Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014

Mẹ

      Nhắc về Mẹ là nhắc cả một trời nhớ thương, diễm phúc cho ai còn sống bên Mẹ, có được những giây phút thần tiên khi được Mẹ chăm sóc ...


Mẹ là gió mát ban trưa
Là căn nhà rộng trốn mưa con về

Mẹ là lúa ruộng đồng quê
Nuôi con khôn lớn chẵng nề gió sương ...

Mẹ là giàn bí, mướp hương
Là vườn rau đắng con thường được ăn

MẸ là gió mát trăng thanh
Là hàng tre phủ bao quanh xóm làng

MẸ là gió núi mây ngàn
Giang sơn gấm vóc từng trang sử hùng

MẸ là lòng ái bao dung
Chăm lo săn sóc không ngừng nghĩ ngơi

Mẹ là hạnh phúc nụ cười
Là trăng huyền dịu, là lời thương yêu ....

Hoàng Dũng

Thơ Tranh: Hình Bóng Má


Thơ Quên Đi
Tranh Thơ: Hữu Đức


Kỷ niệm Buôn Mê


           (Tặng T.Th)

Tháng Tám mưa dầm mà anh đi Buôn Mê.
Bỏ lại phía sau những chân trời, góc bể.
Ngắm cơn mưa rừng ào ào đập vào thác đá.
Anh mới hiểu vì sao....không nhớ đường về.

Anh đã tìm em trong nhiều chuyến đi lặng lẽ.
Chỉ thấy những cái tên bỏ quên, bên bài thơ viết dở.
Trên con đường cao nguyên lấm đầy bùn đỏ.
Anh chợt nhận ra là....Em vừa ở đâu đây.

Hình như trong anh đã có mảnh đất này.
Có cơn gió cao nguyên, chở nắng lạc vào ngõ nhỏ.
Có phố dốc Buôn Mê, mà góc nhà em ở đó.
Anh như thấy điều gì....sẽ chờ đợi nơi đây.

Cho dù ngày mai phải từ biệt chốn này.
Và có thể, chẳng hẹn lời trở lại.
Không duy nhất nhưng em là mãi mãi.
Khi ký ức trở về....tìm lại Buôn Mê.

Hhai
Thác DrayNur -Hình phụ bản của tác giả ghi lại

Vũ Hối Thư Họa: Phút Nằm Nôi - Thơ Kim Oanh


Thơ: Kim Oanh
Thư Họa: Vũ Hối

Bóng Nước


Lơ lửng trên sông một con thuyền
Cắm sào lặng lẽ giữa đêm thâu
Cô gái miên man soi bóng nước
Hỏi gió gieo sầu đến bao lâu

Đời vẫn cô đơn như nguyệt sầu
Mới tròn vội khuyết mộng lênh đênh
Xuân xanh tàn tạ theo bóng nước
Ngọn sóng vô tình vẫn bấp bênh

Lòng mãi ngậm ngùi với nắng mưa
Trái tim thổn thức còn đong đưa
Mỗi khi chiếc mái khua bóng nước
Chạnh thấy xót xa kiếp má hồng

Thuyền không chở hết ánh trăng thanh
Tình chưa có bến đón xuân thì
Cô ngồi ngắm nguyệt trên bóng nước
Là biết sông già nhốt tuổi xanh

Biết đến bao giờ bước sang sông
Đời khỏi long đong với con thuyền
Mái chèo thôi đẩy trôi bóng nước
Còn lại trăng vàng bóng người mong

Đỗ Hữu Tài ( Th
ế Thôi)
( July 18-2014

Bao Giờ Đưa Bóng Sang Sông

     
       (Cảm tác từ Bóng Nước của Đỗ Hữu Tài)

Thuyền ai lờ lững trên sông vắng
Gợn hồn bóng nước suốt năm canh
Trôi nổi hoài thuyền theo sóng nước
Nào biết tình bóng đã... từ lâu

Lòng riêng canh cánh giết đời nhau
Tròn khuyết trăng xoay vẫn ngập sầu
Mộng đầu vùi dập bên sóng nước
Vô tình thuyền nhẹ lướt trôi mau

Bóng nước âm thầm ngày nắng mưa
Thuyền trôi bóng đợi ai tiễn đưa
Ngày tiếp nối ngày con sóng nước
Ngược xuôi dòng khua mái thuyền xa

Mơ bóng hằng nga thuyền chở trăng
Lòng sâu trăng ngập trải khoang đầy
Đùa nhau vui cợt trên sóng nước
Mòn mỏi thuyền ơi mãi bóng chờ

Bóng nước mơ gì chuyện sang sông
Hỏi chi câu ấy để đau lòng
Dửng dưng thuyền mãi đeo sóng nước
Bao giờ thuyền chở bóng sang sông

Kim Phượng

Lòng Kiên Trì



     Tôi là cựu giáo viên dạy nhạc tại một trường tiểu học ở DeMoines. Tôi luôn kiếm được lợi tức từ công việc dạy đàn dương cầm _ đó là một công việc mà tôi đã làm suốt 30 năm qua. Trong thời gian đó, tôi đã gặp nhiều trẻ em có những khả năng về âm nhạc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi chưa bao giờ có hứng thú trong việc có học sinh thuộc dạng “cần nâng đỡ” mặc dù tôi đã từng dạy một vài học sinh tài năng. Tuy nhiên tôi cũng dành thì giờ vào những học sinh mà tôi gọi là “trơ nhạc”. Một trong những học sinh đó là Robby.
      Robby đã 11 tuổi khi mẹ cậu thả vào lớp trong bài học dương cầm đầu tiên. Tôi thích những học sinh (đặc biệt là những cậu bé) bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ hơn, và nói điều đó với Robby. Nhưng Robby nói rằng mẹ cậu luôn luôn mơ ước được nghe cậu chơi dương cầm. Vì vậy tôi đã nhận cậu vào học. Thế là Robby bắt đầu những bài học dương cầm đầu tiên và tôi nghĩ rằng đó là sự cố gắng vô vọng. Robby càng cố gắng, cậu càng thiếu khả năng cảm thụ âm nhạc cần thiết để tiến bộ. Nhưng cậu rất nghiêm túc trong việc ôn lại những bài học và những bản nhạc sơ đẳng mà tôi yêu cầu tất cả các học sinh của mình đều phải học. 
Sau nhiều tháng ròng rã, cậu miệt mài cố gắng và tôi vẫn cứ lắng nghe và cố động viên cậu. Cứ hết mỗi bài học hàng tuần, cậu luôn nói: “Một ngày nào đó mẹ em sẽ đến đây để nghe em chơi đàn”. Nhưng điều đó dường như vô vọng. Cậu không hề có một năng khiếu bẩm sinh nào. Tôi chỉ thấy mẹ cậu (một phụ nữ không chồng) ở một khoảng cách khá xa khi thả cậu xuống xe và chờ cậu trong một chiếc xe hơi cũ mèm khi đến đón cậu. Bà luôn vẫy tay và mỉm cười nhưng không bao giờ ở lại lâu. 

