Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014

Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu - Phạm Duy - Vũ Khanh

ẨN LAN là tên người con gái trong bài hát này của nhạc sĩ Phạm Duy là một cô gái đẹp dịu dàng, tóc thề bay trong gió. . .của vùng quê Việt Nam mình vào giữa thế kỹ trước.
Nhưng trong nét đẹp ấy cô lúc nào cũng mang một vẽ buồn đến nỗi tiếng hài của em cũng làm cho ngõ đi thêm sầu, và cũng em hay dỗi hay hờn.
 Dáng buồn của cô gái Phạm Duy gọi tên cho người đẹp của mình cái tên GỌI EM LÀ ĐÓA HOA SẦU


Sáng Tác: Phạm Duy
Tiếng Hát: Vũ Khanh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Nhớ...


Nửa đêm mưa hắt qua màn.
Gió vào rung nhẹ phím đàn buông tơ.
Nhớ em tỉnh dậy làm thơ.
Gởi theo tiếng sóng bơ vơ bên ngoài.
Tứ thơ viết chẳng trọn bài.
Năm canh thức bốn canh dài buồn thêm.
Lung linh bóng nước bên rèm.
Nhớ sao bóng nắng bên thềm nhà em ....

Hhai

Phơi Màu Hư Thực


                    (Gởi nhà thơ THÚY L.)

Chiều dần xuống, đôi môi em ảo mộng
Cánh tay trần ấp ủ bờ vai ngoan
Sắc hương xưa  quyện ấm trái tim nồng
Trong tình tự.. đã nghe mùi xa cách..

Cười hay khóc.. đâu xá gì thân ngọc
Không gian lặng, thời gian không hề gặp
Con đường tình còn ái ngại ngõ qua
Đêm hôm ấy.. dấu tình sầu hiu hắt!

Từ phút nào đã phơi màu hư thực
Từ hư không mây tím đã bay về
Nắng xôn xao khua động nẻo buồn tê
Nhớ thương ơi, chờ mong em mây khói..

Bước chân em phơi cồn trong nắng rọi
Ngăn gió cuộn,em về đâu ..sương sớm?
Cơn mộng chiều: rơi nặng trĩu quanh đây
Dẫm cánh gai hồng..chưa uống mà..say…
  
FL,ngày 16-6-10
Bùi Thanh Tiên

Thơ Tranh: Mùa Thu


Thơ: Hoàng Lam
Thơ Tranh: Kim Oanh

Một Dòng Sông


Sông nước đầy khơi lại cuộc tình
Một thời thơ mộng tuổi học sinh
Bến xưa còn nhớ người em nhỏ
Bờ cũ vẫn yêu một bóng hình

Vườn ổi vấn vương chân Ốc Đảo
Đường hoa lưu luyến guốc An Bình
Thế rồi xa mãi mùa Xuân cũ
Thương nhớ cho em một mối tình

Dừng gót bên bờ sông Cữu Long
Dòng sông còn gợi sóng trong lòng
Bốn mươi năm tưởng tình đã mất
Nhưng người yêu cũ vẫn chờ mong!

August 2013
Biện Công Danh
Hình phụ bản của Tác giả ghi lại - Sông Vĩnh Long

Xướng Hoạ : Hỏi

 

 Xướng: 
                 Hỏi 

Hỏi ai có nhớ đến ta không ? 
Khi ngắm trời khuya bóng nguyệt lồng 
Duyên mới đong đầy ngày cuối hạ 
Tình đà héo úa buổi tàn đông 
Lòng người tựa lá trong cơn gió 
Thân phận như hoa giữa bụi hồng 
Nào biết mai đây còn gặp lại 
Hay là trọn kiếp mãi hoài trông ? 
                       Phương Hà
* * *  
Các Bài Hoạ:

