tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2014
Về Miền Quê Anh
Hôm qua xe đến Bình Minh
Cua vòng quốc lộ chuyển mình lên cao
Cầu giăng lấp lánh đèn màu
Cần Thơ sông rộng đón chào em sang.
Xe lùa gió cuốn dịu dàng
Dưới cầu sóng lượn lăn tăn cợt đùa
Ngày nào trìu mến đón đưa
Hôm nay tủi phận duyên thừa lẻ loi.
Xe về Đông Thạnh bóp còi
Quẹo qua tay mặt về nơi quê mình
Ơ mà ! quê của người tình
Bến sông chợ nổi Lê Bình đông vui.
Có lần từ vườn Nàng Tiên
Đón em về xóm Bà Vèn, Cái Chanh
Xe qua mấy lớp nhà tranh
Ngoài vàm Rạch Chiếc vây quanh xóm chùa.
Cái Răng nhóm chợ quá trưa
Dập dìu ghe « bẹo » bốn mùa trái cây
Thạnh Mỹ con gái khéo tay
Quết nem, giò chả đong đầy mùi hương.
Xuống xe xa lạ phố phường
Không ai thân thiết, người thương thuở nào
Anh ơi ! anh ở nơi nao
Em về nhớ thuở ngọt ngào hàn huyên.
Đêm nay em đi du thuyền
Ninh Kiều rời bến về miền hạ lưu
Qua Xóm Chài dưới trăng Thu
Cái Sâu đom đóm phập phù xa xa.
Lệ buồn từng giọt thiết tha
Vắng anh vắng cả chuyến phà thủy chung
Đêm nay sóng nước nghìn trùng
Trăm năm nỗi nhớ lạnh lùng bơ vơ.
Sương giăng phủ kín đôi bờ
Chút ân tình cũ vỡ òa tâm tư
Du thuyền trôi nhẹ êm ru
Mà sao khắc khoải mộng du lưng trời.
Sông quen nước chảy thảnh thơi
Nhưng lòng cãm thấy một trời bể dâu
Khuya nay em biết về đâu?
Thu phong chưa trọn Đông sầu đã sang!
Dương Hồng Thủy
Mùa Xuân Xưa
Bên nhau bao tháng ngày
Lời ân tình em ngỏ
Không uống lòng anh say
Nụ cười, bờ vai nhỏ
Bên nhau tay nắm tay
Quỳ hoa thay áo mới
Mãi nhớ đến ngàn đời
Bên nhau tình trao vội
Thời gian dần dần trôi
Bao mùa Xuân đã tới
Em ơi! Em xa rồi
Một trời anh tiếc nuối!
Suối Dâu
Tháng giêng 2011
Xướng Hoạ Thơ Mới : Một Chiều
Bài xướng:
Một Chiều...
Một Chiều...
Một chiều về ngang con sông
Bến xưa sóng lượn bềnh bồng
Con đò ai neo nỗi nhớ
Bờ lau cỏ úa vàng mong
Một chiều qua góc phố quen
Thoảng thoảng mùi hương tóc mềm
Chạm nhẹ bờ vai kỷ niệm
Cây nghiêng cành đợi dài thêm
Một chiều quán lạnh chỗ ngồi
Nhớ ly xí muội chia đôi
Ly kem bốn màu chia nửa
Bao giờ hết ngọt người ơi
Một chiều về ngang trường xưa
Áo bay lồng lộng gió mùa
Nỗi nhớ đỏ đầu điếu thuốc
Cháy bừng ngàn tiếng guốc khua
Một đêm hoài vọng thu qua
Vầng trăng xưa vẫn chưa già
Ngấn tròn đôi môi huyền ảo
Nụ hôn từ tạ xót xa
Trầm Vân
* * *
Các bài Hoạ
Kiếp Giang Hồ
Ta, kẻ giang hồ núi sông
Chí trai ngang dọc tang bồng
Rong ruổi một đời phiêu lãng
Không màng kẻ nhớ người mong.
Bao nhiêu cô gái vừa quen
Long lanh mắt biếc môi mềm
Nào đã có gì kỷ niệm
Mà mong ngày tháng dài thêm?
Chiều mưa quán nhỏ ta ngồi
Ghế tre sắp thành cặp đôi
Một mình gác chân hai ghế
Cảm thông nhé chủ quán ơi!
Mưa có về ngang chốn xưa
Chắc giờ gió đang chuyển mùa
Lành lạnh hơi sương buổi sớm
Bếp nhà, củi lửa vừa khua?
Tháng ngày vùn vụt trôi qua
Cội mai thềm cũ đã già ?
Em còn đợi bên song cửa
Mắt buồn dõi phía trời xa?
Phương Hà
* * *
Bến Sông Xưa
(*) Ở Miền Tây, vào tháng 7 Âm lịch, nước sông Cửu Long từ thượng nguồn đổ về, Người dân ở đây thường gọi là "Mùa Nước Nổi"
* * *
Bến Sông Xưa
Em còn nhớ đến dòng sông
Lục bình xuôi nước trôi bồng
Hoa tím đơn sơ thầm gợi
Ta nhìn ngơ ngẩn chờ mong
Phù sa nước đỏ thân quen
Ngọt ngào tựa má môi mềm
Của cô em thời thơ
dại
Khiến ta nỗi nhớ dầy
thêm
Tìm quanh bến cũ nơi ngồi
Thuở nào ta luôn có đôi
Thuở nào ta luôn có đôi
Bên nhau từng giây rung động
Làm sao quên được em ơi
Bao lần hồi tưởng chuyện xưa
Tháng Bảy nước nổi theo mùa (*)
Bên bờ Cửu Long yêu dấu
Khoan nhặt
nhịp guốc ai khua
Thời gian lặng lẽ trôi qua
Sông quê vẫn mãi không già
Tóc ta giờ sương
trắng phủ
Nhưng bóng cũ chẳng rời xa
Quên Đi
(*) Ở Miền Tây, vào tháng 7 Âm lịch, nước sông Cửu Long từ thượng nguồn đổ về, Người dân ở đây thường gọi là "Mùa Nước Nổi"
* * *
Gọi Người
Nhớ mà chi kẻ sang sông
Tội thân tay bế tay bồng
Lỗi vẹn thề thời thơ dại
Cám ơn tình khắc khoải mong
Nồng nàn sao thuở mới quen
Trộm hương suối tóc nhung mềm
Vai gầy ấm hơi hướm lạ
Ngượng ngùng hồng má em thêm
Phút bên nhau thinh lặng ngồi
Chia tình xí muội chung đôi
Kem màu khát khao vị ngọt
Quên làm sao được ai ơi
Cây đời trơ gốc phượng xưa
Thảm thiết ve tiếng gọi mùa
Nắng vàng thôi lay dáng hạ
Xa rồi guốc vọng tiếng khua
Ngày tháng mãi hững hờ qua
Sương tuyết phơi tuổi chớm già
Bao kỷ niệm còn nguyên đó
Gọi người tận chốn trời xa
Kim Phượng
Nhớ mà chi kẻ sang sông
Tội thân tay bế tay bồng
Lỗi vẹn thề thời thơ dại
Cám ơn tình khắc khoải mong
Nồng nàn sao thuở mới quen
Trộm hương suối tóc nhung mềm
Vai gầy ấm hơi hướm lạ
Ngượng ngùng hồng má em thêm
Phút bên nhau thinh lặng ngồi
Chia tình xí muội chung đôi
Kem màu khát khao vị ngọt
Quên làm sao được ai ơi