      Thế rồi một ngày nọ Robby không đến học nữa, tôi định gọi điện cho cậu nhưng thôi, bởi vì cậu không hề có chút năng khiếu nào, có lẽ cậu đã quyết định theo đuổi một con đường khác. Tôi cũng vui khi cậu không đến nữa. Cậu làm cho sự quảng bá trong việc dạy dỗ của tôi mất ưu thế! Vài tuần sau đó, tôi gởi đến nhà những học sinh của mình các tờ bướm thông báo cho buổi diễn tấu sắp tới. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Robby (cũng đã nhận một tờ bướm) hỏi xem cậu có được tham dự biểu diễn hay không. Tôi bảo với cậu, buổi diễn chỉ dành cho học sinh đang học, vì cậu đã thôi học nên cậu sẽ không đủ khả năng thực hiện. Cậu nói rằng mẹ cậu đang ốm và không thể chở cậu đi học nữa, nhưng cậu vẫn luôn luyện tập. “Cô Hondorf… cô cho em diễn một lần thôi…”, cậu nài nỉ. Tôi không hiểu điều gì đã xui khiến tôi cho phép cậu chơi trong buổi trình tấu đó. Có thể là cậu đã tha thiết quá, hoặc là một điều gì đó trong tôi đã bảo mách tôi rằng điều đó là đúng.

      Đêm biểu diễn đã đến. Trong hội trường đông nghịt những phụ huynh, bạn bè và họ hàng. Tôi bố trí cho Robby ở cuối chương trình trước khi tôi xuất hiện để kết thúc và cảm ơn những học sinh đã trình diễn. Tôi nghĩ rằng tất cả những rủi ro mà cậu có thể gây ra cũng là lúc kết thúc và nếu có bề gì thì tôi cũng có thể “chữa cháy” cho sự biểu diễn yếu kém của cậu bằng tiết mục “hạ màn” của tôi. Và buổi biểu diễn trôi qua không một trở ngại nào. Những học sinh đã luyện tập nhuần nhuyễn và trình bày rất tốt. Thế rồi Robby bước ra sân khấu. Aó quần cậu nhàu nát và mái tóc như tổ quạ.

      “Tại sao cậu lại không ăn vận như những học sinh khác nhỉ? Tôi nghĩ “Tại sao ít ra mẹ cậu lại không chải tóc cho cậu vào cái đêm đặc biệt như thế này chứ? ”


      Robby mở nắp đàn lên và bắt đầu. Tôi ngạc nhiên khi thấy cậu tuyên bố rằng cậu chọn bản Concerto số 21 cung Đô trưởng của Mozart. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe những gì tiếp theo đó. Những ngón tay của cậu lấp lánh, nhảy múa trên những phím ngà. Cậu đã chơi những giai điệu từ nhẹ nhàng êm dịu đến hùng tráng… thật có hồn và đầy điêu luyện trong sự phối âm tuyệt diệu của nhạc Mozart. Chưa bao giờ tôi nghe một đứa trẻ ở tuổi ấy trình bày nhạc Mozart hay đến thế. Sau 6 phút rưỡi cậu đã kết thúc trong một âm thanh huy hoàng mạnh mẽ và mọi người đều đứng lên vỗ tay. Không nén được lệ tràn trong mắt, tôi chạy lên sân khấu và vòng tay ôm lấy Robby trong hạnh phúc: “Cô chưa bao giờ nghe em chơi hay như thế Robby ạ. Làm sao em có thể làm được điều đó? “. Robby giải thích qua chiếc micro “Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt”. 

      Tối hôm ấy, trong hội trường không đôi mắt nào không nhỏ lệ. Khi những người ở Trại Xã Hội đưa cậu từ sân khấu trở về trại mồ côi tôi nhận thấy mắt họ đỏ và sưng mọng. Tôi chợt nghĩ, đời tôi nhiều ý nghĩa biết bao khi đã từng nhận một học sinh như Robby. Không, tôi chưa bao giờ nhận một học sinh nào “cần nâng đỡ”, nhưng đêm đó tôi trở thành người được nâng đỡ bởi Robby. Cậu là thầy của tôi và tôi chỉ là một học trò. Bởi vì cậu đã dạy cho tôi ý nghĩa của sự kiên trì, của tình yêu và niềm tin trong chính con người của chúng ta và điều đó có thể tạo ra cho người khác một cơ hội mà chúng ta không biết vì sao. Điều này càng đặc biệt ý nghĩa hơn khi sau này tôi biết Robby bị chết trong vụ nổ bom điên rồ tại tòa nhà Alfred P. Murrah Federal ở thành phố Oklahoma vào tháng 4 năm 1995 nơi cậu đang biểu diễn. 

Theo Nhị Tường/Reader’s Digest
(Mailoc sưu tầm)

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Tâm Hồn Cha Mẹ


Tâm hồn Mẹ đầy lòng nhân ái
Tâm hồn Cha vững chảy vượt nan
Nghĩa tào khang Mẹ Cha gìn giữ
Mực thủy chung tròn đạo phu thê

Khởi sự nghiệp quê nghèo tay trắng
Gắng công làm dành dụm chắt chiu
Lo đàn con mưa sớm nắng chiều
Khôn lớn học điều hay lẽ phải

Rồi mai đây công thành danh toại
Bước vào đời đường ngập trải hoa
Kiến thức nhận đâu là cạm bẫy
Đạo đức đầu con hãy vững tin

Chân lý đúng, ta người quyết định
Vị nể tình làm trái kỷ cương
Chỉ lần sai lầm lỡ bước đường
Đạo đức trái xem thường Cha Mẹ

Lời nhắn nhủ con đừng coi nhẹ
Bởi Mẹ Cha trãi nghiệm đời qua
Danh lợi hám đâu là cuộc sống
Thủ túc tình Mẹ ngóng Cha mong

Bấy nhiêu đủ an lòng Cha Mẹ
Tạm biệt con nhẹ gánh lên đường
Vui vẻ đến "Vườn Hoa Thế Giới"

Pleiku 1-8-2011
Lê Kim Hiệp

Thơ Tranh: Má Ơi Con Đã Mồ Côi


Trích Thơ: Phạm Hồng Ân
Thơ Tranh: Kim Oanh

Mùa Báo Hiếu

"Công cha bao năm tình thâm lai láng
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang"(*)
Gian khổ đời cha mẹ chẳng hề than
Con khôn lớn chính nguồn vui bất tận
Cha Mẹ khuất biết tìm đâu cho thấy
Công ơn nào sánh được với song
đường
 
Đốt nén nhang khói quyện nỗi nhớ thương  
Dâng phụ mẫu mùa Vu Lan tháng Bảy
                                          
Việt Hoà
(*) Ca Dao

Kiếp Người - Thơ Khúc Giang - Hương Nam Diễn Ngâm



Bán bưng, buôn gánh chưa từng trãi
Bờ vai gầy mẹ phải gánh gồng
Dầm mưa dãi nắng cũng không
Nhưng làn tóc sớm điểm sương bạc màu

Bao niên trường thương đau, cực khổ
Sinh ly tử biệt số kiếp người
“Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu đời đắng cay” (*)

Con đau, suốt canh dài mẹ thức
Bước đầu đời, mẹ dắt mẹ dìu
Khi người đến tuổi về chiều
Con không kề cận nương dìu sớm hôm

Mông lung, trước đường cùng lo ngại
Mối sầu giăng ngập lối con đi
Thời gian nhuộm tuổi xuân thì
Mẹ thời an giấc, biệt ly nghìn trùng

Giờ đây con ngại ngùng, chùng bước
Bao lần sai-thác trước chữ “thương”
Bề trên xin vạch hướng đường
Cho con sáng suốt tỏ tường lối đi