                    Đáp 

Nhớ lắm người ơi có biết không ? 
Từ khi chịu khổ kiếp chim lồng 
Chia tay nắng đổ mùa hoa hạ 
Mất bạn mưa dầm tháng cuối đông 
Áo trắng như còn in nẻo gió 
Đường xưa đã thiếu mất bông hồng 
Có con chim vịt thường bay lại 
Tiếng hót càng buồn cứ mãi trông  . 
                          Cao Linh Tử 
                            25/4/2014
* * *
            Đành Thôi


Đừng hỏi tim ơi có được không
Giờ đây kỷ niệm tựa mây lồng
Tình xưa tươi tắn thời xuân mởn
Hương cũ phai tàn nhạt cuối đông
Duyên dáng chi đây cành phượng thắm
Yêu đương đâu nữa giấc mơ hồng
Đành thôi tim hỡi đà sai nhịp
Mộng đã tan rồi chớ đợi trông

                                  Quên Đi

* * *            
                 Hồi  Âm


"Người" hỏi làm "ai" khổ biết không ?  
Đêm khuya ngắm nguyệt,bóng trăng lồng  
Tình vừa gắn bó khi vào Hạ  
Duyên lại xua tàn lúc cuối Đông  
Hình bóng xem chừng ghi khác dạ  
Dư âm còn đọng mảnh tim hồng  
Người dưng sao lại đem lòng nhớ  
Có biết thương nầy cứ ngóng trông ?? 
                                  Song Quang  

* * *
Đọc bài họa của Kim Phượng làm người đọc nhớ đến cuộc đời của nữ sĩ TTKh năm xưa, chỉ mong... đó không phải là... cuộc đời của người hiện tại !!!!   Xin được nối đuôi...
              Đừng Hỏi  

Người nhắc làm chi chuyện nhớ không  
Làm sao nói hết cảnh chim lồng  
Tường cao cổng kín chôn chân sáo  
Phòng vắng hồn đơn ngỡ gió đông  
Lễ giáo gia phong vùi phận số  
Chính chuyên thục nữ đẫm khăn hồng  
Bao năm đã nhạt màu son phấn  
Nhắc nhớ mà chi lại ngóng trông 
                                 Kim Phượng

* * * 
                     Nghi Vấn

       Hai sắc hoa xưa... có nhớ không?
       Cũng sầu ray rức cảnh chim lồng.
       Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp*
       Lễ giáo đọa đày kiếp gió đông.
       Chuyện cũ đà qua... thành tiểu thuyết,
       Đời nay còn cảnh... đẫm khăn hồng?     
       Hồng nhan phận bạc... hư hay thực?
       Xao xuyến lòng người... mãi ngóng trông!!!

                                                     Đỗ Chiêu Đức.

* Đây là câu thơ nguyên tác của TTKh trong " Bài Thơ Cuối Cùng".

* * * 
Có 1 bạn thơ trên FB hưởng ứng họa bài thơ trên, gửi Thầy Cô và mấy anh chị lãm tường:
            Không Đề  

Kỉ niệm năm nào anh nhớ không 
Cành cây hai đứa khắc tên lồng
Tay trao phượng thắm khi vào hạ
Mắt ủ men nồng lúc lập đông
Háo hức sẻ chia bao mộng đẹp
Hân hoan thổ lộ những mơ hồng
Ngờ đâu chiều ấy... xa biền biệt
Mấy chục năm ròng vẫn ngóng trông

                         Hoài Niệm Nguyễn
                          Ngày 09 - 5 - 2014

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

Chút Ý Nhân Phật Đản


      Phật thuyết chúng sanh có 84.000 trần lao, thì cũng có 84.000 pháp môn để thâm nhập vào tâm Phật từ tâm mỗi chúng sanh, nhưng vào bằng cách nào, GIỚI- ĐỊNH – HUỆ, còn tôi chẳng có chút nào trong tam tịnh tu tôi khoái lang thang trong tâm thức, chẳng ở nơi nào, nên cũng chẳng nơi nào chứa. Tôi nhớ lại đâu khoảng tháng 5 năm 75 tôi xin quy-y sau 3 năm lý luận cùng vị sư cũng không già lắm, nhưng tư tưởng thì tuyệt, rất tinh nghiêm trong giới luật. Một buổi sáng nọ tôi vào Tịnh Xá xin quy-y.
- Bạch sư nay con nghĩ chính rồi xin sư quy-y cho con, vị thầy vẫn ngồi xếp bằng thanh thản đưa bàn tay hướng về chánh điện.
- Trò vào lễ Phật rồi xin giữ một giới.
   
