Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Đợi Nhau Bạc Đầu

    (tặng Lâm Hảo Khôi)

Em có còn xe đạp qua cầu
nối hai bờ mà đến thăm nhau
bên kia Chương Dương, bên này Vĩnh Hội
chỉ một dòng sông… tìm đến bạc đầu

Em có còn mỗi sáng đến trường
quyển vở chép đầy nỗi nhớ bình phương
giờ xa nhau lũy thừa tăng triệu triệu
em viết làm sao con số nỗi buồn?

Em có còn hẹn nhau Duy Tân
ngượng ngập trao nghiêng phớt nụ hôn gần
bởi hàng cây cao che trời ngó xuống
nên lời hẹn thề không có chứng nhân

Em có còn xõa tóc ngang lưng?
sợi cột tim anh sợi níu chân
có người lính trẻ luôn trể phép
và trể luôn lần hẹn cuối cùng

Em có còn đứng cổng sân ga?
đợi chuyến tàu về đón khách đường xa
khách đường xa không còn về phố
ai đứng chờ ai quên mất tuổi già

Nguyễn Bình Thường 

(Brisbane)

Bậu Về


Bậu về mắt liếc đong đưa
gió xuân đầy mặt như vừa chín cây
bậu về má đỏ hây hây
ta mười lăm đã lòng say bậu rồi

Bậu còn chơi ác nói cười
những câu dí dỏm chết đời ta chưa
bậu về nhớ nắng thương mưa
hình như cây cỏ cũng ưa bậu về

Như là có chút nắng hè
như là có cả chùm me chua lừng
như là xoài Tượng thơm dòn
bỏ vào nước mắm chút đường khó quên

Bậu về Đại Ngãi mình ên
bỏ quên kẹp tóc bắt đền tội ta
bỏ quên là tại bậu mà
tại sao lại bắt đền ta một đời
tội nầy ai chịu bậu ơi!


Trần Phù Thế
( Trích từ thi tập Gọi Khan Giọng Tình -
Thư Ấn Quán xuất bản tháng 4/2009 tại Hoa Kỳ)


Thơ Tranh: Kỷ Niệm Trong Tôi


Trích Thơ: Kim Phượng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Trăng Hạ


Đã về chưa, đã đến chưa 
hạ đỏ trời xám đất 
em ngập ng
a bảo giông mùa lạ 
anh âm u đoản khúc ru buồn 
Tươi xanh quá 
Lá xanh – xanh đến ngát 
đời cỏ đong đưa lời biếc ngộp rừng 
Em xa anh 
ở đâu đó bóng chim sầu vượt mạn 
………. 
Em đứng cười rẫy gió 
vờn bóng đổ trăng mơ 
Trăng hạ 
Trăng rờn rợn lăn quay 
Lăn nghiêng nghiêng suốt dốc thẳm sa mù. 


Tín Đức


Việt Nam Sử Lược : Thượng Cổ Thời Đại Chương 4


1. Triệu Vũ-vương
2. Vũ-vương thụ-phong nhà Hán
3. Vũ-vương xưng đế
4. Vũ-vương thần-phục nhà Hán
5. Triệu Văn-vương
6. Triệu Minh-vương
7. Triệu Ai-vương
8. Triệu Dương-vương

1. TRIỆU VŨ-VƯƠNG (207-137 tr. Tây-lịch). Năm quí-tị (207) Triệu Đà đánh được An-dương-vương rồi, sáp-nhập nước Âu-lạc vào quận Nam-hải, lập thành một nước gọi là Nam-việt 南 越, tự xưng làm vua, tức là Vũ-vương 武 王, đóng đô ở Phiên-ngung 番 禺, gần thành Quảng-châu bây giờ.

2. VŨ-VƯƠNG THỤ-PHONG NHÀ HÁN. Trong khi Triệu Vũ-vương gây-dựng cơ-nghiệp ở Nam-việt, thì ở bên Tàu, ông Lưu Bang 劉 邦 trừ được nhà Tần 秦, diệt được nhà Sở 楚, nhất-thống thiên-hạ, rồi lên ngôi Hoàng-đế, tức là vua Cao-tổ nhà Hán 漢 高 祖. Vua Cao-tổ thấy Triệu Vũ-vương độc-lập ở phương nam, bèn sai Lục Giả 陸 賈 sang phong cho Vũ-vương. Bấy giờ là năm ất-tị (196 tr. Tây-lịch), năm thứ 12 đời vua Vũ-vương nhà Triệu, và năm thứ 11 đời vua Cao-tổ nhà Hán.

Vũ-vương vốn là người kiêu-căng, có ý không muốn phục nhà Hán 漢, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết-kiến Vũ-vương, Vũ-vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: « Nhà vua là người nước Tàu, mồ-mả và thân-thích ở cả châu Chân-định 真 定. Nay nhà Hán đã làm vua thiên-hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng-cự sứ-thần, không làm lễ thụ-phong, Hán-đế tất là tức giận, hủy-hoại mồ-mả và giết hại thân-thích của nhà vua, rồi đem quân sang đánh thì nhà vua làm thế nào? » Vũ-vương nghe lời ấy vội-vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: « Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán-đế! »

3. VŨ-VƯƠNG XƯNG ĐẾ. Năm mậu-ngọ (183 tr. Tây-lịch) vua Cao-tổ nhà Hán mất rồi, bà Lữ-hậu 呂 后 lâm triều tranh quyền Huệ-đế 惠 帝, rồi lại nghe lời gièm-pha, cấm không cho người Hán buôn-bán những đồ vàng, đồ sắt và những đồ điền-khí với người Nam-việt. Vũ-vương lấy làm tức giận, lại ngờ cho Trường-sa-vương 長 沙 王 xui Lữ-hậu làm như vậy, bèn tự-lập làm Nam-việt Hoàng-đế, rồi cử binh-mã sang đánh quận Tràng-sa (tỉnh Hồ-nam bây giờ).

Năm Canh thân (181 tr. Tây-lịch) Hán-triều sai tướng đem quân sang đánh Nam-việt. Quân nhà Hán chịu không được thủy-thổ phương nam, nhiều người phải bệnh-tật, bởi vậy phải chạy thua về bắc. Từ đó thanh-thế Triệu Vũ-đế lừng-lẫy, đi đâu dùng xe ngựa theo nghi-vệ Hoàng-đế, như vua nhà Hán vậy.

4. VŨ-VƯƠNG THẦN PHỤC NHÀ HÁN. Đến khi Lữ hậu mất, Hán Văn-đế 漢 文 帝 lên ngôi, lại sai Lục Giả đưa thư sang khuyên Vũ-đế về thần phục nhà Hán. Thư rằng:

« Trẫm là con trắc-thất vua Cao-đế, phụng-mệnh ra trị nước Đại, vì non sông cách-trở, thẹn mình phác-lậu, cho nên lâu nay chưa từng đưa thư sang hỏi thăm nhà vua.

« Từ khi đức Cao-đế xa bỏ quần-thần, đức Huệ-đế qua đời, bà Cao-hậu làm-triều, không may bị bệnh, để cho họ Lữ chuyên quyền, toan đem con họ khác để nối-vì đức Huệ-đế. May nhờ nhà Tông-miếu linh-thiêng, các công-thần ra sức dẹp kẻ tiếm-nghịch.

« Trẫm vì các vương-hầu cùng bách quan cố ép, cho nên phải lên ngôi Hoàng-đế. Mới rồi trẫm nghe nhà vua có đưa thư cho Long-lư-hầu, nhắn tin và xin anh em họ-hàng ở quận Chân-định, và xin bãi binh ở quận Trường-sa.

« Trẫm cũng nghe lời thư của nhà vua, thì đã bảo tướng-quân Bác-dương-hầu bãi binh về, còn anh em họ-hàng nhà vua ở Chân-định thì trẫm đã cho người thăm-nom, lại sai sửa-sang phần-mộ nhà vua, thật tử-tế.

« Thế mà vừa rồi trẫm nghe nhà vua còn đem binh quấy-nhiễu ngoài biên, quận Trường-sa thật khổ, mà Nam-quận lại còn khổ hơn. Làm như thế, nước nhà vua có chắc lợi được một mình không? Tất là tướng-tá quân-sĩ chết nhiều, làm cho vợ người góa chồng, con người mồ-côi bố, cha mẹ mất con, được một mất mười, trẫm không lòng nào nỡ làm như vậy.

« Vả lại được đất nhà vua cũng không lấy làm to, được của nhà vua cũng không đủ làm giàu. Vậy thì từ phía nam núi Lĩnh thì mặc ý nhà vua tự-trị lấy. Nhưng nhà vua cứ xưng đế hiệu, hai bên cùng là đế-quốc mà không sai sứ giao-thông, thế chẳng hóa ra ganh nhau ư? Ganh nhau mà không nhường, thì người nhân không thèm làm.

« Trẫm nay xin cùng nhà vua gác bỏ điều cũ, từ rày trở đi, thông sứ như xưa. Vậy trẫm sai Lục Giả sang đem ý trẫm khuyên nhà vua nên nghe, chứ làm chi nhiều sự cướp bóc tai-hại ».

Xem thư của Hán Văn-đế lời-lẽ tử-tế, thật là có nhân-từ, vì thế cho nên Triệu Vũ-đế phải chịu phục, và đáp thư lại rằng:

« Nam di đại-trưởng lão-phu thần, Đà, muội tử tái bái, dâng thư lên Hoàng-đế bệ-hạ. Lão-phu là kẻ cố-lại nước Việt, khi Hiếu Huệ Hoàng-đế lên ngôi, tình-nghĩa không dứt, vẫn hậu đãi lão phu. Đến khi Cao-hậu làm triều, lại phân-biệt ra Trung-hoa, ngoại di, hạ lệnh cấm không được bán cho Nam-việt những đồ vàng sắt và điền-khí; còn ngựa, trâu, dê thì chỉ bán cho giống đực, chứ không bán cho giống cái.

« Lão-phu ở phương xa mà không có vật cúng-tế thì phải tội, vì thế có sai Nội-sử Phan, Trung-úy Cao và Ngự-sử Bình, ba lượt dâng thư sang thượng-quốc tạ quá, đều không trở về cả.

« Lão-phu lại phong văn rằng nhà Hán đem hủy-hoại cả phần mộ lão-phu cùng giết cả anh em tông-tộc lão phu, cho nên có bàn riêng với chúng rằng: nay trong đã không vẻ-vang với nhà Hán, ngoài lại không có gì hơn được nước Ngô, vậy có xưng đế-hiệu; mà chẳng qua tự đế nước mình, không dám hại gì thiên-hạ.