Cây đời trơ gốc phượng xưa
Thảm thiết ve tiếng gọi mùa
Nắng vàng thôi lay dáng hạ
Xa rồi guốc vọng tiếng khua
Ngày tháng mãi hững hờ qua
Sương tuyết phơi tuổi chớm già
Bao kỷ niệm còn nguyên đó
Gọi người tận chốn trời xa
Kim Phượng
Mộng Vàng - Phạm Duy - Lệ Thu (HL)
Thơ Tranh: Kim Oanh
Sáng Tác: Phạm Duy
Tiếng Hát: Lệ Thu
Thực Hiện: Hong Lien
Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014
Tình Buồn
Em ngồi vàng võ đợi chờ
Bên hiên sân cũ đã mòn nhớ nhung
À ơi tiếng hát lời thương
Nửa đêm em đợi bước chân anh về
Cuộc chơi chấm dứt bể dâu
Người về muôn hướng lấy đâu sum vầy
Em đi ngõ vắng tiếc thay
Em về chia xẻ buồn thay mặn nồng
Nở đành cây lá rêu phong
Ta xa cũng thể hết mong trùng phùng
Ngỡ ngàng người hết thủy chung
Chơ vơ năm tháng nét hương đâu còn
Lục Lạc
12 - 02 - 2011
Hoa Rừng Xứ Thượng
- Hồi nhỏ ra chợ thấy mấy bà người Hời, má tôi gọi là người Hời nhưng tôi nghĩ họ là người Chàm, hay đưa tay ngoắc ngoắc, vẫy gọi nhưng tôi sợ không dám lại vì nghe nói người Hời, người Thượng có bùa ngãi, biết "thư". "Thư" là dùng ma thuật bỏ một vật nào đó vào thân thể của người mình muốn hại.
Tôi ra trường rồi làm việc ở nhiều nơi, chỗ cuối cùng là một quận lỵ ở vùng Cao Nguyên. Ở đây người Việt mình cũng hay đồn đãi, thêu dệt những câu chuyện "thư" của người Thượng nhưng tôi không tin. Nghe nói có mấy bộ lạc bán khai ở đảo Mindanao, Phi Luật Tân cũng biết thư nhưng về sau các phóng viên Tây Phương quay phim lại thì khám phá rằng khi bà phù thủy lấy đồ trong bụng người bị thư thì bà đã giấu trước những thứ đó trong mấy móng tay dài ngoằng rồi dùng xảo thuật mà mắt người xem.
Lính của tôi có mấy thằng độc thân, phá như quỷ. Rảnh là vào mấy buôn Thượng xem con gái, đàn bà tắm. Họ thì tự nhiên, để ngực trần tắm, mấy cha nội tha hồ chiêm ngưỡng. Tụi nó hay nói với nhau là nếu có bồ bịch, có ăn nằm với gái Thượng thì phài lấy chứ bỏ ngang không bồi thường trâu bò thì coi chừng bị thư.
Một hôm có người lính nhờ xem tại sao trên mặt anh ta có một vật lạ, tuy không làm đau đớn nhưng cộm cộm khó chịu. Anh ta nghĩ là bị thư. Tôi giỡn: "Chắc lại "bắt cái nước" một em "Hoa rừng xứ Tạng" nào rồi ? Mấy lẩn trước chỉ xin Penicillin thôi mà !"
Nhìn gò má bên trái không thấy sưng, không cộm nhưng lúc lấy hai ngón tay nắn thì rõ ràng có một vật cứng nằm giữa da mặt và thịt, dài và bự cở cây tăm xỉa răng. Tôi nói anh ta ngồi xuống ghế, chích cho một mũi thuốc tê. Một tay bóp hai đầu vật này, tay kia cầm con dao giải phẫu bằng Inox sửa soạn rạch. Nhưng lạ thiệt, cứ mỗi lần đưa con dao vào gần gò má anh ta thì vật đó biến mất tiêu, hai ngón tay giống như đang bóp vào thịt. Thử đi thử lại nhiều lần mà lần nào cũng vậy. Hễ đưa con dao ra xa thì bóp thấy nó mới tức chứ !
Anh lính ngồi đó một hồi rồi bỏ đi, tôi thì tức tối vì không biết tại sao. Vài hôm sau anh ta quay lại, khoe là đã nhờ người lấy được vật đó ra. Mân mê nó trên tay, thấy giống như một cái xương gà nhỏ, cũng cở cở như lúc tôi nắn gò má anh ta hôm nọ.
Còn chuyện ma thì tôi không tin. Lúc mới ra trường, có một đêm tôi lái xe xuống gần Phú Bổn lấy xác người mình. Hơn chục người, già trẻ lớn bé bị đâm, chặt, bầm bằng giáo, mác bởi đám Fulro, rồi thức luôn đến sáng giảo nghiệm tử thi để viết báo cáo cho Ty Y Tế, sau này tôi được biệt phái qua Quân Y. Gần gủi với nhiều xác chết mà vẫn chưa thấy ma, có thấy mới tin. Nhưng rồi ...
Năm đó vợ chồng tôi có con đầu lòng. Trong dân y viện cũ của chi khu, lính tráng, sĩ quan chia nhau ở. Tụi tôi xin được một phòng nhỏ, gọi là phòng nhưng chỉ có hai bức tường, hai bức vách còn lại được che bằng gỗ và tấm rèm cửa.
Cái giường đôi kê sát vách nhìn ra cái nôi của cháu ở chân giường. Trên đầu giường là chỗ móc chìa khóa xe Jeep lùn, cạnh đó là cái nón sắt. Trên bức tường bên trái, gần lối ra vào có treo cái đồng hồ, quà cưới của vợ chồng tôi. Khẩu Colt 45 thì lúc nào tôi cũng bỏ dưới gối khi ngủ.
Cháu gần 1 tuần thì tôi thấy nó hay khóc đêm. Nghe khóc là vợ tôi bật dậy, rồi bồng, dỗ nó. Mấy đêm trước nó ngủ ngon lành sao dạo này hay quậy, khóc dữ vậy ! Có đêm nó khóc cả mấy lần làm vợ chồng tôi mất ngủ, phờ phạc.
Một đêm nọ cháu lại khóc, vợ tôi chắc vì mệt nên chưa choàng dậy. Tôi mở mắt ra thì thấy hai đứa bé, một trai một gái, tuổi khoảng 10, 12 tuổi. Cháu gái lớn hơn, bận áo len vàng, còn cháu trai mặc áo len màu đỏ. Tụi nó nhìn tôi cười cười, tay đong đưa cái nôi. Tưởng chúng là con của gia đình binh sĩ nên tôi nói: "Đừng phá ... để nó ngủ". Hai đứa tỉnh bơ, vẫn đong đưa cái nôi: "Tụi cháu đói lắm, chú có gì cho tụi cháu ăn" rồi hai chị em từ từ đi ra cửa.
