Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2014

Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn - Văn Phụng - Hà Thanh


Sáng Tác: Văn Phụng
Tiếng Hát Hà Thanh
Hình Ảnh: Trương Văn Phú  (Sông Tiền Giang Vĩnh Long Tháng 7/ 2014)
Thực Hiện: Kim Oanh

Em - Sài Gòn


Mỗi khi ngồi nhớ Sài Gòn
giọng em thánh thót mãi còn vọng ngân
hát tặng anh khúc tình hồng
là em gởi cả tấm lòng về anh!

Dòng-thời-gian có thoáng nhanh
tình còn tiết tấu âm thanh ấm nồng
khi trao em một đóa hồng
là anh muốn giữ giữa lòng dáng em!

Giờ còn nỗi nhớ rong đêm
lay anh trở giấc gọi em-sàigòn!

Cao Nguyên


Hành Trình Cuộc Sống


Cuộc sống là một hành vừa động vừa tĩnh, mang nhiều sắc màu, nhiều tiết tấu. Bắt đầu cuộc đời từ khi hình thành sự sống trong lòng Mẹ, và ngày Mẹ khai hoa nở nhụy là lúc Mẹ sinh ra ta, Mẹ vui vì bắt đầu mùa Xuân của con, nhưng có khi Mẹ cũng quan ngại hoặc lo buồn vì những mùa khác của con... Vâng, hành trình cuộc sống không hề đơn giản!
Đức Khổng Tử xác định: “Đời người cần có 5 đức: Ôn, Lương, Cần, Kiệm, Chính”.
Sống là đấu tranh, là vươn lên không ngừng, dù sống ở cương vị nào cũng vậy. Mỗi người là một cá thể riêng biệt nhưng vẫn hài hòa trong một tổng thể.
ÔN – “Ôn” là ấm, nghĩa là ôn hòa chứ không cực đoan. Không ôn hòa, người ta sẽ thiên lệch, buông thả hoặc cuồng nhiệt. Người Việt có câu: “Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương chỉ tổ cho người ta ghét”. Ôn ở đây là một động thái dứt khoát và nghiêm túc, không khô khan, không nửa vời, không tiêu cực, nếu là người có tôn giáo thì không cuồng tín.
LƯƠNG – “Lương” là tốt lành, chân thật. Con người vốn dĩ có xu hướng vị kỷ, do vậy mà luôn phải nỗ lực sống tốt hơn. Leo dốc thì rất khó, thả dốc thì rất dễ. Sống tốt không chỉ là tránh điều ác (tiêu cực) mà còn phải hăng say làm điều thiện (tích cực).
CẦN – “Cần” là siêng năng, chịu khó. Tinh thần thì linh hoạt nhưng thân xác luôn nặng nề. Có những điều mình muốn thì mình không làm, mà điều mình không muốn thì mình lại làm. Con người là vậy, rất yếu đuối, mâu thuẫn với cả chính mình.
KIỆM – “Kiệm” là tiết kiệm, không hoang phí. Kiệm ở đây không giới hạn theo nghĩa vật chất mà còn bao hàm các nghĩa khác, nghĩa là không hoang phí thời gian cho các hoạt động vô bổ, không hoang phí ánh mắt, không hoang phí lời nói, không hoang phí thái độ, không hoang phí tình cảm,… Cuộc sống luôn phải chừng mực. St. Francois de Sale so sánh: “Ít nói không là nói ít, mà là không nói những điều vô ích”.
CHÍNH – “Chính” là ngay thẳng, đứng đắn. Thánh Giuse là người công chính nhờ khiêm nhường và tuân phục. Người ít nói hoặc ít cười chưa hẳn là người nghiêm trang và đứng đắn. Không thành kiến với người khác cũng là động thái ngay thẳng, sống nghiêm túc. Phải có tình yêu thương thực sự mới khả dĩ “vui với người vui, buồn với người buồn”.
Đời người như viên đá cuội lăn mòn trên những con dốc đời, rồi một ngày nằm chết lẻ loi bên vệ đường mà vẫn trăn trở không nguôi, vì bao mơ ước chưa trọn vẹn! Khi tư tưởng chín muồi thì thân xác bắt đầu rã rời… Đó là một nghịch lý, nhưng là nghịch-lý-thuận. Cũng có thể đó là sự nghiệt ngã của cuộc đời. Cũng là con người, nhưng có người sung sướng từ trong trứng nước, có người lại đau khổ và thiếu thốn suốt cuộc đời, không chút thanh thản.

Làm sao hiểu được triết lý cuộc sống? Beethoven nói: “Cảm ơn Chúa, tôi viết được nhạc, còn ngoài ra tôi chẳng làm được gì”. Shakespear nói: “Có người sinh ra được sự nổi tiếng rơi vào mình, có người tìm mãi cũng thấy, nhưng có người tìm cả đời cũng không thấy”. Thật bí ẩn, con người không thể hiểu thấu! Hát Xẩm (Việt Nam) có câu: “Một đời đánh phấn đeo hoa, một đời khổ ải cũng qua một đời”. Vậy đó!
Thánh Catarina khuyên: “Cuộc đời là chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó”. Giá trị cuộc đời không được đo bằng “chiều dài” mà đo bằng “chiều sâu”. Và Pithagore cảnh báo: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”.