Thơ: Khúc Giang

Diễn Ngâm: Hương Nam

Sơn Phòng Mạn Hứng Kỳ 2 - 山房漫興其二

山房漫興其二       Sơn phòng mạn hứng kỳ 2

是非念逐朝花落,      Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
名利心隨夜雨寒。      Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn
花盡雨晴山寂寂,      Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
一聲啼鳥又春殘。      Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn

                陳仁宗                                Trần Nhân Tôn

Sáng hoa rơi cùng nỗi thị phi đã muốn rũ bỏ hết
Đêm mưa lạnh với lòng danh lợi không còn tha thiết nữa
Nay hoa đã rụng hết , mưa cũng đã tạnh , một mình trong núi vắng
Một tiếng chim kêu, lại đã cuối xuân rồi
Chú Thích: Thị phi = phải trái, đúng sai.
Dịch:
            Mạn Hứng 2
 Sáng ngắm hoa rơi, trái phải chi nữa 
Đêm trải mưa lạnh, danh lợi bỏ thôi
Hoa đã rụng hết, mưa tạnh, núi vắng 
Một tiếng chim kêu, lại cuối xuân rồi.


Lời Thêm: Ôi chao mê lắm chữ nghĩa của tiền nhân. Thị phi hoa lạc. Danh lợi vũ hàn. Hoa tận vũ tình, sơn tịch tịch. Nhất thanh đề điểu, "hựu" xuân tàn. Một tiếng chim kêu, "lại" cuối xuân rồi. Nếu người đọc không cảm nhận được nét an nhiên  độc đáo này trong nguyên tác thì đó chính  là lỗi của người chuyển dịch.  
Phạm Khắc Trí
* * *
Các Bản Dịch:

Sơn Phòng Mạn Hứng 2
Thị phi theo cánh hoa sớm rụng 
Lợi danh đà tàn lụn mưa đêm 
Hoa rơi mưa tạnh núi êm 
Chim kêu một tiếng buồn tênh xuân tàn 
Mailoc phỏng dịch
Cali 7-17-14
* * *
Sơn Phòng Mạn Hứng 2
Thị phi đã hết như hoa rụng,
Danh lợi lạnh lùng tựa tuyết tan.
Mưa tạnh hoa rơi rừng núi vắng,
Chim kêu một tiếng báo xuân tàn!

Đỗ Chiêu Đức.

* * *
Cảm Xúc Nơi Căn Phòng Trong Núi Kỳ 2
Phải trái như hoa rơi buổi sớm
Lợi danh nguội lạnh tựa mưa đêm
Mưa dừng hoa rụng non hiu quạnh
Thảng thốt xuân tàn một tiếng chim.
Quên Đi

Thứ Tư, 6 tháng 8, 2014

Khóc Đời Ô Thước - Thơ Yên Dạ Thảo


Thơ: Yên Dạ Thảo
Nhạc: Lòng Mẹ - Tác giả Y Vân
Đàn Bầu: Nhạc sĩ - Phạm Đức Thành

Thực Hiện: Khúc Giang 

Bài Thơ Nhớ Mẹ


Nhàn nhạt sương mờ như khói tỏa
Mây đùn lớp lớp phủ đồi xa
Hoàng hôn thu lại từng tia nắng
Lòng kẻ chinh nhân chạnh nhớ nhà

Nhớ về chốn ấy xa xa lắm
Bên lũy tra già rộn tiếng chim
Giếng nước mẹ già soi tóc bạc
Lưng còng- chắc hẳn đã còng thêm

Một nắng hai sương bạc áo nghèo
Tay sần, con dại mẹ nâng niu
Bờ vai của mẹ đội quang gánh
Hạt thóc- hạt vàng mẹ chắt chiu

Con lớn dần theo với tháng ngày
Với màu dâm bụt, sắc hoa mai
Cánh diều nương gió lên cao vút
Con có mẹ hiền chắp cánh bay

Và tình yêu mẹ con trao gửi
Bến nước con đò tiếng thủy chung
Mỗi bước đường đi con có mẹ
Rừng thêm lá biếc, suối thêm trong

Lâu rồi mẹ nhỉ con xa mẹ
Trĩu nặng lòng con tiếng mẹ khuyên
“.. con hãy yên tâm nơi trận mạc.
Quê nhà tắt lửa, xóm giềng trông…”

Biên tái chiều nay trời trở lạnh
Thương mẹ nơi xa : áo đủ không?
Ở đây, dù trải bao sương gió
Nhưng ấm lòng con tiếng “Mẹ yêu”