« Cao-hậu nghe thấy thế, lấy làm tức giận, đem tước-bỏ sổ Nam-việt đi, không cho thông sứ, lão-phu trộm nghĩ rằng hẳn vì Trường-sa-vương gièm-pha, cho nên Lão-phu có đem binh đánh.

« Lão-phu ở đất Việt đã bốn mươi chín năm nay, bây giờ đã có cháu rồi, nhưng mà sớm khuya trằn-trọc, ăn không ngon, ngủ không yên, mắt không dám trông sắc đẹp, tai không dám nghe đàn vui, là chỉ vì cớ không được phụng thờ nhà Hán. Nay nhờ bệ-hạ đoái thương, cho phục lại hiệu cũ, thông sứ như xưa, lão-phu nhờ ơn, dẫu chết xương cũng không nát.

« Vậy xin cải hiệu từ đây, và xin có cống-phẩm phụng-hiến Hoàng-đế bệ-hạ ».

Từ khi Triệu Vũ-Vương chịu bỏ đế-hiệu, Nam, Bắc lại giao-thông hòa hiếu không có điều gì nữa.

Năm giáp-thìn (137 trước Tây-lịch), Triệu Vũ-vương mất. Sử chép rằng ngài thọ được 121 tuổi và làm vua được hơn 70 năm.

5. TRIỆU VĂN-VƯƠNG (137-125 trước Tây-lịch). Triệu Vũ-vương truyền ngôi lại cho cháu đích-tôn, tên là Hồ 胡, tức là Triệu Văn-vương 趙 文 王, trị vì được 12 năm.

Triệu Văn-vương vốn là người tầm-thường, tính-khí nhu-nhược, không được như Triệu Vũ-vương. Khi mới lên làm vua được hai năm, thì vua Mân-việt 閩 越 (tỉnh Phúc-kiến bây giờ) đem quân sang đánh phá ở chỗ biên-thùy nước Nam-việt. Triệu Văn-vương không dám cử binh-mã ra chống cự, sai sứ sang cầu cứu bên Hán-triều.

Vua nhà Hán sai Vương Khôi 王 恢 và Hàn-an-Quốc 韓 安 國 đi đánh Mân-việt. Quân Mân-việt thấy quân nhà Hán đến nơi, bèn bắt Quốc-vương giết đi, đưa đầu nộp cho quan nhà Hán, và xin hàng. Mân-việt đã bình rồi vua nhà Hán sai Trang Trợ 莊 助 sang dụ Triệu Văn-vương vào chầu, nhưng mà đình-thần xin đừng đi, bèn cho thái-tử là Anh Tề 嬰 齊 đi thay.

Anh Tề ở bên Hán-triều mười năm, đến năm bính-thìn (125 tr. Tây-lịch) vua Văn-vương mất thì mới về nối ngôi.

6. TRIỆU MINH-VƯƠNG (125-113 tr. Tây-lịch). — Anh Tề lên làm vua tức là Triệu Minh-vương 明 王, trị vì được 12 năm.

Khi Anh Tề ở bên Hán có lấy người vợ lẽ là Cù-thị 樛 氏, đẻ được một người con tên là Hưng 興. Đến khi về làm vua Nam-việt, Minh Vương lập Cù-thị lên làm hoàng-hậu và Hưng làm Thái-tử.

7. TRIỆU AI-VƯƠNG. Năm mậu-thìn (113 tr. Tây-lịch) Triệu Minh-vương mất, thái-tử Hưng lên làm vua, tức là Triệu Ai-vương 哀 王, trị-vì được một năm.

Bấy giờ vua nhà Hán cho An-quốc Thiếu Quí 安 國 少 季 sang dụ Nam-việt về chầu. Thiếu Quí nguyên là tình-nhân của Cù-thị lúc trước, đến khi sang Nam-việt gặp nhau, lại tư-thông với nhau rồi dỗ-dành Ai-vương đem nước Nam-việt về dâng nhà Hán.

Khi Cù-thị và Ai-vương đã định về Hán-triều, thì có quan Tể-tướng là Lữ Gia 呂 嘉, biết rõ tình-ý, đã can-ngăn mãi không được, mới truyền hịch đi mọi nơi nói rằng vua và Cù thái-hậu sắp đem nước dâng cho nhà Hán; rồi Lữ Gia cùng với mấy người đại-thần đem quân cấm-binh vào giết sứ nhà Hán, Cù-thị và Ai-Vương. Đoạn rồi tôn Kiến Đức 建 德 lên làm vua. Kiến Đức là con trưởng của Minh-vương, mẹ là người Nam-việt làm vua.

8. TRIỆU DƯƠNG-VƯƠNG. Kiến Đức lên làm vua, tức là Dương-vương 陽 王. Dương-vương mới lên làm vua được độ một năm thì vua Vũ-đế nhà Hán 漢 武 帝 sai Phục-ba tướng-quân là Lộ bác Đức 路 博 德 và Dương Bộc 揚 僕 đem 5 đạo quân sang đánh lấy Nam-việt. Quan Thái-phó Lữ Gia ra chống cự không nổi, phải đem Dương-vương chạy. Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại cả. Năm ấy là năm canh-ngọ (111 tr. Tây-lịch), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy, cải là Giao-chỉ-bộ 交 趾 部, chia ra làm 9 quận, và đặt quan cai-trị như các châu quận bên Tàu vậy.

 Huỳnh Hữu Đức sưu tầm


Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Tình Anh - Sáng Tác Huỳnh Hữu Đức - Nguyễn Đức Tri Tâm Phối Khí





Nhạc Và Lời: Huỳnh Hữu Đức
Phối Khí: Nguyễn Đức Tri Tâm

Người Như Lá Biếc *


(Tặng Lâm Hảo Khôi)

Thứ bảy tôi về, nỗi buồn mới tới
Người như lá biếc, em bỏ vườn đi
Sâu chuổi bỏ quên. chờ. bóng Mẹ về
Nhà tôi bên đồi, chén trà tháng chạp

Quán cũ, đêm mưa nhớ Trần Kiêu Bạt
Tôi vẫn còn đây như cây sao già
Lá xanh màu đâu hẹn buổi vàng hoa
Tâm hồn em, những mùa trăng tháng tám

Lính rừng, rót sao đầy chén mười năm trước
Vẫn thương hoài chiếc áo bà ba
Tháng tám mưa về, chiều hạ em qua
Con đường, chờ nhau, chiều mưa ngã bảy

Hạt nhớ người gieo: khăn hồng, vọng cổ
Người lính cũ, nhớ tháng tư, ngựa già
Rượu cạn, người về nhan khói tình ta
Hỏi em, người dưng, những ngọn đèn xanh đỏ

Đêm biết người về, chén trà tháng chạp
mùa đông, nhớ chùm mận đỏ em trao
này em, ta về nhúm lửa chờ nhau
có lẻ, tháng giêng, người như lá biếc

*chữ toàn là tựa thơ Lâm Hảo Khôi
Trừ một chữ ở câu 3 :
Chờ
Bạn, ta chung một nỗi chờ
Triều thơ đả điếu, giấc mơ còn dài
Bạn trà, ta rượu lai rai
Con kinh ngã bảy có hai ngã đời

Phạm Ttương Như
( Nhận tập thơ, đọc một mạch hết sạch, quá đã. đa tạ LHK)
11/29/12

Rừng Chí Linh Đêm 24-8-73 (Ái Hữu 72)

      Anh chị em thân!
      Đêm nay sinh hoạt xong mưa ướt hết cả người nên không tài nào ngủ được. Tự nhiên Tánh thấy nhớ bạn bè nhiều lắm. Nhớ từng khuôn mặt – từng giọng nói của mỗi người hay đúng hơn là nhớ nhiều đến những lần họp mặt của hội Ái Hữu .Tánh nghĩ đến ngày họp thường niên đúng vào Noel- có lẽ ngày này Tánh không có dịp về - để vui với bạn bè với các anh chị em, nên Tánh mới viết về cho anh chị em một lá thư để thay thế –lấp vào chỗ trống của buổi họp cuối năm.


       Anh chị em thân! Giờ này có lẽ tất cả đều tề tựu về gặp mặt nhau đúng như nội qui của hội qui định. Tánh không biết là nơi đâu: ở nhà chị Hà như năm rồi - ở nhà Tâm  hay nhà Tùng??? Nhưng dù sao cũng còn nhiều diễm phúc để gặp nhau tâm sự vui vẻ, còn nhiều may mắn lắm. Từ đó muốn có vài lời – những lời thành thật phát xuất từ người bạn thành thật chứ không dối như xưa nữa đối với anh chị em. Vì theo Tánh nghĩ anh chị em gặp nhau ngày hôm nay cũng còn đủ phương tiện khả năng đạt mục đích cuối cùng của sự học. Tánh thành thật chúc cho các bạn tất cả sẽ thành công với ước mơ, với ý hướng đã chọn và thích từ lâu của các bạn. Vì theo Tánh thì không có gì sung sướng bằng ước mơ của mình thành tựu cả! Với tất cả bạn bè đậu vào đại học thì Tánh có thể đoán được, còn những người kém may mắn hỏng khóa một tú tài II Tánh cũng rõ hết, vì trước khi đi Tánh có xem kết quả  Tú tài II đầy đủ dán ở Saigon. Đối với các bạn thiếu may mắn Tánh hy vọng sẽ đậu khóa 2, giờ này Tánh biết là dời lại đến 5-9 thay vì 29-8. Ai đậu vào đại học thì Tánh thành thật chia vui đó! Còn ai đậu khóa 2 thì cũng hơi buồn một tí, vì đường vào Đại Học không còn thênh thang nữa. Nhưng dù sao “có còn hơn không “Dù sao vẫn còn diễm phúc hơn những người bạn gãy gánh nửa chừng – cũng còn hơn những người nhập cuộc – thực sự giã từ tuổi học trò.
       Anh chị em thân! không phải giờ đây Tánh mới thấy giá trị của “đời người còn đi học“ mà đã hơn một lần Tánh đã nói với một vài anh chị em khi còn học đệ tam, trong buổi tất niên cuối năm: còn đi học thì nhất - cái gì cũng thoải mái, lý tưởng lắm – Tánh có thể nói và có thể khẳng định rằng không có bút mực nào tả được hết cái sướng cái đẹp của đời học sinh đúng nghĩa hết. Tuy có một vài điều làm cho mình phải ra đi khi còn đi họ ra đi khi chưa đi hết cuộc đời học sinh – cái đó Tánh nghĩ có lẽ số mệnh của mỗi người đã đặt để rồi không thể chống  lại được.