Trầm Thiên Thu
Vũ Thị Bạch Hằng sưu tầm

Đời Bỗng Vắng Im


Trăng khuất về đâu buỗi sáng này
Chỉ còn trơ trọi một rừng cây
Gió đi xa tắp ngoài muôn dặm
Có chở theo giùm những áng mây

Mười năm như thể ta về lại
Quảng đời thơ ấu chốn quê xưa
Vườn xanh ngào ngạt hương hoa cỏ
Buồn ơi xao xác tiếng gà trưa

Mười năm như thể ta đi lại
Con đường hai buỗi đến trường vui
Những tà áo trắng vờn trong gió
Mùa hạ ve ngân khúc ngậm ngùi

Tưởng tượng một ngày đời vắng im
Về đâu bằn bặt một bóng chim
Mười năm thôi chỉ là cơn mộng
Mây bay nước chảy biết đâu tìm

Khánh Hà 
Ảnh phụ bản của Biện Công Danh - Đường đến trường,Vĩnh Long  

Tân Toàn Quyền Gốc Việt Ông Lê Văn Hiếu - Bang Nam Úc


Tân Toàn Quyền Gốc Việt Ở Úc hết lời ca ngợi khí huyết Tổ Tiên Việt Nam
Trả lời phỏng vấn Radio Australia, ông Lê Văn Hiếu, Toàn quyền vừa được bổ nhiệm của bang Nam Úc nói: “Tôi xin dành vinh dự này cho cộng đồng Việt Nam…”

Thay vì trả lời câu hỏi vì sao được bổ nhiệm làm Toàn quyền , ông Lê Văn Hiếu đã giành khá nhiều thời gian để kể về cách mà nước Úc lựa chọn một Toàn quyền.
Được Nữ hoàng Elizabeth II trực tiếp bổ nhiệm
Ông Hiếu cho hay, các ứng viên phải trải qua một một quá trình chọn lọc rất rộng rãi. Trước đó Nội các tiểu bang đề nghị một số thành viên trong cộng đồng mà họ cảm thấy đã “đóng góp một cách thiện nguyện. Đóng góp ở đây là ngoài công ăn việc làm của bản thân, người đó còn đóng góp ngoài mức bình thường của một người làm việc”. Trong việc chọn lọc, nội các cũng phải tính tới các yếu tố khác như quan sát công ăn việc làm, cách cư xử của những người này trong quá trình làm việc với cộng đồng và xã hội…
Sau đó nội các thảo luận về những người mà Nội các nghĩ là các ứng viên có xác suất cao để đề nghị Nữ hoàng Elizabeth II xem xét.
Trong giai đoạn này Thủ hiến sẽ tiếp tục tham khảo một số nhân vật trong chính quyền cũng như xã hội. Cuối cùng đề nghị sẽ được chuyển sang cho Nữ hoàng.
Sau đó một thời gian, bí thư của Nữ hoàng báo cho Thủ hiến biết người được đề cử đã được sự đồng ý của Nữ hoàng. Tuy nhiên, sự đồng ý này vẫn chưa được chính thức hóa. Sau đó, Úc phải cung cấp thêm mọi dữ kiện và tài liệu cần thiết để Nữ hoàng xem xét lần cuối.
Ông cho biết chức vụ Toàn quyền các bang ở Úc là “do chính Nữ hoàng trực tiếp bổ nhiệm”.

Ông Lê Văn Hiếu (phải) và Toàn quyền đương nhiệm của bang Nam Úc Kevin Scarce


“Hãy nhớ mình thuộc một dòng giống hết sức thông minh, cần cù…”

Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn với Radio Australia, nói về việc là người gốc Việt đầu tiên được bổ nhiệm Toàn quyền ở Úc, ông Lê Văn Hiếu xúc động cho biết: “Tôi xin dành vinh dự này cho cộng đồng Việt Nam, cho khí huyết của tổ tiên ông bà mình, cho dân tộc Việt, chứ cá nhân tôi chỉ là người mang những cái đó thôi”.
Theo ông Hiếu, dân tộc và tổ tiên người Việt có những tính cách quý báu như “rất bất khuất, kiên cường, chịu khó nhẫn nại, dễ hòa hợp, hiếu khách”.
Ông nói rằng việc ông được bổ nhiệm làm Toàn quyền là “sự ghi nhận không phải dành cho một cá nhân tôi mà là ghi nhận sự đóng góp của toàn thể cộng đồng Việt Nam ở Úc”.
Ông ngỏ lời khuyên các bạn trẻ phải “ghi nhớ trong tâm khảm là mình đang mang trong máu của mình một sức sống hết sức mãnh liệt, một sự chịu khó, chịu đựng hết sức cao. Đồng thời luôn nhớ rằng mình thuộc về dòng giống hết sức thông minh và cần cù”
Theo ông Hiếu, nếu “đặt tình tự dân tộc như một niềm an ủi lớn lao, như một động lực để động viên mình thì tôi tin chúng ta sẽ vượt qua được nhiều khó khăn”.

