vì biết chắc chắn nó phải đến  với mình sau khi hoàn tất việc học. Nhưng tôi cũng không thể che dấu được cảm giác thờ thẫn, lo buồn khi nghĩ đến tương lai, khi sắp phải bước vào một giai đoạn mới của đời mình. Nhất là lúc đó cường độ của cuộc chiến đang ở mức kinh hoàng của thời kỳ hậu Mậu thân, mùa hè đỏ lửa....
            Sau khi thu xếp xong tất cả những thủ tục hành chánh ở Cần Thơ. Từ giã bạn bè  quen biết, lên Sàigon với cái túi nhỏ đựng vài vật dụng cá nhân. Tôi hoà mình vào đám đông cùng với những người cũng như tôi,  đang sửa soạn đem số phận của mình vào một giai đoạn mới. Chúng tôi tụ họp ở khuôn viên Quân Vụ Thị Trấn, Sàigon để làm vài thủ tục cần thiết trước khi được chở đến quân trường Thủ Đức.

            Tôi nhớ rất rõ ngày hôm đó, ngày mà thêm một lần nữa cái cảm giác buồn tủi vì cô đơn lạc lõng lại đến trong đời tôi. Chung quanh tôi những vòng tay thương ái, ánh mắt ân cần, níu kéo lo buồn của mẹ cha, anh em, vợ con, người yêu ... dành cho họ lúc lên đường , xa rời cuộc sống dân sự. Còn tôi, thì vẫn dáng vẻ im lặng , lủi thủi một mình giữa đám đông bởi vì tôi chẳng có ai đến tiễn đưa, từ giã. Tôi không báo tin việc nhập ngũ của mình cho bất cứ ai trong gia đình cũng như bạn bè quen biết, chỉ vì nghĩ cuộc thay đổi của đời mình nhỏ bé quá chẳng cần thiết cho người khác phải quan tâm. Tôi trầm mặc ra vẻ vô ưu ( dù có chút buồn tủi ) trong cái ồn ào chia tay của người khác. Nhưng tôi cũng không thể dấu được cái cảm giác cô đơn, lạc lõng rất nhẹ nhàng trổi dậy trong  lòng mình khi nhìn thấy niềm vui ( hay chia buồn ) của tha nhân.

            Cuối cùng mọi thủ tục cần thiết đã xong. Tôi tìm một góc thoáng khoát trong khuôn viên của trang trại. Ngồi đưa mắt kín đáo dõi theo những ánh mắt ân cần, những bàn tay vướng víu của đám đông dành cho nhau nhưng cũng để cho lòng mình bay theo những ước mơ mà mình không có !

            Rồi khi những chiếx xe quân xa chở chúng tôi lăn bánh qua chiếc cổng của trường sĩ quan,  đổ chúng tôi xuống vườn Tao Ngộ của quân trường . Những tiếng hét la ồn ào có chút bạo lực pha sự đe doạ nhiếc mắng từ các huynh trưởng khoá đàn anh. Họ dàn chào chúng tôi, khởi đầu cho một ngày gia nhập đời lính. Họ là những người khoá trước. Được phái đến dẫn dắt nhưng cũng để gột rửa, xoá đi dáng dấp hào hoa phong nhã còn vương lại trong đời sống của những kẽ thư sinh . Họ dậy cho chúng tôi từ cách đi đứng chào kính bình đẳng trong quân đội. Họ biến đổi những mái tóc bềnh bồng được uốn ép tỉ mỉ của chúng tôi ( vài người trên tóc họ vẫn còn vương chút mùi thơm của mỹ phẩm ) thành những mái tóc gần như hớt trọc luôn luôn thấm đẫm mồ hôi chẳng bao giờ biết đến lược gương .

            Với khoảng hơn một tuần lễ được các huynh trưởng tẩy rửa và dậy cách làm quen với đời sống quân đội. Chúng tôi được phân chia vào những đại đội có trang trại riệng biệt trong khuôn viên rộng lớn của quân trường . Tôi được xếp vào đại đội 17, một đại đội phần lớn là những người đã tốt nghiệp đại học , đã đi làm, có chức vị trong xã hội. Có người đã từng là giám đốc, giảng viên đại học, trưởng ty, nghệ sĩ ..v..v.. của các cơ quan, trường sở từ khắp nơi gửi đến.

            Sau thời gian huấn nhục, kéo dài khoảng 4 tuần lễ, chúng tôi đã có phần dễ thở hơn như được về phép cuối tuần, tự tổ chức lấy những sinh hoạt hàng ngày cũng như lúc học tập. Đại đội 17 của chúng tôi mang tiếng là một đơn vị lè phè,  có lẽ vì đại đội có nhiều người lớn tuổi, đã có chức vị trước khi nhập ngũ nên việc tập luyện không được nghiêm chỉnh lắm. Nhưng cũng có thể vì sự thiên vị của các sĩ quan cán bộ hướng dẫn nên sinh ra ỷ nại trong học tập chăng ? Cuối cùng chúng tôi bị chia nhỏ, chuyển đổi với các đại đội khác cùng khoá . Tôi được đổi đến đại đội 16 , một đại đội toàn là những hạ sĩ quan từ khắp các chiến trường có thành tích tốt nên được đề bạt theo học khoá sĩ quan. Phần lớn họ là những người ở khoảng tuổi trên dưới 20, đã có kinh nghiệm vài ba năm trên chiến trường, vì vậy thể lực của họ rất tốt cũng như rất nghiêm túc trong việc tập luyện. Ngay tuần lễ đầu tiên tôi đã mệt nhoài để theo kịp họ ở mức tối thiểu, nhưng rồi mọi khó khăn cũng qua. Môi trường quân đội không dễ gì bị gục ngã khi người ta bắt buộc phải hoà nhập vào tập thể.

            Có lẽ khi chuyển sang Đại đội 16 , bên cạnh sự cực nhọc nhưng cũng là khoảng thời gian ghi dấu rất nhiều kỷ niệm buồn vui  trong cuộc đời của tôi nhất . Tôi được gần gũi nhưng người lính từ chiến trường trở về, họ kể cho tôi nghe rất nhiều về những nỗi hiểm nguy cũng như sợ hãi trong chiến tranh. Cũng từ họ tôi cảm thông những ước mơ đôi khi rất đơn giản và nhỏ bé của họ trong những ngày lăn lộn trên chiến trường đùa giỡn với sống chết. Đến nay dù thời gian đã lùi vào dĩ vãng quá xa, với hơn 40 năm đằng đẵng, nhưng tôi luôn luôn nhớ đến họ. Những người bạn chỉ thoáng qua trong đời tôi nhưng không kém phần thân thương, khi rời xa nhau. Rồi vì ngẫu nhiên nào đó tôi gặp lại họ hay những người khác nói về họ lại làm tôi thẫn thờ vì toàn là những  câu truyện nhuốm mầu bi đát. 

Người bạn ngủ mê trong nghệ thuật:

(Thư viện Sào Gòn)

            Vào khoảng thời gian gần cuối khoá, một lần tôi có dịp lên thư viện của  trường, ngẫu nhiên gặp anh Thuần, giảng viên trường mỹ thuật Sàigòn. Anh cũng từ đại đội 17 chuyển sang Đại đội 16 như tôi. Trong một căn phòng nhỏ rất bề bộn không khác gì một nhà rác toàn những mảnh giấy báo được xé cắt cùng với đủ các vật dụng khách lăn lóc khắp nền nhà. Giữa phòng một khung vẽ rất lớn hình chữ nhật dính các miếng giấy báo to nhỏ , hình dáng, đủ mầu sắc khác nhau do anh xé hay cắt dưới cái nhìn nghệ thuật của riêng anh. Cạnh bên khung vẽ một cái chậu nylong đựng keo dán và hàng chục lọ sơn đủ mầu sắc với những chiếc cọ vẽ to nhỏ khác nhau vương vãi khắp nơi . Anh quàng chiếc áo khoác bằng vải thô trắng dính đầy sơn, mặt mũi, râu, tóc lem luốc, trông như một tên hề. Đứng trước khung vẽ, đôi mắt anh nhíu lại, thỉnh thỏang đưa tay lên chà xát vào trán ra chiều suy nghĩ, rồi anh lựa chọn lấy một miếng giấy báo, quết tí keo dán dính trên khung .  Anh hiện ra trong mắt tôi không có tí gì giống người lính thông thường mà là một người hoạ sĩ (có chút mát thần kinh) đang  đắm mình vào nghệ thuật.

             Thấy tôi  bước vào phòng, giơ tay chào anh, anh chỉ hất nhẹ đầu rồi lại đắm mình vào nghệ thuật. Tôi im lặng ngắm nhìn tác phẩm chưa hoàn chỉnh của anh với thái độ thích thú. Có lúc tôi dí sát mặt vào bức tranh để đọc, để xem rất kỹ những ý nghĩa lời viết hay hình ảnh trên những mảnh giấy báo hay tạp chí mà anh dùng như những vật thể tạo ra bức tranh. Có lẽ sự thích thú và cách xem tranh của tôi đã làm cho anh vừa lòng nên anh quay sang nói chuyện với tôi tí chút. 

