Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014

Mẹ Xưa - Thơ Khánh Hà - Phổ Nhạc Võ Tá Hân


Thơ: Khánh Hà
Phổ Nhạc & Thực Hiện Youtube: Võ Tá Hân
Ca sĩ Hạnh Nguyên

Vu Lan Ân Nghĩa Một Đời





Vu lan báo hiếu một mùa
Riêng tôi trả hiếu lũy thừa nhân lên
Trả một đời cũng chưa đền
Ơn cha nghĩa mẹ tạo nên thân này

Vu lan những cánh hồng bay
Vào trong tiềm thức người hay, kẻ hiền
Mặc dông bão, thời đảo điên
Đời hư tâm tịnh còn nguyên nghĩa tình

Vu lan đâu phải riêng mình
Mùa chung từ thuở binh minh loài người
Dầu khác nhau tiếng nói cười
Vẫn chung hai chữ ơn đời nghĩa nhân

Vu lan nở nụ từ tâm
Thành sen ngàn đóa trong đầm ngát hương
Dâng lên trời đất thập phương
Mượn hoa hiến Phật cúng dường trai tăng

Vu lan Mẹ như trăng rằm
Cha như minh nhật thăng trầm vẫn vui
Cho con tất cả ngọt bùi
Đắng cay cam chịu ngậm ngùi riêng mang.

Vu lan hai chữ nhẹ nhàng
Một đời ơn nặng tận ngàn thu sau.
Công Cha nghĩa Mẹ nhiệm mầu
Vu Lan báo hiếu khắc sâu đáy lòng.

Túy Hà

Thơ Tranh: Mùa Hiếu Hạnh


Thơ & Thơ Tranh; Yên Dạ Thảo

Đi Tìm Cội Nguồn Tục lệ "Bông Hồng Cài Áo"


Mỗi năm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.  
Ca Dao
Trong ngày lễ Vu Lan, đến chùa thắp nhang cúng Phật, nghe kể câu chuyện "Mục Liên Tìm Mẹ".
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một (đậu), như đường mía lau. 

Ca Dao
Chúng ta không khỏi bùi ngùi cảm động
Mẹ già như trái chín cây
Gió đưa mẹ rụng con rày mồ côi
 
Ca Dao

      Vu Lan mùa Báo Hiếu, tục lệ có từ ngàn xưa, ai cũng đều biết rõ, chỉ riêng chuyện đoá hoa Hồng và Trắng cài trên áo, biểu tượng cho người còn hay mất mẹ có nguồn gốc từ đâu, tự bao giờ thì ít được đề cập đến. Chúng ta cùng tìm hiểu về cội nguồn của Tục lệ này.

      Vào những năm đầu của thập niên 60 của thế kỷ 20, Thiền Sư Nhất Hạnh có viết một bài hồi ký mang tựa đề "Bông Hồng Cài Áo". Quyển hồi ký được in với kích thước khiêm tốn, có thể bỏ vào bao thư để gởi tặng nhau, phát hành khắp Miền Nam Việt Nam, rất được mọi người yêu thích, đón nhận nồng nhiệt, tái bản nhiều lần.

      Theo lời kể lại của Thiền Sư Nhất Hạnh trong quyển hồi ký "Bông Hồng Cài Áo" như sau:
"Vào năm 1962, trong chuyến đi Nhật nghiên cứu Phật Hoc, vào đúng dịp Ngày Của Mẹ mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng.

Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan."...

 

      Sau đó, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã lấy ý từ quyển hồi ký này viết nên ca khúc "Bông Hồng Cài Áo" nổi tiếng, và sống mãi với thời gian như chúng ta đã thấy.
 
      Thiền Sư sau khi nghe bài hát của Phạm Thế Mỹ, Người có nhận xét:
- Phạm Thế Mỹ làm Bài Bông Hồng Cài Áo rất dễ dàng và tự nhiên như thở vào thở ra , tự nhiên như bước chân đi dạo, tự nhiên như khi nâng chén trà lên uống. Tôi không thấy tôi và nhạc sĩ là hai người khác nhau khi nghe ca khúc Bông Hồng Cài Áo, trước kia cũng vậy và bây giờ cũng vậy.

      Sau này, khi được hởi về tại sao Thiền sư lại chọn hoa hồng mà không phải là loài hoa nào khác? Phải chăng đơn thuần chỉ vì hoa hồng là loài hoa biểu trưng cho tình yêu?
Thiền Sư trả lời:

- Mình nên hiểu chữ hồng trong bông hồng là đỏ. Cài hoa hồng thì cài hoa hồng đỏ. Cài hoa khác như hoa cẩm chướng thì cẩm chướng màu cũng đỏ, không nhất thiết là phải có hoa hồng (rose). Và khi Mẹ không còn, Cha không còn thì được cài hoa trắng . Các đệ tử người Hoa của tôi khi làm lễ Bông Hồng Cài Áo đầu tiên tại Đài Loan năm 1995 thì họ dùng hoa cẩm chướng màu đỏ và trắng cho buổi Lễ Cài Hoa tưởng nhớ Mẹ Cha. Mẹ Cha còn thì cài hoa cẩm chướng màu hồng. Mẹ Cha mất thì cài hoa cẩm chướng màu trắng. Bất cứ hoa gì cũng được kể cả hoa lan.

Nếu bạn là Phật tử, bạn phải biết giáo pháp đức Thế Tôn có công năng chuyển rác thành hoa, biến phiền não thành bồ đề, dựng lại tình thâm từ xác chết hận thù. Cha Mẹ là Bụt đó, đừng đi tìm Bụt nơi nào khác. Ngày hôm nay bạn nói được câu gì, làm được cử chỉ gì để Mẹ vui, để Cha vui thì làm ngay đi, đừng để tới ngày mai, sợ rằng muộn quá. Đọc Bông Hồng Cài Áo để nhớ điều đó. Tôi chúc bạn một ngày Vu Lan thật ngọt ngào, thật hạnh phúc, thực tập thành công.
Nếu bạn được cài bông trắng, nên quán chiếu là Cha hoặc Mẹ vẫn còn trong bạn và có mặt trong từng tế bào của cơ thể bạn. Đưa bàn tay lên nhìn, bạn sẽ thấy bàn tay ấy của bạn mà cũng là bàn tay của Cha, của Mẹ. Trong bàn tay bạn, có bàn tay của Cha, của Mẹ. Bạn hãy đưa bàn tay ấy đặt lên trán và sẽ thấy, đó là bàn tay của Mẹ hay của Cha đang đặt trên trán bạn. Thật là nhiệm mầu.

      Xin Thiền sư cho biết lần đầu tiên phong trào này được phát động là vào mùa Vu Lan năm nào, tại đâu? Thiền sư có gặp sự trở ngại nào chăng khi đưa ra một nét văn hóa tuy đẹp đẽ song cũng rất mới lạ này?
- Tôi không hề có ý định phát động phong trào Cài Hoa Hồng để tưởng niệm về công ơn mẹ.
Phong trào ấy tự động phát khởi một cách tự nhiên mà thôi. Điều đó cũng làm cho tôi ngạc nhiên.
 

      Theo Thiền sư, giữa Ngày lễ của Mẹ trong văn hóa Nhật và ngày Vu Lan Báo hiếu trong văn hóa Việt Nam có những nét tương đồng và khác biệt nào?
- Khác truyền thống Nhật. Lễ này không những để vinh danh người Mẹ mà cũng để tưởng nhớ và vinh danh người Cha nữa. Mỗi người được cài hai chiếc hoa hồng, một dành cho Mẹ và một dành cho Cha. Chiếc hoa dành cho Cha nằm hơi cao lên một chút để phân biệt với hoa cho Mẹ. Và anh sẽ cài một hoa hồng cho Cha khi Cha còn sống, một hoa hồng cho Mẹ khi Mẹ còn sống...
 

Kết Luận
 

       Theo như quan điểm của Thiền Sư Nhất Hạnh, trong ngày BÁO HIẾU, chúng ta sẽ có hai bông hồng một cho cha và một cho mẹ. Vị trí cao thấp để phân biệt. Nếu có một người mất thì sẽ được thay là một đoá hoa trắng.
       Thế nhưng trên thực tế, trong ngày lễ Vu lan, chúng ta chỉ có một đoá hoa dành cho Mẹ. Có phải ảnh hưởng từ bài hát của Phạm Thế Mỹ:
Một bông Hồng cho em
Một bông Hồng cho anh
Và một bông Hồng cho những ai
Cho những ai đang còn Mẹ
Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn
...