Nhìn lên đồng hồ treo tường thấy khoảng 3 giờ sáng, vợ vẫn nằm bên cạnh. Không biết mình có nằm mơ không nhưng nhớ rõ là ngước mắt lên vẫn thấy chùm chìa khóa và cái nón sắt. Thò tay dưới gối thì chạm vào khẩu súng Colt. Cháu lúc này đã hết khóc.
Hôm sau má tôi lên thăm cháu nội, bà nằm ở một cái giường lính nhỏ cạnh giường vợ chồng tôi. Đêm đó, cũng khoảng giờ đó, hai cháu bé lại đến. Bán tín bán nghi vì 3 giờ sáng có đứa con nít nào còn thức, vả lại con em gia đình binh sĩ tôi biết mặt hầu hết ... nhưng tôi vẫn chưa chịu cúng và không kể chuyện này cho má hay vợ hay vì ngại họ sợ.
Chiều hôm sau từ quân y viện về thấy má mang hoa quả, bày bàn thờ cúng.
- "Cúng gì, cúng ai vậy má ? Vợ con và cháu đâu rồi ?"
- Nó bồng cháu đi dạo. Má cúng ....
Má tôi kể lại những gì bà thấy, chi tiết gần giống như tôi đã thấy, cũng hai cháu bé, một trai một gái, mặc áo len vàng, đỏ ...
Tôi lạnh người, đi ra ngoài kiếm vợ con.
Vợ tôi đang bồng cháu đi thơ thẩn gần sân bóng chuyền.
- Anh nè, mấy đêm nay em thấy .... "
Chi tiết cũng y chang. Tối hôm đó, má và vợ chồng tôi cúng trong nhà xong còn cúng ngoài trời nữa.
Gọi bác sĩ giám đốc dân y viện xong, tôi lái xe đi gặp ông ta để hỏi về chuyện này. Ông ta mới chuyển về vài năm nên không biết và gọi một người y tá già vào. Theo lời người y tá này, khoảng hơn mười năm trước, một góc trong khu trẻ em của dân y viện cũ, ngay chỗ phòng vợ chồng tôi ở, bị cháy vào khoảng 3 giờ sáng, có hai chị em chết.
Trong phòng lưu hồ sơ bịnh lý, tôi lục lọi chồng hồ sơ trẻ em năm đó thì quả thật có hai chị em trạc tuổi đó nhập viện vì bị ban sởi.
Từ đó cháu ít khóc đêm và vợ chồng tôi cũng không nằm "mơ" thấy 2 cháu bé nữa.
Ktk
Cựu Học Sinh - Cựu Giáo Sinh Vĩnh Long Viếng Phần Mộ Nhà Giáo Võ Trường Toản
Vào Tháng 7- 2014 nhân đi dự sinh nhật chị Dương Thị Anh ở Ba Tri Bến Tre, Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Vĩnh Long.
Chúng tôi đến viếng Đền thờ và Mộ cụ Võ Trường Toản
Đăng cháu nội của Đức đứng trước đền thờ Cụ Võ Trường Toản
Từ trái sanh phải : Đăng, Hoàng (Bến Tre) hướng dẫn viên của nhóm
Huệ, Thể (Bến Tre), Điệp Lê, Sanh, Duyên, Anh Minh trước bàn thờ Cụ Võ Trường Toản
Vinh (đeo kính), Đan( Dâu Chí Thanh, áo đỏ), Chí Thanh bị che
Chí Thanh (đi ra), Hữu Đức (người thắp nhang sau cùng)
Hữu Đức đứng bên bàn thờ Nhà Giáo Võ Trường Toản
Ngôi Mộ của Nhà Giáo Võ Trường Toản và Vợ
Hàng phía trước : Chí Thanh, Thơ, Khang (Cháu Nội Thơ), Điệp Lê, Anh Minh, Sanh, Đăng (cháu Nội Đức).
Hàng phía sau : Hoàng (BT), Chánh (cựu giáo sinh),Thể (BT), Xuân, Vinh (CGS), Huệ (CGS)
Hình Ảnh : Huỳnh Hữu Đức - Huỳnh Bảo Đăng
Vĩnh Long Thân Thương!
Hàng cây xanh đón đưa
khoảng trời em về học
Nhớ nhịp guốc khua giòn
thời con gái
Áo trắng lụa mềm khiến
lòng ai say?
Vĩnh long mình lất phát
mưa bay
Nhớ quán cà phê, nhớ ly
chè ngọt
Tiếng đàn ai trong đêm
thánh thót
Để người đi còn hẹn buổi
quay về
Vĩnh Long mình tên gọi một miền quê
Thì làm sao xa mà không
thấy nhớ!
Người lỡ xa, quay đi sao
nỡ
Công viên chiều, tán dù
ru bến sông
Ai cũng có một thời mong
nhớ mong
Trăm kỷ niệm ùa về khi
nhắc đến
Bước chân nhau dù có xa
vời vợi
Áo trắng lụa mềm khiến
lòng thương nhớ thương
Nụ Cười tuyệt vời
Giá một nụ cười rẻ hơn giá tiền điện, thế
nhưng nụ cười lại tỏa sáng nhiều hơn hàng trǎm bóng đèn điện. Không ai nghèo
đến nỗi không thể mỉm một nụ cười, cũng không ai đủ giàu để sống mà không cần
đến nụ cười của người khác. Một nụ cười - vốn liếng tuy nhỏ bé nhưng lại sinh
hoa lợi nhiều, nó làm giàu cho kẻ đón nhận nó mà không hề làm kẻ trao tặng nó
phải nghèo đi. Ngược lại, có khi người ta sẽ còn mãi mãi ghi nhớ.
Không ai đủ giàu mà bỏ qua không nhận lấy
một nụ cười. Nụ cười tạo được hạnh phúc trong gia đình. Nụ cười là dấu hiệu của
nhân ái. Nụ cười làm cho kẻ nhọc nhằn tìm được sự thoải mái dễ chịu. Nụ cười
đem lại sự can đảm cho người nản chí, hoang mang.
Nếu có một lúc nào đó trong đời, bạn gặp
một ai đó không cho bạn được một nụ cười như bạn đáng được nhận, thì bạn hãy
quảng đại mà nở một nụ cười với người đó. Bởi vì không ai cần đến nụ cười cho
bằng người không bao giờ biết cười.
Có một câu chuyện kể rằng: Saint Exupery
từng là phi công tham gia chống phát xít trong Đệ nhị Thế chiến. Chính từ những
nǎm tháng này ông đã viết ra tác phẩm "Nụ Cười".. Không biết đây là
một tự truyện hay một truyện hư cấu, nhưng tôi tin rằng nó có thật. Trong
truyện, Saint Exupery là một tù binh bị đối xử khắc nghiệt và ông biết nay mai
có thể bị xử bắn như nhiều người khác. Ông viết: "Tôi trở nên quẫn trí.