      Các bạn thân! Từ đó Tánh xin có ý kiến với những anh chị em nào có đủ phương tiện để tiếp tục đi hết con đường đã chọn trước mặt thì hãy ráng lên bằng mọi cách phải ráng hoàn tất đoạn đường cuối cùng. Dù sao đi nữa, thời bình hay thời  chiến – còn đi học – ước mơ vẫn còn sống thì không còn gì vui sướng bằng, cũng còn hơn những người nhập cuộc, thật sự rời xa trường lớp, có thể vì một lý do nào đó hay tại mình để hoàn cảnh đưa đẩy (tại mình dở) thiếu ý chí như Tánh chẳng hạn. Tánh muốn nói là đi vào phân khoa mình không thích, vào đó chỉ là việc bất đắc dĩ cũng vẫn hơn (còn sướng lắm) không phải vào lính rồi Tánh mới thấy điều này – trước khi nhập cuộc Tánh đã biết được dự đoán được những gì sẽ xảy ra trong tâm hồn mình lúc ở quân trường. Tánh muốn nói đối với anh chị em nào ở vào hoàn cảnh giống như Tánh thì hãy tiếp tục đi nốt con đường cuối đi. Theo Tánh nghĩ đôi khi” thời thế tạo anh hùng “đôi khi hoàn cảnh sẽ làm cho cuộc đời mình đổi hướng bất ngờ và sự bất ngờ thường đưa đến những cái hay mà mình không ngờ được .
            
      Anh chị em thân! bây giờ thì có người sống những ngày tháng đầu tiên của đời sinh viên rồi. Kể ra thì sung sướng không có gì đánh đổi được, đối với ai cuộc sống hơi khó khăn bằng mọi cách hãy cố vươn lên chớ đừng nản để phải gãy gánh như Tánh thì càng khổ hơn nữa. Với tình bạn thân, với tư cách là  người bạn đã va chạm đời sớm, đã nhập cuộc, với kinh nghiệm Tánh so sánh hai cuộc đời: đời lính và đời học sinh. Tánh có ý khuyên anh chị em còn mài quần ở ghế nhà trường hãy ráng mài thêm cho hết thời gian đã định, ở nhà dù sống cuộc sống cho khổ đến đâu chăng nữa vẫn hơn – đó là chưa nói đến những điều kiện vật chất ở trong quân trường – Tánh không dám kể hết đời sống quân trường cho tất cả nghe, mà nghe thì cũng chẳng có hiểu gì hết chỉ người trong cuộc mới hiểu và rõ mà thôi. Hơn nữa kể cho các bạn nghe hóa ra tánh tả oán thêm cho  những người có trách nhiệm ở quân trường. Và cũng có thể anh chị cho là Tánh vào quân trường có mấy tháng mà “ba hoa‘ quá nhiều khi trở thành vô nghĩa là khác.

Theo chú thích: Ăn hiếp con nít!
Tánh: tao banh họng mầy ra cho mầy uống nước.
Tùng: “ Chời “mầy cho tao uống nước sao? Tao dìa tao méc má cho coi!

      Anh chị em thân! Dù Tánh gãy gánh nửa đường như bù lại Tánh được nhiều diễm phúc trong tình cảm bất diệt của bạn bè đã dành cho. Đôi lúc các bạn đối xử thành thật và hết lòng thương yêu giúp đỡ Tánh (Tánh không quên và sẽ không bao giờ quên được buổi tất niên ở nhà chị Hà) . Bằng lời nói – bằng tinh thần cao quí đó đủ để cho Tánh sung sướng rồi. Và Tánh nếu không lầm thì Thủy Tiên, Sương, Tâm, Hà, Duyên và có thể còn nữa muốn giúp đở Tánh một cách thành thật – bằng hành động cao quí. Nhưng anh chị em đã bị Tánh dối – trong số bạn bè có thể vài người đã biết Tánh giã từ sách vở, thật sự rời xa trường, xa lớp từ tháng 11/72. Phải! bây giờ – bây giờ đến sau những gì Tánh nói cho bạn bè biết, việc đó phát xuất từ trong lòng của một người thành thật chứ không còn dối nữa đâu. Anh chị em biết không? tại sao Tánh dối bạn bè không nói thật cái hiện tại của mình lúc đó cho bạn bè rõ. Thật sự lúc đó khi Thủy Tiên hỏi Tánh – Tánh cảm động nhiều lắm – suýt chút nữa Tánh đã nói hết sự thật cho bạn bè biết rồi. Thế nhưng Tánh phải giấu kín, chỉ có vài người biết thôi – và những lý do Tánh không thể cho bạn bè biết ngay lúc đó, để bạn bè hiểu Tánh thêm cũng như lý do Tánh quyết định rời Đại học Hòa Hảo. Tánh hứa nếu có dịp thuận tiện nào đó sẽ cho tất cả rõ – vì bây giờ nếu viết hết những lý do đó ra đây không tiện với lại nhiều quá thì làm sao viết hết được cho đủ và cho đúng. Anh chị em thông cảm cho Tánh gác lại chuyện đó đi, và môt lần nữa Tánh hứa trước sau gì các bạn cũng rõ tất cả.

Cô Dương Vương Thị Tùng  và cô bạn trên cồn cát Cái Tàu

        Anh  chị em thân, đối với hội Ái Hữu của mình theo Tánh nghĩ: vài năm nữa, có thể khoảng 4 hay 5 năm nữa mới có đủ được sự đóng góp đầy đủ vào đấy những tình cảm cao quí và mới có buổi họp mặt đầy đủ không thiếu vắng một ai! Chứ bây giờ mỗi người một nơi – muốn về thì cũng bị nhiều phiền phức - bị cản trở. Tánh hy vọng khi mình – tất cả - hay 3 năm nữa sẽ có nghề nghiệp chắc chắn rồi – ra trường hết rồi – lúc đó chắc vui lắm. Ngày họp mặt đó – ngày lần đầu tiên đông đủ không thiếu một ai như Noel năm ngoái -. Nhất là có cô Tùng người đã hướng dẫn Tánh và anh chị em trong hầu như gần hết những năm trung học và Tánh là đứa học trò thọ ơn nhiều lắm! Tánh đậu được phần 2, một phần nhờ căn bản kha khá mà cô Tùng đã cho trong 3 năm liên tiếp, không biết hôm nay có mặt cô Tùng không? Nếu có thì nhớ cho Tánh kính lời thăm cô Tùng – chúc cô sẽ may mắn mãi – nhiều sức khỏe và nhất là gặp “ dượng “sớm sớm chút xíu đi, để học trò biết với. Còn đối với tất cả Ái hữu, Tánh chúc mọi người hưởng một mùa Noel như ý vây thôi, riêng Tánh đêm Noel có lẽ Tánh gác đường hay ứng chiến ở Saigon. Noel thì Tánh đã về ở Thủ Đức rồi, ngày lễ mà khó đi phép được lắm, cho nên Tánh nhờ thư này trong sự thiếu vắng của mình để góp mặt “tượng trưng “ để gọi là vui với bạn bè.

         Tánh định khi gần về Thủ Đức mới viết thư cho Ái hữu – nhưng cứ chiều chiều ngồi trên đồi cát ở rừng Chí Linh – tự nhiên thấy nhớ bạn bè nhiều quá đi thôi! Từ cái răng mất trật tự của Ích mủ đến cái đầu lắc lia của Thủy Tiên, tính làm biếng của Phước ghiền, giọng cười khuôn mặt thấy là cười của ”Lộc sún “ và còn nữa từng người một cho đến khuôn mặt của anh Nở – có thể Tánh mới biết chỉ có một lần ở nhà chị Hà và chưa có nói với nhau nửa lời cũng hiện rõ trước mặt Tánh tất cả những người thân thúc đẩy Tánh viết thư cho Ái hữu và viết sớm hơn dự định.
Thôi Tánh stop nhé chúc tất cả mọi người vui vẻ, nhiều sức khỏe, may mắn trên đường trước mặt và chỉ còn một đoạn ngắn nữa thôi. Tánh hy vọng và tin là anh chị em sẽ  thành công
.
       Tái Bút: Trong thư có điều gì làm bạn bè không vui, nếu có xin anh chị em thông cảm bỏ qua. Nhiều người tên không nhắc trong thư nhưng không bao giờ Tánh quên đâu và nếu Tánh có nói đến “cái tôi ‘ nhiều thì cũng chỉ là để bạn bè cảm thông. Còn vấn đề học – con đường vào đại học – Tánh với tư cách là người đi trước nói với người sau với tình thân bè bạn vậy thôi!


Ái hữu 16 Nguyễn Văn Tánh
(Trích từ Nội San 2 của Hội Ái Hữu 72)

Thơ Tranh: Giọt Sầu


Thơ: Thiên Thu
Thơ Tranh: Kim Oanh

Cánh Trúc Xinh (Ái Hữu 72)




Rung rinh cánh trúc tiếng chim non
Túm cỏ xinh xinh gió quay tròn
Mưa sương ôm ấp đàn chim trẻ
Chí chóe  kêu thương thuở cỏn con
     
Rung rinh cánh trúc tiếng chim xa
Hoa nở khoe tươi bướm la đà
Trên non đâu có cây mà nhớ
Vào rừng cây dại lắm phô pha
     
Rung rinh cánh trúc  tiếng chim kêu
Túm cỏ chim xưa đẹp mỹ miều
Dăm đôi cánh nhỏ yêu màu lúa
Yêu màu cánh trúc mướt nưng niu 


A.H 4 Nguyễn Hùng Sơn
(Trích từ Nội San 72- Lớp 11B3 - Niên khoá 1972)


Màu - Chế Lan Viên


Sơ Lược Tiểu Sử:

Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan,
Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống.
Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu Tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam.
Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định.
Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (68 tuổi) tại Sài Gòn.

Màu

Hạnh phúc màu hoa huệ.
Nhớ nhung màu hoa lau
Biệt ly màu rách xé
Lãng quên không có màu.