     Cho dù ai đi chăng nữa, Bông hồng cài trên áo trong ngày Lễ Vu Lan, đã trở thành một mỹ tục. Chúng ta không thể quên công ơn của Thiền Sư Nhất Hạnh và Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, những người đã khởi xướng, đã tạo nền móng, để từ đó có được một ngày hội hiếu thảo của người Việt.

    Việt Nam không có Ngày Của Mẹ, Ngày Của Cha như Tây Phương, việc cài bông hồng trên áo trải qua 50 năm vào dịp lễ Vu Lan, đến nay đã thành một tục lệ tốt đẹp mang nét đẹp riêng, một nét văn hoá mới hoàn toàn Việt Nam. Là người Việt, chúng ta cần phải duy trì tuyền thống tốt đẹp này mãi mãi.

Huỳnh Hữu Đức Mùa Vu Lan 2014
(Có thêm tư liệu từ http://langmai.org)

Hoa Tím Bằng Lăng


Hoa bằng lăng mỗi mùa vẫn nở
Người gặp người một thuở quen nhau
Bằng lăng nở tím vườn sau
Nhìn hoa bắt gặp mộng sầu quẩn quanh

Ta bỗng thấy xuân xanh trở lại
Một thoáng thôi … tê tái cả lòng
Con chim lẻ bạn từng không
Tiếng kêu khắc khoải, chạnh lòng xiếc bao

Nghe có chút nghẹn ngào giăng mắc
Người nhớ người se thắt người ơi
Gió rung hoa tím buồn rơi
Nghe giọt đắng rụng xuống đời … chiều nay!


Yên Sơn

Bóng Đơn Đi Giữa Đường Chiều


Em ơi gió lạnh thu vừa
Tàn bao xác lá gọi mùa sang đông
Mai đây nắng đã thôi hồng
Chiều nhìn tuyết đổ chạnh lòng tha hương.
Tuyết rơi trắng cả con đường
Nghe buồn cô lữ dặm trường mình ta
Thẩn thơ dưới bóng chiều tà
Nhìn mây dạ hỏi quê nhà nơi đâu.
Gió đang trở ngọn đông sầu
Chiều mây xám ngắt một màu quạnh hiu
Bóng đơn đi giữa đường chiều
Bên kia em có ít nhiều nhớ ta ?. 


Vĩnh Trinh

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

Thơ Tranh: Có Một Đêm Rằm Không Trăng


Thơ: Hồ Việt Kim Chi
Thơ Tranh: Kim Quang

Hối Tiếc


  (Từ Hiên Đời Vắng Mẹ của Yên Dạ Thảo)

Từ lúc bên hiên vắng mẹ
Má ơi ! Con biết mồ côi !
Từ lúc vắng cha bên đời
Ba ơi ! Con thèm giọng nói !
Sao con không hiểu sớm hơn?
Sao con không cần sớm hơn?
Chỗ ngồi bên hiên để trống
Tiếng tằng hắng cũng không còn !
Đêm về trước sau vắng lặng
Mành treo buồng giũ gió khuya.

Phong Tâm
(Đêm Vu Lan 2014)

Mother In The Dream(Mongolian) - Uudam - Phụ Đề Việt Ngữ



Mùa Hè Đến Thăm Em


Đến thăm em vào mùa hè rực rỡ
Hè Cali không phượng đỏ ve sầu
Lần đầu tiên gặp em, vui òa vỡ
Quen lâu rồi! Mình muôn kiếp quen nhau

Hàng phượng tím chúi đầu hôn nhau đó
Nhỏ và anh, mình bắt chước không nào
Hè nắng gắt nhìn nhỏ anh ngây ngất
Mầu tím buồn tim anh thấy lao chao

Tay nắm tay hai ta cùng đi dạo
Con đường tình mình rảnh bước rong chơi
Ngày mai nhé, em đưa anh ra biển
Thái Bình Dương, mây tím ở chân trời
Tối hôm nay mình lên đồi hóng gió
Đèn lập lòe thành phố đẹp như mơ
Dẫy kim tuyến đủ mầu ta đứng ngó
Em, em à, trăng sao đẹp nên thơ

Đời đẹp quá, đẹp như những bài thơ,
em đã làm gửi anh đầy nhung nhớ
Anh đang ở thiên đàng nơi hạ giới
Ở bên em, anh chới với, chơi vơi….
Anh yêu quá tiếng em cười hớn hở
Mắt cũng cười, tình tứ quá em ơi!
Em nhắm mắt hai vành môi hé mở
Cúi hôn em…tan biến với mặt trời…

Quách Như Nguyệt
8/8/2014

Một Đường Link


Một trái tim
nhỏ nhoi lặng lẽ
Nhịp đập đều dòng máu luân lưu
chảy đong đưa lan tỏa ở trong người
mang sức sống làm hồng môi mắt

Nhưng trái tim
không chỉ là nhịp đập
mà yêu say tha thiết chập chờn
Như mây trời cõng nắng vàng hanh
Như mưa nắng lang thang trên phố nhỏ

Một trái tim
nhỏ nhoi thủ thỉ
Đường link xuyên cảm xúc ánh mắt ngời
Một vườn hồng bất chợt ngát đầy hương
Ôi! Ngớ ngẩn dõi về nơi vô định

Một trái tim
nhỏ nhoi điên đảo
bởi virus yêu gậm nhấm đường link
Như ru hời trong giấc ngủ mê say
Như tia sáng vụt qua rồi chợt tắt

Đường link thoạt vô hình vạn trạng
Nghiêng qua tim khe khẻ gọi miên man
Giọt nắng giọt mưa giọt buồn sâu lắng
Làm cách nào delete được một đường link.

Đông An
 

Lằn Ranh Vô Tình


(Từ Một Đường Link của Đông An)

Có một lằn ranh chập chờn lặng lẽ
Giữa hai người cùng thế hệ tìm nhau
Ánh mắt đong đưa lời nói ngọt ngào
Nhịp đập buồng tim máu đào dậy sóng.

Hai con tim
Không cùng dòng huyết thống
Thế mà nhớ nhung trông ngóng thương yêu
Lừa dối mà chi cho đổ vở nhiều
Hai hướng đời chịu bùi ngùi ngăn cách.

Con tim em
Luôn mang dòng máu sạch
Con tim anh
Đôi lúc lại chập chờn
Thế cho nên hai người mãi cô đơn
Em dỗi hờn anh hững hờ luyến tiếc.

Tình chưa trọn còn so đo hơn thiệt
Con tim ta chưa phân biệt sắc màu
Người đứng nhìn - người nhẹ bước đi mau
Lằn ranh vô tình nghẹn ngào hơi thở.

Mừng em chối từ mây ngàn bỡ ngỡ
Mạnh dạn không còn sợ một đường link
Mắt môi em đằm thắm nụ cười xinh
Anh chợt thấy con tim mình ngơ ngần

Dương Hồng Thủy
(09/08/2014)

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

Vu Lan Tưởng Nhớ


Hoa hồng trắng con cài lên áo
Mà nghe lòng xa xót nao nao

Nhìn người nét mặt rạng ngời
Hồng hoa đỏ thắm nụ cười thương yêu
Ngậm ngùi mong ước một điều
Xin chung góp chút ít nhiều niềm vui
Song thân còn với những ai
Hạnh phúc viên mãn nở hoa lòng người
Công ơn dưỡng dục đời đời
Muôn vàn sắc thắm tuyệt vời hôm nay
Và xin chia sẻ buồn này
Đóa hoa hồng trắng được cài ngực ai
Nỗi lòng tưởng nhớ mẹ cha
Đã xa khuất nẻo trầm kha vô thường
Bây giờ còn lại tủi hờn
Trong lòng con trẻ nhớ thương vô vàn
Tới ngày xá tội vong nhân
Nghẹn ngào thương tiếc mẹ cha chốn nào
Về đâu trong cõi ta bà
Hay là đã được vãng sanh cõi trời
Hôm nay tâm nguyện với đời
Hương trầm tỏa khắp muôn lời nguyện trao
Thập phương chư Phật trên cao
Xin đưa tay dẫn độ vào mẹ cha
Theo chân Đức Phật Di Đà
Về nơi cực lạc an vui Niết Bàn

Mùa Vu Lan 2014
Thiên Thu

Tình Mẹ - Thơ:Thérèse Nguyễn Nhạc:Quách Vĩnh Thiện


Thơ : Thérèse Nguyễn
Nhạc : Quách Vĩnh Thiện
Tiếng hát : Mai Thảo


Giang cánh ấp của tình thương vô lượng,
Cây nhân sinh èo uột đã tươi mầm,
Mẹ dâng hiến trải cõi lòng độ lượng,
Yêu tha nhân không vướng chút vị thân.