Giấc mơ hơn mọi giấc mơ


Vị tân Toàn quyền 60 tuổi từng tâm sự, khi đặt chân đến Úc hơn 36 năm trước, ông không mang theo bất cứ vật gì ngoại trừ một chiếc va li vô hình chất đầy ước mơ. Nhưng việc được vinh dự nhận chức Toàn quyền là điều hoàn toàn vượt ra ngoài mọi giấc mơ “dù ngông cuồng nhất” của ông. Không chỉ là người gốc Việt đầu tiên trở thành Toàn quyền ở bang Nam Úc, ông còn là người châu Á di cư đầu tiên nắm giữ chức vụ này trong lịch sử của bang.
Ông Lê Văn Hiếu sinh năm 1954 tại tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Năm 1977, ông và phu nhân, bà Lan, đến Úc.
Ông bà có hai con trai, Don (27 tuổi) và Kim (23 tuổi), được đặt tên theo tên hai vận động viên cricket nổi tiếng của Úc là Don Bradman và Kim Hughes.
Tân Toàn quyền Lê Văn Hiếu sẽ chính thức nhậm chức ngày 2/9 năm nay. Ông cho biết, ở cương vị mới, ông sẽ tận dụng mọi cơ hội để thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế và văn hóa giữa bang Nam Úc với các nước Đông Nam Á.

Trong bài có sử dụng tư liệu của ban tiếng Việt, Radio Australia, hãng tin Úc ABC.

Đỗ Đình Tiến Sưu Tầm

Đàn Cò


Đàn cò tóc bạc như vôi
Mặn nồng hương lửa, trọn đời bên nhau
Đàn cò tóc bạc phau phau
Cùng chung bờ mẫu, ruộng sâu, đầm lầy
Đêm về chung một tàn cây
Cùng nhìn sông chảy: lớn đầy, ròng vơi
Đàn cò soải cánh giữa trời
Thế gian sao lại lắm người ghét nhau?
Đàn cò vỗ cánh bay mau
Hoá thân hạc trắng, bay vào bồng lai

Lê Kim Thành


Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2014

Nói Với Học Trò


(Tặng các em ở Nguyễn Cảnh Chân, thời xưa)

Thầy trở về nhìn các em lần nữa
Những đầu xanh thơm bút vở học trò
Những chiếc áo viền đường bay quá khứ
Những màu môi sáng rực tuổi ngây thơ.


Thầy trở về ôm nỗi buồn chiến trận
Nghe chim kêu tự thành cổ rêu vàng
Xếp trang sách dâng đời cho bom đạn
Trái tim sầu mang trời đất tan hoang.


Thầy trở về hình đã đen hơn trước
Râu thì dài, bóng thì lụn ưu tư
Và ngậm ngùi nhìn các em lần lượt
Vơi dần đi như lá rụng mùa thu.


Thầy trở về dẫm dấu giày lang bạt
Trên thềm xưa đếm từng bước thương đau
Các em có những ước mơ khao khát
Giờ tiêu tan mây khói giữa trời cao.


Thầy đứng đây vụng về trong cách nói
Có nỗi buồn xin dấu kín tâm tư
Các em sớm đeo tuổi đời mệt mỏi
Trĩu oằn vai những gánh nặng suy tư.

Phạm Hồng Ân


Thơ Tranh: Nguồn Cội


Thơ & Thơ Tranh: Nguồn Cội

Xướng Hoạ: Nhớ Quê Xưa


Bài Xướng

      Nhớ Quê Xưa
Văng vẳng vườn ai tiếng nhạc ve 
Nhớ làng quê cũ những trưa hè 
Ru con, mẹ hát sau phên trúc 
Thắp nắng, hạ về trên nhánh me 
Xơ xác hàng cây bên lộ đất 
Khô cằn đám ruộng cuối bờ tre 
Ngậm ngùi ôn lại thời thơ ấu 
Quặn thắt trong lòng nỗi sắt se. 
                      Phương Hà
 * * *
Các Bài Họa 