            Anh giải thích cho tôi hiểu về chủ đề  “ Giã biệt “mà anh gửi gấm vào tác phẩm. Nội dung lời viết, hình ảnh của những miếng giấy đủ hình dạng được anh dính trên khung ngoài việc tạo hình tượng của bức hoạ nó còn mang theo ý nghĩa làm thâm thuý hơn cho chủ đề của tác phẩm. Đứa con trai trong tác phẩm , chân bước về phía trước nhưng quay đầu lại nhìn bà mẹ già nua, nghèo khổ, miệng nở nụ cười vui khác hẳn vẻ lo buồn của bà mẹ. Trên vai người con, chiếc ba lô mầu xám tro nổi bật lên tấm ảnh một cô gái xinh tươi, kèm theo một mảnh báo in hình trái tim đỏ chói biểu tượng trong hành trang của kẻ ra đi vẫn có một bóng hình .
           
            Cứ như vậy anh đã chỉ từng góc cạnh bức tranh. Đọc cho tôi nghe những câu viết trên những miếng giấy báo hay tạp chí bằng tiếng Anh, tiếng Việt.  Anh giải thích cho tôi hiểu cái chủ đề mà anh muốn gửi gấm vào tác phẩm của mình. Cuối cùng anh cho biết đang cố gắng hoàn tất tác phẩm này trước ngày mãn khoá  như một dấu vết nghệ thuật mà anh muốn gửi lại nơi đây. Nhà trường đồng ý cho anh tham dự các buổi huấn luyện ở mức tối thiểu,  công việc chính của anh là tạo ra một bức tranh nghệ thuật dành cho hội trường chính của quân trường .

            Trong buổi lễ mãn khoá, một người bạn cho tôi biết anh cũng được tốt nghiệp như mọi người bình thường khác và được gửi lên Sư Đoàn 1 Bộ Binh đồn trú tại Quảng trị.  Còn tác phẩm “ Giã biệt “ của anh có được hoàn tất đúng thời hạn hay không, không ai biết  và nếu hoàn tất nó đã được bầy biện nơi đâu. Sau ngày tốt nghiệp vài tháng mặt trận Quảng Trị trở nên sội động với những trận đánh kinh hoàng , vỡ núi tan bia ở Cổ thành Quảng Trị, sông Thạch Hãn....Dù luôn luôn cầu mong cho anh an toàn , nhưng tôi nghĩ dạng người mơ mộng luôn luôn bay bổng , sống hết mình cho nghệ thuật của mầu sắc như anh có lẽ không dễ dàng thoát khỏi khói mù bi đát của chiến cuộc . Nhưng biết đâu ( một sự biết đâu rất bé !) trong cái không khí tanh hôi máu xương và thuốc súng đó anh gặp một kỳ tích nào đó được yên bình, giúp anh tìm ra nguồn sáng tạo mới mẻ cho một chủ đề độc đáo nào đó trong hội hoạ  . Đó không phải là một khám phá tuyệt vời của anh trong nghệ thuật sao ?! Tôi cầu mong điều này là sự thật và ao ước được chiêm ngưỡng tác phẩm mới tiềm ẫn sắc mầu bi tráng của anh.

Người bạn với hình xâm và những bản nhạc buồn:

( Pleiku )

            Có lẽ người bạn khắc vào trí nhớ và tình cảm của tôi sâu đậm nhất, đó là Mừng văn Thông, người dân tộc thiểu số Pleiku. Thông xuất thân từ trường Thiếu sinh quân Vũng Tầu rồi theo học khoá Hạ sĩ quan Đồng Đế ( Nha Trang ).  Ra trường ,được điều lên sư đoàn Bộ binh 22,  tại Kontum. Sau khoảng 2 năm chiến đấu với nhiều thành tích Thông được đề bạt theo học khoá sĩ quan Thủ Đức. Nhờ vậy chúng tôi có dịp quen biết nhau.

            Thông kém tôi 5 tuổi, nên coi tôi như một người anh để học hỏi trong nhiều lãnh vực. Đặc biệt, sự đồng cảm về văn chương và âm nhạc đã kết nối tình thân của chúng tôi rất nhanh. Thông chơi đàn guitar và hát khá chuẩn, nhiều lần với giọng hát rất truyền cảm và dáng vẻ dìm trọn cảm xúc mình vào ý nghĩa của bản nhạc, Thông đã làm cho tôi và các bạn khác cảm động muốn chẩy nước mắt.

            Trong những buổi học tại bãi tập ban ngày cũng như ban đêm, tôi và Thông luôn luôn tìm dịp để tâm sự hay giải trí bằng văn chương, âm nhạc. Chính nhưng dịp gần gũi này mà Thông đã bị tôi kéo vào mê say những bài thơ tình yêu lãng mạn nổi danh thời tiền chiến cũng như những bài thơ đương thời.

            Tôi còn nhớ một ngày học chiến thuật trong một khu rừng, gặp hôm trời mưa như xối nước. Những chiếc lều cá nhân của chúng tôi gần như hoàn toàn vô dụng, ai ai cũng ướt như chuột lột. Trong khi chờ đợi giờ cơm trưa, Thông cởi bỏ chiếc áo để vắt cho ráo nước, ngẫu nhiên tôi nhìn thấy trên phía trái vòm ngực của Thông có xâm hình một con dao cắm vào một trái tim đang chẩy máu. Dưới hình xâm một giòng chữ mầu đen : Hận kẻ bạc tình ! Nhìn hình xâm, ký ức kéo tôi lại thời còn là sinh viên, nhiều lần trên đường phố hay trong con hẻm nghèo nàn nơi gia đình tôi sinh sống. Nhiều lần tôi cũng nhìn thấy những hình xâm với những câu văn , hình vẽ rất ngớ ngẩn, lạ kỳ trên cánh tay, bả vai hay lồng ngực của những người lính hay những tên du đãng. Tôi và lũ bạn sinh viên vẫn coi đó là một trò cười, một màn trình diễn “cải lương“, cường điệu  tình cảm thấp kém về văn hoá ! Chẳng hạn, xâm một bà già lụm khụm bên giòng chữ “ Xa quê hương nhớ mẹ hiền “. Hay một trái tim rướm máu kèm theo lời than trách  :“ Này em yêu ! Xin đừng làm tim anh tan nát !“ . Hay một ngôi mộ với giòng chữ bi thương “ Em chết tôi xây mộ, Tôi chết ai là người an táng cho tôi ?“..v..v...

            Nhưng khi có dịp gần gũi họ, nghe họ tâm sự về những vết thương, nỗi buồn ẩn chứa trong các hình xâm, câu viết “sến “đó, hay chứng kiến sự mong manh của cuộc đời họ trong chiến tranh....  Tôi đã không bao giờ mang cái  “cải lương “  đó ra làm trò vui đùa nữa mà ngược lại trong lòng tôi chứa đầy cảm giác cảm thương , mong được nghe họ kể lể về niềm đau dấu kín trong các “ tác phẩm “ trên thân thể họ.

            Tối hôm đó, trong căn lều cá nhân trên bãi tập. Thông kể cho tôi nghe về cuộc tình đứt đoạn ẩn chứa trong hình xâm trên ngực của mình. Sau khi ra khỏi trường Thiếu sinh quân Vũng Tầu, Thông về nhà bố mẹ tại Pleiku nghỉ phép 2 tuần lễ trước khi theo học khoá hạ sĩ quan tại Đồng Đế, Nha trang . Qua mai mối, Thông quen và yêu thương một cô gái trong buôn làng. Mối tình không có gì trắc trở, những lá thư thắm thiết yêu đương qua đường bưu điện là sợi dây cột chặt họ với nhau . Những lần viếng thăm , chăm nuôi của cô gái vẫn dành cho Thông đều đặn cho đến hết khoá học. Ra trường Thông được chuyển lên sư đoàn 22 bộ binh ở Kontum, cũng là lúc tình yêu mờ nhạt, Thông hoàn toàn không biết lý do . Rồi mối tình thực sự chấm hết khi người yêu im lặng bỏ buôn làng đi lấy chồng. Mang cái cảm giác xót đau bị tình phụ, Thông muốn để lại một dấu tích trên thân thể như nhắc nhở mình đừng quên nỗi đau vì phản bội.

            Có lẽ Tài năng đàn hát của Thông mới là cái độc đáo đã ghi sâu vào ký ức bạn bè sâu đậm nhất. Tôi nhớ, hôm đó là đêm giao thừa duy nhất và đáng nhớ nhất trong thời gian quân ngũ ngắn ngủi của tôi. Lệnh cắm trại 100% , chúng tôi không phải đi học bãi nhưng vẫn phải chia nhau ra làm tạp dịch và canh gác doanh trại. Ban đêm, tiểu đội của tôi được phân chia canh gác cho một đoạn tuyến của quân trường . Không biết có phải vì bản chất yêu văn nghệ hay có chủ đích mừng xuân, Thông mang theo cây đàn guitar và xấp nhạc ra tuyến. Thế là chúng tôi đã có một đêm giao thừa đơn sơ nhưng  đáng nhớ đầy thi tứ lãng mạn. Với khoảng 4, 5 người chúng tôi quây quần nhau trong ụ gác. Thông vẫn là người chủ quản, đem niềm vui và cả nỗi nhớ của ngày tết cho mọi người, Thông say sưa hát từ bài này đến bài khác. Hình ảnh khuôn mặt xạm đen pha chút khắc khổ của người thanh niên sơn cước trong bộ đồ xanh tác chiến. Ôm chiếc guitar, ánh mắt nhìn bông lung ra khoảng trống bên ngoài, tối đen của ụ chiến đấu,Thông như chìm mình vào chính tiếng hát của mình . Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn cái đẹp vững trãi, đầy nét phong trần hoà trộn trong vẻ nghệ sĩ của Thông một cách say sưa.