Tình mẫu tử ôi mênh mông biển cả,
Dưỡng mầm non hoa cỏ trở cây xanh,
Hiếu với mẹ có khi nào con đã,
Trả ơn cây đã lấy máu nuôi cành,
Ôi nước mắt có bao giờ chảy ngược ?
Nghĩa vị tha ngất ngất đỉnh trời.

Giang cánh ấp của tình thương vô lượng,
Cây nhân sinh èo uột đã tươi mầm,
Mẹ dâng hiến trải cõi lòng độ lượng,
Yêu tha nhân không vướng chút vị thân.

Vắt cạn sữa chỉ suốt đời mơ ước,
Mong các con thật xứng đáng làm người,
Rồi đến lúc cây già nua bóng xế,
Vòng từ sinh lửa leo loét cuối đời,
Thương các con mắt mẹ còn rơi lệ,
Đâu quản thân mình sinh tử đầy vơi.

Paris, le 25 Aout 2009

Thơ Tranh: Giọt Lệ Vu Lan



Thơ: Trầm Vân
Thơ Tranh: Kim Oanh

Chút Tình Buồn Gởi Lại Ba Xuyên


Ở trời nam. nhớ đất phương nam
trời với đất xa nhau mấy biển
con đường xưa xe đạp trắng bông tràm
áo mới nôn nao mùa gió Tết

Em ngóng trời nam ba mươi năm
chiếu đất màn sương đầy hoa sao nở
chút buồn gởi lại Ba Xuyên
ta phiêu bạt như người tình l
Biết có mai này giữa ghế bàn xưa
tay phấn trắng vẻ em buồn như phượng
chút tình gởi lại Ba Xuyên
ta thất trận dẫu không là quân tướng

Quen rồi café quán Sydney
mưa Vancouver ướt người bên Starbucks
bạn bè gọi nhau quán Lú Cali.
nhắc tách café đen thơm mùi thuốc bắc

Chút tình buồn gởi lại Ba Xuyên
đôi mắt đệ tam hàng sao già đệ nhất
chiều tan hoang chưa gặp lại bao giờ
đêm sóng gọi.thấy sông tràn nước mắt

Chút tình buồn gởi lại Ba Xuyên
đi mới thấy ngôi trường đã mất
lòng như đất y nguyên
đem dấu kín mối sầu trang sách

Biết có mai này phố chợ bừng lên
xe đạp cũ cầu Quay vàng kỷ niệm
chút tình buồn gởi lại Ba Xuyên
chút tình cũ. thắp cùng em ngọn nến

Biết có mai này. biết có còn nhau
đôi mắt đệ tam hành lang đệ nhất
biết sẽ mai này
biết chẳng còn nhau
khăn gói ra đi. còn gì em để mất

Lâm Hảo Khôi
(tháng 8-2014)

Thưa Rằng...


    v(Từ "Xin Câu Trả Lời" của Đỗ Hữu Tài)

Thưa rằng những lúc gió sương
Nhìn trăng anh nhớ người thương chứ gì?
Rằng xưa kia em chẳng kiêu kỳ
Tại ai thích ngắm cây si bên đường

Rằng thưa “không” nói mà “thương”
Thương mà không nói lòng vương vấn hoài!
Tiếng “Ừ” ngại nói cùng ai
Thôi thì cứ để thêm ngày đợi mong!

Được lòng thì phải nhọc công
Được tình ắt phải đi vòng quanh quanh
Thở dài nở lớn gan anh
Để mời em bước theo anh chung đường

Cây si trồng trước cổng trường
Biệt ly sầu khúc em thường lắng nghe
Gió ru êm ả chiều hè
Tiếng thơ em ngọt... tiếng ve lạc rồi!

Thắm tình ươm mộng đầy vơi
Thề non hẹn biển trao lời cùng nhau
Hỏi rằng duyên nợ cau trầu
Tu bao nhiêu kiếp tình trao nghĩa đầy?

Duyên thơ mộng mị gió mây
“Sum vầy” hai chữ kiếp nầy có không?
Thuyền xưa ngược gió xuôi dòng
Sông tương bến đổ qua đông hẹn về

Biết rằng ngày tháng cận kề
Mà nghe xa vắng bộn bề nhớ nhung
Người mơ hai chữ “tương phùng”
Em mơ hai chữ “thủy chung” thuyền tình!

Yên Dạ Thảo
03.08.2014

Xin Câu Trả Lời


Đố em trong lúc gió sương
Anh thường nghĩ ngợi nhớ thương điều gì
Đố em ai đã kiêu kỳ
Cho anh ngơ ngẩn đứng lì đợi trông
Đố em ai cứ nói " không "
Cho anh lẽo đẽo chờ mong tiếng " ừ "
Đố em ai vẫn chần chừ
Cho anh xuôi ngược lừ đừ đi theo

Đố em đường xá cong queo
Mà sao anh vẫn cố đeo đuổi hoài
Đố em nhìn dáng trang đài
Mấy ai gan dạ thở dài bỏ đi
Đố em trồng được cây si
Có ai hát khúc biệt ly vẫy chào
Đố em nghe giọng ngọt ngào
Hồn ai không lạc đường vào ngô nghê

Đố em tình thắm cơn mê
Ai không mộng mị ủ ê mong chờ
Đố em ai dám hững hờ
Khi tình hò hẹn đến giờ gặp nhau
Đố em duyên nợ trầu cau
Ai không mong muốn mau mau tới ngày
Đố em nghiã đẹp tình đầy
Ai không hạnh phúc xum vầy yêu đương

Đố em trên bến sông Tương
Thuyền nào không vượt trùng dương quay về
Đố em hạnh phúc tràn trề
Tình nào không ngọt cận kề ấm êm
Đố em những lúc về đêm
Ai cùng em sẽ ngồi xem sao trời
Đố em đi hết cuộc đời
Ai nhìn âu yếm nói lời yêu em ...


Đỗ Hữu Tài(Thế Thôi)

26.07.2014

Lương Xuân Việt - Người Mỹ Gốc Việt Đầu Tiên Thăng Chức Chuẩn Tướng



      Ông là con trai duy nhất trong gia đình có 7 chị em gái, họ đều thành công trên đất Mỹ. Ông còn thân mẫu năm nay 77 tuổi (2014) sinh sống tại Los Angeles, và thân phụ ông là cựu Thiếu tá Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Quân lực Việt Nam Cộng hòa Lương Xuân Ðương, đã qua đời năm 1997 tại California. 

      Khi tới Mỹ vào năm 1975, cậu bé Lương Xuân Việt chưa đầy 10 tuổi và gia đình ông đã chọn thành phố Mountain View, California để sinh sống. Sau khi tốt nghiệp cử nhân sinh học và cao học (thạc sĩ) khoa học quân sự tại Đại học Nam California, ông tình nguyện vào quân đội, mang cấp bậc Thiếu úy Bộ binh, năm 1987 và được chọn vào danh sách sĩ quan hiện dịch. Ðồn trú tại Colorado, ông lần lượt giữ chúc vụ trung đội trưởng rồi đại đội phó Bộ binh. 

     Ông có khả năng chỉ huy và được đề bạt sang Sư đoàn 101 Biệt kích dù, lần lượt giữ các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng rồi lữ đoàn trưởng. Ông lần lượt giữ các chức vụ tác chiến cấp Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn, cũng như Tham mưu và Huấn luyện. Trước khi được thăng cấp Đại Tá và được bổ nhiệm vào chức vụ Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3, Sư Đoàn 101 Không kỵ, ông đã làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 505 Bộ Binh Nhảy Dù Hoa Kỳ vào năm 2005 và chiến đấu tại chiến trường Iraq với cấp bậc Trung Tá để phục vụ "Chiến Dịch Người Iraq Tự do". 

      Thăng cấp Đại Tá, ông trở thành lữ đoàn trưởng cho chiến trường Afghanistan. Năm 2012, ông được cử về đại học Stanford để tham gia huấn luyện chính trị cao cấp.