Chế Lan Viên
(Hhai sưu tầm)

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

Hoàng Hôn Bên Giáo Đường Tin Lành - Vĩnh Long








Trương Văn Phú

Bài Thơ Áo Trắng


Bài thơ áo trắng vẫn còn đây
Nhắc kỷ niệm xưa vương vấn nầy
Từng chữ thân thương hoài khắc khoải
EM ơi, nỗi nhớ vọng trời mây

Bài thơ áo trắng nhớ thương ai
Ba mấy năm qua, giấc mộng dài
Một thuở vui đùa trên lối mộng
Nụ hôn chất ngất đậm hình hài

Bài thơ áo trắng hòa trong thơ
Nắn nót từng lời với mộng mơ
Nửa quả địa cầu xa cách biệt
Buồn dâng mỗi tối mãi ngu ngơ

Bài thơ áo trắng gởi người xa
Lưu luyến vô cùng tuổi ngọc hoa
Trường cũ giờ đây nhìn lạ quá
Từ khi EM vắng lạc tình ta

Bài thơ áo trắng mãi đam mê
Kỷ niệm ngày xưa cứ cuốn về
Nhắc nhở dư âm từng nét chữ
Trang thơ dấu ái đậm câu thề

Bài thơ áo trắng gởi về EM
Từng chữ thân yêu viết mỗi đêm
Quê cũ, mong EM đầy hạnh phúc
Nụ cười tròn nở, đẹp xinh thêm

Hoàng Dũng

Tháng Năm


Trời cao hơn và mây xanh hơn
Lung linh nắng, ngập ngừng oi ả
Bằng lăng tím rơi đầy thương tiếc quá
Vút tầng không no gió cánh diều bay

Tháng năm về cho em cầm trên tay
Xoài chín vàng từ vườn xưa của ngoại
Tiếng tu hú gọi lời ru đồng bãi
Mận chín tươi hồng lên má em thương

Câu hát trẻ mà lòng già tơ vương
Nghe xôn xao khúc “nỗi buồn hoa phượng”*
Người xa người trầm tư mặc tưởng
Trăng một mình mà có lẻ loi đâu!

Quá nửa đời thương nhớ lặn trong nhau
Mưa bất chợt trôi nỗi niềm một nửa
Mảnh mai sương bẽ bàng vắt bên cửa
Hè đến rồi ngơ ngác tháng năm qua!

Hương Ngọc 
(*) : Tên bài hát của cố nhạc sĩ Thanh Sơn


Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Cô Đơn - Sáng Tác Quách Nam Dung



Sáng Tác: Quách Nam Dung

Sống Lại Hè Xưa


Lá tương tư dần rơi rụng nhẹ
Nhường màu hoa thắm đỏ vào hè
Mang nỗi nhớ dâng đầy ngọn lá
Lòng vương man mác đậm tiếng ve


Cứ giả vờ tìm hoa mực tím
Che giọt sầu nén đọng trong tim
Tán phượng xanh u uất lòng thành
Nụ cười gượng vờn bay tắt lịm

Hoa phượng đỏ luôn vươn cùng nắng
Giấu làm sao tiết đã vào hè
Trang lưu bút giã từ dăm tháng
Nhớ nhung lòng nhặt lá tơ giăng


Xao xuyến lắm!
Mong hè qua vội.


Lê Kim Hiệp

Hè 2009

Thơ Tranh: Chờ Ai


Thơ: Khiếu Long
Thơ Tranh: Kim Oanh

Xuân Mộ (Thái Thuận)

          Thái Thuận (蔡順, 1441-?):
       Tự: Nghĩa Hòa, hiệu: Lục Khê, biệt hiệu: Lã Đường; là nhà thơ, quan lại Việt Nam thời Lê sơ.
      Thái Thuận sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnhBắc Ninh). 
Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi, về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ. 
      Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm trải 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương, và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa... 
      Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn Phó nguyên súy) trong Hội Tao Đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495. 
Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ.


:春暮                                XUÂN MỘ

百年身世嘆浮萍, Bách niên thân thế thán phù bình,
春去誰能老下成。 Xuân khứ thùy năng lão hạ thành.
流水橋邊楊柳影, Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh,
夕陽江上鷓鴣聲。 Tịch dương giang thượng giá cô thinh.
月於煙樹雖無分, Nguyệt ư yên thọ tuy vô phận,
風與天香尚有情。 Phong dữ thiên hương thượng hữu tình.
九十韶光容易過, Cửu thập thiều quang dung dị quá,
草心遊子苦難平.    Thảo tâm du tử khổ nan bình!
蔡順                                                    Thái Thuận.

Dịch nghĩa:

Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi 
Xuân đi rồi có ai không thành người già 
Bên cầu nước chảy bóng dương liễu thướt tha 
Trên sông chiều tà tiếng đa đa não nuột 
Trăng lồng trong khói cây tuy không phận vụ 
Gió quyến hương trời vẫn có tình với nhau 
Chín chục thiều quang qua đi một cách dễ dàng 
Khiến lòng người đi xa mong đền ơn cha mẹ đau khổ khó lấp bằng cho được 

Bản dịch của Quách Tấn:

Chiều Xuân 

Tấm thân bèo nổi ngậm ngùi thương 
Xuân lụn đầu ai khỏi điểm sương
Bóng liễu thướt tha cầu thệ thủy 
Tiếng đa não nuột bến tà dương
Phận dù không phận trăng lồng khói 
Tình vẫn ưa tình gió quyện hương 
Chín chục thiều quang thoi thấm thoát 
Bồn chồn tấc cỏ bước du phương 
                                   Quách Tấn
* * *

                    Chiều Xuân
    
  Thương trăm năm một thân bèo nổi,
 Xuân đi rồi ai khỏi cái già.
 Bên cầu dương liễu bóng sa,
 Tiếng đa não nuột chiều tà trên sông.
Nguyệt, khói cây tuy không thắm thiết,
Gió, huơng trời da diết bên nhau.
Thiều quang chín chục qua mau,
Cho lòng du tử xuyến xao bồi hồi.
                      Mailoc phỏng dịch
                        Cali    5-5-14

* * *
Thưa Quý Thầy, Anh Chị,
Quên Đi xin tiếp theo Thầy Mai Lộc dịch bài "Xuân Mộ":

            Chiều Xuân


Lênh đênh bèo bọt thân du tử
Xuân hết đành thôi chịu tuổi già
Nước chảy bên cầu trơ dáng liễu
Trên sông chiều xuống tiếng chim đa
Khói trăng chẳng phận còn nương tựa
Hương gió có tình mãi thiết tha
Chín chục ngày xuân trôi thấm thoát
Xuyến xao tấc dạ kẻ xa nhà
                              Quên Đi
Chú Thích: 
- Thiều quang:  ánh sáng đẹp, ý chỉ ngày của mùa xuân.
- Cửu thập thiều quang: chín mươi ngày xuân tươi sáng, chỉ thời gian của mùa xuân trong một năm.

***
                      CHIỀU XUÂN

           Trăm năm thân thế tựa bèo trôi,
           Xuân đến xuân đi già tới nơi.
           Nước chảy qua cầu soi bóng liễu,
           Nắng chiều nghiêng sóng tiếng chim trời.
           Cây mờ bóng nguyệt duyên chưa đượm,
           Gió thoảng mùi hương tình chẳng vơi.
           Chín chục thiều quang qua thắm thoát,
           Tấc lòng du tử dạ khôn nguôi !.
                                     Đỗ Chiêu Đức.

Bất Chợt Quê Xưa




Bất chợt quê xưa
Tuổi thơ ký ức trào dâng
Thương má sớm hôm bên trái bí vườn cà, bờ mương, con rạch...
Nuôi chúng con lớn khôn
Chúng con xa quê
Mang nụ cười ra phố chợ
Tập nếp sống cư dân thành phố
Quên tháng ngày trơn trợt đường quê
Má dắt tay từng đứa dẫn tới trường
Xa khuất quê xưa
Chúng con bay khắp nẻo đường đời
Lúc vui ít khi nào nhớ má
Khi buồn một mình
Tủi hờn lỡ có ai ức hiếp
Thèm được kêu hai tiếng “ Má ơi!”

Bất chợt quê xưa như một giấc mơ
Gặp lại mình chân trần, áo rách
Nói hết tình hương quê?
Bất chợt quê xưa tỉnh giấc cơn mê
Một phút thôi
Một phút cho con nghĩ về nơi có má
Nhớ bến sông
Những đêm hè khỏa trăng, giỡn nước
Xa khuất nẻo về
Ngõ vắng rộn tiếng chim
Bất chợt quê xưa
Tóc trắng má lại thêm
Lẳng lặng giấu nỗi lòng sau khói bếp
Chiều chiều ngóng đợi những đứa con

Bất chợt quê xưa
Nhớ lắm má ơi!
Bờ ruộng, liếp rau

Thương má một đời tần tảo
Cơn mưa chiều tháng bảy chảy qua sân

Ngọc Hải
11/5/2014

Hạt Bụi Trong Tim

   

      Hơn nửa đời người đã trôi qua, có biết bao vật đổi sao dời. Thế mà mỗi lần nhớ về người cha khuất bóng, Hằng lại se sắt buồn. Hai hàng nước mắt cứ chực lã chã rơi. Một thứ tình cảm trái ngược luôn xung đột, xâu xé trong tim Hằng. Thương hay giận cha? Có lẽ cả hai.

      Những kỷ niệm xa nhất mà nàng có thể nhớ được về ông, có lẽ chừng như năm sáu tuổi gì đó. Lúc ấy ba mẹ và Hằng ở chung trong ngôi nhà nền đúc đồ sộ của ông bà nội, cách thị xã Sa Đéc vài cây số. Anh Tâm trọ học nhà bác Phú là anh họ của ba trên Sài Gòn. Trong trí nhớ khá nhạt nhòa của nàng, ông nội là một ông già quắc thước, cao lớn. Tiếng nói sang sảng, nét mặt nghiêm nghị khiến ai cũng phải nể nang. Trên đầu ông lúc nào cũng đội một chiếc mũ len đan, màu nâu giống như mũ của ông Hòa Thượng ở chùa gì đó quên mất tên rồi. Thỉnh thoảng Hằng thấy Hòa Thượng đến thăm ông nội. Hai ông trò chuyện rất tương đắc trong phòng riêng của ông nội. Ngồi trên tấm nệm mỏng, mỗi ông dựa tay trên một chiếc gối hình chữ nhật, rất cứng và áo gối màu đỏ thêu rồng phụng, chim chóc, đính hột cườm lấp lánh đẹp rực rỡ. Lũ nhỏ bị cấm bén mãng vô phòng ông nội, trừ Hằng. Vì ông cưng Hằng đặc biệt, đứa cháu nội gái duy nhất của ông. Sau này theo lời kể của những người trong họ, Hằng biết ông nội là một mẫu người thông minh tuyệt vời. Tấm lòng lại nhân đức. Bà nội chắc cũng chỉ khoảng năm mươi, nét đẹp lúc xuân thì chưa phai, nhưng mái tóc bạc trắng, búi thành một búi rất đẹp sau ót. Bà hay la rầy con cháu. Trong ký ức, Hằng chưa bao giờ được nghe bà nói một lời dịu dàng âu yếm.