            Thông hát rất nhiều , có những bài hát đã làm chúng tôi cảm động  chỉ biết im lặng ngồi nghe.  Như bài  “Phiên gác đêm xuân “ : Khơi dậy nỗi cô đơn, nhớ nhà của người lính chiến nơi chiến trường trong  đêm giao thừa. Tiếng súng xa xa vọng lại như tiếng pháo mừng xuân :

            Đón giao thừa một phiên gác đêm ,chào xuân đến súng xa vang rền. Xác hoa tàn rơi trên báng súng, ngỡ rằng pháo tung bay , ngờ đâu hoa lá rơi.
..........................
            Chốn biên thuỳ này xuân tới chi ? Tình lính chiến khác chi bao người. Nếu xuân về tang thương khắp lối, thương này khó cho vơi thì đừng đến xuân ơi !

            Rồi hình ảnh, người lính cô đơn đứng ngẩn ngơ dưới trời mưa, buổi chiều nơi biên giới, không biết đi về đâu. Cái lạnh lùng, ngơ ngác khi nhớ đến người thương mà buông tiếng thở dài, chán ngán với mộng khanh tướng, công hầu trong bài “ Chiều mưa biên giới “:

            Chiều mưa biên giới anh đi về đâu ? Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu? Kìa rừng chiều âm u rét mướt, chờ người về vui trong giá buốt, người về bơ vơ !
.............................
            Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay ? Lưng trời nhớ sắc mây pha hồng. Đường rừng chiều cô đơn chiếc bóng , người tìm về trong hơi áo ấm, gợi niềm xa xăm......
            Lòng người còn tơ vương khanh tướng , thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều anh ơi !
           
            Sau ngày mãn khóa Thông  trở lại đơn vị cũ, sư đoàn 22 bộ binh, tôi không còn liên lạc hay biết tin tức gì về Thông nữa cho đến cuối năm 1973. Trong lần về Sàigon lo hồ sơ đi Nhật, bất chợt tôi gặp một người bạn cũng trong đại đội 16 với tôi và Thông.  Anh ta và Thông được chuyển lên SĐ 22 , cùng đóng ở một đồn sát biên giới Lào Việt. Trong một đêm vào khoảng giữ tháng 3 .1973 đồn bị tấn công và Thông  tử trận. Di vật của Thông để lại trong chiếc ba lô là một xấp thư cũ của cô bạn gái viết cho Thông nhiều năm trước, vài tập nhạc, chiếc đàn guitar và một cuốn thơ Nguyên Sa mà tôi viết tặng khi còn học tại Thủ Đức.

Món quà không bao giờ được nhận, người bạn không dấu tích.

(Tân Đinh trước 1975)

            Trần văn Chiến một thành viên rất trầm lặng  và kín đáo trong tiểu đội,  có lẽ chúng tôi chưa bao giờ thấy anh cười vang hay to tiếng trong tất cả sinh hoạt . Một dạng người chỉ biết im lặng mỉm cười đứng ngoài nhìn người khác ồn ào, kích động hơn là nhập cuộc. Điều mà tôi ngạc nhiên nhất là không biết lý do nào đưa đẩy anh bước vào binh chủng Nhẩy dù,  một binh chủng  không thích hợp cho dạng nguời nhu mì, nhỏ nhẹ như anh. Chiến thua tôi 2 tuổi nhưng đã có gia đình và 2 con nhỏ.  Ba của Chiến và 2 cô em gái và cả vợ của Chiến đều học hành đến nơi đến chốn và làm nghề giáo trong Sàigon. Chiến học hành lết bết , chỉ xong bằng trung học và bị động viên và xung phong vào sư đoàn Dù .

            Trong những lần về Saigon ứng chiến, tôi có đến nhà Chiến vài lần ở khu Tân Định. Ngay khi bước vào căn nhà , tiếp xúc với đại gia đình của Chiến, tôi không thể tin được sự khác biệt hướng đi của Chiến với tất cả mọi người trong gia đình. Trong một lần ngồi với nhau bên ly cafe, Chiến tâm sự :

            -Cái sai lầm của bố mẹ tôi là đã định hướng cho tôi quá kỹ lưỡng, ngay từ khi tôi còn là một đứa bé tiểu học. Dù bố tôi là một nhà giáo nhưng ông quên một điều, tôi là đứa con có cá tính, khác hoàn toàn với các cô em gái của tôi. Tôi không muốn bị ai xếp đặt dù người đó là ông bố mà tôi kính sợ. Cuối cùng tôi đã theo bạn bè để rời xa cha mẹ tìm những cái kích động cho riêng tôi.

            Mãn khóa sĩ quan, Chiến cũng như các người khác, anh trở về binh chủng nhẩy dù nơi mà anh đã phục vụ trước kia. Thỉnh thoảng anh và một vài người bạn cùng đơn vị tạt vào Cần Thơ thăm tôi. Chúng tôi lại có dịp  ngồi quanh bàn nhậu hay quán cà phê  trên bến Ninh Kiều để nghe chuyện chiến trường . Môt lần vào khoảng cuối năm 1973, sau mấy ngày cuối tuần rong chơi ở Sàigòn, tôi trở lại Cần Thơ , cô thư ký cho biết có 2 người nhẩy dù đến thăm tôi nhưng không gặp. Tôi chỉ nghe thoáng qua, vì chuyện bạn bè đến kiếm tôi gần như rất thường xẩy ra, họ đến không gặp rồi họ đi. Nhưng sau đó vài tuần tôi lại có dịp lên Saigòn, ngẫu nhiên tôi gặp Chiến trên phố. Kéo nhau vào cà phê , lúc đó tôi mới biết người đến Cần thơ tìm  tôi là Chiến và người lính phục dịch ( anh gọi là thằng Robert !) . Tôi còn nhớ nụ cười mỉm kèm theo câu nói có chút dí dỏm của anh :
           
            -Đúng là xui xẻo ! Hôm đó mình rỗng túi, bụng đói meo, lết bết đến tìm cậu mong  “ăn chực  “  và xin tiền cậu mua vé xe đò về Saigon, nhưng không gặp !

            Ngỡ ngàng, có chút ân hận, tôi nói vài lời xin lỗi và hỏi Chiến sau đó với cái túi rỗng thì làm sao no bụng mà về Saigon được.  Vẫn nụ cười mỉm đùa dỡn, trên khuôn mặt khá điển trai , bình thản anh trả lời, không có tí gì cay đắng:
           
            -Thì lại nhờ thắng Robert chây mặt ra xin xỏ tụi lơ xe đi ké về Saigon chứ sao ?!Còn cái đói thì có chết đâu mà lo !

            Nghe bạn nói, như một chuyện đùa dỡn đã qua, nhưng tôi vẫn có cảm giác chỉ vì mình mà bạn phải làm cái trò không vui đó.  Đưa tay vỗ nhẹ vai Chiến tôi nói rất chậm :
           
            -Xin lỗi cậu , lần này về lại Cần thơ tôi sẽ đưa cho cô thư ký vài trăm , bất cứ lúc nào cậu đến thăm mà không có tôi. Khỏi cần cậu nói gì, cô ta sẽ tự động đưa cho cậu. Ít nhất món tiền đó đũ chi cho bữa cơm bình dân và tiền vé xe về SG ... !

            Chiến cười ( vẫn kiểu cười mỉm, têu tếu cố hữu ), hứa chắc chắn sẽ đến để nhận món quà đó ! Nhưng cho đến đầu năm 1974 tôi chuẩn bị xa VN . Món quà vẫn y nguyên, Chiến không đến nhận như đã hẹn. Rồi bận rộn với giấy tờ tu nghiệp, tôi chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến món quà đó nữa! Mãi sau này , năm 1988 trong lần về VN rong chơi, chợt nhớ đến Chiến, với khá nhiều công sức  dò hỏi tôi tìm được căn nhà của gia đình Chiến ở Đa Kao. Căn nhà gạch 3 tầng khang trang vẫn còn đó, nhưng chủ nhân hoàn toàn xa lạ.  Qua vài người hàng xóm họ cho biết đầu năm 1975 Chiến bị mất tích trên chiến trường miền trung. Vợ con và bố mẹ Chiến đã vượt biên, hiện đang định cư tại Mỹ. Rồi cũng lần về VN đó, tôi tạt xuống Cần thơ gặp lại một số người quen , trong đó có cô thư ký. Cô ta cho tôi biết món quà vẫn không có ai nhận ! Tôi cười, có chút buồn bã trả lời cô ta :

            -Nó là món quà đó sẽ không bao giờ có người nhận !

Một đám cưới với một tuần trăng mật không chân dung :

            Với nhiều năm làm việc và sinh sống ở Cần thơ, tôi đi gần như hầu hết các tỉnh thành và thị xã của đồng bằng sông Cửu Long, nhưng có lẽ  Mỹ Tho là một trong vài thành phố tôi yêu thích nhất. Một thành phố cất giữ khá nhiều dấu tích và kỷ niệm của tôi trong những năm còn sống ở VN. Ngày đó, mỗi khi có dịp từ Cần Thơ về SG rong chơi hay công việc, tôi thường dành thời gian tạt vào Mỹ tho, nhiều khi chỉ để ăn một bữa cơm trưa hay tô hủ tíu trong nhà hàng nổi hay đi dạo dọc công viên Lạc Hồng gần trung tâm thành phố. 