      Ông được Chính Phủ và bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thăng cấp bậc Chuẩn Tướng Lục quân quân đội Hoa Kỳ ngày 20 tháng 5 năm 2014 (chính thức tấn phong ngày 6 tháng 8 năm 2014), trở thành tướng Mỹ gốc Việt đầu tiên trong quân lực Hoa Kỳ. Chức vụ hiện tại của ông là Tư lệnh phó Sư đoàn Kỵ binh số 1 (Hoa Kỳ), phụ trách hành quân tác chiến


      Sáng ngày 6 tháng 8 năm 2014, lần đầu tiên trong quân sử Hoa Kỳ, một người Việt tị nạn được vinh thăng Chuẩn tướng.

      Ông là Đại tá Lương Xuân Việt, Phó tư lệnh đặc trách hành quân của Sư đoàn I Thiết kỵ. Chức vụ vừa được gắn lên chiếc nón Thiết kỵ đã đưa ông vào danh sách người Việt Nam đầu tiên vinh dự có tên trong hàng tướng lãnh Hoa Kỳ vốn là nơi xét duyệt một cách nghiêm ngặt chức vụ này trong quân đội của họ.

      Vinh quang của Chuẩn tướng Lương Xuân Việt cũng là niềm tự hào của người Việt tại Hoa Kỳ. Hàng trăm đồng hương đã lặn lội đến tận Cooper Field, tiểu bang Texas nơi tổ chức gắn lon cho ông để chia sẻ những gì mà một đứa con trong gia đình có đến bảy chị em gái, theo cha mẹ sang Mỹ lúc ông mới 10 tuổi. Cha ông là Thiếu tá Thủy quân lục chiến Quân lực VNCH và do đó ông đã thấm sâu ba chữ Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm.

      Trong bài phát biểu bằng tiếng Việt, Chuẩn tướng Lương Xuân Việt nhắc lại truyền thống này một cách tự hào và cũng không quên cám ơn đồng ngũ với cha của ông, người từng mang trên người trọng trách bảo vệ quốc gia như ông đang làm trong vai trò một tướng lãnh:

      "Nhìn những bộ quân phục lòng tôi thật bùi ngùi xót xa. Những người đã làm con tim tôi rung động vì ba chữ Danh dự, Trách nhiệm, Tổ quốc và những ý nghĩa của các câu dặn dò do cha ông để lại như. “Nam quốc sơn hà nam đế cư”… Chính là thân phụ tôi, đồng đội của các anh, vì vậy ngọn lửa trong tim tôi lúc nào cũng hướng về đất mẹ dù đã 30 năm xa cách. Không có sự hy sinh xương máu của các anh thì chúng tôi chắc chắn không có ngày hôm nay. Tổ quốc mãi mãi ghi ơn, vì vậy tôi xin các anh nhận cái chào của tôi!"


Yên Đỗ
Sưu tầm từ Internet.

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

Bông Hồng Cài Áo - Phạm Thế Mỹ - Chùa Hoằng Pháp



Nhạc: Phạm Thế Mỹ

Ca Dao Mẹ


Lẫn vào giữa tiếng mưa đêm
Lời ru của mẹ êm đềm đưa nôi
Gió rung phên lá bồi hồi
Như thương thân mẹ một đời gian nan

Ngược xuôi thân mẹ nhọc nhằn
Tháng năm chèo chuyến đò ngang một mình
Sóng trôi, thuyền mẹ chông chênh
Cánh cò thầm lặng giữa mông mênh đời

Đêm đêm cất tiếng ru hời
Thương con ngọt giọng à ơi dịu dàng
Lời êm như gió khẽ khàng
Như tay mẹ quạt mơn man giấc nồng

Bao lần xuân đến tàn đông
Bao lần than mẹ bão giông hao gầy
Thương sao vẫn tiếng ru này
Khao khao giọng đục lạc loài đêm sâu

Vẫn ca dao ấy… Ví dầu
Đường đời lắc lẻo bắc cầu con sang
Mẹ già như nắng chiều tàn
Mà lời ru mãi thênh thang giữa đời…

Trần Thị Dã Quỳ

Thơ Tranh : Câu Đối Vu Lan


Câu Đối : Huỳnh Hữu Đức
Thơ Tranh: Kim Oanh


Mùa Vu Lan Nói Chuyện Mâm Cơm Đôi Đũa.

      Tự ngàn xưa, không biết từ thuở nào, tổ tiên chúng ta đã ý thức việc thờ Trời. Chúng ta thấy các nhà ở thôn quê cũng như các tỉnh nhỏ, trước nhà thường có cái bàn ông Thiên. Ông Thiên là ông Trời. Mỗi đêm, thường là bà chủ nhà đốt vài nén hương, ra trước bàn Trời cầu nguyện cho cha mẹ, gia đình được bình yên, hưởng được nhiều lộc Trời:
           “Mỗi đêm mỗi thắp đèn Trời,
             Cầu cho cha mẹ sống đời với con.”
       Ngày xưa, Tồ tiên chúng ta đã biết kính sợ Trời, biết kêu cứu ông Trời mỗi khi hoạn nạn, giống như đứa trẻ mỗi lần gặp điều gì nguy hiểm thì gọi Cha.


        Theo Kinh Dịch, Trời nói về sự bắt đầu sinh ra, cho nên Âm ở trên Dương ở dưới. Ấy là cái nghĩa giao thái. Đất là nói về sự đã thành cho nên Dương ở trên, Âm ở dưới.
Các số lúc đầu chỉ là một âm, một dương. Tượng của Dương tròn, tượng của Âm vuông. Hình vẽ tròn, giống Trời, nghĩa là trời tròn mà xoay, bao bọc ngoài đất. Hình vẽ vuông giống đất, nghĩa là đất vuông mà đứng im, bị nhốt trong trời. Hình vẽ tròn là đạo Trời, có Âm có Dương. Hình vẽ vuông là đạo Đất, có cứng có mềm. 
Đạo Đất phải theo đạo Trời. Trời tròn, đất vuông.
Vì vậy khi đàn bà sắp sinh nở, người thân hay chúc phúc. “Chúc cho mẹ tròn con vuông.” Nhiều người cho câu chúc nầy lạ tai, vì không hiểu bốn chữ “mẹ tròn con vuông.” là gì? 
Đó là câu chúc hết sức tốt lành, là chúc cho mẹ con đều lành lặn, khoẻ mạnh, thuận theo ý muốn của Trời Đất.
        Chúng ta hãy đi vào chuyện mâm cơm. Tổ tiên chúng ta ngày xưa đã biết qua về Kinh Dịch nghĩ là Trời tròn, nên làm cái mâm hình tròn. Trên cái mâm được bày biện thức ăn, ý nghĩa của nó là các thức ăn trong mâm là lộc Trời ban cho. Có thể một số người đọc đến đây sẽ không đồng ý và nói rằng: “Chúng tôi phải làm việc đổ mồ hôi trên, mồ hôi dưới mới có tiền để nua thức ăn, thử không làm việc Trời nào mà cho?” 
Nói thế nghe cũng hợp lý nhưng nếu Trời không cho bạn được khoẻ mạnh thì sức đâu bạn làm việc để có thức ăn? 
Tổ tiên chúng ta biết được điều đó nên thường cầu Trời để có miếng ăn.
         “Lạy Trời mưa xuống
           Lấy nước tôi uống
           Lấy ruộng tôi cày
           Lấy đầy bát cơm
           Lấy rơm đun bếp.”

         Uống nước Trời, ăn hạt cơm Trời nhưng thử hỏi trong chúng ta có ai biết nói tiếng cám ơn Trời không? Và trong ngày, chúng ta dành bao nhiêu phút để cám ơn Trời đã giữ gìn chúng ta trong đôi tay bình yên của Ngài. Làm việc gì thất bại, chúng ta hay than Trời. Bị vợ đánh cho một bạt tay thì ôm đầu máu kêu Trời, nhưng những lúc vui vẻ, cơm no bò cỡi thì chẳng nhớ ông Trời ở đâu.
          Các bạn hãy làm thử xem.
        Trước khi ăn cơm, các bạn hãy nói câu: “Cám ơn Trời đã cho con một bữa cơm ngon.” hoặc những người lớn tuổi thử nói rằng: “Cám ơn Trời cho con khoẻ mạnh để ăn còn biết ngon.” Các bạn thử xem! Tôi nghĩ, không ai chê cười các bạn đâu. Đôi khi người ta còn nghĩ bạn không phải là một kẻ vô tình, biết sống xứng đáng với lượng bao dung của Trời Đất.