      Tôi vâng lời xá thầy, đứng lên đi về hướng chánh điện, vừa đi vừa nghĩ không biết trong ngũ giới mình xin thọ giới nào đây, thầm nghĩ mình hay uống rượu quá, thôi thì xin giới tửu vậy. Lễ Phật xong tôi trở xuống gặp thầy, rồi thầy cho một pháp danh, tôi nhận, xá lễ sư tôi về nhà, bụng thơ thới từ nay mình với giới này đã nhận thì giữ cho tròn.
      Trên đường sắp đến nhà, thằng Mão nhỏ tuổi hơn tôi nhiều cũng chờ học tập, trước thềm ngoắc tôi lia lịa vừa réo:
- Anh Hiếu, vô đây có tụi nó chờ anh nè, bước vào nhà nó thấy quần hùng ba ông đang nhắm nháp, mùi rượu đầy nhà.
- Anh Hiếu vào đây, ngồi xuống chơi cùng tụi em chút.
      Theo thói quen, tôi cũng vào vài ly, chợt nhớ ra, mình mới từ thầy ra, lỡ rồi, tôi nói thiệt,
- Tao mới xin giữ giới uống rượu đây, thôi tao về.
- Phật chứng anh lúc đó rồi, ra đây thì anh nhậu có chút xíu ổng đâu có thấy mà anh lo
      Kể từ đó đến giờ tôi gần như ngày nào cũng phạm cả, giờ không còn trẻ nữa nên đôi bữa nửa tháng mới phải phạm, thì cũng tốt lắm rồi, đối với tôi thuở đó...
      Mãi về sau tôi rõ ra. Giới chính là giới hạn, càng nhiều giới hạn càng tốt vậy thôi…
      Trong Phật đạo có ba đường để hành giả chọn- PHẬT PHÁP TÔNG- PHẬT TƯỚNG TÔNG- và PHẬT TÂM TÔNG, tôi chọn TÂM TÔNG làm mũi nhọn mà mình cần thiết chuyên vào, cũng đã gần 40 năm….hỏi thấy gì không, thưa thật lúc trước thấy bộn bề, nay thì hơi yên không còn vọng tưởng nên cũng chẳng thấy gì cả…


      Theo dòng lịch sử, đạo Phật truyền vào nước ta từ nguyên gốc Ấn do ngài Mahajivaka vào trung hoa rồi truyền sang nước ta khoảng năm 188 trước công nguyên, về sau một thiền sư đắc đạo với Tứ tổ Tăng Xán là ngưới ấn, thiền sư Vinitaruci (Tì ni đa lưu chi), là dòng Thiền đầu tiên ở nước ta
      Không rõ sự hưng thịnh, hay suy tàn của đạo Phật theo dòng thời gian từ trước đến nay, song tôi cũng nhận ra điều này- Không phải cứ chùa cao viện lớn tuần tự mọc lên là Phật giáo thịnh, cũng không phải chùa viện rêu phong không có đồ chúng vang rân là Phật giáo suy- Suy thịnh tự tâm Phật trong mỗi cá nhân sai biệt căn tánh, nhưng rõ tánh Phật thì đã về nhà rồi vậy
      Trong thế kỷ 20 có hai vị, một là người Đức – Ông Lama Govinda. Hai là người Pháp – Bà Alexandria David-neelin
      Đã thực tu và thực chứng, và trở về Đức truyền bá Mật tông Tây Tạng, ở Pháp cũng có trường dạy về pháp tu thực hành, phần giáo lý rất gần phái thiền hiện tại, kể cả những tụng văn 