Trần Thị Dã Quỳ

Chữ Hiếu Hôm Nay



    Trong giờ lễ Chủ Nhật, tại nhà thờ Saint Columban, linh mục T.  đã làm nhiều người nghe phải nhỏ lệ khi ông kể một câu chuyện về một người Mẹ đã nuôi cả mười đứa con thành công về tài chánh, đứa bác sĩ, đứa kỹ sư, dược sĩ, nhưng rồi cả mười đứa con ấy, không nuôi nổi một bà Mẹ già. Đứa nào cũng có lý do để từ chối không muốn ở với Mẹ.
      Linh mục T. cũng kể lại lúc ông còn ở Chicago, có một lần trong thời tiết lạnh giá, đến thăm một bà Mẹ, thấy căn nhà rộng mông mênh, không có ai, vì hai vợ chồng đứa con đi làm cả. Điều ông quan tâm là thấy trong nhà rất lạnh, bà Mẹ phải mặc hai áo nhưng vẫn lạnh cóng. Ông có hỏi bà mẹ tại sao không mở máy sưởi, thì bà Mẹ cho biết là không dám mở vì sợ khi con đi làm về, sẽ càm ràm là “tốn tiền điện quá!” Những đứa con sang trọng kia, có thể chờ đến ngày Lễ Mẹ, thì đưa mẹ ra ăn tô phở, hoặc gọi điện thoại về nhà, nói: “I love you, mom!” Thế là đủ bổn phận của một đứa con thành công ở Mỹ đối với người mẹ yêu dấu của mình.
      Những Bà Mẹ ở đây là hiện thân của Mẹ Việt Nam đau khổ, đã hy sinh cả cuộc đời cho con cái, nhưng khi con cái phụ rẫy, bỏ bê, cũng im lặng chấp nhận cho đến hết cuộc đời.
Có biết bao nhiêu trường hợp như thế trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại? Biết bao nhiêu bà mẹ âm thầm, lặng lẽ chịu đựng tất cả những đau khổ từ khi lấy chồng, sinh con, rồi ráng nuôi dạy con nên người, sau đó lại chấp nhận những đứa con bất hiếu như một định mệnh mà không hề thốt lời than vãn?
Một bà mẹ đã dành dụm bao năm buôn gánh bán bưng để cho con vượt biên một mình, sau đó, khi qua đến Mỹ, thằng con sợ vợ quá, không dám để mẹ ngủ trong phòng, mà bảo mẹ phải ngủ dưới đất trong phòng khách. Một lần, con chó xù của hai vợ chồng đứng đái ngay vào đầu mẹ. Bà mẹ kêu lên, thì đứa con dâu cười, trong khi chồng đứng yên, chẳng dám nói gì.
      Bà mẹ khác, không được ở chung với con trai, phải thuê một phòng của người bạn, vì sức khoẻ yếu, lúc nào cũng lo là chết không có ai chôn. Khi nghe nói về bảo hiểm nhân thọ, bà có năn nỉ thằng con trai đứng tên mua giùm, để bà bớt chút tiền già và đóng hàng tháng để mai sau, con có tiền lo hậu sự cho bà, nhưng đứa con dâu nhất định không chịu, cho rằng “tốn tiền vô ích, chết thì thiêu, liệng tro xuống biển là xong, chôn làm gì cho mất thời giờ đi chăm sóc.” Bà cụ uất quá, phát bệnh và qua đời. Không biết rồi bà có được chôn cất đàng hoàng theo ý muốn, hay lại bị cô con dâu vứt tro ra biển.
      Không thiếu những bà mẹ khi đến thăm con trai, phải ngồi nhìn vợ chồng ăn uống ríu rít với nhau, vì con dâu không chịu dọn thêm một chén cơm mời mẹ. Một bà mẹ nhớ con nhớ cháu quá, đến thăm con, nhưng sợ con dâu sẽ nhiếc móc thằng chồng, nên vừa vào tới cửa đã vội thanh minh: “Mẹ không ăn cơm đâu! Mẹ vừa ăn phở xong, còn no đầy bụng. Mẹ chỉ đến cho thằng cháu nội món quà thôi!”
Không thiếu những bà mẹ vì lỡ đánh đổ một chút nước trên thảm mà bị con nhiếc móc tơi bời. “Trời đất ơi! Cái thảm của người ta cả vài ngàn bạc mà đánh đổ đánh tháo ra thế thì có chết không?”
Có bà mẹ bị bệnh ung thư, biết là sắp chết, mong được con gái đưa về Việt Nam, nhưng con đổ thừa cho chồng không cho phép về, rồi biến mất tăm, sợ trách nhiệm. Mẹ phải nhờ người đưa ra phi trường, nhờ người dưng đi cùng chuyến bay chăm sóc cho đến khi về tới nhà. Từ lúc đó đến lúc mẹ mất, cả con gái lẫn con rể, cháu chắt cũng chẳng hề gọi điện thoại hỏi thăm một lần.
      Một bà mẹ già trên 70 tuổi rồi, có thằng con trai thành công lẫy lừng, bốn năm căn nhà cho thuê, nhưng bà mẹ phải lụm cụm đi giữ trẻ, nói đúng ra là đi ở đợ vì phải lau nhà, rửa chén, nấu cơm, để có tiền tiêu vặt và để gộp với tiền già, đưa cả cho… con trai, một thanh niên ham vui, nhẩy nhót tung trời, hai, ba bà vợ. Mỗi khi gặp bà con, chưa cần hỏi, bà đã thanh minh: “Ấy, tôi ngồi không cũng chả biết làm gì, thôi thì đi làm cho nó qua ngày, kẻo ở nhà rộng quá, một mình buồn lắm!”
      Trong một cuộc hội thoại, một bà mẹ đã khóc nức nở vì chỉ đứa con gái phụ rẫy, bỏ bà một mình cô đơn. Bà chỉ có một đứa con gái duy nhất, chồng chết trong trại cải tạo. Trong bao nhiêu năm, bà đã gồng gánh nuôi con, rồi cùng vượt biên với con, tưởng mang hạnh phúc cho hai mẹ con, ai ngờ cô con chờ đúng 18 tuổi là lẳng lặng xách vali ra đi. Nước mắt bà đã chảy cho chồng, nay lại chảy hết cho con.


      Tại những nhà dưỡng lão gần trung tâm Thủ Đô Tị Nạn, có biết bao nhiêu bà mẹ ngày đêm ngóng con đến thăm nhưng vẫn biệt vô âm tín. Một bà cụ suốt ba năm dài, không bao giờ chịu bước xuống giường, vì biết rằng chẳng bao giờ có đứa con nào đến thăm. Bà đã lẳng lặng nằm suốt ngày trên giường như một sự trừng phạt chính mình vì đã thương yêu con cái quá sức để đến tình trạng bị bỏ bê như hiện tại. Sau ba năm, bà mất vì các vết lở, vì nỗi u uất, mà những người chăm sóc bà vẫn không biết gia cảnh bà như thế nào, vì bà không hề nhắc đến. Có điều chắc chắn là khi bà còn là một thiếu nữ, bà phải là một mẫu người làm cho nhiều người theo đuổi, quyến luyến, tôn sùng. Chắc chắn bà đã trải qua bao năm tháng thật tươi đẹp, vì cho đến khi mất, khuôn mặt bà, những ngón tay bà, và dáng dấp bà vẫn khoan thai, dịu dàng, pha một chút quý phái. Nhưng tất cả những bí ẩn đó đã được bà mang xuống mồ một cách trầm lặng.
      Một buổi chiều tháng 5, tại một tiệm phở Việt Nam, một mẹ già đứng tần ngần bên cánh cửa. Khi được mời vào, mẹ cho biết mẹ không đói, nhưng chỉ muốn đứng nhìn những khuôn mặt vui vẻ, để nhớ đến con mình, đứa con đã bỏ bà đi tiểu bang khác, để mẹ ở với đứa cháu là một tên nghiện rượu, đã hăm doạ đánh mẹ hoài. Hắn đã lấy hết tiền trợ cấp của mẹ, lại còn xua đuổi mẹ như cùi hủi. Hôm nay, hắn lái xe chở mẹ đến đầu chợ, đẩy mẹ xuống và bảo mẹ cút đi! Mẹ biết đi đâu bây giờ?
      Trong một căn phòng điều trị tại bệnh viện Ung Thư, một bà cụ đã gào lên nức nở khi người bệnh nằm bên được chuyển đi nơi khác. “Bà ơi! Bà bỏ tôi sao? Bà ơi! Đừng đi! Đừng bỏ tôi nằm một mình! Tôi sợ lắm, bà ơi!” Những tiếng kêu, tiếng khóc nấc nghẹn đó lặp đi lặp lại làm người bệnh sắp chuyển đi cũng khóc theo. Người y tá cũng khóc lặng lẽ. Anh con trai của người sắp đi xa, không cầm được giọt lệ, cũng đứng nức nở. Cả căn phòng như ngập nước mắt. Mầu trắng của những tấm trải giường, mầu trắng của tấm áo cánh của bà cụ như những tấm khăn liệm, tự nhiên sáng lên, buồn bã. Bà cụ nằm lại đó đã không có đứa con nào ở gần đây. Chúng đã mỗi đứa mỗi nơi, như những cánh chim không bao giờ trở lại.
      Trên đại lộ Bolsa, thỉnh thoảng người ta thấy một bà mẹ già, đẩy chiếc xe chợ trên chứa đầy đồ linh tinh. Mẹ chỉ có một cái nón lá để che nắng che mưa. Khuôn mặt khắc khổ của mẹ như những đường rãnh bùn lầy nước đọng, đâu đó ở chợ Cầu Ông Lãnh, Thủ Thiêm, gần bến Ninh Kiều, Bắc Mỹ Thuận hay ở gần cầu Tràng Tiền, Chợ Đông Ba? Mẹ đi về đâu, hỡi Mẹ? Những đứa con của mẹ giờ chắc đang vui vầy…

Chu Tất Tiến

Mẹ Tôi


Mẹ mang hơi ấm cho con
Từ dòng sữa mẹ ngọt còn thơm hương
Đến đây ngồi với mẹ thương
Để nghe mẹ kể mười phương trăm đường