          Trưa Hè 
Trong khóm cây già rộn rã ve , 
Võng ai kẽo kẹt vẳng bên  hè . 
Gục gù chim gáy trên tàu lá , 
Phe phẩy trâu nằm dưới gốc me . 
Eo óc gà trưa ru nắng hạ , 
Mơ màng quán nhỏ núp lùm tre . 
Đò ngang ngáy ngủ con sào cắm , 
Lúc chín gợn đồng nước đã se .
                            Mailoc 
                        Cali  6-24-14 
* * *
        Chiều Quê 
Nỉ non nhạc khúc ngấn sầu ve 
Sáo thổi vi vu nhớ gọi hè 
Lời mẹ ru buồn bên ngõ trúc 
Cánh chuồn bay nhẹ dưới cành me 
Ngẩn ngơ làn nắng dìu cơn gió 
Eo óc tiếng gà gáy bụi tre 
Thơ ấu trôi về nao ký ức 
Tình quê man mác nỗi lòng se 
                      Trầm Vân    
* * *     Hè Nhớ Quê Xưa
Nhớ hoài ra rả tiếng ve ve,(1)
Oi bức làm sao cái nắng hè.
Vàng rực chói chan chòm điên điển,
Lặng im phăng phắc mấy hàng me.
Cụ già phe phẩy tìm hơi gió,
Trẻ nhỏ nô đùa núp bóng tre.
Xa tít chân trời làng xóm cũ,
Hè về mỗi độ lại lòng se !
                  Đỗ Chiêu Đức.

 GHI CHÚ :
       (1). Ở xứ Nam Kì Lục Tỉnh của tôi, bà con gọi con VE SẦU là con VE VE.


* * *        Nhớ Hè Xưa
 (Mượn vận và ý bài thơ 
    Nhớ Quê xưa của Phương Hà)

Ngoài vườn văng vẳng tiếng con ve
Mới biết trời đang chuyển đến hè
Thương thuở võng nằm kêu kẻo kẹt
Nhớ thời trốn học lén trèo me
Hái chùm phượng đỏ khi tan lớp
Đón tặng người em dưới luỹ tre
Hạ ở xứ người lòng luyến tiếc
Quê nhà sen nở dạ buồn se 
                       Song Quang
* * *

         Nhớ Một Mùa Hè  
Trên cành tha thiết tiếng chàng ve  
Nhớ thuở buồn thương mỗi lượt hè 
Bịn rịn chia tay bên gốc phượng  
Nôn nao hò hẹn dưới tàng me 
Thế rồi có kẻ quên bờ bến  
Nhưng vẫn còn người nhớ luỹ tre 
Năm tháng lạnh lùng cay mặn đắng 
Nhớ về kỷ niệm thấy lòng se  
                               Quên Đi

Chiều Mưa Hà Nội - Sáng Tác Nguyễn Tiến - Ý Lan

      Cơn mưa chiều Hà Nội gợi nhớ kỷ niệm, nhớ người yêu nơi xa.Hồ Tây là chốn cũ, cơn mưa chiều nay đưa em vào nỗi nhớ,nhớ nụ hôn đầu lúc chia tay, mưa làm cho nỗi nhớ như nhiều hơn, em đếm từng hạt mưa rơi, để gởi nỗi nhớ đến anh, anh có biết không?

 

Sáng Tác: Nguyễn Tiến
Tiếng Hát: Ý Lan
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình



Nỗi Niềm


Thu đi em nuối tiếc
Thu về thương lá phai
Trăng sầu soi bóng chiếc
U hoài nhớ tình ai

Từ cỏ hoa biết khóc
Tháng bảy mùa mưa Ngâu
Từ thu vàng trở gót
Mắt em vướng lệ sầu

Ngỡ ngàng chiếc lá bay
Theo cánh gió heo may
Quẩn quanh miền kỷ niệm
Phương trời anh có hay?

Chiều tàn, phai nhạt nắng
Mây tím buồn giăng giăng
Em ngồi soi đêm trắng
Nơi bến vắng cùng trăng

Nỗi niềm anh, em hiểu!
Buồn em, anh thấu chăng?

Yên Dạ Thảo
11.12.2012

Niềm Riêng


(Từ Nỗi Niềm của Yên Dạ Thảo)

Đầu đông nghe nuối tiếc
Mùa thu lá vàng bay
Nhớ sao đôi mắt biêc
Lạc vào hồn ta say

Nỗi niềm gửi theo gió
Bay về tận nơi nào
Có người em ngày đó
Đón nhận lòng mê say

Đông này ta một lối
Em đi có nhớ gì
Một lời ta chưa nói
Nỗi niềm nào ai hay

Em phương trời xa lạ
Ta khép lại cuộc đời
Trong mùa đông tàn tạ
Như là thoáng hương bay

Nỗi niềm ta, ta hiểu
Nỗi niềm em, em hay.