Đạt Lai Lạt Ma cùng Mẫu Thân Krishnamurti 

      Cũng trong thế kỷ 20 này, Ấn Độ phát sinh vị Krishnamurti chi du thuyết và đuổi đệ tử tình nguyện theo chân thầy như đuổi tà, ông này, theo tinh thần Phật học thuyết toàn bộ TÁNH KHÔNG như một căn bản giáo thuyết mà không có giáo điều, người châu Âu nghe và hâm mộ rất đông mà không có đệ tử nào, đến là ổng đuổi, biết được là nhờ người nghe ghi lại, toàn người tây phương cả
      Nhật có giáo sư Daisetz teitaro Suzuki chuyên nghiên cứu thiền và nổi tiếng với bộ THIỀN-LUẬN, người xem bình phẩm, bộ sách đã dắt dẫn người ta đến tận cửa, mở được hay không do các vị tạm xem như hành giả vậy
      Thân chúc quí vị cùng các bạn an bình trong cuộc sống nhân Phật Đản năm 2013.


Suzuki 
Krishnamurti 


Viết xong đêm 21 tháng 5 năm 2013
Trương Văn Phú

Phật Đản Sinh



Rằm tháng Tư hương lành toả ngát
Đấng Như Lai giáng cõi Ta Bà
Trần gian chốn chốn mừng khai hội
Nhân thế nơi nơi rộn múa ca
Bảy đoá bạch liên nâng gót Thánh
Bốn phương cõi tạm nhớ lời Ta(*)
Ngàn năm đạo pháp luôn ngời sáng
Giáo lý từ bi Phật Thích Ca
                                        Quên Đi

(*) Vừa chào đời, thái tử Tất Đạt Đa bước đi 7 bước, hiện 7 đoá sen trắng, nâng lấy bàn chân Người. Tay phải của Người chỉ trời, tay trái chí đất cất tiếng : 
       Thiên thượng thiên hạ. Duy ngã độc tôn...
( khắp nơi trên dưới cõi trời, chỉ có ta là hơn cả...)


Thơ Tranh : Sắc Thị Không


Thơ: Quên Đi
Thơ Tranh: Hữu Đức


Phan Vũ Bình CHS Tống Phước Hiệp, Lớp11/7 - Niên Khoá 1981-1982

Chào tất cả các Bạn
Đây là những tấm hình toàn thể cựu học sinh Tống Phước Hiệp - Lớp 11/7 - Năm học 1981-1982 
Bạn "KIM CHỈ" đã lưu lại sau 30 năm.




Kim Chi,Võ Thiện Khiêm, Phan Vũ Bình


Tôi Trở Về


Tôi trở về vùng đất cũ thương quen
Giữa một chiều mưa lất phất bay buồn
Con nắng chói chang của ngày rơi hẫng
Gieo vào lòng người bao nỗi tơ vương

Tôi trở về sau quãng đời cách ngăn
Sau quãng đời như đánh mất hơi tăm
Sau quãng đời tưởng xuôi vào im vắng
Quãng đời trôi ru nỗi chết âm trầm

Tôi trở về để hiểu rõ tôi hơn
Cả đời tôi như đã dần khánh kiệt
Nửa hồn xưa khói sương niềm hạnh phúc
Nửa hồn giờ như váng vất như mơ

Tôi trở về sao vẫn cứ chơ vơ
Từng bước chân đi giữa chiều hiu hắt
Đất quê xưa với trăm điều rất thật
Sao lẻ loi tôi đến đổi không cùng

Tôi trở về như một thoáng không dưng
Tôi trở về như từ trong bất chợt
Tôi trở về để thấy lòng rất lạ
Giữa chung quanh huyên náo giữa rộn ràng

Tôi trở về riêng một cõi tình mang
Chỉ có tôi chỉ mình tôi duy nhất
Tôi trở về để nghe hồn bật khóc
Cho một thời tuổi trẻ hóa hư không 

Vĩnh Trinh

Mình Ơi!