            Mỹ Tho càng gần gũi, yêu kiều với tôi hơn khi tôi quen biết Thanh, một người bạn cùng tiểu đội và cũng là dân chính hiệu của thành phố Mỹ Tho. Thanh kém tôi 2,3 tuổi, trước khi theo học Thủ Đức khoá 1/72 Thanh là một trung sĩ nhất Địa Phương Quân thuộc tiểu khu Sa Đéc, vì vậy sau khi ra trường anh cũng như mọi người khác phải trở lại đơn vị cũ. Dù Sa Đéc gần với Cần thơ hơn Mỹ Tho nhưng tôi chưa một lần nào đuợc tiếp đón anh tại Cần Thơ. Nguợc lại tôi đã nhiều lần đến Mỹ Tho gặp anh và thăm gia đình, ba mẹ của anh. Tình thân của tôi và gia đình anh khá tốt, nhờ họ mà tôi biết khá nhiều về các di tích văn hoá lịch sử của tỉnh Tiền Giang, tôi thường cho họ hạt giống và cá giống do tôi có được từ Cần Thơ.  Cũng chính vì vậy đám cưới của Thanh ( hình như vào khoảng tháng 10 năm 1973 ?) tôi đã đến tham dự .

            Một đám cưới khá huy hoàng, ăn uống, hát hò kéo dài suốt hai ngày liền, bạn bè cũng như cấp trên cấp dưới trong tiểu khu Sa Đéc đều đến tham dự. Có lẽ vì lý do quân vụ nên anh chỉ được phép nghỉ khoảng một tuần lễ để lo việc lễ hỏi và lễ cưới. Tôi còn nhớ vị Đại uý cấp trên của anh đã hứa trước khách mời và gia đình hai họ là sau đám cưới, anh chỉ phải trở về tiểu khu khoảng một tuần lễ, rồi anh sẽ  lại có phép trở lại Mỹ Tho làm một cuộc tuần trăng mật với vợ  .

            Khoảng hơn một tuần lễ sau đám cưới , trên đường về Saigòn, tôi lại ghé vào Mỹ Tho định mang cho bố mẹ Thanh một số hạt giống hoa và rau cải như đã hứa với họ hôm đám cưới . Từ xa tôi nhìn thấy những dải phướn đám ma treo dọc theo hàng hiên căn nhà khá uy nghi của gia đình Thanh. Cảm giác ngỡ ngàng đã làm đôi chân tôi chậm lại, tôi nghĩ ngay đến dáng dấp già nua của ba mẹ Thanh vì một căn bệnh nào đó mà ra đi. Trong đầu tôi hiện ra những câu chia buồn cho đúng phép. Nhưng khi vừa bước qua ngưỡng cổng căn nhà , nhìn vào căn phòng khách, tôi như muốn quỵ xuống vì không thể tin nổi. Tấm hình chụp Thanh trong bộ quân phục xanh với cặp lon chuẩn uý trên cổ áo vẫn còn sáng chói,  được để trên bàn thờ khói hương nghi ngút !

            Ba mẹ Thanh cho biết, anh trở lại Sa Đéc chỉ được vài ngày, đã lo xong việc mướn nhà gần chỗ đóng quân. Dự định vài ngày sau sẽ về Mỹ Tho để dẫn vợ đi hưởng tuần trăng mật như tính toán rồi sẽ dẫn vợ mới cưới về thẳng căn nhà mới thuê ở Sa Đéc. Nhưng trước một ngày về phép, nơi đóng quân của anh bị pháo kích, không may anh đã tử trận.

            Một đám cưới đông vui bè bạn, họ hàng thân nhân. Những ly rượu nồng ấm kèm theo những món quà cưới, lời chúc tụng tốt đẹp cho lứa đôi hoà cùng những  câu vọng cổ, những bản nhạc mừng vui trong ngày cưới. Tất cả đã trở thành vô nghĩa trớ trêu trong khoảng thời gian quá ngắn ngủi, chưa trọn một tuần lễ sau đám cưới . Lời ước hẹn tuần trăng mật để có vài tấm ảnh kỷ niệm ghi dấu niềm vui quan trọng và đẹp đẽ nhất của một đời người, Cuối cùng cũng chỉ là hư ão, một tuần trăng mật không chân dung!

            Từ đó tôi không bao giờ liên hệ với gia đình của Thanh nữa. Tôi chẳng còn lý do nào để đến thăm gia đình, bố mẹ Thanh hay mang cho họ những hạt giống hoa, cây cỏ... như lời hứa hẹn nữa. Tôi không muốn việc thăm viếng của mình đào sâu nổi đau khổ của gia đình Thanh.  Hãy để cho những u buồn trở về với lặng im , quên lãng !

Có những bất hạnh mà chết đi lại là một giải thoát:
           
            Có lẽ Hùng là người bạn có số phận bi đát nhất trong khoá SQ Thủ Đức 1/72 mà tôi được biết . Hùng kém tôi 3 tuổi , sinh viên năm thứ 2 Đại học Luật Sàigòn, vì không qua được kỳ thi cuối năm nên anh bị gọi nhập ngũ.  Hùng cũng có  sở thích thơ văn nên chúng tôi khá hoà hợp khi tâm sự về những vấn đề liên quan đến báo chí , văn chương. Gia đình ba mẹ Hùng thuộc loại khá giả ở khu Bàn Cờ, mỗi khi tình hình chiến sự bất an, chúng tôi không được về phép vì cắm trại 100% . Hùng luôn luôn được  cô bạn gái, bà mẹ và các cô em gái chăm nuôi rất chu đáo. Nhờ vậy đứa con “ bà sơ “ như tôi lại được dịp   “ăn ké “!

            Ra trường Hùng được chuyển lên sư đoàn 18 Bộ binh ở Long Khánh , từ đó chúng tôi không còn dịp nào gặp nhau nữa . Thỉnh thoảng  khi có việc về Sàigòn tôi cũng tạt vào hỏi thăm Hùng qua bố mẹ và các cô em gái. Họ cho tôi biết Hùng có vài lần tạt về thăm gia đình và dẫn bạn gái “ bát Bonard“ nhưng rất vộị vàng rồi đi ngay !

            Khoảng một tháng trước ngày đi Nhật, hồ sơ đi tu nghiệp của tôi có chút khó khăn về tờ giấy an ninh quân đội.  Đang lúc túng quẩn không biết nhờ vả ai, tôi chợt nhớ có lần Hùng cho tôi biết ba của Hùng là đại uý trong nghành An ninh quân đội . Chẳng còn cách nào hơn, tôi đánh bạo đến nhà Hùng coi như một cuộc tìm may! 

            Nhưng ngay khi bước vào nhà Hùng. Chưa kịp chào hỏi gì, mẹ của Hùng đã khóc và nói với tôi Hùng bị mìn rất nặng, đang nằm ở quân y viện Cộng Hoà đã gần một tháng rồi. Ngay hôm đó tôi và gia đình Hùng lên thăm Hùng. Lúc nhìn thấy bệnh tình cũng như những kích động về tâm lý của Hùng tôi không thể nói được một lời mà chỉ biết nhìn người bạn mà ứa nước mắt. Trong  một cuộc hành quân, đơn vị của Hùng vướng phải mìn giết chết 4 người và bị thương nhiều người khác. Hùng bị đứt hết hai chân đến háng, bộ phân sinh dục cũng bị phá nát! Khi được chở đến quân y viện Cộng Hoà, không biết lý do tâm lý ra sao mà Hùng nhất định đòi gia đình bắt cô bạn gái túc trực săn sóc Hùng và còn bắt gia đình lo chuyện cưới hỏi . Khi tôi đến thăm, Hùng tỏ vẽ nóng giận, nói những lời rất khó nghe và xua đuổi tôi về. Chẳng biết làm sao hơn, bà mẹ và các cô em gái nhẹ nhàng xin lỗi để tôi ra về mang theo dòng nước mắt và cảm giác kinh hoàng còn đọng trong trí nhớ .

            Với tình trạng bi thương như vậy, tôi chẳng còn can đãm đến thăm Hùng hay nhờ vả ba của Hùng như dự tính nữa. Nhất là thời gian đó tôi muốn khùng lên, vì phải lo biết bao giấy tờ cần thiết trong khoảng một tháng trời còn lại cho một cuộc ra đi. Sang Nhật được vài tháng , từ một người bạn cho tôi biết sau khi xuất viện, Hùng trở về nhà. Anh như người bất bình thường, chửi bới tất cả mọi người vì mặc cảm tàn phế, nhất là đau khổ vì cô bạn gái không bao giờ đến thăm anh nữa. Rồi một hôm, không có ai ở nhà , Hùng đã treo cổ tự vận !

            Tôi đã lịm người khi biết được tin buồn đó, viết liền 2 lá thư về chia buồn với gia đình Hùng nhưng không bao giờ nhận được hồi âm ! Tôi hoàn toàn cảm thông cho im lặng đó. Với  nỗi đau mất mát quá to lớn như vậy, chẳng ai rảnh để nghĩ đến chữ lịch sự mà hồi âm cho tôi nữa. Đôi khi tôi tự đặt vào hoàn cảnh bi đát của Hùng, có lẽ nếu đũ can đảm tôi cũng sẽ tìm một giải thoát giống như Hùng mà thôi. Giải thoát cho chính mình và cho cả những người thân thương của mình là điều thực tế nhất. Kéo dài sự sống trong bất hạnh khổ đau chỉ là sự đầy đoạ chính mình, mẹ cha, người thân của mình  mà thôi.