Bàn tay tôi giật giật, cố gắng rút trong túi áo một điếu thuốc. Nhưng tôi lại
không có diêm. Qua hàng chấn song nhà giam, tôi trông thấy một người cai tù.
Tôi gọi: "Xin lỗi, anh có lửa không?"... Anh ta nhún vai rồi tiến lại gần. Khi rút que
diêm, tình cờ mắt anh nhìn vào mắt tôi. Tôi mỉm cười mà chẳng hiểu tại vì sao
lại làm thế. Có lẽ vì khi muốn làm thân với ai đó, người ta dễ dàng nở một nụ
cười. Lúc này dường như có một đốm lửa bùng cháy nhanh qua kẽ hở giữa hai tâm
hồn chúng tôi, giữa hai trái tim con người. Tôi biết anh ta không muốn, nhưng
do tôi đã mỉm cười nên anh ta phải mỉm cười đáp lại. Anh ta bật que diêm, đến
gần tôi hơn, nhìn thẳng vào mắt tôi và miệng vẫn cười. Giờ đây trước mặt tôi
không còn là viên cai ngục phát xít mà chỉ là một con người. Anh ta hỏi tôi:
"Anh có con chứ?". Tôi đáp: "Có" và lôi từ trong ví ra tấm
hình nhỏ của gia đình mình. Anh ta cũng vội rút trong túi áo ra hình những đứa
con và bắt đầu kể lể về những kỳ vọng của anh đối với chúng.
Đôi mắt tôi nhoà lệ. Tôi biết mình sắp chết
và sẽ chẳng bao giờ gặp lại được người thân. Anh ta cũng bật khóc. Đột nhiên,
không nói một lời, anh ta mở khoá và kéo tôi ra khỏi buồng giam. Anh lặng lẽ
đưa tôi ra khỏi khu vực thị trấn chiếm đóng, thả tôi tự do rồi quay trở về. Thế
đó, cuộc sống của tôi đã được cứu rỗi chỉ nhờ một nụ cười".
Từ khi đọc được câu chuyện này tôi nghiệm
ra được nhiều điều. Tôi biết rằng bên dưới mọi thứ vỏ bọc chúng ta dùng để thủ
thế, để bảo vệ phẩm giá và địa vị, vẫn còn đó một điều thật quý giá mà tôi gọi
là tâm hồn. Tôi tin rằng: nếu tâm hồn bạn và tâm hồn tôi nhận ra nhau thì chúng
ta chẳng còn gì phải sợ hãi hay cǎm thù oán ghét nhau. Nếu bạn từng có một
khoảnh khắc gắn bó với đồng loại qua sức mạnh của nụ cười, thì tôi tin rằng bạn
cũng đồng ý với tôi, đó là một phép lạ nho nhỏ, một món quà tuyệt vời mà chúng
ta có thể dành cho nhau.
Một
nữ tu ở Calcutta đã cảm nhận được điều này trong cuộc sống, và bà đưa ra lời
khuyên chân thành: "Hãy mỉm cười với nhau, mỉm cười với vợ, với chồng, với
con cái bạn và với mọi người dù đó là ai đi nữa, vì điều này sẽ giúp bạn lớn
lên trong tình yêu của nhau..."
( Khuyết danh)
Kim Oanh sưu tầm
Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014
Dạ Khúc - Phạm Duy - Lệ Thu
Bài hát là nỗi nhớ của người tình trong đêm vắng, mối tình đã xa rồi vĩnh viễn.Trong bóng đêm u tịch chỉ còn thương nhớ mà thôi.
Serenade: Franz Schubert
Lời Việt: Phạm Duy
Ca Sĩ: Lệ Thu
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình
Kỷ Niệm Ơi! Áo Trắng Ơi ...
Còn vương vấn
Tình hồng muôn vạn sắc
Túi hành trang
Trĩu nặng
Những chờ mong
Áo trắng ơi
Ta xa rồi cách mặt
Có còn chăng
Nhung nhớ
Ủ trong lòng
Thu lại đến
Mang về bao nỗi nhớ
Lá vàng rơi
Nhắn nhủ
Thuở mờ xa
Dư âm cũ
Ru sầu vương òa vỡ
Kỷ niệm ơi
Lãng đãng
Thuở tình hoa
Hoàng Dũng
Việt Nam Sử Lược Phần II Chương II : Trưng Vương
CHƯƠNG II
TRƯNG-VƯƠNG
徵 王
( 40 — 43 )
TRƯNG-VƯƠNG
徵 王
( 40 — 43 )
Các Phần Đã Đăng:
1. Trưng-thị khởi binh
2. Mã Viện sang đánh Giao-chỉ
1. TRƯNG-THỊ KHỞI BINH. Năm giáp-ngọ (34) là năm Kiến-võ thứ 10, vua Quang-vũ sai Tô Định 蘇 定 sang làm thái-thú quận Giao-chỉ.
Tô Định là người bạo-ngược, chính-trị tàn-ác, người Giao-chỉ đã có
lòng oán-giận lắm. Năm canh-tí (40) người ấy lại giết Thi Sách 詩 索 người
ở quận Châu-diên 朱 鳶 (phủ Vĩnh-tường, trước thuộc về Sơn-tây, nay thuộc
về tỉnh Vĩnh-yên).
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc 徵 側 con gái quan lạc-tướng ở huyện Mê-linh 麋
泠 (làng Hạ-lôi, huyện Yên-lãng, tỉnh Phúc-yên) cùng với em gái là Trưng
Nhị 徵 貳 nổi lên đem quân về đánh Tô Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về
quận Nam-hải.
Lúc bấy giờ những quận Cửu-chân, Nhật-nam và Hợp-phố cũng nổi lên
theo về với hai bà Trưng-thị. Chẳng bao lâu quân hai bà hạ được 65
thành-trì. Hai bà bèn tự xưng làm vua, đóng đô ở Mê-linh, là chỗ quê
nhà.
2. MÃ VIỆN SANG ĐÁNH GIAO-CHỈ. Năm tân-sửu (41) vua Quan-vũ sai Mã
Viện 馬 援 làm Phục-ba tướng-quân 伏 波 将 軍, Lưu Long 劉 隆 làm phó-tướng cùng
với quan Lâu-thuyền tướng-quân 樓 船 将 軍 là Đoàn Chí 段 志 sang đánh
Trưng-vương.
Mã Viện là một danh-tướng nhà Đông-Hán, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi,
nhưng vẫn còn mạnh, đem quân đi men bờ bể phá rừng đào núi làm đường
sang đến Lãng-bạc 浪 泊, gặp quân Trưng-vương hai bên đánh nhau mấy trận[1].
Quân của Trưng-vưng là quân ô-hợp không đương nổi quân của Mã Viện, đã
từng đánh giặc nhiều phen. Hai bà rút quân về đóng ở Cấm-khê 禁 谿 (phủ
Vĩnh-tường, tỉnh Vĩnh-yên). Mã Viện tiến quân lên đánh, quân hai bà vỡ
tan cả. Hai bà chạy về đến xã Hát-môn 喝 門, thuộc huyện Phúc-lộc (nay là
huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn-tây), thế bức quá, bèn gieo mình xuống sông
Hát-giang (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng-hà) mà tự tận. Bấy giờ là
ngày mồng 6 tháng 2 năm quí-mão (43).
