tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014
Ngập Ngừng
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân.
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ: gớm, làm sao nhớ thế !
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé.
Em tôi ơi, Tình có nghĩa gì đâu,
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu ?
Thuở ân ái mong manh như nắng lụa,
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi,
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi !
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách -- cố nhiên -- nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
Hồ Dzếnh
(Suối Dâu sưu tầm)
Cõi Nhân Luân
(Ảnh chụp của tác giả)
Đến mà không hẹn
Đi chẳng tạ từ
Lục bình theo sóng nước
Hoa tím ngát lênh đênh
Thân người như dương diễm *
Nương khát vọng thọ sanh *
Gió thu phân khẽ lay mành
Trăng ngàn năm trước qua cành vô tâm
Sáng soi rõ bóng hôn trầm
Dáng xưa hiu hắt bên đầm nước trong
Trương Văn Phú
* Tụng ngôn trong kinh A Hàm
Vị Tình
Ngọt ngào thuở mới yêu nhau
Thơm ngon giọt mật xuyến xao tình đầu
Mặn mà ân ái không lâu
Chua ngoa toan tính cạn sâu lòng người
Gừng cay muối mặn mùi đời
Vị tình ai chẳng béo bùi trải qua
Lắm người sợ nếm tránh xa
Kẻ cay thè lưỡi thử năm ba lần
Hít hà chua chát ươn thân
Xót tình the đắng duyên phần chẳng may
Cơm tình đong đếm lỡ tay
Bỏ nhiều gia vị ớt cay tiêu nồng
Khuyên ai lỡ nếm lấy chồng
Nêm ngày dịu ngọt nêm nồng nàn đêm
Phủ Hiền
Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014
Từ Thân Cát Bụi
“Em từ lục bát bước ra”
Reo theo tiếng gió sắc hoa u buồn
Chim rừng quên lá vàng buông
Nơi miền quá khứ nghe tuồng thu rơi..
Nửa khuya nức nở chơi vơi
Đêm thanh tịnh, nhánh sông khơi dậy lòng
Thu về xác lá mênh mông
Qua cơn thao thức miền không về mình..
Cõi người, sa mạc vô minh
Từ thân cát bụi tự mình biến thân
Buồn tênh giữa kiếp dương trần
Thắp giùm ngọn đuốc, tự lần mà đi..
Tấm thân tứ đại nghĩa gì
Vô thường một đóa.. sá chi phận người!..
VA, mùng 1 th.7, Quý Tỵ (Aug.7- 13)
Nguyễn Hậu Bùi Thanh Tiên
Rượu
Trong cái ăn, cái uống của người Việt thì uống ít được nhắc nhiều. Thức uống của mình xưa chỉ có rượu và trà. Dầu vậy rượu-trà (chè) dẫn đầu trong tứ đổ tường: Rượu-chè, cờ-bạc, trai-gái, hút-sách.
Từ vua quan đến thứ dân, từ thành thị đến thôn quê, rượu luôn luôn được đón nhận, đề cao như là một lối ăn chơi phong nhã, nhàn tản, điệu nghệ và phóng đãng!
- Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
- Còn trời, còn nước, còn non,
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Uống rượu là thú vui, là lối ăn chơi xưa nay chỉ dành cho đấng nam nhi, mà cả quý bà, quý cô dầu không biết mùi rượu thế nào cũng tán đồng, vui vẻ và hãnh diện làm món ngon cho chồng uống rượu.
Đốt than nướng cá cho vàng,
Lấy tiến mua rượu cho chàng uống chơi.
Rượu ở xứ mình có cả lịch sử lâu đời lắm. Sách Lĩnh Nam Trích Quái ghi: "Dân ta lấy gạo làm rượu", còn sứ nhà Tống bên Tàu trong bài sớ nói về Lê Hoàn (người khai sáng nhà tiền Lê) có ghi rằng "Hoàn... vừa hát vừa mời rượu...
Rượu là thức uống làm bằng gạo nếp lên men, được tổ tiên ta chế biến từ thuở lập quốc, lưu truyền từ Bắc vào Nam.
Từ khi có mặt như là một thức uống, rượu đã đi vào văn hóa ăn uống của người mình, mang một cung cách, sắc thái vô cùng đặc biệt, ít có dân tộc nào sánh kịp.