        Trở lại chuyện mâm cơm, nhìn mâm cơm, chúng ta thấy được trách nhiệm của người chồng cũng như người vợ trong gia đình. Chồng làm việc vất vả để có tiền mua thực phẩm, vợ ở nhà chế biến thực phẩm thành những món ăn ngon miệng cho cả gia đình cùng ăn vì vậy chúng ta hay nói “của chồng công vợ.” 
          Vợ chồng sống phải biết thương yêu nhau, có trách nhiệm với nhau, chia sẻ gánh nặng hay niềm vui nỗi buồn với nhau để hằng ngày vợ chồng con cái quây quần bên mâm cơm hưởng lộc Trời cho. Thật là hạnh phúc!  
          Trong gia đình tôi có lần thằng con trai sắp lập gia đình, hỏi:
“Ba dạy, muốn gia đình hạnh phúc thì vợ chồng phải biết nhường nhịn nhau. Thí dụ, chồng nóng thì vợ phải nguội, còn vợ nóng thì chồng nguội. Còn con vợ nóng hoài thì mình làm sao đây?
           “Thì con phải nguội hoài chớ sao?
             Thằng con còn trẻ, tính tình nóng nảy, phản đối:
           “Vậy đâu được ba?”
           “Sao không được. Ở nước Mỹ, nổi nóng, đánh đàn bà là cảnh sát còng tay cho.”
           Thằng con bất mãn, hỏi:
           “Thế không có giải pháp nào bảo vệ đàn ông sao?’’
           “Sao không? Chuá tạo cho con cặp giò để làm gì?”
           “Để chạy hả ba?”
           “Còn phải hỏi!”
            Từ đó thằng con bỏ ý định cưới vợ.
          Bây giờ chúng ta hãy bàn qua đôi đũa. Chúng ta thử nghĩ, nếu ngày xưa ông bà chúng ta dùng đũa chỉ có một chiếc thì việc lấy thức ăn vào chén không phải dễ và dùng một chiếc đũa đưa thức ăn vào miệng cũng khó vô cùng nên ông bà chúng ta phải dùng hai chiếc đũa, tức là đôi đũa để gắp thức ăn cho dễ.


          Đôi đũa cũng tượng trưng cho đôi vợ chồng. “Vợ chồng như đũa có đôi”. Đũa lúc nào cũng có đôi, thì vợ chồng lúc nào cũng như hình với bóng, sống thỉ chung với nhau cho đến lúc chết. Vợ chỉ biết có chồng và chồng khi ra đường gặp gái đẹp thì phải mau mau nhắm mắt lại đưa tay cho vợ dẫn đi thì gia đình mới được êm ấm.

         Qua bên Mỹ nầy chúng ta thấy bao nhiêu người đã già vẫn còn bước thêm bước nữa. Té lên té xuống cũng không tởn, té xong, lồm cồm ngồi dậy bước nữa.
Nhiều bà mồm miệng đã móm sọm, mấy ông nha sĩ thấy đã lắc đầu nhưng vẫn mò lên internet tìm bạn bốn phương, email qua lại tìm chồng cho đỡ cô đơn. Về với nhau rồi, đêm đêm chỉ còn biết nhìn nhau thở dài. “Than ơi! Thời oanh tạc nay còn đâu!” Mồm miệng móm sọm, muốn cạp cũng chẳng còn răng để cạp, có ráng cũng chẳng nên cơm cháo gì, cùng lắm đưa lưng ra gãi vần công cho đỡ ngứa, đỡ buồn. Nửa đêm thức giấc, quay qua bên cạnh, thấy một bà già đang nằm ngủ, dáng nằm như con tôm, mặt mũi nhăn nheo, miệng thở phì phò hôi hám, nước dãi trong miệng chảy ra. Hình ảnh trông chẳng đẹp mắt chút nào nhưng cũng tạm yên lòng ngủ tiếp. Còn nửa đêm thức giấc thấy mình trơ thân cụ trên chiếc giường rộng, đôi khi buồn quá không ngủ tiếp được.
         Nhà thơ Anh Vân đã từng than thở:
          “Ta sợ lắm những đêm dài trăn trở
            Đời vắng em giấc ngủ cũng đeo sầu.”
         Có lẽ vì hoàn cảnh:
        “Nàng ở Melbourne,
         Ta ở đây
          Xa nhau cách khoảng
         Trời mây chập chùng.” 
         Nên chàng mới có cảm hứng làm câu thơ trên.
         Hoàn cảnh nghe ra thật đáng ngậm ngùi. Yêu nhau nhưng chẳng được gần nhau, ai lại chẳng buồn. Với chàng thì:
          “Đêm nằm tơ tưởng bâng khuâng
           Chiêm bao thấy bậu, lâng lâng cõi lòng.”  
          Còn phần nàng:
         “Đêm nằm tơ tưởng, tưởng tơ,
           Chiêm bao thì thấy, dậy sờ thì không”
         Tội nghiệp thì thôi!
          Vì sợ buồn, sợ cô đơn nên mới có cảnh:
        “Bà già đi chợ Cầu Đông,
          Bói xem một quẻ, lấy chồng lợi chăng
         Ông thầy xem quẻ nói rằng
          Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn.”
       Răng chẳng còn thì húp cháo mà sống nhưng sống “cu ky” một mình quả tình buốn lắm nên những người goá vợ, mất chồng thường tìm đến với nhau cho đũa có đôi, cho đời sống bớt đi những khó khăn, buồn thảm. Trường hợp nầy gọi là góp gạo thổi cơm.