Những tướng của hai bà là bọn Đô Dương 都 陽 chạy vào giữ huyện
Cư-phong 居 封 thuộc quận Cửu-chân. Sau Mã Viện đem quân vào đánh, bọn Đô
Dương đều phải ra hàng.
Hai bà họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài-trí người
đàn-bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo
sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều
nơi lập đền thờ hai bà để ghi-tạc cái danh-tiếng hai người nữ anh-hùng
nước Việt-nam ta[2].
Sử-gia Lê văn Hưu 黎 文 休 nói rằng: « Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn-bà
nổi lên đánh lấy được 65 thành-trì, lập quốc xưng vương dễ như giở bàn
tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm,
người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi-tớ người Tàu, mà không biết xấu-hổ
với hai người đàn-bà họ Trưng! »
Huỳnh Hữu Đức sưu tầm
Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014
Tháng Sáu Trời Mưa!
Tháng sáu trời sắp mưa nhưng dè dặt
Mùa cuối thu cành trơ chiếc lá buồn
Nhớ quê xưa những chiều mưa nặng hạt
Ai có về gữi hộ giọt sầu tuôn
Tháng sáu hè vui những ngày nhộn nhịp
Chiều ven sông đùa giởn tắm bên nhau
Hè vội qua ngày vui chưa bắt kịp
Mưa thu buồn gợi nhớ biết là bao
Tháng sáu đi về ta chưa gặp lại
Con đường xưa còn đợi đến bao giờ
Quê hương xa với nỗi buồn khắc khoải
Kỷ niệm nào cũng chỉ ở trong mơ.
Biện Công Danh
June 2014
* Ảnh phụ bản của chính tác giả ghi lại
Mưa Tình
Đời ai mà không có những lúc buồn bã muộn phiền, tôi thường tìm về những ngày tháng xa xưa để tìm quên những lúc thật không vui đó, trong một khoảng không gian của ngày cũ chập chùng tôi đã thấy những kỷ niệm thật đẹp của tôi vẫn còn đó, những kỷ niệm mà tôi cứ tưởng chừng đã phai nhạt theo thời gian vẫn còn đây với hình bóng em vẫn tràn đầy vùng ký ức .....
Trong một đêm mưa ngày xưa tôi đã đưa em về dưới cơn mưa giá lạnh, con đường vẫn dài hun hút và tiếng nói em cứ hồn nhiên bên tai, nụ cười em vẫn tươi vui như những bong bóng mưa vỡ vụn , tôi không nói gì trong những giây phút chia tay nhưng trong tôi cái cảm giác như là tôi sẽ không bao giờ gặp lại em và sẽ xa em mãi mãi ...buồng ngực tôi như thật nhói đau ....cái đau dịu dàng nhưng cũng thật đậm sâu trong trái tim tôi vốn vô cùng yếu đuối ...
Bây giờ thì cũng thật xa rồi phải không em .. thật xa rồi cái ngày tháng cũ, và đêm nay trời cũng mưa như một đêm nào đó, con đường vẫn buồn tênh với những ánh sáng loang loáng phản chiếu từ những ngọn đèn vàng mỗi khi có những chiếc xe vụt thoáng qua. Tôi vẫn đi một mình lầm lũi dưới cơn mưa, những giọt mưa rơi trên thân thể như thấm vào tim như tạo cho tối cái cảm xúc dịu êm, nồng nàn của một ngày nào xa lắm ......
Em thân yêu, giả sử có một ngày nào đó tình cờ ta lại gặp nhau dưới một cơn mưa, biết chúng ta còn có những cảm xúc như ngày xưa không em nhỉ? Hay là em đã cho rằng anh đã có nhiều thứ đã đổi thay, cái đổi thay theo thời gian và lòng người thường có ......Cũng có thể đó em, nhưng anh phải nói thật với em một điều, trong cái không gian này đây, trong giây phút này đây anh đang thật nhớ em hơn bao giờ hết, nhớ ánh mắt, nhớ nụ cười, nhớ tiếng nói dịu dàng nhớ cả vòng tay êm ái .....Ừ thì cứ quay lưng, nhưng hãy cho anh mang tất cả nỗi nhớ này vào giấc mơ của anh, giấc mơ của một người thật cô đơn đang đi dưới cơn mưa tình tầm tã .....
Khiếu Long
Về Thăm Phố Núi
Vẫn cứ thích về thăm Phố Núi
ngồi bên em nghe nước suối reo
nhìn tia nắng hoàng hôn rớt vội
thấy vàng ươm từng hạt sương treo
Vẫn cứ thích dạo qua những chỗ
đã cùng em trên con Phố xưa
chuyền tay nhau ly cà phê nóng
đi và đi trong đêm sương mưa
Vẫn cứ thích ngồi trên dốc sỏi
nhặt từng hòn đá cuội quăng xa
nghe tiếng rơi vọng từ xa thẳm
ngỡ như ai vừa gọi tên ta
Vẫn thích đi dầu chân đã mỏi
như có em từ trên dốc cao
tim rộn nhịp theo lòng bối rối
lời nào đây chút nữa sẽ trao?
Kỷ niệm đi chưa hề biết mệt
đuổi bám theo từng vết chân anh
yêu Phố hay yêu em chẳng biết
Phố Núi xưa vẫn thích về thăm.
Cao Nguyên
Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014
Phan Thanh Giản - Nỗi Oan 40 năm
THÂN THẾ PHAN THANH GIẢN
Phan Thanh Giản sinh Giờ Thìn, Ngày 12 tháng Mười, Bính Thìn (1796), đời Lê Cảnh Hưng; mất vào đêm mồng Bốn rạng ngày mồng Năm tháng 7 năm Đinh Mão (1867) sau khi tuyệt thực 17 ngày rồi uống thuốc độc tự vẫn; hưởng tho 72 tuổi. Linh cữu an táng tại làng Bảo Thạnh,Ba tri Bến Tre.
Phan Thanh Giản lấy tên tự là Tịnh Bá và Đạm; hiệu là Lương Khê; biệt hiệu là Mai Xuyên. Sau khi thi đậu, cụ cưới vợ người đầu tiên người làng Cần Giuộc. Bà này mất, cụ tục huyền với bà Trần Thị Hoạch ở Quảng Trị và đưa vợ về Kiến Hòa để lo phụng dưỡng cha mẹ. Trong dịp này, cụ làm một bài thơ để tạ ơn vợ đã thay cụ báo hiếu cha mẹ.
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường mây cười tớ ham dong ruổi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng
Ơn nước, nợ trai đành nỗi bận
Cha già, nhà khó, cậy nhau cùng
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng
Phan Thanh Giản sinh Giờ Thìn, Ngày 12 tháng Mười, Bính Thìn (1796), đời Lê Cảnh Hưng; mất vào đêm mồng Bốn rạng ngày mồng Năm tháng 7 năm Đinh Mão (1867) sau khi tuyệt thực 17 ngày rồi uống thuốc độc tự vẫn; hưởng tho 72 tuổi. Linh cữu an táng tại làng Bảo Thạnh,Ba tri Bến Tre.