      Hằng còn nhớ cái tủ bằng gỗ trong nhà bếp đựng đầy những thố mạch nha. Mạch nha bà nội nấu vàng óng như hổ phách, thơm ngọt tuyệt vời. Nhưng trong đại gia đình đông người, bà phải khóa tủ bằng ống khóa và chiếc chìa khóa quý giá bà giữ khư khư trong túi áo! Thỉnh thoảng bà nội mới kêu mẹ Hằng hoặc cô Bích nướng bánh phồng. Những chiếc bánh phồng khéo léo mà mẹ và cô Bích quết vào dịp Tết, được bà tự tay phết lên một lượt mạch nha vàng óng ánh trước đôi mắt thèm thuồng của lũ trẻ. Ngoài gia đình Hằng còn có gia đình cô Bích là em gái của ba. Cô góa chồng và đem ba đứa con về ở chung với ông bà nội. Ba đứa con của cô cũng sàn sàn tuổi Hằng, nhưng là ba thằng con trai nên nghịch ngợm như giặc. Bà nội phát cho mỗi đứa một miếng bánh phồng quết mạch nha to bằng bàn tay người lớn. Hằng nhắm mắt nhớ lại cái cảm giác cắn miếng bánh phồng dòn tan, hương vị ngọt ngào của mạch nha tan trên đầu lưỡi. Tuyệt vời không gì có thể sánh bằng! Món thứ nhì bà nội hay làm là bánh lọt lá dứa màu xanh biếc như ngọc, chan nước đường và nước cốt dừa. Thỉnh thoảng cũng có bánh đúc lá dứa chấm nước đường thắng kẹo quánh rắc mè rang thơm phức.

      Bà nội nghiêm khắc với tất cả mọi người. Đặc biệt là với mẹ Hằng. Bà soi mói từng chút. Hình như bà không ưa mẹ vì cho rằng mẹ theo tây học. Văn minh quá! Nghĩ cũng bất công. Ba học trường Chasseloup Laubat, nói tiếng tây như gió. Cô Bích cũng học trường Áo Tím. Đôi khi Hằng bắt gặp cô nói tiếng tây với ba mà bà nội có nói gì đâu. Nhưng dù sao cô cũng là con gái bà nội và mẹ là con dâu. Đương nhiên không giống nhau!

      Vì bé quá nên Hằng không biết gữa ba mẹ có chuyện gì, hoặc giữa bà nội và mẹ có chuyện gì. Một buổi chiều ba dắt Hằng ra con lộ sau nhà. Con lộ cách nhà độ hai, ba trăm thước. Một vườn cây trái sum suê ngăn ngôi nhà và con lộ. Phía sau con lộ là cánh đồng trải dài vô tít trong xa, tận lũy tre xanh xanh của làng Mỹ Long. Hằng còn nhớ lúc đó là mùa nước. Những cây lúa vươn lên khỏi mặt nước, rập rờn theo cơn gió chiều mát rượi. Một hàng dài những chiếc xuồng ba lá bơi theo con kinh, về hướng làng Mỹ Long trong đồng sâu. Ba nói họ đi câu tôm. Hằng líu lo hỏi ba đủ thứ chuyện. Nhưng hôm nay ông có vẻ trầm ngâm, thỉnh thoảng mới ừ hử. Hằng còn đang dõi mắt nhìn theo cánh cò trắng bay la đà về hướng mặt trời lặn xa xa, bỗng ba nắm tay Hằng bóp mạnh, giọng buồn có não nuột:
-Mẹ bỏ cha con mình đi mất rồi Hằng ơi!
Hằng ngây thơ nói với ba:
-Hôm qua mẹ nói về thăm ngoại bịnh mà ba.
Ba trả lời, mắt vẫn dõi về cõi vô tận nào:
-Mẹ không về nhà ông bà ngoại. 
Lúc đó Hằng mới oà lên khóc. Ba ôm con gái vào lòng dỗ dành:
-Không sao đâu. Ba con mình sẽ đi tìm mẹ về.

      Đêm đó Hằng ngủ với ba. Hình như trong mơ con bé vẫn khóc thút thít vì nhớ mẹ. Ba trằn trọc ôm con gái xoa lưng vỗ về.
      Hai hôm sau ba thu xếp dẫn Hằng lên Sài Gòn. Hai cha con ở nhà bác Phú. Không hiểu sao ký ức của Hằng rất mù mờ trong khoảng thời gian này. Con bé không nhớ ba đã dẫn đi những đâu để tìm mẹ. Lâu lắm sau này, tình cờ nhìn thấy trong album, tấm hình hai cha con chụp ở Sở Thú. Ba mặc đồ tây, tóc hớt cao, nét mặt buồn rười rượi. Con bé Hằng nhỏ xíu ngồi bên cạnh, mặt cũng đầy nét u hoài. Hằng nhìn tấm ảnh, lòng se thắt và tự hỏi tại sao buồn vậy mà ông già còn hứng thú chụp hình?!


      Cuối cùng không hiểu nhờ phép lạ nào mà ba cũng tìm được mẹ và hai người dắt con gái trở về Sa Đéc. Hằng gặp lại mẹ vui như Tết và tiếp tục sống cuộc đời vô tư lự như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Bắt đầu từ đó ông nội cho ba mẹ cất nhà ra riêng. Nhưng cũng chỉ cách nhau một mảnh vườn trồng cam, chanh, bưởi và vài cây soài cát. Mẹ thoát cảnh làm dâu và không còn nghe những lời chì chiết của bà nội nữa nên vui vẻ hơn nhiều. Bà xin ba mở một tiệm tạp hoá dưới chợ. Mẹ lúc còn con gái là một người đẹp nổi tiếng. Bà lại có học, thông minh, có tài ăn nói và có khiếu văn chương. Lớn lên Hằng nghe mẹ đọc thuộc làu làu Cung Oán Ngâm Khúc, Lục Vân Tiên...và thơ Nguyễn Bính thì bà thích đặc biệt. Ngược lại ba không phải là người sính văn thơ. Trước đây ông làm ở sở lúa gạo, nhưng sau này giúp ông nội trông coi ruộng đất. Đến mùa thu lúa ruộng, có khi đi tận trong đồng xa hàng tháng mới về.

      Nhờ có duyên buôn bán nên cửa hàng của mẹ rất đông khách. Lớn hơn, Hằng đã biết ra cửa hàng giúp mẹ chút đỉnh. Ngoài mẹ ra còn có chị Mai, cháu họ xa bên mẹ giúp việc, trông nom cửa hàng mỗi khi mẹ có công chuyện đi đây đi đó. 
Sáng thứ bảy đó Hằng ra tiệm với mẹ. Khoảng trưa trưa vắng khách, mẹ dặn chị Mai và Hằng coi tiệm mẹ đi khui hụi. Hằng đang kể cho chị Mai nghe những chuyện trong lớp của Hằng, thì một người đàn ông bước vào. Ông ta nhìn dáo dác rồi hỏi chị Mai:
- Ủa, bà chủ không có đây sao cháu?
-Dạ, cô Tư mắc đi khui hụi. Mai trả lời ông ta.
-Lúc nào bà ấy về? Giọng ông ta có vẻ băn khoăn.
-Dạ cháu không biết.
Ông này đứng tần ngần một lúc rồi nói:
-Chừng bà chủ về nhớ nói có ông Nam đến nhé.
-Dạ, cháu sẽ nói với cô Tư. Chị Mai trả lời và nhìn ông ta chăm chăm. Người đàn ông có vẻ hơi ngượng ngập vội đi ra. Chị Mai nhìn theo ông ta rồi thì thầm với Hằng:
-Ông này kỳ ghê. 
-Kỳ sao hả chị? Hằng ngây thơ hỏi.
-Thì cứ hai ba ngày là tới đây một lần. Nhiều khi có mua thứ gì đâu. Hỏi vớ vẩn vài câu. Mà coi bộ ổng tới đây để gặp mặt cô Tư mà thôi.
- Gặp mặt mẹ em chi vậy hả chị?
Chị Mai tặc lưỡi:
-Thì làm sao chị biết được. Chị chỉ thấy ổng kỳ kỳ!
Lúc mẹ về, Hằng láu táu nói có ông Nam tới kiếm mẹ. Mẹ thoáng có chút bối rối:
-À, ông Nam làm ở Toà Án Vĩnh Long. Mà ông này kỳ thiệt, cứ đến làm phiền người ta.
 
      Tuy là phàn nàn, nhưng Hằng cảm thấy giọng mẹ không có chút gì bực bội. Hằng không thể ngờ rằng bắt đầu từ giờ phút này, từ người đàn ông có nước da bánh mật, mái tóc dợn sóng và giọng nói ngọt ngào, nhưng không phải gốc Nam kỳ này, đã bắt đầu cho những cơn sóng ngầm mang phong ba bão táp tới cho gia đình nàng. 
      Ba Hằng đẹp trai, con chủ điền và có uy quyền với những người tá điền mướn đất ông nội. Những lần theo ghe đi góp lúa ruộng, họ đã tổ chức cho ông biết bao nhiêu buổi nhậu. Trong đồng sâu thiếu gì tôm cá, rắn rùa...Kể cả những đứa con gái tươi mơn mởn thơm mùi hương đồng cỏ nội. Ba cứ hưởng thụ thoải mái. 
      Có nhiều tá điền muốn lợi dụng ba nên đã để con gái hầu hạ "cậu" khi cậu say bí tỉ không còn biết trời trăng gì nữa.

      Cho đến khi Hằng có một đứa em cùng cha khác mẹ bất đắc dĩ thì ba mẹ bắt đầu cắn đắng. Những lần cãi nhau ầm ĩ đưa đến xô xát khiến con bé sợ hãi khóc như mưa. Sau cùng ông nội bắt ba phải lên trụ luôn trên Sài gòn. Ba phụ coi xưởng gỗ của bác Phú. Mẹ vẫn ở Sa Đéc và ông Nam vẫn đến thăm mẹ đều đều mỗi tuần. Có khi mang sách báo đến cho mẹ đọc và mang quà cho Hằng. Thật là hai tâm hồn đồng điệu. Cùng yêu thích văn chương thơ phú. Đôi khi mẹ giữ ông ta ở lại dùng cơm trưa. Phải công nhận rằng ông ta có giọng nói rất quyến rũ. Điều kỳ lạ là ông ta vẫn còn độc thân. Nhưng làm sao biết được. Quê ông ta tận ngoài Nha Trang xa lắc xa lơ!