        Đàn bà rất quan trọng trong đời sống người đàn ông. Chúng ta thấy sự thành công hay thất bại trong gia đình phần lớn do người vợ biết khuyến khích và chia sẻ gánh nặng với chồng. Một nhà tư tưởng nào đã nói: “Sau lưng một ông chồng thất bại, tất có một bà vợ cà chớn.
         Các bạn muốn biết sự lợi hại của đàn bà ra sao không?
         Một ông bác sĩ dẫn ông Giám Đốc bịnh viện tâm thần đi thăm viếng bịnh nhân. Ông Giám Đốc chỉ một người đàn ông đang ngồi ủ rũ, hỏi:
         “Anh nầy tại sao điên?”
        “Thưa, bị vợ bỏ.”
         Ông Giám Đốc chỉ tay vào một bệnh nhân khác đang nhảy múa ở góc phòng, hỏi tiếp:
       “Còn anh kia, tại sao điên?”
        Vị bác sĩ đáp”
        “ Thưa, người vợ bỏ anh nầy và lấy anh kia.”
        Vì vậy khi chọn vợ, chúng ta hãy cầu xin ý Trời trước rồi hãy quyết định.
       Đũa chỉ có một chiếc, gắp thức ăn sẽ gặp khó khăn, trở ngại. Loài người sống một mình cũng sẽ gặp những khó khăn tương tự.
        Trong Kinh Thánh, sách Sáng Thế Ký có câu: “Giê-hô-va Đức Chuá Trời phán rằng: Loài người sống một mình thì không tốt, ta sẻ làm một kẻ giúp đỡ giống như nó.”(Sáng Thế Ký 2: 17)
         Đũa phải có đôi, loài người phải có vợ có chồng, đời sống sẽ dễ dàng hơn.
        Những gia đình thành công thường là gia đình có những cặp vợ chồng biết thương yêu nhau, đoàn kết nhau. Tránh cảnh, ông nói, ông nghe, bà nói, bà nghe. Ông bà cùng nói cho lối xóm nghe, thì trước sau gì cũng sập tiệm.
         Đôi đũa tốt phải có những yếu tố sau đây:
        1- Cùng tính chất:
        Nhà giàu ăn đũa ngà, trung lưu ăn đũa gỗ, gỗ mun, gỗ đước, nhà nghèo ăn đũa tre nhưng loại đũa nào cũng vậy, phải cùng một tính chất. Đũa ngà thì cả hai chiếc phải bằng ngà. Không ai dùng một chiếc đũa ngà, một chiếc đũa tre.
        a- Vợ chồng cũng thế, muốn sống hạnh phúc, vợ chồng cần có trình độ hiểu biết tương đương để dễ hiểu nhau, tránh cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Nếu gặp phải người vợ ít học thì vợ phải biết vâng lời chồng.
        b- Một thể chất khoẻ mạnh tương đương. Ông bà chúng ta có câu: “tốt mái hại trống.” hay “khoẻ trống hỏng mái.” Người đàn bà mạnh quá trong khi ông chồng yếu xìu, kim đồng hồ cứ chỉ sáu giờ mà đêm nào bà vợ cũng bán giấy ép, đòi ông chồng phải đóng thuế đầy đủ thì chỉ còn nước kêu ambulance chở ông chồng vào nhà thương hay ngược lại ông chồng khoẻ quá, bà vợ yếu quá thì bà vợ cũng sớm khăn gói vào nghĩa địa nằm dưỡng thương. 
         2- Ngay thẳng:
         Đôi đũa cả hai chiếc phải ngay thẳng thì việc gắp thức ăn mới dễ dàng. Đạo vợ chồng cũng vậy, sống phải ngay thẳng, thật thà với nhau thì tình vợ chồng mới bền bĩ. Sống mà đêm đêm vợ chồng phải chịu cảnh đồng sàng dị mộng thì còn nỗi khổ nào hơn.
         “Đêm nằm vuốt bụng thở dài
           Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều.”
        Lâm vào trường hợp nầy thì trước sau gì, đầu của ông chồng cũng mọc cả chục cái sừng, và cái cảnh “vợ nhà thương, chồng khám lớn” có thể sẽ xảy ra.
          3- Một đời sống tâm linh giống nhau.
          Vợ chồng cùng đời sống tâm linh thật khó có hạnh phúc nào bằng. Bằng không sẽ có chuyện tranh cãi: ‘Đạo ông là chính giáo, đạo bà là tà giáo hay ngược lại.
           Người viết bài nầy từng chứng kiến nhiều lần cảnh mỗi buổi tối, gia đình gồm vợ chồng con cái hiệp nhau cầu nguyện và cám ơn Trời đã đổ ơn phước xuống gia đình họ và giữ gìn họ trong đôi tay bình yên của Ngài. Thật là cảm động!
           Mùa Vu Lan nói lan man chuyện mâm cơm đôi đũa cho thấy tổ tiên chúng ta đã dạy con cháu phải biết ơn Trời, phải biết cầu nguyện ông Trời để có miếng ăn, để cả gia đình được sống bình an. 
           Ông Trời gần gũi với dân tộc của chúng ta lắm nhưng tiếc rằng tổ tiên chúng ta đã không đi xa hơn để biết ông Trời là ai. Vậy quý bạn đọc muốn biết Ông Trời là ai chăng?
          Xin thưa, đó là Đức Chuá Trời của chúng ta đó, Đấng đã tạo ra vũ trụ và loài người. Nếu quý vị nào đọc xong bài nầy và có ý muốn tốt, muốn tìm hiểu Đức Chuá Trời là ai, xin tìm đến bất cứ Hội Thánh Tin Lành nào, sẽ có người cung cấp tài liệu cho quý vị
          Muà Vu Lan, kẻ viết bài nầy xin kính chúc tất cả quý đồng hương ở hải ngoại hưởng được nhiều ơn phước Chúa.

Quách Tố Vương ( Anh Vân )
Mùa Vu Lan 2009


Cha Mẹ Về Đâu


Còn Cha Mẹ tràn đầy nhựa sống
Chung một lòng chống đỡ gian nguy
Tuy cách xa tâm hướng quê nhà
Huyên thuyên kể mặn mà yêu thương

Tình thủ túc trưởng huynh dìu dắt
Đàn em thơ thắt chặt vòng tay
Dựng xây khuôn phép ngay từ nhỏ
Noi gương mình chăm khó học ngoan

Ngôi nhà xưa nặng tình đoàn kết
Dịp Tết về tâm sự đầy vơi
Vui lây mừng Cha Mẹ lệ rơi
Giọt nồng ấm tràn đời hạnh phúc

Ơn Mẹ Cha chăm lo từng chút
Vẹn toàn con những lúc chiến tranh
Công danh sự nghiệp sống an lành
Thành đạt ấy công lao trời biển

Đời Mẹ Cha rồi cũng quy tiên
Bước cùng nhau về cõi thiên đường
Giật mình lại cảnh vườn xôn xao
Các con vội thay màu nhà cũ

Tại Mẹ Cha rủ rê sớm mất
Làm các con sanh tật đổi thay
Tình cốt nhục phai dần năm tháng
Giành giựt lời nặng nhẹ đáng chê

Bức tranh "Yêu" là nỗi ê hề !
Ta về lại tô màu nguyên thủy
Đơn giản lời thủ thỉ ngày xưa
Vui biết mấy! Nhà tranh vừa Tết!

Pleiku 15-8-2011

Lê Kim Hiệp

Dưới Chân Tòa Sen Vàng - Dương Thượng Trúc


Sáng Tác & Trình Bày: Dương Thượng Trúc

Chiều Quê


Gió chiều lắc mạn thuyền nan
Hắt hiu khói nhạt quyện hàng cau thưa
Thoảng mùi cỏ dại hương xưa
Tiếng còi mục tử vọng đưa điệu buồn
Bìm bịp gọi nước về nguồn
Đàn cò mỏi cánh cuối đường bay xa
Rầu rầu tiếng nhái ngắt nga
Dừa nghiêng xoả lá la đà bên sông
Mái đình u ẩn rêu phong
Hàng dầu trước ngõ rụng bông bên thềm
Chiều qua Phú Hữu êm đềm
Rạch Bàng, Ngã Bát sương đêm khuất dần.

Lê Kim Thành


Phú Hữu thuộc Xã Trung Ngãi Quận Vũng Liêm, Tỉnh Vĩng Long (quê Nội tôi)
Rạch Bàng, Ngã Bát thuộc Xã Đức Mỹ, Quận Càng Long, Tỉnh Vĩnh Bình(quê Ngoại tôi)

Thoại Ca Xanh Sáu Tám Hai


Suối trời ngọt nước tình chung
Hồn thơm dấu vết bướm hồng tháng xưa
Dung nhan đồng tóc thêu mùa
Nai sầu lạc dốc phân bua trăm miền
Môi che bão gió muộn phiền
Anh về chiêm ngưỡng - chiều lên hoa hường
Hẹn hò trong buổi máu xương
Nhìn nhau hiu hắt lệ vương vấn buồn.

Phạm Hồng Ân

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

Vu Lan Bên Mạ

Mùa Báo Hiếu 2014


Chuyến Tàu Cuộc Đời


Dạo:
Cuộc đời môt chuyến tàu
Người lên xuống lao xao
Đồng hành chỉ một đoạn
Chia tay tại ga nào? 


* * *

Đời người giống cuộc hành trình tàu hỏa
Kẻ lên tàu người vội vã xuống ga
Vừa oa oa đã được khách mẹ cha
Ôm ấp lấy trong tình yêu sức sống.

Ơn vời vợi như trời cao đất rộng
Không âu lo, khách dệt mộng thiên đường
Có biết đâu mọi sự , lẽ vô thường
Đầy thách đố, vui cuời và nước mắt.

Tàu có lúc đường hư máy trục trặc
Ngạc nhiên nầy, buồn thãm khác ga kia
Người an vui, kẻ nức nở chia lìa
Mắt chưa ráo, đã bên người đon đả.

Còi lanh lãnh , xuyến xao , người vội vã
Khách ùa lên, cũ mới , ghế dưới trên
Tranh giành nhau, nhốn nháo cảnh bon chen
Người muôn mặt, bức tranh đời muôn thuở

Có nhiều khách ta thương ta cứ ngỡ
Suốt hành trình người ở mãi bên ta
Lại giã từ, ta hụt hẫng xót xa 
Lòng chợt hiểu: ngồi bên nhau một đoạn

Cùng một chuyến , buồn vui nhờ có bạn
Người yêu đời, kẻ bất mản chuyến đi
Người vừa lên, quày quả xuống tức thì 
Có kẻ dạo vài ga rồi biệt dạng

Có những khách cô đơn buồn lẽ nhạn
Cũng có người chán nản kẻ ngồi bên
Để lạnh lùng ghế trống khách buồn tênh
Đời là thế, lòng người hay thay đổi

Điều mầu nhiệm mà ta thường tự hỏi
Ta là ai? sao bỗng tới cõi nầy?
Xuống ga nào? chẳng rõ cũng chẳng hay
Thật bí mật! nhưng tràn đầy thú vị

Điều cần thiết ta nên luôn trang bị
Một tình thương tri kỷ suốt chuyến đi
Đem bao dung, lòng bác ái, từ bi
Để chia sẻ một khi người cần đến

Trong khoảnh khắc con tàu lại đổ bến
Bạn đồng hành, ai xuống ? lúc nào đây?
Trong tiếng còi thê thảm bóng đêm dầy
Một tiếng nấc, nghẹn ngào giây phút cuối.