Phan Thanh Giản lấy tên tự là Tịnh Bá và Đạm; hiệu là Lương Khê; biệt hiệu là Mai Xuyên. Sau khi thi đậu, cụ cưới vợ người đầu tiên người làng Cần Giuộc. Bà này mất, cụ tục huyền với bà Trần Thị Hoạch ở Quảng Trị và đưa vợ về Kiến Hòa để lo phụng dưỡng cha mẹ. Trong dịp này, cụ làm một bài thơ để tạ ơn vợ đã thay cụ báo hiếu cha mẹ.
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông
Đường mây cười tớ ham dong ruổi
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng
Ơn nước, nợ trai đành nỗi bận
Cha già, nhà khó, cậy nhau cùng
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng
(tham khảo: Vĩnh Long Xưa và Nay của Huỳnh Minh, 1967)
Tương truyền tổ phụ cụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu là Ngẫu Cừ, sống dưới đời Nhà Minh.Sau đó Phan Thanh Tập di cư sang Việt Nam cư ngụ tại Phủ Hoài Sơn, Bình Định. Phan Thanh Tập có một con trai là Phan Thanh Ngạn tục kêu là Xán. Năm 1771, gia đình ông Ngạn di vào Nam, ngụ ở Thanh Trông, Định Tường. Sau dời về Mân Thích, Vĩnh Thanh, Vĩnh Long; rồi lại dời về Huyện Bảo An, Hoằng Trị, Vĩnh Long. Cuối cùng, ông lại dời về thôn An Hòa, Tân Thạnh, Vĩnh Bình., phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thạnh; nay là xã Bảo Thạnh, Ba Tri, Bến Tre. Ông cưới vợ là bà Lâm Thị Bút sinh hạ ra Phan Thanh Giản. Năm 1802, Phan Thanh Giản được 7 tuổi thì bà mẹ qua đời. Bà mẹ kế là bà Trần Thị Dưỡng rất yêu quý ông và cho ông thụ giáo với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi. Năm 1815, cha của Phan Thanh Giản bị tù oan. Phan Thanh Gian xin với quan cho ông được ở tù thế cho cha. Quan không thể giúp được nhưng tạo cơ hội cho ông ở gần cha và trau giồi kinh sử. Sau khi cha mãn tù, Phanh Thanh Giản ở lại Vĩnh Long tiếp tục học để tạo sự nghiệp.
Tương truyền tổ phụ cụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu là Ngẫu Cừ, sống dưới đời Nhà Minh.Sau đó Phan Thanh Tập di cư sang Việt Nam cư ngụ tại Phủ Hoài Sơn, Bình Định. Phan Thanh Tập có một con trai là Phan Thanh Ngạn tục kêu là Xán. Năm 1771, gia đình ông Ngạn di vào Nam, ngụ ở Thanh Trông, Định Tường. Sau dời về Mân Thích, Vĩnh Thanh, Vĩnh Long; rồi lại dời về Huyện Bảo An, Hoằng Trị, Vĩnh Long. Cuối cùng, ông lại dời về thôn An Hòa, Tân Thạnh, Vĩnh Bình., phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thạnh; nay là xã Bảo Thạnh, Ba Tri, Bến Tre. Ông cưới vợ là bà Lâm Thị Bút sinh hạ ra Phan Thanh Giản. Năm 1802, Phan Thanh Giản được 7 tuổi thì bà mẹ qua đời. Bà mẹ kế là bà Trần Thị Dưỡng rất yêu quý ông và cho ông thụ giáo với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi. Năm 1815, cha của Phan Thanh Giản bị tù oan. Phan Thanh Gian xin với quan cho ông được ở tù thế cho cha. Quan không thể giúp được nhưng tạo cơ hội cho ông ở gần cha và trau giồi kinh sử. Sau khi cha mãn tù, Phanh Thanh Giản ở lại Vĩnh Long tiếp tục học để tạo sự nghiệp.
SỰ NGHIỆP
Năm 1825, cụ đậu Cử Nhân Khoa Ất Dậu.Năm sau, cụ đậu Đệ Tam Giáp đồng Tiến Sĩ. Cụ là người đậu Tiến Sĩ khai khoa ở Nam Bộ. Cụ từng giữ nhiều chức vụ: dưới ba triều Minh Mạnh, Thiệu Trị, và Tự Đức: Lang Trung Bộ Hình, Tham Hiệp Quảng Bình và Giám Khảo Thi Hương Thừa Thiên; Hiệp Trấn Quảng Nam, Hàn Lâm Viện, Phó Sứ sang Nhà Thanh, Đại Lý Tự Khanh Cơ Mật Viện, Kinh Lược Trấn Tây, Bố Chánh Tỉnh Quảng Nam, Hộ Lý Tuần Phủ Quan Phòng, Nội các Thừa Chỉ, Tả Thị Lang Bộ Hộ, Thị Lang Bộ Hộ, Binh Bộ Tả Thị Lang, Tham Tri Bộ Binh, Chánh Chủ Khảo Trường Thi Hà Nội, Hình Bộ Thượng Thư, Lại Bộ Thượng Thư, Kinh Lược Sứ, Nam Kỳ Kinh Lược Phó Sứ, Gia Định Tuần Vũ (coi giữ Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, và Hà Tiên), Chánh Tổng Tài Quốc Sử Quán biên soạn bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc Tử Giám Sự Vụ, được cử đi sứ tại Pháp, Trung Hoa, và nhiều nước khác. Năm 1852, Vua Tự Đức ban cho cụ tấm kim khánh khắc “Liêm, Bình, Cẩn, Cán” [Ngay Thật, Công Bằng, Cẩn Thận, Siêng Năng].
Ngày 4 tháng Ba, năm 1863, để tìm cách chuộc lại 3
tỉnh Miền Đông, Vua Tự Đức bèn cử Phan Thanh Giản dẫn đầu phái đoàn đáp
Tầu L'Européen qua Pháp điều đình với Hoàng Đế Napoleon III. Cùng đi với
cụ Phan có Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, và 53 tùy viên trong đó có
Trương Vĩnh Ký làm thông dịch viên.
Trước khi lên đường, cụ Phan làm bài thơ Thuật Hoài để giãi bày tấc lòng như sau:
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi
Tang bồng đành rõ chí nam nhi
Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc
Khói đá phăng phăng lướt tích ti
La Hán dang tay chờ khách đến
Tướng quân ghé mắt hẹn ngày về
Phen nay miễn đặng hòa hai nước
Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi!
Trước khi lên đường, cụ Phan làm bài thơ Thuật Hoài để giãi bày tấc lòng như sau:
Chút nghĩa vương mang phải gắng đi
Tang bồng đành rõ chí nam nhi
Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc
Khói đá phăng phăng lướt tích ti
La Hán dang tay chờ khách đến
Tướng quân ghé mắt hẹn ngày về
Phen nay miễn đặng hòa hai nước
Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi!