Những đoản khúc mới tiếp theo:

(Thụy Sĩ)

            Cuối tháng 3 năm 1974 hồ sơ tu nghiệp của tôi đã hoàn tất . Cầm chiếc vé máy bay trong tay, nói vài lời từ giã bố mẹ và mấy đứa em, tôi im lặng xách cái túi nhỏ bước qua khu kiểm soát của phi trường để lên máy bay .Ngồi trên máy bay nhìn xuống phía dưới xuyên qua những đám mây trắng lửng lờ bay bên ngoài . Từ độ cao khoảng 8000 mét tôi thấy quê hương mình yên bình qúa, những làn sóng biển lăn tăn tiếp nối nhau di chuyển vào bờ biển miến trung, chẳng có dấu hiệu gì của Việt Nam đang bao trùm bom đạn, chết chóc cả. Nhưng tôi vẫn cảm nhận được rất rõ,  hình ảnh thanh bình đó chỉ là ảo giác mà khoảng cách không gian, với 8000 mét trên cao đã tạo ra trong thị giác của tôi mà thôi . Thật sự  thì Việt nam vẫn đang ngập trùm trong chiến tranh đã đến đỉnh điểm của chết chóc. Chính vì nhận chân được sự thật như vậy nên tôi vẫn chưa có cảm giác là mình đang trên đường rời xa đất nước.

            Nhưng một lúc sau, khi nghe cô tiếp viên của Việtnam Airlines cho biết máy bay chuẩn bị đi vào không gian quốc tế,  chúng ta đang bay trên quần đão Hoàng Sa nơi mà Trung Cộng đã dùng vũ lực chiếm đóng! Lúc đó tôi mới thực sự có cảm giác là mình đang trên lộ trình rời xa đất nước. Ít ra , tôi cũng xa  VN  đang sôi sục đạn bom được 3 năm, khoảng thời gian không dài nhưng cũng chẳng thể gọi là ngắn với một nơi mà người thanh niên vẫn phải dùng đơn vị từng ngày để đo đếm cuộc sống của họ. Tôi chợt nói nhỏ một câu chào giã biệt Việt Nam ( Good bye Vietnam ) ! Và cũng chính lúc đó tôi chợt nghe thấy bản trường ca của đời tôi vừa chuyển sang một đoản khúc mới. Dù tôi không còn nghe thấy tiếng trống, tếng phèng la( cymbal), tiếng kèn trompete chối tai trong tấu khúc thúc quân ngoài trận địa nữa. Nhưng tôi vẫn nghe đựợc những tiếng réo rắt của vài loại kèn, loại sáo mô tả một dạng cực nhọc mới trong đời tôi. Chuyện đèn sách, thi cử lại trở về với tôi kèm thêm việc phải dành dụm tiêu pha để cưu mang cho cha mẹ, lũ em đang réo gọi từ quê nhà.

( Japan)

            Nhưng tất cả đã ra ngoài tính toán, gần 6 năm sau ngày rời bỏ quê hương tu học tại Nhật, thời thế đã đổi khác và tôi thực sự đã phải nói câu chào từ biệt Việt Nam và Nhật bản  ( Good bye Vietnam & Japan ) để sang Thuỵ sĩ. Bản trường ca của đời tôi lại chuyển sang một đoản khúc mới . Đoản khúc của yên bình và nhàn nhã. Âm vang của những nốt nhạc cao chót vót, thấp tận cùng xen kẽ nhau mô tả sự đổi thay dồn dập trong đoản khúc vừa qua trong đời tôi không còn nữa. Nó đã được thay bằng những âm vang trầm êm của cây Đại vĩ cầm hoà hợp với tiếng sáo du dương êm nhẹ diễn tả sự bình thản vui ca trong không gian trong sạch hiền hoà của Thuỵ Sĩ . Trong đoản khúc yên bình đó hình như tôi chợt nghe được tiếng dương cầm phù họa của vợ tôi cùng với vài tiếng vui cười của lũ con tôi trong một ngày Thuỵ sĩ tuyết rơi tuyệt đẹp.

Hết

            Lưu An

( Tháng 8 năm 2014)

Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014

Tranquillity - Nguyễn Đức Tri Tâm



Soạn Hòa Âm & Trình Bày: Nguyễn Đức Tri Tâm

Mẹ Là Những Nốt Nhạc Con


Mẹ ơi bao dấu tháng năm
Hằn trên gương mặt mà Xuân chẳng già
Nốt trầm rơi xuống vì cha
Nốt thăng ghi dấu con ta lớn rồi

Dòng nhạc trên trán mẹ phơi
Nắng sương tóc chải da mồi vì con
Mỗi ngày trôi một nốt Son
Đêm thầm thương trải héo hon nốt Đồ

Con yêu những nốt mẹ cho
Dâng đời con viết cả kho nốt tình
Mẹ ơi ơn nghĩa thành sinh
Con ôm cả mẹ của mình vào mơ
Tháng ngày mẹ vẫn là thơ
Cho con viết nhạc kéo tơ cho đời 


10-08-2014 
Phương Viên (Lê Phạm Trung Dung)

Đêm Trung Nguyên


Nước tro dừa lắng trong
Gội tóc, hong nắng chiều
Má cho Ba một thuở
Hương dầu dừa, hương cau.

Ngọn đèn đêm leo lét
Một đàn con vỡ vạc
Bà kể Lục Vân Tiên
Ông nghe đầu võng hát
Lụa mo cau vấn thuốc
Tàn khói lạc hương đồng…

Bây giờ sóng trên sông
Mưa trăng vàng nhấp nháy
Đêm Trung nguyên lặng thầm
Trôi theo dòng trôi mãi…
Mênh mông!…Mênh mông!…


Phong Tâm
(Mùa Vu Lan – 2014)

Thơ Tranh: Lá Bàng



Thơ: Hồ Việt Kim Chi
Thơ Tranh: Kim Quang

Bâng Quơ Nỗi Nhớ


Từ trong nỗi nhớ bâng quơ
Chợt nghe như có đâu đây điệu buồn
Mịt mùng trời đổ mưa tuông
Cố nhân ơi hởi! Đoạn trường dấu yêu.

Từ trong nỗi nhớ bâng quơ
Điệu buồn như chợt vật vờ đâu đây
Phố xưa áo trắng vai gầy…
Cố nhân ơi hởi! Mộng đầy tương tư.

Mặc Thái Thủy
Gilbert, June 19, 2011

Nguồn Gốc Bài Kèn Mặc Niệm Tử Sĩ

Đây là một câu chuyện chúng ta nên biết. Nhiều người chúng ta đều đã nghe bài Kèn Mặc Niệm Tử Sĩ làm ta tiếc thương những người chiến sĩ hy sinh cho tổ quốc. 

Nếu quý vị không biết nguồn gốc của bài kèn, thì quý vị sẽ rất cảm động khi đọc sau đây câu chuyện thật về lịch sử bài kèn đó.


Chuyện bắt đầu năm 1862 trong thời kỳ nội chiến Nam Bắc Mỹ (1861-1865)

Khi đội Bắc quân do đại uý Robert Ellicombe chỉ huy tới Harrison's Landing ở tiểu bang Virginia thì chạm địch, quân Nam đóng ở bên kia giải đất nhỏ hẹp ấy.

Đêm đó, đại uý Robert Ellicombe nghe thấy tiếng rên la của một binh sĩ bị thương nặng giữa trận tiền. 

Không biết là lính của quân mình hay của quân địch, đại uý Ellicombe không ngại nguy hiểm tới tính mạng bò ra chỗ người thương binh nằm để mang anh về cứu chữa. Dưới cơn mưa đạn của hai bên ông ta kéo được anh về phía quân mình đóng.

Khi bò về tới nơi, đại uý mới thấy rằng anh binh sĩ đó là quân địch, và anh lính đã chết.

Đại úy rọi đèn và trong ánh sáng lờ mờ đại uý nhìn mặt anh binh sĩ, nhận ra là con mình.

Con của đại úy Ellicombe đang là sinh viên học nhạc ở miền Nam thì chiến tranh Nam Bắc khởi sự, cậu sinh viên đăng vào lính quân Nam mà không cho cha biết.

Sáng hôm sau, lòng buồn rầu trái tim tan vỡ, ông trình thượng cấp biết và xin phép chôn con theo lễ nghi quân cách, mặc dầu con ông là địch quân. 

Ông cũng xin cho dàn quân nhạc cử hành tang lễ. 

Thượng cấp cho phép, nhưng hạn chế một phần. Thay vì toàn ban quân nhạc cử ai mặc niệm tiễn biệt tử sĩ thì thượng cấp chỉ cho một nhạc sĩ cử nhạc thôi.

Ông đại úy tuân lệnh trên và xin cấp trên cho một nhạc sĩ thổi kèn trận (clairon)

Đại úy nhờ anh nhạc sĩ thổi những đoạn nhạc ghi trên một mảnh giấy mà ông tìm thấy ở trong túi binh phục của con ông. 