   ( Con Kính tặng Ba Má )

Chữ Mình là ý nghĩa chi
Sao nghe Ba gọi Má hoài
Mình ơi!
Thiết tha Má vội đáp lời
Mình à!
Ngọt lịm như là miá lau
Chữ Mình sao quá khít khao
Không buộc không thắt ngọt ngào
Mình ơi!
Dẫu đời sống gió lao đao
Chữ Mình chắn gió ba đào
Lặng im!
Chồng chành thuyền những vỡ chìm
Chữ Mình chèo chống nối liền
Má Ba!

Kim Oanh
Melbourne10/5


Mình Ơi


(Từ bài Mình Ơi! của Kim Oanh... 
    Tiếng Mình của miền Nam quả là ngọt lịm ...)

Chữ MÌNH tuyệt diệu lắm, EM ơi
Nghe mát lòng nhau cả cuộc đời
Cho dãu cuộc đời đầy sóng gió
Mình ơi ... ngọt lịm thấm bao lời

Mình ơi, hai tiếng thật thân thương
Gói ghém tình thâm suốt đoạn đường
Ngày tháng êm đềm theo tiếng gọi
Cùng chung tâm ý nguyện lòng vương

Mình ơi, thỏ thẻ những chiều xuân
Trang trải lòng yêu đến vạn lần
Sương gió vui buồn cùng một dạ
Gọi mình là đủ, đẹp muôn phần ...

Hoàng Dũng
11/5/2014

Thơ Tranh: Chùm Gởi


Thơ: Nguyễn Diêu Anh
Thơ Tranh: Kim Oanh

Mùa Hè Nồng Cháy - Heinrich Heine



Sơ Lược Tác Giả:
Heinrich Heine là nhà thơ Đức rất nổi tiếng cùng thế kỷ với Petofi.
Sinh: Ngày 13 tháng 12 năm 1797 tại Düsseldorf
Mất: Ngày 17 tháng 2 năm 1856 (tuổi 58) tại Paris, Pháp
Ông là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà phê bình văn học

Thế kỷ 19 là những năm nhân loại được đón nhận những nhà thơ mà cái tên và những thi phẩm của họ đã trở thành bất hủ và là tài sản chung như Byron ở Anh, Victor Hugo ở Pháp, Michkievich ở Balan, Lecmontop, Puskin ở Nga, Sandor Petofi ...và Heine, Goether ở Đức. Mùa hè nồng cháy là một bài thơ tình rất hay.

"Es liegt der heiße Sommer"

Es liegt der heiße Sommer
Auf deinen Wängelein;
Es liegt der Winter, der kalte,
In deinem Herzchen klein.

Das wird sich bei dir ändern,
Du Vielgeliebte mein!
Der Winter wird auf den Wangen,
Der Sommer im Herzen sein.

Heinrich Heine 

Bài Dịch:
Mùa Hè Nồng Cháy

Mùa hè nồng cháy.
Ở trên má em.
Mùa đông lạnh lẽo.
Ở trong tim em.

Nhưng có một ngày.
Hỡi em!
Mùa đông sẽ trên má.
Mùa hè sẽ trong tim.

Tế Hanh dịch
(Hhai sưu tầm)

Hỡi Em



Đọc thơ em thấy nhớ
Trường xưa, nhà cũ, bạn thuở nào
Trôi theo dòng sông ra biển
Biết thuyền nhỏ về nơi nao?

Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm
Ngày xưa hạnh phúc biết bao
Bây giờ nhớ lại
Hãy nói mình phải làm sao?
Hỡi em!

Huỳnh Hữu Trí
Long An2010

Cái Ăn Của Người Xưa

    

      Người Việt mình sống trên địa bàn khí hậu nhiệt đới, với đặc thù nông nghiệp lúa nước, nên thực phẩm, ăn uống cũng xuất phát trên cơ sở đó.