Đề
nghị giảng hòa tố cáo tâm trạng tuyệt vọng của Tự Đức nếu không muốn
nói đó là thái độ đầu hàng. Tình trạng hòa hoãn này làm cho các quan đầu
tỉnh bó tay không dám động tĩnh gì. Lợi dụng tình thế đó, quân Pháp súc
tiến chiếm đoạt Nam Kỳ.
Cụ
bị giáng chức 5 lần. Lần thứ nhất lúc cụ bị thất bại khi dẹp loạn Cao
Gồng ở Chiên Đàn, phía bắc Quảng Nam. Lần thứ hai cụ bị giáng chức vì
can gián Vua Minh Mạng trong chuyến ngự du Quảng Nam với lý do là dân
tình Quảng Nam lúc đó đang đói kém. Lần thứ ba cụ bị giáng vì lỗi thuộc
viên sơ ý không đóng dấu triện vào một tờ sớ. Lần thứ tư cụ bị giáng vì
ông không ký vào bản án Cơ Mật Viện buộc tội Tổng Đốc Bình Định xin vua
hủy bỏ bản tuồng Lôi Phong Pháp lý do vở tuồng có lời lẽ bôi bác, chế
nhạo Trời, Đất, và các Thần Minh. Lần thứ năm, cụ bị kết tội bất cẩn khi
ông làm Phó Chủ Khảo Trường Thi Thừa Thiên. Cuối cùng, cụ bị giáng cách
vì thực dân Pháp tráo trở chiếm đoạt thành Vĩnh Long trong lúc còn đang
diều đình. Thực tế, cụ xét thấy tình thế không thể cứu vãn được nữa và
để cứu lê dân trước mắt khỏi bị nan binh đao, nên cụ trao thành cho Pháp
rồi uống thuốc độc tự vẫn. Vua và một số quan lại xiểm nịnh lên án cụ
nặng nề ... Nhưng tấm lòng son sắt của cụ đối với quốc gia và dân tộc đã
được trời xanh soi sáng và ngày nay tên tuổi của cụ đã được phục hồi.
Xét cuộc đời và sự nghiệp văn thơ, chính trị của cụ, cụ quả xứng đáng là
một bậc đại trí, đại nhân, và đại dũng.
Mặc dầu trên vai cụ nhiều gánh nặng quốc gia phải chu toàn, cụ Phan vẫn hoàn tất nhiều tác phẩm rất giá trị về văn học và chính trị như sau:
Lương Khê Thi Thảo (454 bài thơ); Lương Khê Văn Thảo; Sứ Thanh Thi Tập; Tây Phù Nhật Ký; Ước Phu Thi Tập; Tích Ung Ca Hội Tập; Sứ Trình Thi Tập; Việt Sử Thông Giám Cương Mục; và Minh Mạng Chính Yếu.
Năm 1864, lúc làm Kinh Lược trấn nhậm Vĩnh Long, cụ Phan và Nguyễn Thông phụ tá xây dựng Văn Thánh Miếu thờ Đức Khổng Tử và Văn Xương Các làm nơi hội họp xướng họa thi văn. Tại Vĩnh Long ngày nay, Tòa Văn Xương Các có thờ chân dung của cụ và bài vị của Võ Trường Toản.
Mặc dầu trên vai cụ nhiều gánh nặng quốc gia phải chu toàn, cụ Phan vẫn hoàn tất nhiều tác phẩm rất giá trị về văn học và chính trị như sau:
Lương Khê Thi Thảo (454 bài thơ); Lương Khê Văn Thảo; Sứ Thanh Thi Tập; Tây Phù Nhật Ký; Ước Phu Thi Tập; Tích Ung Ca Hội Tập; Sứ Trình Thi Tập; Việt Sử Thông Giám Cương Mục; và Minh Mạng Chính Yếu.
Năm 1864, lúc làm Kinh Lược trấn nhậm Vĩnh Long, cụ Phan và Nguyễn Thông phụ tá xây dựng Văn Thánh Miếu thờ Đức Khổng Tử và Văn Xương Các làm nơi hội họp xướng họa thi văn. Tại Vĩnh Long ngày nay, Tòa Văn Xương Các có thờ chân dung của cụ và bài vị của Võ Trường Toản.
GÁN GHÉP TỘI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ CHO PHAN THANH GIẢN.
Triều đình Nhà Nguyễn gán ghép tội cho cụ Phan như thế nào?
Trước hết phải kể tới sự kiện triều đình Tự Đức gán ghép tội cho cụ. Sau khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh miền Nam, Triều Đình Tự Đức trút hết trách nhiệm cho cụ về tội để mất thành với những lời buộc tội rất nặng nề như: “Xét phải tội chết chưa đủ che được tội.” và quyết định: “truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi mãi cái án giam hậu.”
Triều đình Nhà Nguyễn gán ghép tội cho cụ Phan như thế nào?
Trước hết phải kể tới sự kiện triều đình Tự Đức gán ghép tội cho cụ. Sau khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh miền Nam, Triều Đình Tự Đức trút hết trách nhiệm cho cụ về tội để mất thành với những lời buộc tội rất nặng nề như: “Xét phải tội chết chưa đủ che được tội.” và quyết định: “truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi mãi cái án giam hậu.”
Sự
thật cụ Phan có đầu hàng Pháp và để mất thành không? Các nhà phân tích
sử liệu sau này căn cứ vào tư cách và nhân cách cao quý của cụ Phan để
đưa ra kết luận là: Trước họa xâm lược của Pháp, vua tôi triều Nguyễn tỏ
ra rất bị động và lúng túng. Trong triều chia ra người chủ chiến, kẻ
chủ hòa, người lo chống giữ lâu dài. Vua Tự Đức thì tỏ ra phân vân và có
thái độ chủ hòa hơn là chủ chiến nên nhà vua đã cho lịnh “tư cho quan
Kinh Lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui. Tư liệu lịch
sử cho thấy Phan Thanh Giản không đầu hàng và không nộp thành cho giặc
như miêu tả trong một số tư liệu của Pháp. Việc mất ba tỉnh Miền Tây là
hậu quả của chủ trương sai lầm của Vua Tự Đức. Tuy nhiên, năm 1886, Vua
Đồng Khánh cho khôi phục nguyên hàm và khắc lại tên cụ trên bia tiến sĩ.
Tháng 10.1963, Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử công bố bài viết tổng kết của GS Trần Huy Liệu với nhan đề “Chúng Ta Đã Nhất Trí về Nhận Định Phan Thanh Giản”.
Qua bài đó, Trần Huy Liệu đã lên án cụ Phan rất gắt gao: “Công đức đã bại hoại thì tứ đức [bốn Đức của Vua Tự Đức ban cho cụ Phan: Liêm, Bình, Cẩn, Cán] còn gì là đáng kể?”; “Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân.” và “Phan đã dâng hiến thành cho giặc”.