Mẹ tôi áo trắng bạc màu
Vai sờn áo rách cũng mau vá đầy
Thương con không đánh roi nào
Để người kể lể chuyện quây quần nhà

Nay tôi với mẹ đã xa
Con gìn giữ lấy tiếng la của người
Khắc ghi nhớ mẹ chẳng vơi
Mẹ còn con nhớ đủ mười phương châm

Lục Lạc

Thơ Tranh: Khúc Ngâm Của Người Lãng Tử


Thơ: Song Quang
Thơ Tranh: Kim Oanh

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

Nguồn Gốc Lễ Vu Lan Trong Văn Hóa Dân Gian


Lễ Vu Lan chính thức được bắt nguồn từ một bản kinh ngắn của Phật giáo Đại Thừa: “Phật Thuyết kinh Vu Lan Bồn” do ngài Trúc Pháp Hộ dịch từ chữ  Phạn sang chữ Hán vào đời Tây Tấn (khoảng năm 750-810 sau CN) và được truyền vào Việt Nam không rõ năm nào! Được xuất phát từ giáo lý nhân sinh của Phật Giáo, mục đích thể hiện chữ hiếu của con người. Đồng thời, cũng thể hiện tấm lòng vị tha đối với những linh hồn bơ vơ, không nơi nương tựa.
Chữ “Vu Lan” có nguồn gốc từ chữ Phạn “Ulambana”, dịch ra chữ Hán là “Giải đảo huyền”. Giải: có nghĩa là gỡ ra khỏi vướng mắc, cởi trói buộc, giải mê lầm; đảo: ngược, (còn có nghĩa là những hành động điên đảo, sai lầm); huyền: treo. “Giải đảo huyền” có ý nghĩa sâu xa là giải thoát khỏi những nỗi phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc tham sân si.
Lễ Vu Lan còn có tên là “Vu Lan Bồn”. Chữ “bồn” có nghĩa là chậu, dùng để diễn nghĩa chậu thc ăn dâng cúng. Lễ “Vu Lan” hay “Vu Lan Bồn” có nghĩa là lễ dâng cúng thức ăn lên Tam bảo để xin chú nguyện cho ông bà, cha mẹ, những người quá cố trong bảy đời (tức là cửu huyền thất tổ). Truyền thuyết dân gian cho rằng, khi còn sống ở trần gian, nếu ai đã làm điều gì tội lỗi, thì khi chết đi sẽ bị đọa vào địa ngục. Thế nhưng, nếu như được sự dâng cúng, chú nguyện, người đó sẽ được nhờ ân đức Tam bảo, thoát ra khỏi địa ngục, sanh về cõi trời an lành khác.
Cũng theo truyền thuyết dân gian, Bồ tát Mục Kiền Liên tìm mẹ dâng cơm nơi địa ngục vào ngày rằm tháng bảy. Mẹ của Ngài là bà Thanh Đề liền chụp ngay bát cơm khi Ngài dâng lên, một tay che không cho người khác thấy vì sợ bị giật, một tay bốc cơm ăn. (Hình ảnh này, nói lên cái tâm mê muội, tham lam của con người. Và hình ảnh khi bà đưa tay bốc cơm thì cơm hóa than hồng, bụng đói mà không ăn được nói lên cảnh giới địa ngục). Với lòng hiếu thảo của mình, Bồ tát Mục Kiền Liên đã thấu động đến lòng trời, cứu mẹ thoát khỏi cảnh đọa đày! Thế cho nên, vào ngày rằm tháng bảy hàng năm, người ta tin rằng nếu với lòng từ bi, người ta cúng vật phẩm cho các vong hồn ấy được ăn uống, sẽ có nhiều vong hồn được ra khỏi địa ngục sau nhiều ngày bị giam cầm, phải đói khát khổ sở!


Ngày rằm tháng bảy này có tên là ngày “xá tội vong nhân”. Trong ngày này, việc cúng kiến bao giờ cũng được tổ chức đầu tiên tại chùa, rồi mới đến tại nhà. Việc cúng kiếng này, phải được tổ chức vào ban ngày và tránh vào ban đêm, khi mặt trời đã lặn.
       Hình thức buổi lễ cúng tại nhà được thể hiện như sau: một mâm cơm cúng tổ tiên trên bàn thờ và một mâm cơm cúng chúng sinh ở trước sân nhà.
 Trên mâm cơm cúng tổ tiên, người ta bày lên một mâm cỗ mặn, có tiền, vàng, vật dụng dành cho người cõi âm làm bằng giấy (như quần áo, giày dép…) để mong người cõi âm cũng có được cuộc sống tiện nghi như khi còn sống trên dương thế.
Trên mâm cơm cúng chúng sinh, lễ vật gồm có quần áo đủ màu sắc, thức ăn gồm khoai, bắp, chè, kẹo, bánh quế, cháo trắng, tiền, vàng, nước lã, gạo muối…
Ngày nay, tập tục cúng cô hồn vào ngày xá tội vong nhân vẫn còn tồn tại trong dân gian, tùy theo khả năng kinh tế của mỗi gia đình. Người khá giả thì dâng cúng mâm cao cỗ đầy, kém hơn thì mâm cơm thường hoặc cháo trắng, nhưng trong mâm cúng lúc nào cũng có đủ các loại bánh trái, giấy tiền vàng mã. Đặc biệt, ở nông thôn miền Tây nước ta, người ta thường bày mâm cúng trên các bè được kết bằng các thân cây chuối hay bập dừa nước thả trên sông. Theo đó, gia chủ thắp nhang khấn vái, mời vong hồn các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, hà sa ngạ quỷ, thập loại cô hồn về nhận lễ và dùng cây gõ lên gáo dừa. Sau đó, người ta đốt vàng mã, rải gạo muối rồi dùng sào đẩy bè ra giữa dòng rồi để bè tự trôi theo dòng nước.


Cũng vào dịp rằm tháng bảy -tức là lễ Vu Lan-, dù nghèo túng đến đâu, con cháu cũng có một thứ gì đó để bày tỏ tấm lòng. Người ta dâng thức ăn ngon, biếu quần áo mới cho cha mẹ. Nếu cha mẹ đã khuất, thì làm lễ cúng kiếng gởi xuống suối vàng. Đây là tục lệ tốt, nét đẹp của văn hóa dân tộc, nên cần được bảo tồn.

2/8/2014
Hà Nguyên

Gởi Người Tháng Bảy


Lại sang mùa mưa ngâu ướt lên em
Ngày dài hơn và đêm mòn vết đợi
Chức nữ-Ngưu lang đôi bờ vời vợi
Khóc Ngân Hà lai láng lệ sầu tuôn

Tháng bảy về rồi lòng thêm bương vương 
Trời u ám bảo em cười sao được!
Mình vẫn xa nhau tình không hẹn trước
Trăng dỗi hờn tha thẩn ngó sau mây

Nghe khát thèm hơi ấm một vòng tay
Của Mẹ ngày xưa vỗ chiều bé bỏng
Em quay quắt bên đời ôm chiếc bóng
Mùa Vu Lan nhớ ơn nghĩa cao dày

Cầm chiếc lá vàng đầu thu trên tay
Chợt se lòng với tóc mình sợi bạc
Leo lẻo con tim - vui buồn vẫn hát
Khúc yêu thương và khát vọng quay về! 