      Ba thường về thăm ông bà nội và hai mẹ con. Một lần, ba từ Sài Gòn về thẳng ngoài tiệm. Gặp ông Nam ở đây, thế là ba đào dậy sóng. Có thể những buổi gặp gỡ giữa mẹ và ông Nam đã đến tai ba nên mới ra nông nỗi. Đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp, nhưng luân lý Khổng Mạnh vẫn bắt đàn bà giữ tam tòng tứ đức. Bây giờ nghĩ lại, Hằng chắc chắn giữa mẹ và ông Nam không có chuyện yêu đương phàm tục. Hai người chỉ là bạn tương đắc về văn chương. Nhưng hỡi ôi, ngày đó, những người đàn bà có chồng được quyền tự do hành động như vậy chăng? Ngàn lần không! 

      Ba bắt mẹ phải sang tiệm để lên Sài Gòn sống với ba. Cộng thêm tiền sang căn tiệm dưới Sa Đéc, ông bà mua một căn nhà khang trang gần chợ Thị Nghè. Vốn là người quen buôn bán. Ở không bứt rứt chịu không nổi, mẹ lại mở tiệm bán gạo, than, củi. Mẹ về quê đem chị Mai lên giúp việc như xưa. Hằng học trường Tiểu học Thị Nghè. Hằng ngày đi về với chị Út Kim con của bác Phú. Ba cưng Hằng hơn anh Tú. Có lẽ vì Hằng là con gái Út rượu của ba! Anh hơn Hằng cả mười tuổi, vì giữa hai đứa mẹ có hư thai một lần. Sau khi sinh Hằng thì ngưng đẻ luôn. Cũng tốt vì mẹ vấn không thích con đông.

Gần ngày đi học, ba chở con bé tới tiệm bán văn phòng phẩm mua tập vở. Hằng làm sao quên được nàng đã đòi nằng nặc ba phải mua mấy tờ giấy bao vở màu hồng trong suốt, có in hình cô công chúa Bạch Tuyết và chiếc cặp bằng da màu vàng nâu. Ba mua về cặm cụi bọc hết tập vở cho con gái. Ông vui ra mặt. Rồi hè năm đó ba dẫn Hằng đi...uốn tóc! Người thợ uốn làm sao mà khi xong rồi, mái tóc con bé xoăn tít như lông chó xồm. Trên đường về, Hằng giận dỗi, khóc thút thít bắt đền ba khiến ông bối rối không biết phải làm sao, đành dẫn con gái đi ăn một chầu hủ tíu mỳ ngon thật là ngon Hằng mới hết giận!
      Nhớ tới đây ruột gan Hằng quặn đau. Ba ơi ba, con thương ba nhiều biết chừng nào. Ba tha lỗi cho những lần con vô tình làm ba buồn nghe ba. Con gái ba đang khóc vì nhớ ba đây!...

      Tuổi trẻ vô tư. Ăn, học và ngủ. Hằng cũng vậy. Trong lớp con bé đã quen được nhiều bạn mới. Con Quỳnh da trắng bóc, tóc cắt bum bê. Đôi môi nó đỏ thắm, nhỏ xíu như một nụ hồng. Con Nga mặt đầy tàn nhang, tóc dài cột đuôi ngựa nè. Nhỏ này hay nói xấu con Quỳnh sau lưng. Chắc tại nó tức vì con Quỳnh xinh và học giỏi hơn nó! Chao ôi, mới nứt mắt đã bày trò ganh ghét nhau. Hèn nào trong xã hội người lớn, họ dùng tất cả mọi thủ đoạn đê hèn để giết hại, hạ bệ... nhau cứ đầy rẫy ra! Con Cẩm Yến miệng móm mà có đồng tiền trên má thật là xinh nè...Riêng đám con trai thì Hằng sợ lắm, chưa quen đứa nào.

      Rồi chẳng hiểu vì cớ gì những cuộc cãi vã của ba mẹ bắt đầu trở lại. Ban ngày ba đi làm, mẹ mắc buôn bán nên không có gì, nhưng nhiều đêm đang ngủ, Hằng giật mình thức giấc vì tiếng cãi vả khá lớn của ba mẹ khiến con bé sợ xanh mặt. Mấy ngày sau chị Mai nói riêng cho Hằng biết ba gặp lá thư ông Nam gửi cho mẹ. Không hiểu làm thế nào mà ông ta biết được địa chỉ trên Sài Gòn. Tuy mẹ cố giải thích nhưng ba vẫn giận dữ, cho là mẹ có tình ý với ông Nam. Hằng còn nhỏ quá để có thể hiểu được những khúc mắc của người lớn. Nhưng không khí trong nhà bắt đầu khó thở. Ba không còn pha trò vui vẻ như xưa. Trái lại mặt mày cau có làm anh Tú cũng sợ. Cơm nước xong là anh rút vô phòng. Thấy ba mẹ buồn Hằng cũng buồn lắm. Con bé cảm thấy đến trường chơi với bạn vui hơn là ở nhà, cho nên nhiều hôm sau giờ học Hằng xin mẹ đến nhà con Cẩm Yến chơi. Nhà nó cách nhà Hằng độ năm phút đi bộ mà thôi. Chị Cẩm Hạnh của nó cũng thương Hằng lắm. Chị hay mua quà cho hai đứa ăn chung. Đôi khi Hằng ao ước, thay vì anh Tú, phải chi có một bà chị như chị Cẩm Hạnh thì hay biết mấy! Chị Mai cũng thương Hằng, nhưng chị đâu phải chị ruột. Hơn nữa chị xấu xí, quê mùa chứ đâu có đẹp đẻ, thơm tho, điệu đà như chị Cẩm Hạnh! 

      Có lẽ mẹ đã yêu cầu ông Nam đừng tìm cách liên lạc với mẹ nữa nên sau đó ba mẹ lại bắt tay hòa bình! Anh Tú và Hằng thở phào nhẹ nhõm. Ba tiếp tục dẫn cả nhà đi ăn tiệm cuối tuần. Có lần ba dẫn mọi người, kể cả chị Mai, đi xem cinéma. Phim Tarzan. Anh Tú khoái chí trước những cảnh Tarzan đóng khố da thú, vừa đu dây vừa hú vang cả rừng, còn Hằng sợ quá nắm tay ba thật chặt.
      Hai năm êm đềm trôi qua. Một hôm mẹ nhận được điện tín của cô Bích kêu ba về Sa Đéc gấp. Ông nội bị trúng gió, bây giờ nằm một chỗ không đi lại được. Ba vội vàng thu xếp về quê ngay sáng hôm sau. Ông nội đang đi thăm ruộng. Lúc đó đang là mùa gặt lúa, thì trúng gió té ngoài đồng, tá điền khiêng ông về nhà. Bắt đầu từ lúc đó ông bị liệt nửa người. 

      Cô Bích chỉ có thể giúp bà nội việc nhà, nên ba phải về ở luôn, hay ít ra trong thời gian ông nội bệnh, trông coi việc gặt và thu lúa ruộng. Mẹ, anh Tú và Hằng vẫn ở Sài gòn. Ba về dưới quê một thời gian thì bổn cũ soạn lại và bắt đầu nghiện rượu nặng. Con sâu rượu tàn phá người ông lẹ không ngờ. Trước đây ở Sài gòn, mỗi ngày mẹ Hằng bắt ôngchỉ được uống rượu khi ăn cơm. Lúc đi làm ông có lén uống không thì chẳng ai hay. Nhưng bây giờ ở một mình trong căn nhà rộng, không vợ con bên cạnh. Nhất là không ai cấm cản nên ông uống tha hồ, uống thỏa thích. Hè năm đó Hằng về Sa Đéc, con bé hết hồn khi gặp lại ba. Không ngờ chỉ có mấy tháng mà ông thay đổi nhiều đến vậy! Người ba vốn cao bây giờ càng khẳng khiu. Con bé xót xa cằn nhằn sao ba uống nhiều, ba ốm nhom thì ông tặc lưỡi nói ba không sao thật mà. Cô Bích nói ba cháu chỉ thích uống rượu chớ không thích ăn cơm! Bà nội rầy ba cũng làm ngơ...

      Ông nội có bình phục chút đỉnh nhưng vẫn không đi lại được. Vậy là ba đành phải ở lại Sa Đéc. Công chuyện làm ăn của mẹ không tiến triển chút nào. Nhân dịp cô dượng Bảy Vinh có xe hàng đi đường Sài Gòn -Pleiku, về nói nơi này làm ăn phát đạt lắm. Vì là tỉnh mới thành lập rất xa Sài Gòn, nên hàng hóa gì đem lên đó bán cũng chạy vù vù. Mẹ nghe ham quá nên đóng cửa tiệm, theo xe hàng lên Pleiku thám thính. Lúc đầu thấy khí hậu lạnh lẽo, đất đỏ bay mù trời, mùa mưa đất đỏ dính giày dép dẻo quẹo như dất sét, mẹ cũng ngại. Nhưng nhìn thấy hàng của cô Bảy vừa lên tới, bữa trước bữa sau là bán sạch sành sanh, cảnh chợ búa buôn bán rộn rịp bà cũng bị lôi cuốn. Mẹ về Sa Đéc bàn với ba, bán nhà lên Pleiku làm ăn. Ba lúc này bị ma men ám thường xuyên nên cũng để mặc mẹ muốn tính sao cũng được. Nhưng hình như chuyện gì trong nhà cũng do mẹ tính toán.

      Mẹ lên Pleiku sang một căn nhà trên đường Hoàng Diệu, mở một tiệm tạp hóa bán đủ thứ. Từ gạo, nước mắm, chén bát, nước ngọt ...Tất cả do cô Bảy Vinh chở từ Sài Gòn lên bỏ sỉ rồi mẹ bán lẻ lại. Vậy mà lời vô khối. Hằng và chị Mai lại theo mẹ lên Pleiku. Phần anh Tú xin đi dạy học ở Long Xuyên. Ngoài những lúc bận rộn trong mùa lúa, ba lên Pleiku ở với má và Hằng vài tháng. Nhìn thân thể tiều tụy của ba, Hằng thương quá. Con bé lúc này đã lên lớp Đệ lục, biết suy nghĩ nhiều hơn xưa. Đàn bà ở một mình thì biết tự lo cho mình, nhưng người đàn ông ở một mình thật thảm thương. Tuy hằng ngày qua nhà ông bà nội ăn cơm, nhưng làm sao bằng được chính bàn tay người vợ săn sóc. Hơn nữa bây giờ ông uống rượu càng ngày càng nhiều nên ba say nhiều hơn tỉnh. Tuy rằng chẳng bao giờ ông nhận là mình say! 