Tháng 10.1963, Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử công bố bài viết tổng kết của GS Trần Huy Liệu với nhan đề “Chúng Ta Đã Nhất Trí về Nhận Định Phan Thanh Giản”.
Qua bài đó, Trần Huy Liệu đã lên án cụ Phan rất gắt gao: “Công đức đã bại hoại thì tứ đức [bốn Đức của Vua Tự Đức ban cho cụ Phan: Liêm, Bình, Cẩn, Cán] còn gì là đáng kể?”; “Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân.” và “Phan đã dâng hiến thành cho giặc”.
Năm 1994, trước những dư luận nổi lên từ nhiều phía trong
và ngoài nước yêu cầu phục hồi danh dự cho Phan Thanh Giản, một cuộc
hội thảo được tổ chức tại Vĩnh Long có lẽ là vì nơi đây còn di tích của
cụ để lại như Văn Miếu và Văn Xương Các (có chân dung của cụ đặt tại
đây) trong khu đất Văn Thánh ở Long Hồ. GS Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa
Học Lịch Sử VN, đọc bài tổng kêt có đoạn như sau: “Chúng ta đều nhất
trí không nên quy kết cho ông cái tội “bán nước' hay “phản bội tổ quốc”.
Ngày
16 tháng 8 năm 2003, một cuộc tọa đàm diễn ra tại Saigòn do Tạp Chí Xưa
& Nay tổ chức với chủ đề - và cũng chính là nhan đề của cuốn sách :
-
“Thế Kỷ thứ 19: Nhìn Về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản”.
Khoảng trên
một trăm nhân vật tham dự buổi tọa đàm này trong đó có Võ Văn Kiệt, Trần Văn Giàu, và Trần Bạch Đằng.
Tuy nhiên,
sau đó, nguyên cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt viết một bài đăng với tựa đề
“Những Suy Nghĩ Sau hai cuộc Hội Nghị về Nhân Vật Phan Thanh Giản” trong
có đoạn viết:
- Tôi khẳng định rằng Phan Thanh Giản là một người yêu nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, cụ đã tự làm bản án cho chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đòi thanh sạch đáng để lại gương soi cho hậu thế. Sau cuộc tọa đàm tháng 8/2003, tôi đã về thăm mộ cụ PTG và thắp nhang lạy hương hồn cụ. Và tôi cũng quyết định sửa sang lại khu mộ phần và nhà thờ Cụ bởi mộ đã bị thời gian bào mòn quá nhiều.
(trích
bài “140 Năm Sau” của Nguyễn Như Hùng (Santa Clara, CA) đăng trong Đặc
San PTG & ĐTĐ Cần Thơ, tr. 23)
Như vậy, phải chờ tới 40 năm kể từ cuộc hội thảo lần thứ nhất vào năm 1963 trong đó Trần Huy Liệu gắt gao lên án cụ PTG là “chủ bại”, “phản lại quyền lợi của dân tộc”, “dâng thành, hiến đất cho giặc”, đến năm 2003, Nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt nói lên lời cải tội cho cụ Phan rằng cụ là người yêu nướcthương dân.
(Trích theo http://cothommagazine.com)
Đã 141 năm, kể từ ngày 4/8/1867, cụ Phan Thanh Giản kết
thúc đời mình bằng 17 ngày nhịn ăn và chén thuốc độc tự vẫn vì buồn
đau, thương dân thương nước. Bi kịch đời cụ là bi kịch lịch sử cần được
làm sáng tỏ. Chuyện ấy đã thành sự thật.
Khi thăm mộ và đền thờ Phan Thanh Giản, chúng tôi thấy
rất nhiều vòng hoa đang còn tươi của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội đồng
Nhân dân tỉnh Bến Tre, Huyện ủy, UBND, HĐND huyện Ba Tri, rồi các ban
ngành, sở, xã Bảo Thạnh (Ba Tri) đến viếng nhân ngày giỗ của cụ ngày
4/8.
Nghĩa là đám giỗ cụ đã được tỉnh long trọng tổ chức,
chỉ một tuần trước khi chúng tôi đến Bến Tre. Dịp này, Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long cũng đã tổ chức lễ rước và an vị tượng
Phan Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long - nơi Kinh lược
sứ đại thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
Pho tượng do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến. Tượng
đúc bằng đồng, cao 85 cm, nặng 250 kg, được tỉnh Vĩnh Long đặt trang
trọng tại nơi thờ trong Văn Thánh Miếu.
Thật vui khi được biết, ngày 24/1/2008, Cục trưởng Cục
Di sản văn hóa Đặng Văn Bài vừa có công văn gửi UBND tỉnh Bến Tre, cho
biết Cục đã làm việc với Viện Sử học và cơ quan này có công văn nêu rõ,
các nhà sử học đánh giá cao công lao của cụ Phan Thanh Giản trên nhiều
lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa.
Cụ nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, có nhiều đóng góp lớn
đối với lịch sử dân tộc trên các lĩnh vực văn học, sử học... Viện Sử
học kết luận: “Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật
Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác
nhau”. Đó là sự phán quyết công bằng. Như vậy Phan Thanh Giản đã được
giải oan sau gần 150 năm mang tiếng “bán nước”.
…Người dân Miền Tây hiểu rất rõ công tội của cụ Phan
Thanh Giản, rằng thời kỳ đó, triều đình Huế là mới là nguyên nhân chính
để mất lục tỉnh Nam Kỳ, vì đã quyết “chủ hòa”.
Cụ Phan Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua.
Nên không thể quy cho cụ tôi “bán nước” hay “phản bội Tổ quốc”. Mặc dù
cụ vẫn ý thức được hoàn cảnh và trách nhiệm của mình.
Trong lá sớ gửi vua Tự Đức trước khi tự vẫn, cụ viết: “Nghĩ tôi đáng chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho quân phụ”!
Đứng trước mộ cụ Phan Thanh Giản tôi cứ nghĩ miên man
về nỗi niềm lịch sử. Hết lòng vì dân vì nước nhưng lại không được người
đời hiểu mình.
Hơn ba chục năm qua, tất cả những đường phố, trường học
mang tên Phan Thanh Giản đều bị gỡ bỏ. Tượng cụ ở Châu Thành, ở trường
Trung học Cần Thơ cũng bị gỡ. Hẳn nhiên bức tượng nằm trong lòng dân mới
là vĩnh cửu.
Một tin vui nữa là tại kỳ họp lần thứ 13 HĐND tỉnh Bến
Tre khóa VII (ngày 10 và 11/4/2008) đã thông qua việc đổi tên trường
THPT Ba Tri thành trường THPT Phan Thanh Giản từ năm học 2008-2009. Sắp
tới tỉnh sẽ dựng lại tượng cụ Phan Thanh Giản.
Rời Ba Tri, tôi cứ ước ao không chỉ ở Bến Tre, Vĩnh
Long mà tên của Đại thần Phan Thanh Giản tài hoa, khí tiết sẽ được đặt
cho nhiều trường học và đường phố miền Nam như trước đây.
(Trích theo http://www.tienphong.vn)
(Trích theo http://www.tienphong.vn)
Huỳnh Hữu Đức Sưu Tầm
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)