Hương Ngọc

Thơ Tranh: Du Tử Ngâm


Thơ: Phạm Khắc Trí
Thơ Tranh: Kim Oanh

Nhạc Thơ Ru Mộng


Buổi “chiều thơ nhạc” ai ngờ gặp
Tiếng nhạc du dương ngất điệu tình
Em hát đam mê, đàn réo rắt
Hồn ta hư nát bỗng hoàn sinh

Ngắm em uyễn chuyễn chân khiêu vũ
Duyên dáng điên mê ánh nguyệt tròn
Bước gió giao mùa Thu liễu rũ
Ngập ngừng cười nụ, ướt môi son

Tâm tình như thể xanh mùa biếc
Nhánh lá ru đời, tóc áo bay
Ta thấy nơi em toàn ngọc bích
Cầu vòng ngũ sắc nối chân mây

Ta từ thân nhện buông mình xuống
Căng lưới quấn vòng eo nhỏ em
Hơi thở thơm môi mềm khát muốn
Trăng tà, nguyệt tận cuốn hương đêm

Ta như ngủ giấc tròn thơ mộng
Nhạc đẩy hồn đưa bóng cuộn hình
Tiếng sắt, lời vàng chen nhịp trống
Ai về huyễn hoặc những hồn linh?

Nhạc thơ ru mộng ôi là nhớ
Vũ nữ thân gầy tóc ủ sương
Ướt mật thềm trăng hồn ta vỡ
Em về thiếp ngủ giữa vần thương

Phạm Tương Như

16  /  07  /  2014

Đêm tàn Bến Ngự - Dương Thiệu Tước - Ca sĩ Hà Thanh


Thơ: Trầm Vân
Thơ Tranh: Kim Quang


Sáng Tác: Dương Thiệu Tước
Tiếng Hát: Hà Thanh
Thực Hiện: Trucxinh Nguyen

Thứ Hai, 4 tháng 8, 2014

Thành Kính Phân Ưu Cựu Hiệu Trưởng Trường Giồng Ké Nguyễn Trung Tâm



THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Chúng em vừa hay tin chẳng lành, Thầy Nguyễn Trung Tâm
Cựu Hiệu Trưởng trường Tiểu Học. Giồng Ké, Tĩnh Vĩnh Long
. Sinh năm 1925
. Mệnh chung lúc 10 giờ 55 ngày 25 tháng 7 năm 2014
.Nhằm 29 tháng 6 năm Giáp Ngọ
.Hưởng thọ 89
. Lễ hoả táng tại chùa Mới Phường 6 Thành Phố Trà Vinh.

Chúng em vô cùng đau đớn hay tin này. 
Thành kính phân ưu, chia buồn cùng Cô và Tang quyến.
Nguyện cầu Hương Linh Thầy sớm về Miền Cực Lạc.


Đồng Kính Phân Ưu

- Châu Thị Mỹ Hạnh
- Lê Thị Kim Phượng
- Huỳnh Thiên Trung


Một Thời Đã Qua


(Vài cảm-nghĩ và kỷ-niệm về Đời Thầy)
 Trong một lớp học, SG
      Như tiếng vọng âm vang trong lòng núi, Tiếng Nói Của Thầy âm vang trong đáy thẳm hồn tôi. Nếu thể xác tôi được nuôi bằng giòng sữa mẹ, bằng mồ hôi nước mắt của cha, thì trí óc tôi đã lớn lên trong Tiếng Nói Của Thầy...Thầy ơi! Tiếng Nói Của Thầy sao thiêng liêng và quí báu! Khi nào trên thế giới này còn có những bầy học sinh cắp sách đến trường, khi nào dưới mái học đường còn vang lên tiếng đọc ê a, thì tâm hồn tôi vẫn còn vang lên Tiếng Nói Của Thầy. (Tiếng Nói Của Thầy).

      Biết tôn kính thày ngay từ lúc theo bước chân cha tôi dẫn giắt đến trường. Dần dần lớn lên cho đến ngày nay, công ơn giáo dục của Thầy (chữ chỉ chung thày cô giáo) vẫn luôn luôn được giữ trong lòng tôi, mặc dù đường đời không hoàn toàn bằng phẳng và nghề thày hoàn toàn không phải là ước mơ đầu đời. Ta đứng bên nàng, ôi người yêu khoa-học/ Những hoàng hôn tím lạnh cả không gian/ Hay đêm khuya học dưới ánh đèn vàng/ Đôi làn sóng giao thoa tìm ánh mắt.(TìnhKhoaHọc). Nhiều lần đi qua mấy công thự xây dựng từ thời Pháp, nhìn thấy ở chỗ cao nhất của mặt tiền toà nhà có tượng bà đầm Tây đứng sau một câi cân tượng trưng cho công lý, tôi có một ước mơ khác. Thực vậy, tôi đã bước vào nghề Thầy trong một hoàn cảnh bất đắc dĩ, do thời thế đẩy đưa, hay nói theo quan niệm cổ, là do số phận. Nhưng dù ước mơ của chúng ta đạt được hay không, hoặc đường đời không hiện ra đúng như kỳ vọng ta đặt vào hiệu quả của những người làm công tác giáo dục, chúng ta vẫn phải biết nhớ ơn Thầy. Không thể làm Thầy nếu không biết tôn kính, nhớ ơn Thầy. Có lẽ nên coi đó là phương châm đối với những ai muốn chọn nghề Thầy. Ngay cả dù không có ước vọng làm thày, tôi đã trang trọng lưu giữ một đề mục đăc biệt trên computer ghi tên tất cả những Thầy cô giáo cũ ở quê hương từ lớp vỡ lòng lên tới lớp cao (kể cả người ngoại quốc), và những thày cô giáo ở đất nước tôi đang ngụ cư: Vinh danh những người Thầy của tôi. Về kỷ niệm với các Thầy thì mỗi chúng ta đều có nhiều không kể xiết nhưng ngày nay mỗi khi nhắc lại mấy hình ảnh độc đáo đã từng chứng kiến thời dĩ vãng xa xôi, tôi thường có cảm tưởng muốn cười hơn là khóc, vui vui hơn là hờn giận: 
[1]-Cây thước kẻ (eo ôi!) của Thầy vào thời gian học các lớp dự-bị, sơ-đẳng và trung-đẳng 1&2 trường cơ bản tiểu học (hồi xưa, gọi là pre'paratoire, e'le'mentaire. moyen un & deux) khiến học trò tái xanh tái xám mặt mày. 
[2]-Lời phán deux ze'ro hoặc deux zeros kèm theo un, deux, trois, quatre, cinq consignes (suỵt!) của thày ở trường trung học. [3]-Khung cảnh thoải mái, tự do thảo luận giữa thày và trò của lớp cao học chỉ loe ngoe có 1 Thầy và 5,6 trò ngồi hai bên một cái bàn dài thường dùng để họp cho hội đồng giáo sư... Hình ảnh đời thày của các thầy cô giáo chẳng bao giờ phai mờ trong trí nhớ của tôi, một kẻ làm  thầy hậu sinh (rất may tôi không bao giờ phải lãnh hình phạt nặng nào), ngày nay đang góp một phần không nhỏ vào nguồn lửa sưởi ấm tâm hồn tôi trong cuộc sống đời thường nơi xứ lạnh. 
      Thế là dù muốn hay không, như một định mệnh, tôi đã chính thức bước qua ngưỡng cửa Đời Thầy, với những thăng trầm của nó, nhưng nói chung nó như một bản nhạc ở cung trầm. Giờ đây, nhớ lại một thời đã qua, tiếc nuối cũng có nhưng bù lại gặp khá nhiều cơ hội nghề nghiệp đã cho tôi được mở rộng gót phiêu du trên những nẻo đường đất nước để những hình ảnh kỷ niệm còn in đậm trong tâm hồn tôi mãi.