      Mẹ ở tuổi ngoài bốn mươi một tí nên hương sắc còn rất đậm đà. Khí hậu lành lạnh của vùng Cao nguyên giúp làn da bà càng thêm mịn màng, trắng hồng. Núm đồng tiền trên má đã khiến lắm con tim "không chịu ngủ yên và đập trật nhịp lia chia"!. Nhiều sĩ quan đổi lên đây. Có người mang gia đình vợ con, nhưng cũng có những ông "độc thân tại chỗ". Trong số những người ái mộ mẹ có ông Đại úy Hòa, ông Trưởng ty Thuế vụ tên Sinh. Ông Hòa đen đúa nhưng cao lớn và cái miệng dẻo quẹo, ngọt như đường. Mỗi bận đi phép về ông đều có quà bánh cho Hằng. Ông này người Nam, có vợ con nhưng bà vợ và các con không lên Pleiku vì chê xứ này khỉ ho cò gáy và bẩn thỉu! Mẹ nói nơi xứ lạ gặp người cùng quê cũng thấy thân thiện hơn người khác. Hằng xem ông Hòa như một ông bác trong nhà, không hề nghi kỵ. Trái lại ông Sinh người Bắc, tướng rất thư sinh, đẹp trai. Ông ta còn độc thân ở tuổi bốn mươi, nhưng nghe nói ngày xưa yêu một cô láng giềng tuyệt đẹp. Gia đình cô ấy ép lấy một anh Bác sĩ học bên Tây về. Từ đó ông trở nên hận đàn bà. Nếu gặp người vừa ý thì cũng chỉ chơi qua rồi bỏ. Vậy mà không thiếu phụ nữ mê mệt, muốn chiếm độc quyền trái tim bệnh hoạn của ông ta.
Hằng nhận thấy mỗi bận ông Sinh đến chơi, dĩ nhiên trong khoảng thời gian ba không có mặt ở Pleiku, mẹ rất vui, nói cười luôn miệng. Lại còn đỏm dáng hơn ngày thường. Bà chỉ thoa chút phấn hồng, chút son thôi mà thấy lộng lẫy hẳn lên. 

      Năm đó mẹ quyết định về Sài Gòn mua hàng bán Tết và mẹ dẫn Hằng theo. Con bé được về Sài Gòn thì vui không tả. Mua hàng xong mẹ con về Sa Đéc thăm ba và ông bà nội. Ông nội yếu quá, gặp Hằng ông mừng lắm. Hằng thấy thương ông ngồi một chỗ, ăn uống và làm vệ sinh phải có người giúp. Ông nội lì xì trước cho Hằng tiền mua chiếc xe đạp. Con bé cảm động ứa nước mắt. Ba thì vẫn say sưa tối ngày khiến mẹ rất buồn! Đêm đó Hằng nghe như hai người cãi nhau. Lại cãi nhau! Sao họ cãi nhau không biết chán hở trời!? Đời sống vợ chồng có gì vui sao? Con bé quyết định lớn lên sẽ không lấy chồng!
      Hai hôm sau mẹ con đi xe đò lên Sài Gòn và mẹ dẫn Hằng đi Vũng Tàu tắm biển. Trời ơi, sướng chưa! Suốt đời con bé chưa từng thấy biển lần nào!
      Hai mẹ con đi xe đò ra Vũng Tàu. Tới nơi còn đang lớ ngớ bỗng thấy một chiếc xe Peugeot 203 màu đen trờ tới đậu bên cạnh. Ông Sinh từ trên xe bước xuống. Hai người tay bắt mặt mừng trong khi con bé Hằng cứ tròn mắt ra nhìn. Ông Sinh mời hai mẹ con lên xe, đưa về một căn nhà khá lớn, mặt tiền nhìn ra biển. Hằng ngạc nhiên không biết tại sao hai mẹ con lại gặp ông Sinh ở đây, nhưng không dám hỏi sợ mẹ rầy!

      Trong hai ngày ở đây, ông Sinh đưa mẹ con đi chơi khắp nơi. Ăn tôm cua sò hến thả dàn. Mặt mẹ sáng ngời hạnh phúc. Tâm hồn con bé quá đơn giản, quá ngây thơ để đặt câu hỏi tại sao? Biển buổi sáng đẹp không thể tả. Ánh mặt trời chiếu xuống như dát vàng, chói cả mắt. Xe chạy vòng từ Bãi Trước ra Bãi Sau. Buổi trưa người đi tắm biển đông đen. Mẹ và Hằng không tắm, chỉ đi chân trần trên cát. Con bé lượm vô số vỏ sò để đem về Pleiku tặng bạn. Nhưng biển buổi chiều lại càng đẹp hơn. Hằng yêu vẻ êm ả và bình yên với những chiếc thuyền đánh cá trở về bến đậu. Hằng nói điều này với mẹ và ông Sinh. Ông ta nhìn Hằng một lúc rồi nói "Cô bé này có tâm hồn thi sĩ. Lãng mạn lắm nhé!". Mẹ nghe chỉ cười không nói gì. Riêng Hằng chẳng hiểu lãng mạn nghĩa là gì!
      Sáng sớm ngày thứ ba, ông Sinh lái xe đưa hai mẹ con ra bến xe về lại Sài Gòn. Trước khi từ giả ông ta đưa cho Hằng một cái hộp. Trong đó có một con thuyền làm bằng vỏ ốc tai tượng, có khắc chữ Kỷ Niệm Vũng Tàu...Hằng nói cám ơn và ông Sinh còn bẹo má con bé một cái.

      Năm đó cả nhà ăn Tết thật vui. Có lẽ tại mẹ vui. Mồng một Tết ông Sinh đến chúc Tết mẹ và lì xì cho Hằng. Ba không lên vì ông nội trở bệnh nặng và một tháng sau thì ông mất. Mẹ không về được, Hằng đang đi học nên mẹ sai chị Mai cầm tiền về phụ vào đám tang. Mai được về thăm nhà thì vui lắm. Hằng dặn khi chị trở lên Pleiku nhớ đem ít chục soài cát và vú sữa hột gà. Mười ngày sau chị Mai trở lên. Ngoài soài và vú sữa, chị còn đem một nồi cá thu nước ngọt kho nước dừa, đặc sản của Sa Đéc. Hằng thương chị nhất ở điểm này!
      Không hiểu sao lúc này mẹ hay bệnh. Nói bệnh thì không đúng. Mẹ ăn không ngon lại hay nôn mửa. Bà thèm một thứ gì đó, sai chị Mai đi mua. Đem về vừa ăn xong là nôn ra hết. Hằng lo quá, không biết mẹ bệnh gì. Một hôm, thấy Hằng lo lắng, mặt buồn hiu, chị Mai lôi Hằng ra nhà sau nói " chắc cô Tư có bầu, Hằng mừng không?". Dĩ nhiên là Hằng mừng. Có thêm em thì vui biết mấy. Hằng vội vàng chạy lên lầu hỏi mẹ có phải mang bầu không, bỗng nhiên mặt mẹ đổi thành trắng bệch, người bà hầu như hết hơi sức, chỉ chực ngã xuống. Hằng vội chạy lại đỡ mẹ nằm xuống giường, lấy dầu nhị thiên đường xức hai bên thái dương. Một lúc mẹ hơi tỉnh, hỏi ai nói với Hằng là mẹ có bầu. Hằng cười toe trả lời chị Mai nói. Mẹ bảo Hằng xuống kêu chị Mai lên cho mẹ nói chuyện, còn Hằng thì đi học bài. Hôm sau chị Mai nói với Hằng là mẹ có bầu thật, nhưng Hằng không được tiết lộ với ai vì mẹ mắc cỡ. Mẹ nói già rồi mang bầu kỳ lắm. Mẹ sợ người ta cười!

      Người lớn thật là kỳ quặc, khó mà hiểu nổi họ!Tuy nhiên Hằng cũng nghe lời, không tiết lộ tin này. Rồi hai tuần sau mẹ đi nhà thương vì bị băng huyết. Vậy là giấc mộng có em bé của Hằng không thành. Mẹ về nhà người xanh lướt, nhưng có vẻ vui. Ông Sinh đến thăm mẹ với một túi nho tươi. Hai người nói chuyện gì lâu lắm. Lúc ông ta về thì mắt mẹ đỏ hoe.
      Lần này ba lên định ở chơi hai tháng. Rồi một buổi tối ba vô phòng Hằng. Đang nói chuyện chơi, con bé bỗng nhớ tới đứa em đáng lẽ phải có, nói với ba, giọng đầy tiếc rẻ:
- Mẹ bị hư thai uổng quá hả ba?
Ba như bị điện giật:
- Con nói gì? mẹ con hư thai? Hồi nào? hồi nào? Giọng ông cao lên bất ngờ.
- Mẹ bị hư thai cách đây ba tháng. Mẹ không nói cho ba nghe sao? Hằng kinh ngạc hỏi.

      Ba nhìn Hằng trừng trừng như nhìn một con quái vật xa lạ nào đó. Bỗng ông bật dậy lao ra khỏi phòng. Sau đó thì tiếng ba quát tháo ầm ĩ bên phòng mẹ. Hằng chạy sang, thấy mẹ ngồi trên giường, hai tay ôm mặt. Ba đang tát bà tới tấp. Hằng hét lên, chị Mai dưới nhà chạy lên. Nhìn thấy cảnh tượng này chị hoảng kinh, xông vào lôi ba ra. Ông còn chưởi mẹ một hồi mới chịu êm. 
       Đêm đó ba ngủ trong phòng Hằng, còn Hằng xuống dưới nhà ngủ với chị Mai. Nhưng hình như không ai ngủ được đêm đó. Mọi người thao thức tới sáng. Hôm sau mặc cho con gái khóc lóc năn nỉ, ba xách va ly ra bến xe trở về Sa Đéc. Còn thề độc sẽ không bao giờ trở lại Pleiku! 
      Cả tuần lễ căn nhà buồn hiu hắt. Mẹ u sầu chẳng nói chẳng rằng. Hằng vẫn cắp sách đến trường đều đặn. Một buổi tối, sau khi học bài xong, Hằng xuống nhà. Thấy chị Mai đang gấp quần áo, con bé sà vào gấp tiếp:
- Nhà mình buồn quá chị Mai ơi! Em không hiểu tại sao hôm đó ba lại đánh mẹ em dữ như vậy? Đâu phải tại mẹ em muốn hư thai phải không?
Mai ngừng tay, nhìn Hằng một lúc rồi ngập ngừng:
-Nếu chị nói cô Tư không phải có bầu với dượng Tư, Hằng có tin không?
Con bé dẫy nẫy:
- Em không tin. Em không tin đâu. Vậy mẹ em có bầu với ai?
- Cô Tư có bầu với ông Sinh.
- Vậy còn ba em? Kỳ vừa rồi mẹ em có về Sa Đéc mà. Sao không phải là ba em? Sao chị biết không phải là của ba em? Chị nói đi! Giọng con bé có vẽ như muốn khóc.
- Cô Tư nói với chị. Hằng nhớ hôm em đi Vũng Tàu chơi không. Chính lúc đó cô Tư dính bầu.