      Hỏi vậy tới nay ta có bao nhiêu món ăn tất cả?
      Theo thống kê sơ bộ, thì ta có độ trên 3000 món ăn từ Bắc vô Nam; trong đó có những món đặc thù của ta, có những nón vay mượn của người Tàu, Miên, Ấn và các nước Âu Châu.
      Vậy trong lịch sử từ xưa đến nay có sách nào của mình nói về ăn uống không ?
Thật không có sách viết về ăn uống của người mình với tánh cách là “văn hóa”, nhìn dưới dạng “dân tộc học”, như ngày nay.
      Phải chăng người mình có thói quen cho rằng ăn uống là việc bếp núc, đàn bà con gái!



      Nay thử tìm cội nguồn sự biến đổi của món ăn, để thấy đâu là quốc hồn quốc túy.
      Theo dòng lịch sử nước nhà thì đến thể kỷ XV mới thấy ông Nguyễn Trãi (1380-1442) nói đến một ít về lương thực, thực phẩm, ăn uống nói chung của ta trong cuốn “Địa Dư Chí ” (1435).
Thuở đó ông chỉ nêu một số món nổi tiếng quanh Hà Nội như là “đặc sản” lúc bấy giờ. Đó là rượu cúc, rượu sen ở làng Hoàng Mai, rượu nếp làng Đông Thái, trái vải ở Quang Liệt, cá rô ở Đầm Sét . . .
      Đến thời Lê Quý Đôn (1726-1784) có kể thêm các món ăn nổi tiếng của ta, và cũng liệt kê các địa phương gắn liền với đặc sản đó, trong tác phẩm “Vân Đài Loại Ngữ ” (4 quyển).
Như Trà Bang nơi bán các loại trà nổi tiếng, dưa hấu Hà Đông, cà Đại Lữ, khoai ở làng Đông Dư, mít ở Cổ Loa, bưởi ở Đông Lao.
      Mãi đến nhà Nguyễn, qua cuốn “Đại Nam Nhứt Thống Chí” (1882) sử quan đã thống kê các món ăn dựa vào hai tác giả trước như là Nguyễn Trãi và Lê Quý Đôn, nên chủ yếu là các món ăn ở miền Bắc mà thôi.




      Còn trong dân gian, người mình nhìn ăn uống ra sao?
Qua ca dao, tục ngư, thấy được dân mình ăn uống đạm bạc, và ăn cốt để sống mà thôi. Như các câu sau đây:

-Bữa cơm, bữa cháo.
-Bát cơm rau mát, rau sam,
Yêu nhau chẳng nở thở than nửa lời.
-Ăn mắm lắm cơm.
-Ăn cơm không rau, đánh nhau không gỡ.
-Ta về ta sắm cần câu,
Câu lấy cá bống nấu rau tâp tàng.
Hoặc chê bai, dèm pha người thích ăn ngon !
-Ăn thì chọn những miếng ngon,

Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.


      Đối với người dân, đời sống thường thiếu ăn, nên khi có dịp giỗ chạp, cưới hỏi, người ta mới chú trọng, quan tâm đến ăn uống.
      Đến khi người Tây Phương can thiệp vào nước ta làm cho đời sống xã hội mở cửa, thông thoáng hơn, góp phần giúp cho các món ăn của ta giao lưu, sàn lọc, khẳng định để rồi có vài món đã trở thành tiêu biểu, lưu truyền đến nay như là món ăn quốc hồn quốc túy.
      Trong từ điển của ông cố đạo A. De Rhode xuất bản năm 1651 có kể ra các món ăn thông dụng của ta ngày xưa mà vẫn còn lưu truyền đến nay, đó là: cơm, xôi, cháo, cốm, bún, chè, chả, nem, dồi, gõi, chao, tương, mắm . . .
      Sau đó trong từ điển của ông Huỳnh Tịnh Của (1895) rồi ông Génibrel (1898) có ghi thêm 44 món ăn như : bánh chưng, bánh khoái, bánh rán (bánh tráng), bún, chả, giò lụa, tiết canh, canh riêu, đậu hủ, hủ tiếu, lạp xưởng, lẩu trong đó có nhiều món du nhập của người Tàu . . .
Vậy có thể lấy cái mốc từ thời ông A. De Rhode vào thế kỷ thứ 17 để tìm hiều về ẩm thực của ta từ thời đó, hầu dung bồi cho nó trở thành món ăn quốc hồn quốc túy của dân tộc.