Thế Thôi (Đỗ Hữu Tài)


Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

Hận Loài Sâu



      Nhân một chuyến đi lanh thang ngoài hoang dại. Tôi khám phá một loài hoa vàng rất lạ và rất đẹp. Vốn dĩ không có tay trồng trọt nên tôi chỉ đứng ngắm chứ không mơ được loài hoa này ở trong vườn mình. Nhưng càng ngắm càng thèm thuồng, càng tưởng tượng nó nở bung trong vườn nhỏ, mà tựa như một nàng giai nhân đang tắm nắng chiều chơi vơi với gió thì tuyệt. Càng nghĩ thì sự ham muốn dâng trào, niềm khoái cảm đưa theo. Cảnh vật bị lãng quên dưới cảm xúc. Đôi tay tôi ngứa ngáy, rộn ràng. Thế là tôi phải ngả người chồm xuống để bế nàng về. Một chồi non nho nhỏ cũng đủ ước mơ.

      Từ đó tôi vun xén nàng, từng ngày mớm cho nàng từng giọt nước lên môi. Từng buổi chiều chờ mong nàng nẩy nụ, đơm hoa. Nâng niu vuốt từng ngón tay nàng, từng nếp xiêm y cho thẳng mượt. Sau mấy tháng trời nàng bắt đầu đơm nụ. Những nụ môi yêu kiều, chúm chím.
Nhưng chưa kịp xem nàng cười thì, tai biến. Tôi phải đi công tác . Hai tuần phải xa nàng nên tôi cẩn thận che mái, sợ nàng phải chịu nắng mưa, đay nghiến. Tôi gắn cái vòi nước chu kỳ (timer) để nàng uống những giọt tình ngọt lịm của tôi. Và tôi ra đi.

      Hai tuần lưu đày rồi cũng qua. Vừa từ phi trường về là tôi chạy thẳng ra sau vườn, tìm đến nàng. Ôi thôi! Nụ cười đã chết. Nụ cười nàng đâu không thấy mà tôi chỉ còn thấy một chiếc kén còn vướng đó. Và một con bướm đầy màu sắc rất đẹp đang lượn quanh. Niềm đau xót, lẩn bực dọc, tôi muốn bắt con bướm kia để đòi lại nụ cười mà tôi chờ đợi, vun xén. Tôi chờ. Tôi rình . Tôi rón rén . Mãi hơn mười phút tôi mới bắt được cái tên tội nhân vô liêm sĩ kia. Cái tên tội nhân bất nhẫn kia. Tôi đưa tay định bẻ chân của nó để trả thù. Nhưng nhìn đôi cánh đủ màu đang bung đi, khép lại trên đầu ngón tay tôi trong sợ hải của nó. Tôi chùng lại. Tôi lại ngần ngại. Tôi bỗng lại tiếc nuối cho đôi cánh đẹp phải bị hành hạ .

      Tôi thả người ngồi xuống bệ đá. Nghe như có những sợi tơ từ chiếc kén còn sót kia đang quấn chặc lấy mình, đang căng dài mình ra hai chiều đối nghịch . Nụ môi kia tôi chưa lần được hưởng, đôi cánh này sao lại lắm tơ vương. Cuối cùng, như một đấng từ bi, những ngón tay tôi buông xuôi và con bướm vụt bay đi. Nó còn vờn lại trên ngọn cây như một chút gì đắc thắng.

      Nhìn lại cụm hoa hôm nào mà nghe lòng bâng khuâng. Một loài sâu ăn bám đã từng hút máu của những gì tôi yêu dấu, đã từng gặm nát những gì tôi tiếc thương, đã giết đi những gì tôi nâng niu, dung dưỡng. Nó đã bất kể đến sự tàn độc mà nó đã để lại . Đến khi nó thành bướm, hoá màu thì tôi lại không đủ nhẩn tâm. Tôi cất tiếng thở dài, hơi thở dài đến bất tận tựa như không đến hồi chấm dứt. Phổi tôi lép kẹp mà vẫn muốn thở dài 

      - Ôi! Đời sao lại dễ quên.

Hoài Tử

Cánh Diều Ngày Xưa


Xa em gió thổi lạnh vèo
Bước chân nghe mỏi dốc đèo nhân gian
Hoàng hôn về khắp non ngàn
Lối đơn xác lá rụng vàng buồn thu.
Thảo nguyên chiều lạnh sương mù
Mình ta ngồi với lời ru muộn màng
Bến tình một chuyến đò ngang
Bởi chân bước chậm lỡ làng thuyền xa.
Chiều nay một buổi thu tà
Thảo nguyên gió lạnh sương nhòa buồn hiu
Mây không che được nắng chiều
Gió không chở nỗi cánh diều ngày xưa
Thì thôi còn chút hương thừa
Ta đi góp nhặt để chừa mai sau.


Vĩnh Trinh

Trí Nhớ Mưa - Sáng Tác Ngu Yên



Sáng Tác: Ngu Yên
Trình Bày: Nguyên Thảo
Phối Nhạc: Lý Giai Niên


Hồn Quê


Nhiều khi nắng tắt bóng hoàng hôn
Lòng bỗng bâng-khuâng nhớ chập-chờn
Xóm nhỏ ngày xưa hình ảnh ấy
Ngổn ngang kỷ-niệm lấn vào hồn

Thôn xóm điêu tàn bởi chiến tranh 
Dân cư tứ xứ với tình thân 
Thợ rèn thợ mộc chen vai sống 
Biến đổi hoang vu mãnh đất lành 

Những căn nhà lá dọc bờ sông
Nền đất phên tre mặc gió lồng
Nho nhỏ vườn sau, rau mấy liếp
Thanh bình vui sống chỉ cầu mong.