Cư xử đẹp để lòng vơi tiếc nuối
Cám ơn người, xin thứ lỗi lâu nay
Xin cùng nhau hãy siết chặt vòng tay
Thực hiện một hành trình đầy ý nghĩa

Chúc Hành Trình Bình An
Have a nice trip.
Mailoc
Cali 8- 8 - 14


Thơ Tranh: Người Đã Xa Rồi


Thơ: Dương Hồng Thủy
Thơ Tranh: Kim Oanh

Trời mùa Thu mưa rượt dài theo nắng
Rơi rào rào rồi cũng dứt thật mau
Ánh nắng bừng lên ấm lòng sân vắng
Trên hàng cây ríu rít tiếng chim sâu

Cuối bầu trời cụm mây đen lạc lối
Tận phương xa nên nắng vội quay về
Chùm hoa khế đong đưa vui ngày mới
Em thơ ngây phơi phới mái tóc thề

Nắng vàng hực trên nền sân đọng nước
Trời bỗng xanh rực rỡ gió đong đưa
Đàn ngỗng bên ao vẫn nghênh ngang bước
Bầy gà con té chạy trước sân chùa

Cảnh vườn xưa gợi buồn thời còn trẻ
Mỗi trưa hè mẹ đưa võng ngoài sân
Tàng vú sữa rộn ràng con chim sẻ
Hồn dật dờ khi nghe tiếng chuông ngân

Mẹ đã đi xa mười lăm năm chẵn
Tiếng ầu ơ dịu ngọt của một thời
Ôi cuộc đời! Tuổi thơ sao thật ngắn
Chưa trọn yêu thương người đã xa rồi!


Dương Hồng Thủy
(Mùa Vu Lan 2014)

Tình Mẹ


Đậu vào đệ thất quá mừng vui
Đồ mới cho con nhớ ngậm ngùi
Lá chuối buồng cau đồng phục mới
Con gà thúng bắp chiếc xe cùi
Văn bằng vét cạn mồ hôi mẹ
Ý chí nung đầy mạch máu tôi
Dù được hay không thành sự nghiệp
Tình sâu nhớ mãi mẫu từ ơi.


Cao Linh Tử
8/8/2014

Nhớ Em Anh Thả Vần Thơ - Vần Thơ Anh Thả Em Nhớ



Thơ Tranh: Kim Quang

* * * Nhớ Em Anh Thả Vần Thơ

NHỚ chiều mái tóc phiêu bay
EM về thu ngả lá gầy nghiêng theo
ANH ngồi nghe tiếng suối reo
THẢ lòng bướm lượn lưng đèo lãng du
VẦN xoay cánh gió ảo mờ
THƠ lăn con sóng qua bờ bến thương

TÌNH len mấy sợi tóc hương
NGHIÊNG đôi tà áo con đường em qua
GIỌT hồng sương chấm môi hoa
NẮNG vàng thương nhớ chiều tà lặng rơi
NGỦ mơ tiếng thác lưng đồi
HỜ đôi mi khép chiều trôi mơ màng
MẮT buồn đưa võng thu sang
MÔI hồng gió chạm dịu dàng thoa son

Trầm Vân

* * *
Cảm Tác:

Vần Thơ Anh Thả Em Nhớ

VẦN xoay sợi vấn sợi vương
THƠ gieo tình thắm dẫn đường gió xiêu
ANH yêu tim nhịp vui reo
THẢ thuyền nghịch hướng xuôi chèo phiêu du
EM mòn mỏi ngóng bến thu
NHỚ tràng giang nhớ đợi chờ người thương

MÔI ngoan nồng thắm nụ son
MẮT nai thu gợn trăng tròn mùa sang
HỜ đưa tay ngọc mơn man
NGỦ vùi suối tóc mây ngàn đồi mơ
NẮNG hoàng hôn trỗi cung tơ
GIỌT sương hôn nhẹ đôi bờ mi cong
NGHIÊNG sầu lá đổ ngoài song
TÌNH xưa lạc bến hoài mong thu về

Kim Oanh

Cô Và Học Trò



Cô ơi! Lộn mất là em
Em ơi! Cô chứ? cho thêm rối mù
Làm em, cô đó ngơ ngu
Làm cô, em đó bài ru tiếng hè
Cô em bãi khóa tiếng ve
Ngôi trường sẽ vắng cô về nơi đâu
Bút này ngơ ngẩn vẽ sầu
Thì cô cứ chấm một khâu vòng tròn
Cho tôi mơ tưởng dấu hôn
Hằng đêm tôi sẽ giấu hồn giữa trang
Trường thôi vắng bóng cô ... nàng
Em còn một chút dấu hoang của người
Này cô, này cả em ơi
Này tôi, này cả cô rồi là em
Nắng mưa trăng tối qua thềm
Tôi đi giữa mộng cô em học trò

Hàn Trân 
10/31/97

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014

Mẹ

      Nhắc về Mẹ là nhắc cả một trời nhớ thương, diễm phúc cho ai còn sống bên Mẹ, có được những giây phút thần tiên khi được Mẹ chăm sóc ...


Mẹ là gió mát ban trưa
Là căn nhà rộng trốn mưa con về

Mẹ là lúa ruộng đồng quê
Nuôi con khôn lớn chẵng nề gió sương ...

Mẹ là giàn bí, mướp hương
Là vườn rau đắng con thường được ăn

MẸ là gió mát trăng thanh
Là hàng tre phủ bao quanh xóm làng

MẸ là gió núi mây ngàn
Giang sơn gấm vóc từng trang sử hùng

MẸ là lòng ái bao dung
Chăm lo săn sóc không ngừng nghĩ ngơi

Mẹ là hạnh phúc nụ cười
Là trăng huyền dịu, là lời thương yêu ....

Hoàng Dũng

Thơ Tranh: Hình Bóng Má


Thơ Quên Đi
Tranh Thơ: Hữu Đức


Kỷ niệm Buôn Mê


           (Tặng T.Th)

Tháng Tám mưa dầm mà anh đi Buôn Mê.
Bỏ lại phía sau những chân trời, góc bể.
Ngắm cơn mưa rừng ào ào đập vào thác đá.
Anh mới hiểu vì sao....không nhớ đường về.

Anh đã tìm em trong nhiều chuyến đi lặng lẽ.
Chỉ thấy những cái tên bỏ quên, bên bài thơ viết dở.
Trên con đường cao nguyên lấm đầy bùn đỏ.
Anh chợt nhận ra là....Em vừa ở đâu đây.

Hình như trong anh đã có mảnh đất này.
Có cơn gió cao nguyên, chở nắng lạc vào ngõ nhỏ.
Có phố dốc Buôn Mê, mà góc nhà em ở đó.
Anh như thấy điều gì....sẽ chờ đợi nơi đây.

Cho dù ngày mai phải từ biệt chốn này.
Và có thể, chẳng hẹn lời trở lại.
Không duy nhất nhưng em là mãi mãi.
Khi ký ức trở về....tìm lại Buôn Mê.