      Do đặc thù của lịch sử, ngày nay chúng ta có các vùng ẩm thực tiêu biểu, như Hà Nội, Huế, Saigon, Cần Thơ, Gò Công. Các nơi đó có những món ăn vừa ngon, vừa được biết như là quốc hồn quốc túy vì đã thử thách qua thời gian, được nhiều người tiêu dùng chấp nhận.
Ngoài Hà Nội, Huế ,Saigon; Cần Thơ là tiêu biểu cho lối ăn uống của Lục Tỉnh, phản ảnh triết lý “good to eat”, ăn ngon vì nó ngon thật.
      Còn Gò Công vì là quê hương của bà Từ Dũ, bà Nam Phương, nên món ngon Gò Công đã được đưa ra       Huế để tiến cung, dâng lên vua và từ đó phổ biến đi nhiều nơi khác trong cả nước, được nhiều người chấp nhận.
      Trên 3000 món ăn của ta suốt từ Bắc vô Nam có những món được gọi tên khác nhau, hoặc gọi giống nhau nhưng vật liệu làm nên khác nhau, hương vị cũng khác nhau.
Theo thống kê hiện có 137 món gọi tên khác nhau giữa Bắc và hai miền Trung, Nam, đó là trường hợp các món có xuất xứ ở miền Bắc.
      Thí dụ như món Giò : Giò ở Bắc là món làm bằng thịt heo thái mỏng (hoặc giã nhỏ) bó chặt bằng lá rồi đem luộc chín; trong miền Trung và miền Nam thì gọi là Chả. Chả ở Trung và Nam còn bao gồm các món được làm bằng thịt, cá, tôm giã nhỏ đem nướng, hấp, luộc và chiên ( tất cả cũng gọi là chả).
Có món từ nước Tàu vào miền Bắc, miền Trung, miền Nam đều gọi khác nhau. Như “món bột đậu nành hấp chín như miếng bánh” (từ điển Huỳnh Tịnh Của), thì trong Nam gọi là “đậu hủ”, miền Trung gọi là “đậu khuôn”, miền Bắc gọi là “đậu phụ”
      Món “hủ tiếu Tiều” vào Đàng Trong thì đã thay đổi nội dung đến cái tên gọi như “hủ tiếu Mỹ Tho”, hủ tiếu Nam Vang”, “hủ tiếu Bà Năm Sa Đéc” có thịt bầm, giò heo, tôm chiên, trứng cúc ăn kèm theo giá sống, rau cải tần ô, khác hẳn hủ tiếu Tiều.





      Đại cương các món ăn người mình được chia ra mấy nhóm căn bản sau đây:
1.Món cơm : cơm nấu, hấp, cơm chiên, cơm dương châu, cơm rang, cơm khô . . .
2.Món canh : canh rau cải, canh chua, canh khoai, canh bột, canh ngọt (bí, chuối) và lẩu
3.Món kho : Cá kho, thịt kho, tôm kho, kho khô, kho quẹt, kho tộ, kho lạt, kho ngót . . .
4.Món xào chung với rau cải
5.Món chiên, nướng, chưng, hấp
6.Món gỏi, món cuốn, chả, nem, giò . . .
7.Món chấm : nước mấm cá biển, cá đồng, cá nước lơ, muối ớt, muối tiêu. . .

      Ăn uống của người mình còn phản ảnh phong cách sống của tổ tiên nữa. Như tục ngữ:
- No mất ngon, giận mất khôn.
- Ăn cơm thiếu đũa.
- Giã gạo dư chày.
- Ăn cháo đá bát.
- Cha ăn mắm, con khát nước.