Những đoạn nhạc đó kết thành bài Kèn Mặc Niệm Tử Sĩ mà chúng ta nghe thấy ngày nay mỗi khi có lễ Kỷ niệm binh sĩ trận vong ( như ngày 11 tháng 11 ở nước Pháp, 30 tháng 5 ở Mỹ).

Lê Quan Vinh - Sưu tầm


Thứ Hai, 18 tháng 8, 2014

Trong Tim Tôi


Vì Non Nước bước chân... xa xứ
Màu hoa Mua tím góc vườn quê
Níu ánh mắt si mê ngó lại
Nụ cười tươi gởi hẹn quay về.

Duyên số định ...đôi tim kết chặt
Thuở căm thù giặc ngoại dâng cao.
Vung cánh tay chàng đi đuổi giặc
Bên nhau cùng chia nỗi thương đau.

Nợ nước chàng đi, nàng ở lại
Trần ai nuôi trẻ lệ đôi hàng.
Cha...một, mẹ...hai ! Ôi vĩ đại!
Đôi hàng con viết đón Vu Lan.

Anh Tú
08.8.2014

Thơ Tranh: Trở Về Mái Nhà Xưa


Trích Thơ: Phạm Hồng Ân
Thơ Tranh: Kim Oanh

Mùa Đông Đơn Côi


Em ơi thôi đã xa một thời
Dĩ vãng xưa tuyệt vời
Còn đâu bóng em ngày qua

Cho em một tiếng yêu thật thà
Trong bóng đêm sân nhà
Nụ hôn xao xuyến lòng ta

Bao năm ta cách xa muôn trùng
Chân bước trong lạnh lùng
Muốn được thấy em một lần

Tìm vui nghe tiếng xưa ai cười
Ai nói ai những lời
Hai mảnh đời mình đơn côi!

Biện Công Danh
3/8/2014

Thơ Tranh: Nợ


Thơ & Thơ Tranh: Khúc Giang

Lời Chúc Diệu Kỳ

      Giới Thiệu Tác Giả:

      Tác giả Hồ Nguyễn tên thật là Nguyễn thị Khâm, cựu học sinh Đoàn Thị Điểm, cựu giáo viên môn Văn trường PTTH Nguyễn Việt Hồng và Châu Văn Liêm Cần Thơ đã nghỉ hưu.
     Phu quân chị là sư huynh Hồ Hữu Hậu, cựu học sinh Phan Thanh Giản, cùng lớp với GSHT Nguyễn Trung Quân…
      Bút hiệu Hồ Nguyễn là chị Khâm ghép 2 họ của 2 ông bà mà thành.
       Qua giới thiệu của một người bạn, chị Hồ Nguyễn gởi dến chúng tôi bài thơ: Lời Chúc Diệu Kỳ.
      Để được diện kiến, sáng Chủ Nhật 17/08/2014, chúng tôi hân hạnh mời được hai ông bà cùng 2 cựu học sinh Lương lệ Quỳnh và Nguyễn kim Quang ăn sáng tại Trạm dừng Chân chợ nổi Cái răng.
Nay kính giới thiệu nhà thơ nữ Hồ Nguyễn với quý Thầy Cô, Trang Nhà ptgdtdusa.com. và các bạn khắp nơi. 
Sức khỏe, thời gian, quan trọng nhất
Đã làm người, không mất niềm tin
Ta cần luyện tập dưỡng sinh
Tinh thần khỏe khoắn, thân hình dẻo dai.

Theo luân lý ngàn đời để lại
Khắp năm châu truyền tải luật điều
Người già cao tuổi phải yêu
Cần được chăm sóc với nhiều quyết tâm.

Càng lớn tuổi càng nhiều kinh nghiệm
Tích lũy qua từng điểm thời gian
Cây cao bóng cả bạt ngàn
Chở che con cháu, chỉ đàng tiến thân.

Xin chúc mừng tuổi già sống thọ
Hứa quyết tâm gắn bó tình thâm
Chúng ta sống được trăm năm
Cùng với con cháu mỗi năm vui hoài.

Chúc quý bạn luôn luôn vui sống
Đời đẹp tươi như mộng nở hoa
Để cùng thoải mái tuổi già
Bên đàn con cháu một nhà đoàn viên.

Chúc quý bạn cả đời sống khỏe
Tuổi tuy già nhưng trẻ tấm lòng
Nhìn đời toàn cảnh màu hồng
Xuân luôn ngự trị, mùa đông không còn.

Chúc quý bạn luôn sống có ích
Như đại thụ chỉ tích đức nhân
Mọi người xa cũng như gần
Một lòng yêu mến, tình thân không rời

Hôm nay có bấy nhiêu lời
Chúc mừng quý bạn trọn đời thăng hoa./.

An Bình, 10/8 2014
Hồ Nguyễn


 Anh chị Chs Hồ hữu Hậu và Nguyễn thị Khâm

Từ trái : Ông bà Hậu & Khâm và cô gái Út Viên An, Hai cựu hs Lệ Quỳnh và Kim Quang.

Dương Hồng Thủy

Một Thời Áo Trắng - Nguyễn Văn Hiên - Thiên Kim

Bất chợt thấy một tà áo dài trắng thóang qua,chợt nhớ lại tuổi học trò của mình,với những ánh mắt e lệ dịu dàng che trong vành nón lá,nụ cười mĩm như thôi thúc,của mối tình trong trắng nên thơ vung dại,lại nhớ những lúc nắn nót bài thơ chép bằng mực tím thưở nào,nhớ hết nhớ hết không quên được. Ôi Thuở học trò đẹp biết bao!


Sáng Tác: Nguyễn Văn Hiên
Tiếng Hát: Thiên Kim
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014

Đêm Tháng Bảy


Trong xã hội nhiều bôn chen tất bật
Trong dòng đời nghiệt ngã hám lợi danh
Trong tim con Má dường như biến mất
Trong cõi lòng phai hình bóng của Ba
Vu Lan đến thấy bồi hồi trong dạ
Thầm trách sao con cứ phải đua tranh
Chẳng nhớ đến đấng sanh thành khuất bóng.

Đêm Tháng Bảy khiến lòng con thấm lạnh
Lạnh tâm hồn lạnh bởi vắng tình thương
Thiếu lời khuyên răn dạy của Song Đường
Mà mãi mãi con chẳng còn nghe thấy
Nay lại ước tất cả bao điều ấy
Má Ba ơi giờ biết nói gì đây
Khi nghĩ lại con càng thêm xấu hổ.

Để đêm nay ngồi đối diện với lòng
Nghe thương nhớ trào dâng trong huyết quản.

Quên Đi

Thơ Tranh: Vu Lan Nhớ Mẹ


Trích Thơ: Ngô Quang Diệp
Thơ Tranh: Kim Oanh

Ngày xưa con bé ngây thơ
Trong vòng tay mẹ ầu …ơ dỗ dành
Đêm trường mẹ thức thâu canh
Năm canh thức đủ bên vành nôi con
Tháng ngày trông mõi trông mòn
Con ơi khôn lớn chóng ngoan mẹ nhờ

Bây giờ ôn lại tuổi thơ
Trời ơi! thương nhớ mẹ giờ còn đâu
Qua bao mưa nắng dãi dầu
Tấm thân còm cõi một đời gian nan
Những hôm chạy chợ xa làng
Vượt cồn cát nóng nên làm bỏng chân
Trên vai một gánh “nợ nần”
Tảo tần mưa nắng vì con cực lòng
Thân cò mẹ mãi long đong
Hai sương một nắng nuôi đàn con thơ
Tuổi xuân mẹ ngắn tửng giờ
Con trông dáng mẹ bơ phờ xót xa

Lớn khôn mẹ đã đi xa
Nghìn thu vĩnh biệt con mà tìm đâu
Ngày xưa dưới ngọn đèn dầu
Mẹ ngồi vá áo còn đâu bây giờ
Mẹ đi bỏ lại con thơ
Trăm thương ngàn nhớ bơ vơ lạc loài
Tuổi thơ con vẫn nhớ hoài
Bờ tre giếng nước con đê đầu làng

Chiều thu chút nắng dịu dàng
Trong tay mẹ dắt con mang cánh diều
Mùa đông giá rét đìu hiu
Mẹ ôm ấp kín những chiều heo may

Lớn khôn con nhớ từng ngày
Từ khi mất mẹ lòng buồn mênh mông
Chiều về bến nước ngoài sông
Con đò cập bến mẹ không thấy về

Đời con từ ấy lê thê
U buồn nhớ mẹ chiều về ly tan
Ngày rằm tháng bảy VU LAN
Một nén nhang lòng dâng mẹ kính yêu.

Ngô Quang Diệp

Tháng Tám


Mặn mà tháng tám thu sang
Trăng vàng chín trái bưởi vàng cho nhau
Mênh mang gió thoảng bên cầu
Nước trôi hờ hững bạc màu thời gian

Nắng chưa kịp xóa sương tan
Đã mưa hiu hắt dọc ngang lối về
Người xa ngày cứ dài ghê!
Ai hay đắng chát cà phê một mình?