Chùa Thiên-Mụ, Huế
      Vào một mùa Hè, khi mới vào nghề, tên tôi lọt vào danh sách đi dự một khoá tu nghiệp tại Viện ĐH Huế trong vòng nửa tháng. Mừng, bởi sẽ có dịp đến thăm Huế. Lo, bởi hồi đó, nghe nhiều giáo chức thì thầm về sự nghiêm ngặt của Toà Đại-diện GD Miền Trung. Thay vì đi Huế bằng xe hoả, tôi đã chọn xe hàng để có dịp ngắm cảnh thiên nhiên hùng vĩ từ trên đỉnh đèo Hải-vân xuống Đà-nẵng và dọc đường qua những thành phố biển Nha-trang, Qui-nhơn, Quảng-ngãi. Trú tại cư xá SVĐH Huế, trong khu vực thành phố mới ở hữu ngạn sông Hương, nơi có các cơ quan chánh quyền, hai trường Quốc-học và Đồng-Khánh, viện Đại-học... Việc học tập, trái với nỗi lo từ trước, đã diễn ra rất thoải mái. Tất cả thày trò, từ các giảng sư xuống các học viên đã coi nhau như một gia đình. Ngoài giờ học, học viên tự tổ chức đi thăm cảnh cổ thành Huế, chùa Thiên-mụ và các lăng tẩm. Một số ít ảnh đen trắng rất mờ được chụp ở Cửa Ngọ-môn, điện Thái-hoà, khu cung nữ, mấy cỗ pháo đại thần công, dãy đỉnh đồng cao lớn hơn đầu người, dãy tượng quan đại thần, hồ Tịnh-tâm và mấy lăng tẩm ở gần thành phố như lăng Tự-Đức, Khải-Định, Minh-Mạng... Có ngày Huế mưa dầm kéo dài lê thê như lệ đổ tràn mi cũng không ngăn khỏi bước chân kẻ lãng du, như Lưu Nguyễn nhập Thiên-thai, lần đầu được thấy đất Thần-kinh. Không quên thăm khu Gia-hội, phá Tam-giang, bãi biển Thuận-an, chợ Đông-ba và cửa hàng cơm gạo tám thơm, hay đi dạo đêm trên cầu Tràng-tiền và bên bờ sông Hương thơ mộng: Nàng Tiên Huế ngủ say dưới ánh trăng ngà ngọc/ Giòng sông Hương: giải lụa bạc vắt ngang thân/ Cầu Tràng-tiền: mảnh lược thưa cài trên tóc/ Núi Ngự-bình: ôi vòm ngực giai nhân... (NàngTiênHuế) 

      Trong thời gian ngắn ngủi làm việc tại miền Trung, nỗi buồn nhớ thủ đô Sài-gòn hoa lệ đã trùng trùng phủ lên ước mơ tuổi trẻ của tôi: Giấy vàng xanh trắng đỏ nét hoa bay/ Trống gõ nhịp bản trường ca xây đời nguyện ước/ Hỡi Thành-đô ta yêu Người tha thiết/ Hỡi Thành-đô ta trọn gửi tương lai./ Ta sẽ về xây đắp lại ngày mai...(MộngĐẹpMùaHoa). Rồi trở về thủ đô thật, tôi miệt mài cố gắng thực hiện ít nhiều mộng-đẹp-mùa-hoa theo hình ảnh ước mơ thứ nhì và chính nó đã thi vị hoá cuộc sống của tôi từ đó về sau. Nhưng có đi xa mới biết được nhiều phong cảnh nước mình trong đó có nơi tuyệt đẹp không kém Huế, như Đà-lạt chẳng hạn, nhân dịp một kỳ đi chấm thi. Thật hồ hởi vì đó là lần đầu tiên tôi đến một thành phố cao nguyên, một thắng cảnh nổi tiếng. Con tàu hoả có bánh răng cưa đưa khách leo đồi núi trập trùng. Ngụ tại cư xá trường trung học Trần-hưng-Đạo trong một dãy lầu có cửa sổ kính nên giữ được độ ấm so với cái lạnh bên ngoài. Nhưng mặc áo len dày đi dạo phố ngoài trời lạnh mới là một thích thú độc đáo: khu phố chợ Hoà-bình, hồ Xuân-Hương, hồ Than-thở, thác Cam-ly... Một thú vị đáng nhớ khác là trong lúc ngoài trời lạnh lẽo, ngồi ăn trong cửa hàng cơm tám thơm phưng phức, hay ngồi trong quán cà phê T nhâm nha ly cà phê phin nóng và thưởng thức nhạc nhẹ. Lần đi ĐL thứ nhì nằm trong 2 chuyến công tác binh nghiệp vào mười năm sau, qua 3 thành phố Nha-trang, Đà-lạt, Ban-mê-thuột lại ghi thêm vào kho tàng kỷ niệm của tôi nhiều địa danh nổi tiếng khác ở mỗi chặng dừng chân. Thoải mái ngồi trên chiếc zeep dành riêng cho chuyến công tác bên cạnh một bạn đồng hành phụ tá kiêm tài xế lái xe đi đó đi đây. Này đây là bãi biển Nha-trang-miền-cát-trắng, Hải-học-viện, tháp Chàm và Phật-đài trên ngọn đồi cao nhìn xuống thành phố dưới chân. Kia là Suối-đá, tượng Đức Maria, Buôn Pê-lâm ở ven đường ra phi trường BMT với hình ảnh người phụ nữ miền cao, đẹp như ngôi sao điện ảnh Ấn-độ, đang lên dốc từ bờ suối dưới thung lũng huyền ảo như thung lũng người cùi trong phim Ben Hur. 
 
Hồ Xuân-Hương,ĐL(chụp lại từ postcard cũ)
      Chuyến đi Đà-lạt nào cũng để lại nhiều ấn tượng đẹp, nhất là hình ảnh những nữ sinh trong tấm áo dài trắng muốt và chiếc áo len mang màu sắc vàng, đỏ, tím, xanh, hồng của tờ giấy nháp làm bài thi. Nhìn những thiên thần áo trắng đang cắm cúi làm bài, rồi sau đó như hoa tươi bừng nở, toả ra khắp phố phường thì làm sao một thày giáo trẻ có thể quên được. Đà-lạt thơ mộng lắm. Hàng nửa thế kỷ sau, hình ảnh đó vẫn còn vương vấn trong tôi: Gió nhè nhẹ se lòng ta cô quạnh/ Nhớ hồ xưa Than-thở sớm sương mờ..(DạoKhúcBênHồ).