      Ngày nay dưới cái nhìn văn hóa thì ăn uống cần phải thanh lịch nữa, nên mới gọi là văn hóa ẩm thực.
Trong ăn uống người mình chịu ít nhiều ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Nhiệm vụ của các nhà văn hóa, các nhà dân tộc học, là tìm hiểu nguồn gốc các món ăn, làm cho ẩm thực Việt Nam trở thành một bộ phận của văn hóa Việt.
      Trước tình hình nhân loại đi vào hội nhập, cái “quốc hồn quốc túy” cần phải được khẳng định, và ăn uống sẽ góp phần không nhỏ trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc vậy.

Nam Sơn Trần Văn Chi  


Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2014

Mẹ!




Con về thăm lại xóm xưa
Vẫn con đường nhỏ nắng mưa hai mùa
Nhà ai chiếc võng đong đưa
Con sông còn đó người xưa đâu rồi
Qua sân chỗ mẹ thường ngồi
Nhìn băng đá cũ bồi hồi xót xa
Bao mùa mưa nắng trôi qua
Bao mùa nước nổi con xa xứ mình
Con như bóng, Mẹ như hình
Còn đây chiếc bóng nhưng hình mẹ đâu
Cho con về lại ban đầu
Nhặt từng kỷ niệm ép vào lòng con
Mẹ ơi tình mẹ vẫn còn
Dù bao năm tháng trăng tròn vẫn quay.

Biện Công Danh
Tháng 6 / 2011.

Ngày Lễ Mẹ


Ngoài kia ánh nắng vừa đi vắng
Đêm đến nhẹ nhàng như tối qua
Nghe gió rì rào bao nhắc nhở
Những ngày xưa cũ đẹp như hoa

Bên tách trà khuya còn bốc khói
Mùi thơm nhè nhẹ thoáng đam mê
Nơi đây xứ lạ lòng mong mỏi
Đất Mẹ xa xôi lạc bước về

Từng buổi Xuân về bao khắc khoải
Mấy lần lỡ hẹn viếng Quê Hương
Mẹ ơi ! Năm tháng hoài xa mãi
Lần lữa xuân tàn, ôi nhớ thương

Giờ đây nắn nót vần thơ nhỏ
Xin gởi về quê những vận son
Mong có một ngày hạnh phúc đó
Gia đình sum họp, giấc mơ tròn ...

** Viết cho ngày lễ Mẹ, và chúc đến những ai còn Mẹ hay xa vắng Mẹ được hưởng ngày Lễ MẸ thật là đầm ấm, thân thương.

Hoàng Dũng

Buồn Thiu


Nhịp võng đong đưa giấc ngủ trưa
Ầu ơ mẹ hát khúc giao mùa
Cho con khôn lớn theo ngày tháng
Chợt nhớ mẹ hiền – mơ dáng xưa.

Tôi ngồi nhìn lại nhũng hàng cây
Bờ sông, con rạch nước dâng đầy
Trên cao những cánh diều đi lại
Mặc gió tung hoàng thổi lắt lay.

Tôi nhìn tóc mẹ phủ khăn choàng
Quần vo áo vận mẹ lang thang
Bán từng quả khế, chanh, cóc, ổi
Quang gánh đầu thôn đến cuối làng.

Gần nhà cô bạn thích me keo
Dù gai chơm chỡm cũng ráng trèo
Chùm me chín mộng màu đo đỏ
Em chép miệng cười – tôi ngó theo.

Có lúc em khen nhánh phượng hồng
Tôi leo bị té xuống dòng sông
May sao con nước rong vừa lớn
Nâng đở thằng cu sớm bốc đồng.

Những buổi âm u đến sân chùa
Trầm tư cô tịch nắng lưa thưa
Mẹ đi buôn bán em đi học
Lặng lẽ tôi ngồi đếm giọt mưa.

Bây giờ tóc đã úa màu tiêu
Mẹ đã đi xa một buổi chiều
Em bỏ làng quê đi mất biệt
Còn tôi thơ thẩn mặt buồn thiu.

Dương Hồng Thủy
( Ngày của Mẹ 11/05/2014)