Hằng bàng hoàng nhớ lại những ngày vui ở thành phố biển. Trong tâm trí, con bé mơ hồ nhớ lại, đêm thứ nhì ngủ tại đó, nửa đêm chợt thức giấc không thấy mẹ bên cạnh, Hằng tưởng bà đi nhà vệ sinh nên ngủ tiếp. Nào ngờ...!
Nhưng con bé vẫn không chịu tin:
- Vậy trước đó mẹ em về Sa Đéc cũng ngủ chung với ba em mà.
- Cô Tư tâm sự với chị là từ mấy năm nay dượng không còn làm được chuyện đó nữa.
- Chuyện đó là chuyện gì hở chị? Con bé ngây ngô hỏi.
- Thì chuyện ...em bé đó. Chị đâu có rành. Cô Tư nói với chị vậy mà. Cũng tội nghiệp cô Tư, dượng say sưa tối ngày, cô Tư khổ lắm em ơi. Chị mong em đừng giận mẹ nghen. Ông Sinh thương cô Tư lắm. Ông thương thật tình đó.

      Dĩ nhiên chị Mai đâu có rành. Tuy đã hăm lăm chị vẫn chưa chồng mà. Chị Mai vừa là cháu, vừa là người tâm phúc nên có gì mẹ cũng tâm sự với chị. Hằng thương mẹ, nhưng cũng thương ba. Biết mẹ phản bội ba, Hằng làm sao không giận được. Vậy là từ đó Hằng không muốn gần gủi mẹ như trước. Mẹ biết cũng chỉ thở dài. Mỗi lần ông Sinh tới chơi Hằng đều tránh gặp ông ta. Mẹ có gọi con bé cũng đóng cửa phòng im ỉm. Ông Sinh biết ý cũng bớt tới nhà.
      Vừa nghỉ hè là Hằng xin phép mẹ về quê. Con bé quá giang xe cô bảy Vinh về Sài Gòn. Mẹ dặn Hằng đi xích lô đem qua nhà bác Phú trong Thị Nghè biếu hai ký măng le khô và một ký khô nai. Con bé ngạc nhiên tột độ khi gặp ba đang ở nhà bác Phú. Hai cha con mừng quá là mừng. Ba ôm đầu Hằng hôn chùn chụt. Ông nói ở dưới quê buồn quá nên lên Sài Gòn chơi ít hôm cho khuây khỏa. Sáng hôm sau hai cha con gọi taxis ra bến xe. Đi quá sớm nên chưa ăn sáng. Lên xe rồi ba đưa tiền bảo Hằng lại tiệm nước gần đó mua cho ba bánh bao. Mới bước được vài bước thì gặp ngay một con bé trạc tuổi Hằng, bưng một xề bánh bao nóng hổi còn bốc khói nghi ngút. Hằng mua hai cái. Cứ đinh ninh bánh bao nhân thịt. Nào ngờ khi cắn rồi mới biết chỉ là nhân bắp cải. Hằng nói để đi mua cái khác, ba bảo thôi. Đã mua rồi thì ráng ăn. Giờ đây, gần nửa thế kỷ trôi qua, nhớ đến nét mặt ba cố ăn hết cái bánh bao nhân bắp cải mà hai hàng nước mắt Hằng vẫn tuôn tràn. Có những chuyện giống như những vết dao chém vào đá. Vĩnh viễn với thời gian. Không bao giờ phai mờ. Lần này Hằng để ý thấy tay ba run run và mắt thì vàng như nghệ. Người chỉ còn da bọc xương. Bác Phú nói riêng với Hằng" Cháu nói với mẹ cháu là ba cháu có vẻ bệnh nhiều lắm đó. Coi chừng không xong đâu à!". Hằng lo lắm, nhưng chẳng biết lo làm sao? 

      Về tới nhà, Hằng lo quét tước lau chùi nhà cửa cho thật sạch sẽ. Mẹ có gửi tiền cho cô Bích nấu ăn cho ba. Cô nói ba cháu chỉ uống rượu chứ có ăn uống gì đâu mà đưa tiền. Hai tuần đầu ba còn cố ăn được chút đỉnh, nhưng sau đó ăn vào là nôn ra. Trong thức ăn có lẫn máu tươi. Ba nằm trên giường rên rỉ, đau đớn. Mỗi ngày con bé đổ sữa cho ông, nhưng phần lớn là nôn ra hết. Càng ngày càng nhiều máu tươi hơn. Hằng chỉ biết nhìn ba và khóc. Con bé còn nhớ, một đêm trời tối như bưng, trong nhà hết nước sôi để pha sữa, Hằng phải cắn răng băng qua khu vườn, qua đập cửa nhà bà nội. Eo ơi, nhìn cây cối trong vườn rung động trong bóng đêm như những bóng ma đầy dọa nạt, Hằng sợ đến run lập cập. Nhưng thương ba quá, con bé vẫn cố đi, miệng niệm Phật liên hồi. Hôm sau Hằng nhờ con trai cô Bích qua Long Xuyên gọi anh Tú về. Anh Tú về vội vàng đưa ba đi khám Bác sĩ. Bác sĩ nói ba bị bệnh chai gan và loét bao tử trầm trọng. Tất cả vì rượu. Ông chuyền nước biển và cho thuốc uống. Đến ngày thứ ba mới cầm, không ra máu và ba có vẻ tỉnh táo hơn.

      Anh Tú bảo Hằng lên Pleiku trông nhà cho mẹ về chăm sóc cho ba. Hằng không chịu thì anh vừa mắng mỏ, vừa năn nỉ. Cuối cùng con bé phải đầu hàng. Buổi sáng Hằng thấy ba nằm thiêm thiếp trên giường, mặt mày xanh xao, hơi thở nặng nhọc. Lòng đau như dao cắt, con bé vừa xách chiếc valy nhỏ bước ra khỏi nhà, đi ngang cửa sổ phòng khách là có tiếng ba gọi từ phía trong cửa sổ:
- Hằng, Hằng! Con đi đâu đó?
- Con đi Pleiku kêu mẹ về săn sóc ba. Hằng trả lời giọng nghẹn ngào.
- Không, không! Con đừng đi. Còn không cho ba đi theo với.
- Ba đang bệnh đi không được đâu. Thôi ba vô nằm nghỉ. Con đi nghen ba.
      Dứt lời là con bé xách va ly đi như chạy. Nước mắt tuôn ướt cả mặt. Anh Tú dặn Hằng tới Sài Gòn là đi thẳng ra bến xe Miền Trung. Gặp chuyến nào đi liền chuyến nấy không được chờ. May quá có chuyến trưa sắp chạy. Chỉ còn chỗ ở băng cuối cùng Hằng cũng leo lên. Suốt mười mấy tiếng đồng hồ trên đường đi, Hằng rầu rĩ nhớ ba đến nỗi không muốn ăn uống gì cả. Cũng không để ý đến những lúc xe bị xóc, hành khách băng sau cùng bị tung lên, đôi khi đầu đụng trần xe đau điếng. Nhớ tới hình ảnh ba, hai tay nắm chấn song cửa sổ, đòi đi theo Hằng là con bé lại giọt vắn giọt dài khiến hai người ngồi bên cạnh ái ngại quá. Nhưng hỏi gì con bé cũng lắc đầu, không nói.

      Hằng không ngờ đó là lần cuối cùng gặp mặt ba. Vì mẹ về tới là ông yếu lắm rồi. Ba ngày sau ba trút hơi thở cuối cùng. Nhận được điện tín anh Tú đánh lên báo tin ba mất và dặn Hằng đừng về, con bé lịm người khóc không thành tiếng. Nếu biết ba ra đi sớm như vậy, có đánh chết Hằng cũng quyết ở lại với ba. Con bé đau liệt giường cả tháng trời sau đó. Mẹ lại khổ sở săn sóc cho con gái...
      Một thời gian sau ông Sinh xin đổi đi tỉnh khác vì mẹ từ chối lời cầu hôn của ông ta. Cả anh Tú và Hằng đều ghét cay ghét đắng, cho là vì ông ta mà ba mới chết sớm như vậy.
      ...Thật lâu, thật lâu sau này, nghĩ lại Hằng thấy thương mẹ vô cùng. Bà đã vì hai anh em nàng mà chịu hy sinh hạnh phúc của riêng mình. Theo lời chị Mai, mẹ rất yêu ông Sinh. Về sau có nhiều người theo đuổi mẹ đều từ chối.

      Công bình mà nói, ba cũng đáng trách. Hằng không hiểu tại sao một người có điều kiện tốt như ba mà chịu xuôi tay đầu hàng Định mệnh, để ông Thần Lưu linh lôi cuốn đến nỗi tan nát cả hạnh phúc gia đình? Tại sao ba lại hèn yếu đến thế hở ba? Con thương ba nhưng cũng ghét ba. Ba rủ áo ra đi, thanh thản, nhẹ nhàng bên kia thế giới. Nhưng phần mẹ được gì? Suốt đời làm lụng, buôn bán cực khổ nuôi chồng, nuôi con. Trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài bốn mươi, đẹp đẻ, giỏi giang... mà cứ phải cắn răng sống cảnh phòng không chiếc bóng, chỉ vì tình thương dành cho hai con. Trong khi chung quanh ong bướm dập dìu. Hằng thương cả ba lẫn mẹ. Nhưng vẫn canh cánh bên lòng một tình cảm khó tả: thương, giận và tiếc nuối! Nếu được bắt đầu lại, Hằng sẽ nghĩ đến mẹ nhiều hơn.

      Ba không đáng trách và mẹ không đáng thương lắm sao? Những hạt bụi bám chặt trong tim con gái chừng nào mới gội sạch được đây? 

Tiểu Thu