Hhai
Thác DrayNur -Hình phụ bản của tác giả ghi lại

Vũ Hối Thư Họa: Phút Nằm Nôi - Thơ Kim Oanh


Thơ: Kim Oanh
Thư Họa: Vũ Hối

Bóng Nước


Lơ lửng trên sông một con thuyền
Cắm sào lặng lẽ giữa đêm thâu
Cô gái miên man soi bóng nước
Hỏi gió gieo sầu đến bao lâu

Đời vẫn cô đơn như nguyệt sầu
Mới tròn vội khuyết mộng lênh đênh
Xuân xanh tàn tạ theo bóng nước
Ngọn sóng vô tình vẫn bấp bênh

Lòng mãi ngậm ngùi với nắng mưa
Trái tim thổn thức còn đong đưa
Mỗi khi chiếc mái khua bóng nước
Chạnh thấy xót xa kiếp má hồng

Thuyền không chở hết ánh trăng thanh
Tình chưa có bến đón xuân thì
Cô ngồi ngắm nguyệt trên bóng nước
Là biết sông già nhốt tuổi xanh

Biết đến bao giờ bước sang sông
Đời khỏi long đong với con thuyền
Mái chèo thôi đẩy trôi bóng nước
Còn lại trăng vàng bóng người mong

Đỗ Hữu Tài ( Th
ế Thôi)
( July 18-2014

Bao Giờ Đưa Bóng Sang Sông

     
       (Cảm tác từ Bóng Nước của Đỗ Hữu Tài)

Thuyền ai lờ lững trên sông vắng
Gợn hồn bóng nước suốt năm canh
Trôi nổi hoài thuyền theo sóng nước
Nào biết tình bóng đã... từ lâu

Lòng riêng canh cánh giết đời nhau
Tròn khuyết trăng xoay vẫn ngập sầu
Mộng đầu vùi dập bên sóng nước
Vô tình thuyền nhẹ lướt trôi mau

Bóng nước âm thầm ngày nắng mưa
Thuyền trôi bóng đợi ai tiễn đưa
Ngày tiếp nối ngày con sóng nước
Ngược xuôi dòng khua mái thuyền xa

Mơ bóng hằng nga thuyền chở trăng
Lòng sâu trăng ngập trải khoang đầy
Đùa nhau vui cợt trên sóng nước
Mòn mỏi thuyền ơi mãi bóng chờ

Bóng nước mơ gì chuyện sang sông
Hỏi chi câu ấy để đau lòng
Dửng dưng thuyền mãi đeo sóng nước
Bao giờ thuyền chở bóng sang sông

Kim Phượng

Lòng Kiên Trì



     Tôi là cựu giáo viên dạy nhạc tại một trường tiểu học ở DeMoines. Tôi luôn kiếm được lợi tức từ công việc dạy đàn dương cầm _ đó là một công việc mà tôi đã làm suốt 30 năm qua. Trong thời gian đó, tôi đã gặp nhiều trẻ em có những khả năng về âm nhạc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi chưa bao giờ có hứng thú trong việc có học sinh thuộc dạng “cần nâng đỡ” mặc dù tôi đã từng dạy một vài học sinh tài năng. Tuy nhiên tôi cũng dành thì giờ vào những học sinh mà tôi gọi là “trơ nhạc”. Một trong những học sinh đó là Robby.
      Robby đã 11 tuổi khi mẹ cậu thả vào lớp trong bài học dương cầm đầu tiên. Tôi thích những học sinh (đặc biệt là những cậu bé) bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ hơn, và nói điều đó với Robby. Nhưng Robby nói rằng mẹ cậu luôn luôn mơ ước được nghe cậu chơi dương cầm. Vì vậy tôi đã nhận cậu vào học. Thế là Robby bắt đầu những bài học dương cầm đầu tiên và tôi nghĩ rằng đó là sự cố gắng vô vọng. Robby càng cố gắng, cậu càng thiếu khả năng cảm thụ âm nhạc cần thiết để tiến bộ. Nhưng cậu rất nghiêm túc trong việc ôn lại những bài học và những bản nhạc sơ đẳng mà tôi yêu cầu tất cả các học sinh của mình đều phải học. 
Sau nhiều tháng ròng rã, cậu miệt mài cố gắng và tôi vẫn cứ lắng nghe và cố động viên cậu. Cứ hết mỗi bài học hàng tuần, cậu luôn nói: “Một ngày nào đó mẹ em sẽ đến đây để nghe em chơi đàn”. Nhưng điều đó dường như vô vọng. Cậu không hề có một năng khiếu bẩm sinh nào. Tôi chỉ thấy mẹ cậu (một phụ nữ không chồng) ở một khoảng cách khá xa khi thả cậu xuống xe và chờ cậu trong một chiếc xe hơi cũ mèm khi đến đón cậu. Bà luôn vẫy tay và mỉm cười nhưng không bao giờ ở lại lâu. 

      Thế rồi một ngày nọ Robby không đến học nữa, tôi định gọi điện cho cậu nhưng thôi, bởi vì cậu không hề có chút năng khiếu nào, có lẽ cậu đã quyết định theo đuổi một con đường khác. Tôi cũng vui khi cậu không đến nữa. Cậu làm cho sự quảng bá trong việc dạy dỗ của tôi mất ưu thế! Vài tuần sau đó, tôi gởi đến nhà những học sinh của mình các tờ bướm thông báo cho buổi diễn tấu sắp tới. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Robby (cũng đã nhận một tờ bướm) hỏi xem cậu có được tham dự biểu diễn hay không. Tôi bảo với cậu, buổi diễn chỉ dành cho học sinh đang học, vì cậu đã thôi học nên cậu sẽ không đủ khả năng thực hiện. Cậu nói rằng mẹ cậu đang ốm và không thể chở cậu đi học nữa, nhưng cậu vẫn luôn luyện tập. “Cô Hondorf… cô cho em diễn một lần thôi…”, cậu nài nỉ. Tôi không hiểu điều gì đã xui khiến tôi cho phép cậu chơi trong buổi trình tấu đó. Có thể là cậu đã tha thiết quá, hoặc là một điều gì đó trong tôi đã bảo mách tôi rằng điều đó là đúng.

      Đêm biểu diễn đã đến. Trong hội trường đông nghịt những phụ huynh, bạn bè và họ hàng. Tôi bố trí cho Robby ở cuối chương trình trước khi tôi xuất hiện để kết thúc và cảm ơn những học sinh đã trình diễn. Tôi nghĩ rằng tất cả những rủi ro mà cậu có thể gây ra cũng là lúc kết thúc và nếu có bề gì thì tôi cũng có thể “chữa cháy” cho sự biểu diễn yếu kém của cậu bằng tiết mục “hạ màn” của tôi. Và buổi biểu diễn trôi qua không một trở ngại nào. Những học sinh đã luyện tập nhuần nhuyễn và trình bày rất tốt. Thế rồi Robby bước ra sân khấu. Aó quần cậu nhàu nát và mái tóc như tổ quạ.

      “Tại sao cậu lại không ăn vận như những học sinh khác nhỉ? Tôi nghĩ “Tại sao ít ra mẹ cậu lại không chải tóc cho cậu vào cái đêm đặc biệt như thế này chứ? ”


      Robby mở nắp đàn lên và bắt đầu. Tôi ngạc nhiên khi thấy cậu tuyên bố rằng cậu chọn bản Concerto số 21 cung Đô trưởng của Mozart. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe những gì tiếp theo đó. Những ngón tay của cậu lấp lánh, nhảy múa trên những phím ngà. Cậu đã chơi những giai điệu từ nhẹ nhàng êm dịu đến hùng tráng… thật có hồn và đầy điêu luyện trong sự phối âm tuyệt diệu của nhạc Mozart. Chưa bao giờ tôi nghe một đứa trẻ ở tuổi ấy trình bày nhạc Mozart hay đến thế. Sau 6 phút rưỡi cậu đã kết thúc trong một âm thanh huy hoàng mạnh mẽ và mọi người đều đứng lên vỗ tay. Không nén được lệ tràn trong mắt, tôi chạy lên sân khấu và vòng tay ôm lấy Robby trong hạnh phúc: “Cô chưa bao giờ nghe em chơi hay như thế Robby ạ. Làm sao em có thể làm được điều đó? “. Robby giải thích qua chiếc micro “Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt”. 

      Tối hôm ấy, trong hội trường không đôi mắt nào không nhỏ lệ. Khi những người ở Trại Xã Hội đưa cậu từ sân khấu trở về trại mồ côi tôi nhận thấy mắt họ đỏ và sưng mọng. Tôi chợt nghĩ, đời tôi nhiều ý nghĩa biết bao khi đã từng nhận một học sinh như Robby. Không, tôi chưa bao giờ nhận một học sinh nào “cần nâng đỡ”, nhưng đêm đó tôi trở thành người được nâng đỡ bởi Robby. Cậu là thầy của tôi và tôi chỉ là một học trò. Bởi vì cậu đã dạy cho tôi ý nghĩa của sự kiên trì, của tình yêu và niềm tin trong chính con người của chúng ta và điều đó có thể tạo ra cho người khác một cơ hội mà chúng ta không biết vì sao. Điều này càng đặc biệt ý nghĩa hơn khi sau này tôi biết Robby bị chết trong vụ nổ bom điên rồ tại tòa nhà Alfred P. Murrah Federal ở thành phố Oklahoma vào tháng 4 năm 1995 nơi cậu đang biểu diễn. 

Theo Nhị Tường/Reader’s Digest
(Mailoc sưu tầm)