Những buổi trưa hè không gợn mây 
Nắng tuôn xối-xả bụi tre gầy 
Túc con gà mái đang bươi đất 
Phơi bụng chó nằm  dưới bóng cây 

Xao-xác gà trưa vẳng bến sông 
Xuồng ai lặng-lẽ cứ xuôi dòng 
Võng đưa kẽo-kẹt bà ru cháu 
Thôn xóm quanh co vắng lạ-lùng.

Chiều buông lặng-lẽ gió hây-hây 
Xóm dưới xôn xao lẫn tiếng chầy 
Đùa giởn sân đình bao trẻ nhỏ 
Mãi chơi quên hết mẹ la rầy.

Cơm chiều khói tỏa giữa sương mờ 
Lãng-đãng mây hồng mấy sợi tơ 
Ríu-rít chim về trong khóm lá
Điu hiu thôn xóm lặng như tờ

Dòng sông man mác lững-lờ trôi
Neo bến thuyền ai sắp tối rồi 
Trìu mến tiếng ru hoà tiếng trẻ 
Chuông chùa xa vắng cuốn hồn tôi 

Mailoc
( Xóm Rạch Miễu  KP những năm 1955-1965)
          

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Bóng Chiều Xưa


Dĩ vãng xa xưa vẫn hiện về
Mắt môi còn nhớ thuở đam mê
Vườn cây ngày cũ đầy kỷ niệm
Văng vẳng đâu đây tiếng hẹn thề

Tình ngỡ chôn sâu vào ký ức
Sao người năm cũ vẫn quanh đây
Thao thức niềm yêu con tim gọi
Âm thầm nỗi nhớ giọt mi cay

Từ lúc anh xa buồn dịu vợi
Quê nhà quyện khói giữ hoàng hôn
Bờ sông con nước chiều in bóng
Một mối thương yêu vẫn mãi còn.

Biện Công Danh
June 14
* Ảnh của tác giả ghi lại Bến Vĩnh Long

Bạch Hóa


Nếu thật em là nguyệt
Xin hãy làm trăng thanh
Trên trời cao vằng vặc
Đừng ghé đời riêng anh

Anh là sông chảy ngược
Trên những nhánh mê say
Anh chỉ là lãng tử
Giữa đất trời mưa bay

Nhưng ơ kìa thật lạ
Đã nói không cơ mà!
Sao tự dưng rộn rã
Muốn yêu em thật thà

Anh nhặt từng giọt nắng
Chiều nam phương hắt hơi
Dường như ai đó nhắc
Chắc yêu em thật rồi

Ơi! Vòng tay bối rối
Chạm nụ hôn ngẩn ngơ
Dù tình yêu không tuổi
Nhưng mây trôi hững hờ

Trăng thanh và nguyệt khuyết
Cách nhau một đường tơ
Em ơi nhanh lên nhé
Thời gian không đợi chờ.

Ht Nguyệt khuyết

Thanh Thúy



Thơ: Vũ Hối
Thơ Tranh: Kim Oanh

 

Sáng Tác: Trúc Phương
Tiếng Hát: Thanh Thúy

Chí Sĩ Trương Gia Mộ

     Trương gia Mô con quan đại thần Trương gia Hội . Ông chịu ảnh hưởng của phong trào Tân Văn (Lương Khải Siêu ... ) và ảnh hưởng Nga Nhật chiến tranh - Nhật thắng Nga. Ông bỏ gia đình ở Phan Thiết vào Nam hô hào Đông Du ( lúc đó phong trào Đông Du ở Miền Nam mạnh hơn ở Trung Bắc ). Cuối cùng ông buồn chết ở miền Tây Nam Việt!


Tự Trào

Tảo tuế thiết hư dự
Nhĩ thân cố bất trường
Cầu thi khổ dục tử
Đắc tửu hỉ thành cuồng
Lũy lủy táng gia cẩu
Hành hành luy giác dương
Giang thiên không độc lập
Lưu thủy hạ tàn dương

Trương Gia Mô

Dịch :

Thuở nhỏ dược tiếng hão
Ngẫm lại chẳng nên thân
Mần thơ khổ muốn chết
Hớp rượu vui như điên
Lông bông chó mất nhà
Vướng sừng dê mắc dậu
Bơ vơ không chốn đậu
Sông chảy dưới chiều tà