Ngoảnh đời tuổi hạc chênh vênh
Vàng thu lá rụng chạnh lòng hợp tan
Ai đi vớt mảnh trăng tàn
Thương câu hát cũ chứa chan nghĩa đời

Tuổi thơ xưa của tôi ơi!
Chưa trung thu đã sáng trời đèn hoa

( Phố núi, tháng 8/2014)
Hương Ngọc

Nguyễn Thượng Hiền - Hỏi Hoa

      Một giai thoại xướng họa thơ văn trứ danh trong chốn thiền môn xứ Huế vào đầu thế kỷ 20. Đó là cuộc xướng họa vào năm 1907, giữa một người dáng dấp thanh bai, tiên phong đạo côt, mang nỗi lòng nước non trăm mối, Nguyễn Thượng Hiền và Thiền sư thi sĩ Viên Thành tại chùa chùa Ba La Mật - Huế...
      Tuy đỗ đạt cao khoa nhưng Nguyễn Thượng Hiền không muốn ra làm quan, mà xin về ở vùng núi Nưa, Thanh Hóa mười năm “để ở nhà đọc sách”. Nhưng không bao lâu, lại bị triều đình gọi ra, trao chức Toản tu Quốc sử quán, thăng Đốc học tỉnh Ninh Bình, rồi Nam Định. Trong thời gian này, Nguyễn Thượng Hiền đã bắt đầu tìm đọc nhiều “tân thư” và đi nhiều nơi để tìm người cùng chí hướng, liên lạc với nhiều nhà yêu nước như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, viết nhièu thơ văn kêu gọi lòng yêu nước và đả kích bọn tay sai cho thực dân Pháp.


      Nguyễn Thượng Hiền (1868 – 1925) hiệu là Mai sơn và Đỉnh Nam, người làng Liên Bạt, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, bố là ông nghè Nguyễn Thượng Phiên, lại vốn có tư chất thông minh học giỏi, mới 17 tuổi, Nguyễn Thượng Hiền đã đỗ Cử Nhân. Năm sau (1885) thi Hội, ông đỗ Đình nguyên, nhưng chưa kịp truyền lô thì Kinh đô thất thủ, kết quả khoa thi ấy bị xoá bỏ. Năm 1889, vì có tang mẹ, ông không ứng thí. Năm 1892 (25 tuổi), Nguyễn Thượng Hiền trở lại thi Hội, trúng nhị giáp Tiến sĩ, còn gọi là Hoàng Giáp. Cũng năm này, ông kết hôn với người bạn tri âm từng ước hẹn là Tôn nữ Thị Ẩn – con gái danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết.
      Năm 1907, sau khi bố chết, ông từ quan, xuất dương sang Nhật, hưởng ứng lời kêu gọi “Đông du” của Phan Bội Châu. Chính trước lần đi xa này, trong những tháng ngày còn lại ở Huế, ông tranh thủ lên thăm lại Ba La Mật và đã lưu lại giai thoại văn học nổi tiếng ấy.
     Gặp Phan Bội Châu ở Quảng Đông, ông cùng Phan sang Nhật Bản gặp Cường Để, rồi lại về Trung Quốc. Hoạt động trong Duy Tân hội, ông đã cùng Phan Bội Châu góp phần quan trọng trong việc tổ chức và lãnh đạo phong trào này những năm 1908 – 1909.

      Năm 1912, Nguyễn Thượng Hiền tham gia Đại hội thành lập Việt Nam Quang Phục Hội cũng do Phan Bội Châu đề xướng. Năm 1914, khi Phan Bội Châu bị chính quyền quân phiệt bắt giam, Nguyễn Thượng Hiền được giao trọng trách của phong trào Việt Nam Quang Phục Hội. Một năm sau đó, ông được cử sang Thái lan liên hệ với 2 viên công sứ Đức và Áo, xin viện trợ tài chính để tổ chức lực lượng kháng Pháp. Nhưng việc đánh Pháp ở biên giới Trung - Việt mà ông đảm nhiệm lại bị thất bại và phong trào cách mạng ở hải ngoại trong thời gian này liên tiếp gặp nhiều bất lợi. Nguyễn Thượng Hiền phải bôn ba khắp nơi, khi đến Bắc Kinh, khi về Hàng Châu, Thượng Hải, Quảng Tây, Quảng Đông, … nhuệ khí bắt đầu giảm sút, cho đến khi được tin Đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc với thắng lợi của Pháp - kẻ thù của cách mạng Việt Nam - thì ông trở nên thất chí.
      Bảy năm cuối đời, ông đã vào chùa Thường Tịch Quang Lan Nhã trên núi Vân Sơn Cư, ở Hàng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc, xuất gia quy Phật. Ông sống và mất lại chùa này ngày 27 – 12 – 1925, hưởng thọ 58 tuổi.
      Một giai thoại thiền môn xứ Huế nổi tiếng:
     Tuy không có nhiều thành công quan trọng trong sự nghiệp chính trị nhưng Nguyễn Thượng Hiền đã để lại một sự nghiệp văn chương đáng kể: hơn sáu trăm bài thơ, văn bằng tiếng Việt và chữ Hán được sáng tác trong khoảng 30 năm từ 1878 đến 1918. Trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như Bài phú Cải lương, Chiêu quốc hồn văn và Nam thi tập. Trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Thượng Hiền nổi danh là thi sĩ tài hoa, hồn thơ thanh dật, lưu lợi, có giọng xuất trần. Trong Nam thi tập, đặc biệt còn lưu lại một thi phẩm bằng chữ Hán ghi lại tâm sự của mình mà Nguyễn Thượng Hiền sáng tác dành tặng riêng chủ nhân Ba La Mậ (Tổ khai sơn Chùa Ba La Mật, Huế) Viên Giác thượng nhân (Tổ Viên Giác), cũng vốn là một danh sĩ yêu nước, treo ấn từ quan về ẩn cư dưới cửa Thiền:

Tình cờ dạo chơi chùa cổ
Tóc xanh xoả tận trời xanh
Danh sĩ xưa nay đều thế
Giang sơn này để sao đành
Hỏi trời chừ khóc thảm thiết
Đất ngồi trải hát nghêu ngao 
Muốn rửa sạch lòng phiền não 
Chẳng nhiều giọt nước cành dương 
(Tặng Ba La Mật tự Viên Giác thượng nhân)

      Và đặc biệt là đã để lại một giai thoại xướng họa thơ văn trứ danh giữa hai người. Đó là vào năm 1907, một người dáng dấp thanh bai, tiên phong đạo cốt, mang nỗi lòng nước non trăm mối, lên thăm chùa Ba La Mật - Huế - và xướng hoạ:
Hỏi hoa xin mượn mùi hương
Hỏi trăng xin mượn gương vàng thử soi
Hỏi non xin mượn đá ngồi
Hỏi sông  mượn nước tắm chơi sạch mình

Ba La Mật thuở đó, có môn đệ của Viên Giác thượng nhân là Thiền Sư Thích Viên Thành đáp lại:

Hỏi trăng trăng chẳng đáp lời
Hỏi hoa  hoa chỉ mỉm cười làm ngơ
Hỏi sông sông lặng như tờ
Hỏi non non cứ trơ trơ một mình.

Cuộc xướng họa thơ văn giữa Mai sơn Nguyễn Thượng Hiền và Thiền Sư Viên Thành về sau trở thành một giai thoại văn chương rất nổi tiếng trong chốn thiền môn xứ Huế.

H.T
(Kim Oanh sưu tầm)
* * * 
Tôi xin phép hai cụ ăn theo mấy câu:

Hỏi sông sông chỉ lững lờ
Hỏi non ngạo nghễ trơ trơ một mình
Hỏi trăng nghiêng ngả đầu ghềnh
Hỏi hoa xin chút hương trinh hoa cười

Chân Diện Mục
* * *
Vọng Phu

Hỏi người người cứ hững hờ 
Hỏi mây sao lại lững lờ ngàn thu 
Hỏi thông sao mãi vi vu  
Hòi non non nói chinh phu chưa về!

Mailoc
***
Hỏi non non vững giữa trời
Hỏi nước nước mạnh dâng đời khát khao
Hỏi trăng trăng dịu nỗi đau
Hỏi hoa hoa sắt son màu nhân tâm

Kim Oanh

10 Câu Nói Bất Hủ Của Bill Gates



Trước khi về hưu, Bill Gates ông chủ của tập đoàn phần mềm lớn nhất thế giới Microsoft đã dành thời gian quý báu để đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Chúng tôi xin giới thiệu và mời các bạn tham khảo những lời khuyên bổ ích của người đàn ông giàu nhất thế giới này, vì có thể, một ngày nào đó, bạn cũng sẽ trở thành một Bill Gates thứ hai?
 