      Rồi đời thày của tôi trải qua những giai đọan thăng trầm, khi vui khi buồn, khi đều đặn khi ngất quãng, khi êm ái ngọt ngào, khi đắng cay chua chát... Như tiếng-nói-của-thầy trong quá khứ đã gieo vào lòng tôi muôn vàn kiến thức và âm hưởng còn vang vang trong tâm hồn tôi mãi mãi/ Ánh mắt học trò là hình ảnh bất tử trong đời sống của thầy. (ÁnhMắtHọcTrò). Đúng, quên sao được những tháng ngày đứng trên bục giảng trước đám học trò được coi là đông nhất trường vì thày bao suốt 7 cấp lớp, những buổi hùng hồn diễn tả và so sánh 2 định chế chính trị: dân chủ của Hoa-kỳ và độc tài của Liên-xô, bên cạnh tổng thống chế của VNCH đương thời. Cũng quên sao được buổi picnic của mấy thày trò tại Bửu-long-sơn ở Biên-hoà, nhất là chuyến giang hành đầy thích thú bằng tàu Hải-quân, dọc sông Sài-gòn ra bải biển Long-hải-Vũng-tàu. Tôi rất hăng hái tham dự chuyến đi này cùng hàng trăm em học sinh của trường mặc dầu mới 3 ngày trước vừa thoát khỏi một phen bở vía trong chuyến hải hành đầy sóng gió cùng với vài người thân cũng bằng tàu Hải-quân từ Rạch-giá đi đảo Hòn-sơn. Tưởng cứ như thế mãi. Ai ngờ đời tôi thật éo le với 3 dấu ấn sâu đậm: 

*Thứ nhất là những kinh nghiệm của một nhà mô phạm được đúc kết lại với sự hợp tác của một bạn đồng nghiệp để cho ra đời đứa con tinh thần mang tên Luyện thi Trắc nghiệm Công-dân TT2 với số thu nhập đúng một nửa cho phần mình ngót nghét 5 trăm ngàn được cất kỹ nguyên xi dưới đáy chiếc va li sắt trong thời gian không được phép đứng trên bục giảng tiếp sau biến cố 75 mà không có cơ hội mở ra đem đi đổi lấy bạc mới nên đã trở thành mớ giấy lộn. Thôi thế là xong, nhà giáo tay trắng lại hoàn toàn trắng tay.
*Thứ nhì là trong thời gian đời Thầy đang diễn tiến êm ả thì phải dã biệt bảng đen phấn trắng: Cũng dã biệt bày học sinh nam nữ của thày. Lúc thày ra đi, phượng vĩ đỏ rực sân trường. Nay hoa phượng đã đổi màu bao lần mà thày vẫn chưa về. Chưa chắc thày được trở về để trường lại có dịp vang lên tiếng-nói-của-thày. Nếu thày còn được trở về trường thì tiếng nói của thày sẽ không còn âm vang như trước vì bấy giờ là tiếng nói của một người thày mang thân phận kẻ tội lỗi (ThưViếtTừTTCT). 

*Thứ ba là tưởng gặp may mắn từ năm 79 tay nghề được luyện lại qua khoá học bồi dưỡng để dạy chéo môn, nhưng chỉ ít lâu sau đã có một lần, mặc dầu biết tuổi tác và thể lực không còn phù hợp với tiêu chuẩn nghĩa vụ quân sự, tôi vẫn dại dột vác mặt đến địa điểm kê khai lý lịch, lúc trở về trường thì có một cuôc đối đáp nhỏ-mà-thành-chuyện-lớn. Chuyện như thế này: sau khi nghiêm trọng nói xin thông báo rằng tôi có tên trong danh sách quân dịch trừ bị, thì bị tới tấp xả cho một trận như cuồng phong bão tố rằng anh không có quyền nói thông báo, vì anh không ở cấp ngang hàng, mà phải nói là báo cáo...Ôi! một sự thật chua chát để đời cho một nhà mô phạm được tái sinh không gặp thời!

Trong một ngày picnic, BH
      Cuối cùng, cũng lại như một định mệnh, tôi vĩnh biệt nghề Thầy vào đầu thập niên 90. Buồn vui lẫn lộn, được người thân bảo lãnh đặt chân lên miền đất hứa vào đúng 2 ngày sau Lễ Độc-Lập của Hoa-kỳ. Thấm thoát đến nay đã 20 năm sống tha hương, nhớ lại biết bao kỷ niệm của một thời dĩ vãng, trải qua nửa thời gian cuộc đời của một kẻ làm thày, tôi làm sao ngăn khỏi nỗi ngậm ngùi tưởng nhớ quê hương: Ngăn cách đôi bờ của đại dương/ Tìm đâu thấy được bóng quê hương/ Mây cho ta gởi niềm thương nhớ/ Hai chục năm rồi vẫn vấn vương. (VọngCốHương). Và đôi lúc trầm tư, nhìn thấy hình ảnh quãng đời còn lại của mình, trong hồn tôi như đang vang lên âm điệu trầm trầm của bài thơ Tàng cây, Mái đầu và Tuyết trắng (2013):
Con đường xưa thăng trầm/ mờ phai vào dĩ vãng/ còn lại đây những gì/ tàng cây vừa gục ngã/ đổ xuống bên đường đi/ ôi mái đầu tuyết trắng ! 

*Phụ lục một bài thơ về một thời đã qua:

Tàng Cây, Mái Đầu Và Tuyết Trắng

Trong nhà hơi ấm toả,
Ngoài trời bông tuyết bay.
Không gian chợt bừng sáng,
Cây cối phủ tơ mây.

Rừng rực lò sưởi cháy,
Hừng hực men rượu say,
Chút hồng lên đôi má,
Cho hồn nhẹ đắng cay.

Cảnh vật im phăng phắc,
Thời gian lạnh lùng trôi,
Cuộc đời đang rút ngắn,
Mong manh một kiếp người.

Con đường xưa thăng trầm,
Gập ghềnh hay bằng phẳng,
Tủi nhục lẫn vinh quang,
Mờ phai vào dĩ vãng.

Còn lại đây những gì?
Tàng cây vừa gục ngã,
Đổ xuống bên đường đi :
Ôi mái đầu tuyết trắng
 

(Chinh Nguyen/H.N.T. 
USA,Jan 2013)

Vu Lan Mùa Của Hương Hoa


Liên hoa vẫn nở trong hồ đục
Tâm trắng đời đen có lạ gì
Vu lan báo hiếu mùa sen dục
Hiếu để tâm thành ơn khắc ghi

Người còn cha mẹ tâm khẩu phục
Tôi chẳng còn ai để cúi đầu
Dâng trà kính rượu mời phụ mẫu
Lòng thành tự phạt nát lòng đau

Cha mẹ tôi đâu mà báo hiếu
Hai chữ vu lan vẫn khắc sâu
Vào trong tâm thức từ thuở biết
Ơn cha nghĩa mẹ tận ngàn sau

Có người đã bảo là xin đổi
cả một thiên thu lấy nụ cười
chỉ của mẹ thôi là cũng đủ
cho thế giới vui bất tận đời

Vu lan lệ đã ngàn năm cũ
riêng tôi vẫn mới dẫu tàn hơi
nhớ cha mất xác  thời chinh chiến
mẹ đã vong thân ngoài biển khơi

Mỗi năm lễ đến lòng quặn thắt
cha mẹ còn đâu báo hiếu đời
thôi đành cạn chén đời mặn chát
cắt máu rưới thêm tế đất trời

Kính mẹ thờ cha đền miếu nát
vu lan báo hiếu lệ đầy vơi.

Túy Hà