Chân Diện Mục

* * *

Tức Sự

Chấn y du đế lý
Đê thủ nhập công ty
Bổng hướng bạc ư chỉ
Bộ thư phần nhược ty
Kính trung nhan sắc hậu
Mộng lý thần hồn bi
Dao chỉ Nam Sơn tế
Chung đương dữ ngã kỳ
Trương Gia Mộ

Dịch:

Sửa áo vào kinh kiếm chút chi
Lò dò ngần ngại đến nha ty
Ai ngờ lương mỏng như tờ giấy
Sổ sách lu bù rối quá đi
Mặt mũi soi gương nào thấy tệ
Mà sao nhắm mắt chỉ sầu bi
Ngẩng đầu , chỉ núi , quê ta đó
Về quách đi thôi luyến tiếc gì

Chân Diện Mục

Nhớ Ơi Là Nhớ


Đêm lắng xuống chìm vào lòng đất lạnh
Nỗi nhớ nào làm vang vọng trong tim
Năm canh dài, đêm trăn trở dài thêm
Như vô tận… trăng mềm soi bóng ngã
Sáng rất lạnh, lá thu rơi lả tả
Anh nhớ em, anh nhớ quá em ơi
Hồn thẫn thờ theo từng chiếc lá rơi
Nhớ tiếng nói, nhớ giọng cười, ánh mắt
Ôi nỗi nhớ làm gan bào, ruột thắt
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!

24.11.2006
Yên Sơn


Thứ Ba, 1 tháng 7, 2014

Khuyết Đề - Lưu Tích Hư ( -714 - )

      Sáng nay , bắt gặp được một nét đẹp thanh thoát - lời nổi ý chìm - trong một bài thơ xưa, mà ở lần chuyển dịch mấy năm trước, trong Mây Tần , tôi đã không "thấy" được. Chép ra đây để mọi người trong nhà đọc cho vui. Cầu chúc an lành. Thân quí. PKT 06/26/2014


Khuyết Đề - Lưu Tích Hư ( -714 - )

Đạo do bạch vân tận
Xuân dữ thanh khê trường
Thời hữu lạc hoa chí
Viễn tùy lưu thủy hương
Nhàn môn hướng sơn lộ
Thâm liễu độc thư đường
U ánh mỗi bạch nhật
Thanh huy chiếu y thường


Dịch Xuôi : Khuyết Đề (Thiếu Đề Bài)

Cuối đường đi là vào vùng mây trắng
Sắc xuân dài dọc theo khe suối xanh
Lác đác vài cánh hoa rụng trôi lạc đến
Hương thơm theo dòng nước cuốn bay xa
Cổng nhà thanh nhàn nhìn ra lối lên núi
Phòng đọc sách nằm trong khu liễu rậm
Ở chốn u nhã này mỗi khi mặt trời lên
Áo quần vương đầy những đốm nắng lung linh

Khuyết Đề

Đường tận chân mây trắng
Xuân dài dọc suối xanh.
Hoa trôi khe nước mát
Hương tỏa khí trời lành.
Núi chắn ngoài đầu ngõ
Liễu buông quanh họa đường.
Ngày qua ngày lặng lẽ
Áo bạc nắng tha hương.

26/6/2014
Phạm Khắc Trí

Một Đời














Chụp Ảnh: Trương Văn Phú

Trăng Soi Đời Nhánh Sông Con




        (Riêng Nguyệt Khuyết)

Trăng thiếu phụ như thuyền mơ
hình quay quắt nhớ vật vờ cười khan
chút tình theo dòng lang thang
thiếu hình bóng nhạt nửa vầng trăng rơi
người ơi xin nói một lời
cho dù gian dối đãi bôi cũng đành
cho ấm lòng khách lữ hành
trên từng dặm mỏi thiếu đồng hành vui
qua sông qua núi ngậm ngùi
khác gì thời lính dập vùi tro than
chưa tàn cuộc đã rã đàn
vượt cơn sóng dữ quá giang xứ người
viễn phương làm kiếp ma hời
đêm mơ bóng nguyệt ngày bơi ngược dòng
cuối cùng cũng là nhánh sông
lang thang say khướt biết không nguyệt mềm
môi thơm cỏ biếc hằng đêm
về theo mộng mị gối êm chỗ nằm
trăng ơi, hãy cứ mãi rằm
nghiêng minh đăng xuống chiếu chăn vẫn chờ
đời là thật hay là mơ
xui chi gặp gỡ ngẩn ngơ thế này
tự thương người mỏi cánh bay
tàn y xếp lại hương say vẫn nồng

Trăng ơi hãy là nụ hồng
nở ra đỏ thắm tươi lòng cuồng nhân
người điên không nói xa gần
bởi vì trong thật có mầm dối gian
điên là tỉnh nên mãi cần
ngày sau sỏi đá mộ phần gần nhau.

T.