1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó!
(Sở dĩ như vậy, vì một mình bạn sẽ không thể nào làm thay đổi được sự bất công trong xã hội)
2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu, bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên!
(Lòng tự trọng quá cao sẽ tỷ lệ thuận với sự bất lợi trong công việc của bạn)
 
3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO, nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.
(Lúc này người ta sẽ đánh giá và quan tâm nhiều đến năng lực hơn là bằng cấp của bạn)
 
4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc, đừng có oán trách số phận! Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học, để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.
(Điều cần làm lúc này là trấn tĩnh và bắt tay làm lại từ đầu)
 
5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người "chán ngắt, vô vị" như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.
(Bạn phải có nghĩa vụ đền đáp công ơn với những người đã dành cả cuộc đời mình cho sự sống và trưởng thành của bạn)
 
6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì, bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.
(Luôn tự nhủ rằng, bạn sẽ luôn là người đứng đầu, như vậy bạn sẽ có động lực và tinh thần nhiều hơn cho sự nghiệp của bản thân)
 
7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào, kể cả ngày nghỉ.
(Nếu là một nhân viên luôn mong chờ ngày nghỉ lễ, thì bạn sẽ bị lạc hậu hơn so với những nhân viên khác. Sự lạc hậu này còn luôn đồng hành với sự đào thải và thất nghiệp)
 
8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên, thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp! Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty, thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa, lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.
(Nên nhận thức được rằng: Công ty sẽ luôn yêu cầu cao hơn rất nhiều so với trường học. Vì ở trường học, dù bạn có học được hay không thì chỉ ảnh hưởng đến cá nhân bạn. Còn ở công ty bạn có làm được việc hay không thì lại ảnh hưởng đến rất nhiều người)
 
9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều, vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Chính công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn.
(Bạn không nên xem phim nhiều, vì tư tưởng của bạn sẽ bị ảnh hưởng bởi những bộ phim truyền hình đó. Cuộc sống của bạn nên do bạn quyết định)
 
10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.
(Nếu bạn có thắc mắc gì trong công việc thì nên nói ý kiến của mình trước mặt mọi người. Còn nếu như bạn luôn giữ thái độ và hành động phản kháng sau lưng người khác, thì chỉ có bất lợi cho bạn mà thôi

 
9 Sự thật kinh ngạc về Bill Gates
 

Mỗi ngày Bill Gates kiếm được 20 triệu USD, nếu đổi tài sản của tỷ phú này thành tờ tiền 1 USD có thể làm con đường từ trái đất tới mặt trăng.
Đó là một vài ví dụ trong số 9 so sánh thú vị xung quanh tài sản khổng lồ của tỷ phú Bill Gates, người sáng lập hãng phần mềm Microsoft.
1. Bill Gates kiếm được 250 USD mỗi giây, khoảng 20 triệu USD mỗi ngày và 7,8 tỷ USD một năm.
 
2. Nếu ông ấy đánh rơi một USD, ông ấy sẽ không buồn nhặt lại vì như vậy sẽ mất 4 giây, tức khoảng 1.000 USD.
 
3. Nợ của nước Mỹ là 5,62 nghìn tỷ USD, nếu được giao trả món nợ này, Bill Gates sẽ trả xong trong chưa đầy 10 năm.
 
4. Bill Gates có thể làm từ thiện khoảng 15 USD cho mỗi người trên trái đất mà vẫn còn giữ lại cho riêng mình được 5 triệu USD.
5. Michael Jordan là vận động viên được trả lương cao nhất ở Mỹ. Nếu vận động viên này không ăn không uống, giữ lại toàn bộ thu nhập khoảng 30 triệu USD mỗi năm, thì phải đợi đến đến năm 227 tuổi mới giàu như Bill Gates hiện nay.
 
6. Nếu Bill Gates là một quốc gia, ông ấy sẽ là quốc gia giàu có thứ 37 trên trái đất.
 
7. Nếu bạn có thể đổi tất cả tiền của Bill Gates thành tờ 1 USD, bạn có thể làm con đường nối từ trái đất đến mặt trăng. Để làm con đường bằng các tờ tiền 1 USD này, bạn phải mất 1.400 năm và sử dụng 713 máy bay Boeing 747 để chở số tiền đó.
8. Năm nay, Bill Gates đã ở tuổi 54. Nếu giả dụ sống thêm 35 năm nữa, ông ta phải tiêu 6,78 triệu USD mỗi ngày mới hết số tiền ông ấy kiếm được hiện nay.
 
9. Nếu người dùng hệ điều hành Microsoft Windows có thể lấy được 1 USD với mỗi lần máy tính treo vì lỗi của hệ điều hành, Bill Gates sẽ phá sản chỉ trong 3 ngày.
10 việc làm có ích lợi nhất cho cộng đồng của Bill Gates
 

Từng là người giàu có nhất thế giới, nhà sáng lập Microsoft đã cùng vợ cho đi hàng tỷ USD, để góp phần cứu giúp hàng triệu người trên toàn thế giới.
Phải cảm ơn những công việc Bill Gates đang làm với quỹ từ thiện Bill và Melinda Gates, khi ông cho đi hàng tỷ USD của mình để chống lại sự lan tràn của dịch bệnh, và phát triển nguồn lương thực cho những người cần thiết nhất trên thế giới. Theo Business Insider, dưới đây là 10 dự án thiết thực nhất từ quỹ từ thiện của Bill Gates.
 
1/ Nghiên cứu chuối
 
 
Quỹ Gates đang tài trợ cho việc nghiên cứu để cho thêm chất sắt và Vitamin A vào chuối. Sau khi được biến đổi, giống chuối này sẽ được phân phối ở Uganda. Một nhà khoa học của trường Đại học Queensland, Australia đang thực hiện dự án trên, nói:
"Chuối cũng là một trong những thực phẩm cai sữa tốt nhất cho trẻ em. Chuối sẽ được đóng gói trong điều kiện vô trùng và không cần nấu chín”.
 
2/ Loại trừ bệnh bại liệt
 
 
Các ca bại liệt đã giảm xuống 99% và quỹ Gates muốn loại bỏ hoàn toàn căn bệnh này. Quỹ đã thực hiện một chương trình tiêm chủng tích cực và việc tiến hành đang được thúc đẩy cho một số khu vực còn lại trên thế giới.
 
3/ Làm giảm bệnh sốt rét
 
 
Quỹ Gates vừa giúp đỡ các ca nhiễm sốt rét ở Zambia bằng việc đầu tư vào một chương trình thử nghiệm. Theo đó, chương trình này giúp người dân nằm trong giường có màn trừ muỗi và giúp họ phun thuốc xịt muỗi trong nhà. Dự án này đã hoạt động tốt và hoàn thành ở các quốc gia khác. Ngoài ra, quỹ Gates cũng đầu tư vào việc tìm kiếm vắc-xin phòng bệnh sốt rét và các loại thuốc diệt muỗi mới.
 
4/ Biến phân thành năng lượng sinh học
 
 
Nhà khoa học Katarik Chandran nhận được 1,5 triệu USD tiền trợ cấp từ quỹ từ thiện của Bill Gates, để thực hiện dự án biến phân người thành năng lượng diesel sinh học. Nếu thành công, nó sẽ là cách tuyệt vời để biến chất thải cua người thành một thứ hữu dụng.
 
5/ Tăng 'sức khỏe' cho cây sắn
 
 
Quỹ Gates đã tài trợ cho một nhóm nghiên cứu nhằm làm giảm chất xyanua tự nhiên trong củ sắn. Ngược lại, nó làm tăng protein, sắt, kẽm, vitamin A và E để tạo sức đề kháng với những căn bệnh mới của cây sắn. Sắn là loại lương thực phổ biến với 800 triệu người trên toàn thế giới.
 
6/ Chi 42 triệu USD để sáng chế toilet
 
 
Bill Gates muốn giúp đỡ 40% người trên thế giới không có nhà vệ sinh cần thiết, bằng cách xây dựng những toilet độc lập mà không cần đường nước hoặc điện, để biến chất thải thành năng lượng, nước sạch hoặc các chất dinh dưỡng.
 
7/ Chi 2 tỷ USD để chống lại HIV
 
 
Quỹ Gates đã đóng góp một phần nhỏ làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV mới từ năm 2001 đến 2008. Quỹ này bỏ tiền vào vắc-xin, ngăn chặn sự bùng phát của căn bệnh thế kỷ ở Châu Phi và làm giảm chi phí điều trị của người bệnh.
 
8/ 1,5 tỷ USD cho phụ nữ và các vấn đề sức khỏe trẻ em
 
 
Ngày 7/6/2010, bà Melinda Gates tuyên bố Quỹ Bill & Melinda Gates sẽ tài trợ 1,5 tỷ USD trong vòng 5 năm tới, để hỗ trợ các dự án của nước ngoài liên quan tới chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ em. Khoản tiền này sẽ được đầu tư đến hết năm 2014 và phần lớn được hỗ trợ cho các chương trình nghiên cứu tại Ấn Độ, Ethiopia và một số nước có tỷ lệ phụ nữ và trẻ em tử vong cao.
 
9/ Nghiên cứu dùng muỗi tiêm vắc-xin
 
 
Năm 2008, quỹ từ thiện Bill và Melinda Gates thông báo tài trợ 100.000 USD cho các công trình nghiên cứu khoa học, nhằm phòng chống hoặc điều trị các bệnh lây nhiễm như HIV/AIDS và lao, tìm cách hạn chế sự kháng thuốc ngày càng tăng. Trong đó, có giải pháp của Hiroyuki Matsuoka ở Đại học Y khoa Jichi (Nhật Bản), biến muỗi thành loại “kim chich bay” để tiêm vắc-xin cho người.
 
10/ Kêu gọi các tỷ phú khác quyên tiền
 
 
Bill và Melinda Gates không chỉ muốn cho đi số tiền của mình, mà họ còn muốn các tỷ phúc khác làm điều tương tự. Càng nhiều tiền được đóng góp, cuộc chiến chống lại các căn bệnh trên toàn thế giới càng hiệu quả hơn. Nỗ lực này nhận được sự ủng hộ của tỷ phú, nhà đầu tư Warren Buffett. Đến nay, có ít nhất 40 gia đình và cá nhân giàu có nhất Hoa Kỳ, bao gồm ít nhất là 30 tỷ phú đã hứa hiến tặng ít nhất là một nửa số tài sản của họ cho việc từ thiện.
 
B.M
Thái Nguyễnsưu tầm