Thơ Tranh: Bài Thơ Đã Sửa


Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Ánh Sáng Vô Minh - Đông Hồ



Tiểu Sử Tác Giả

      Thi sĩ Đông Hồ (10/3/1906 - 25/3/1969) tên thật là Lâm Kỳ Phác (Tấn Phác), hiệu Đông Hồ (Ông sinh trưởng ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, một thắng cảnh trong Hà Tiên thập cảnh), Thuỷ Cổ Nguyệt (chiết tự chữ Hồ).

      Ông sinh trưởng ở nơi cùng tịch, nên chữ Pháp, chữ Hán đều được học rất ít. Chỉ chuyên tự học tiếng Việt mà thành văn, thi tài. Từ năm 1923 đến năm 1933, viết cho tạp chí Nam Phong xuất bản ở Hà Nội, trong đó, làm văn nhiều hơn làm thơ. Năm 1935, nghỉ viết báo Nam Phong, chủ trương tuần báo Sống, tự lực xuất bản ở Sài Gòn. Năm 1953, giám đốc Nhân Loại tập san, xuất bản ở Sài Gòn, để làm cơ quan cho nhà xuất bản Bốn Phương và nhà Sách Yiểm Yểm thư trang sáng lập từ năm 1950.

      Từ năm 1926 đến năm 1934 Ông mở nhà nghiã học trên bờ Đông Hồ lấy tên là "Trí Đức học xá", chủ trương chuyên dạy bằng tiếng Việt, cổ động khuyến khích cho học trò và bè bạn tin tưởng ở tương lai Việt ngữ.

Đã xuất bản:
- Thơ Đông Hồ (Nam Ký thư quán Hà Nội, 1932).
- Linh Phượng, tức Trác Chi Lệ Ký tập (Nam Ký thư quán Hà Nội, 1934).
- Cô Gái Xuân, thơ (Vị Giang văn khố Nam Định, 1935).
- Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc Văn, biên soạn chung với Trúc Hà (Trí Đức học xá, 1936).
- Hà Tiên thập cảnh (Bốn Phương Sài Gòn, 1960).
- Trinh Trắng thơ (Bốn Phương, 1961).

Áng Sáng Vô Minh


Em thút thít là bắt đầu sắp khóc
Hồn rạt rào như sóng vỗ liên miên
Tuổi mười sáu là trăng vừa mới mọc
Lệ của tình nên rớt xuống vô biên

Anh chạy đến cầm tay em thật chặt
Bởi mơ hồ nghe trái đất rung rinh
Ôi kiêu hãnh khi nhìn em tận mắt
Anh thấy rồi ánh sáng của vô minh.


Đông Hồ
Suối Dâu sưu tầm

Cách Đuổi Gián Đơn Giản, Hiệu Quả

Bằng những nguyên liệu dễ kiếm như dưa chuột, nước đường, hành tây, bạn có thể đuổi được gián đi.


1. Nước xà phòng
Bạn hòa hỗn hợp nước với xà phòng rồi cho vào bình xịt, xịt trực tiếp lên gián hoặc tổ gián sẽ làm chúng chết nhanh chóng.
2. Nước đường
Bạn dùng một cái hộp sắt cho vào đó 3 thìa đường, hòa tiếp cùng với nước nửa bát đặt vào nơi gián thường đến để nhử. Ngửi thấy mùi đường, gián sẽ đến và bị rơi vào hộp nước.
3. Hành tây
Bạn cắt hành tây ra đĩa để sẵn trong bếp, gián ngửi thấy mùi sẽ chạy đi hết, ngoài ra hành tây còn giúp bạn giữ thức ăn được tươi lâu hơn.
4. Bột nở
Cho ít bột nở lên lá bắp cải hoặc lá rau diếp rồi đặt vào những chỗ gián hay lui tới. Điều này sẽ giúp bạn nhanh chóng đuổi gián đi.
5. Băng phiến
Lấy một ít băng phiến, bột mỳ trộn với đường, vê thành viên nhỏ như hạt cơm, rắc vào chỗ gián hay đến, khi ăn phải gián sẽ chết.
6. Dưa chuột
Ta có thể đặt dưa chuột tươi vào trong tủ đựng thức ăn, ngửi thấy mùi dưa chuột, gián sẽ bỏ đi. Sau vài ngày, ta lại cắt chỗ dưa chuột khô đi, gián sẽ không dám đến nữa.
7. Lá nguyệt quế
Khi bạn lau nhà, chỉ cần thêm một vài lá nguyệt quế vò nhẹ thả vào nước lau nhà rồi lau như bình thường. Gián sẽ chạy hết khi ngửi thấy mùi này.
8. Lá đào tươi
Ta đem lá đào tươi đặt vào những chỗ gián thường đến, ngửi thấy mùi lá đào, gián sẽ bỏ chạy.


Anh Thỏ Non (theo Etips)
Tiến Đỗ sưu tầm

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

Dòng Sinh Tồn





Chim sẻ già, dòng sinh tồn đang thoát nhanh qua toàn bộ lông không đủ sức che thân




Chụp Ảnh: Trương Văn Phú