Rượu khởi thủy là sản phẩm của dân gian, do sự ngẫu nhiên của đời sống nông nghiệp lúa nước. Ai đó dùng gạo nấu thành rượu, có màu trắng trong như nước và gọi tên là rượu trắng. Đem pha mùi hoa thực vật để chế biến thành ra rượu mùi, như rượu sen, rượu cúc, rượu cau (ở miền Bắc).
Ở miền Nam đa phần nấu ruợu bằng nếp, ngon hơn rượu gạo, độ nồng cao, mùi thơm, có hậu hơi ngọt gọi là rượu nếp. Dân nhậu quen gọi là rượu đế.
Hiện nay rượu đế Hóc Môn -Gò Đen -Gò Công danh tiếng là ngon, cao chữ.
Đến Gò Đen, vào các lò rượu nghe mấy ông lão kể chuyện thời Tây, họ cấm người mình nấu rượu Họ lập ra công ty độc quyền sản xuất và phân phối; lúc đó gọi là chế độ R.A (Régie Alcohol) mà người dân gọi là rượu Công Ty (Công Xi). Tây họ còn đếm đầu người dân trong làng để bắt đóng thuế tiêu thụ rượu công ty, ai nấu rượu lậu bị bắt bỏ tù, tịch thâu tài sản.
Rượu nếp muốn ngon phải lựa nếp. Danh tửu Gò Công được nấu bằng nếp hương hay nếp mở, tệ lắm cũng là nếp mù u.
Các lò rượu thường mua nếp vào đầu mùa, đem về quạt sạch, phơi khô, chứa trong bồ, để dành nấu suốt năm.
Nếp nấu rượu là nếp lức, chỉ xay bỏ vỏ trấu mà thôi, xay phải dùng cối xay tay, để giữ cho hột nếp không bể nát, không bị nóng. Trong nghề nấu rượu cho rằng nếp xay ở nhà máy sẽ cho rượu không thơm và sẽ làm mất rượu nữa.
Cơm nếp lức nấu chín hơi nhão một chút gọi là “cơm da”, trải trên vỉ tre cho nguội thì rắc men lên, cho vào hủ vào lu hay khạp, ủ độ ba đêm thì nếp lên men và phân hủy tinh bột.
Sau đó chan nước cho ngập đậy kín thêm ba đêm nữa thì cho vào nồi mà nấu.
Từ vua quan đến thứ dân, từ thành thị đến thôn quê, rượu luôn luôn được đón nhận, đề cao như là một lối ăn chơi phong nhã, nhàn tản, điệu nghệ và phóng đãng!
- Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
- Còn trời, còn nước, còn non,
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Uống rượu là thú vui, là lối ăn chơi xưa nay chỉ dành cho đấng nam nhi, mà cả quý bà, quý cô dầu không biết mùi rượu thế nào cũng tán đồng, vui vẻ và hãnh diện làm món ngon cho chồng uống rượu.
Đốt than nướng cá cho vàng,
Lấy tiến mua rượu cho chàng uống chơi.
Rượu ở xứ mình có cả lịch sử lâu đời lắm. Sách Lĩnh Nam Trích Quái ghi: "Dân ta lấy gạo làm rượu", còn sứ nhà Tống bên Tàu trong bài sớ nói về Lê Hoàn (người khai sáng nhà tiền Lê) có ghi rằng "Hoàn... vừa hát vừa mời rượu...
Rượu là thức uống làm bằng gạo nếp lên men, được tổ tiên ta chế biến từ thuở lập quốc, lưu truyền từ Bắc vào Nam.
Từ khi có mặt như là một thức uống, rượu đã đi vào văn hóa ăn uống của người mình, mang một cung cách, sắc thái vô cùng đặc biệt, ít có dân tộc nào sánh kịp.
Rượu khởi thủy là sản phẩm của dân gian, do sự ngẫu nhiên của đời sống nông nghiệp lúa nước. Ai đó dùng gạo nấu thành rượu, có màu trắng trong như nước và gọi tên là rượu trắng. Đem pha mùi hoa thực vật để chế biến thành ra rượu mùi, như rượu sen, rượu cúc, rượu cau (ở miền Bắc).
Ở miền Nam đa phần nấu ruợu bằng nếp, ngon hơn rượu gạo, độ nồng cao, mùi thơm, có hậu hơi ngọt gọi là rượu nếp. Dân nhậu quen gọi là rượu đế.
Hiện nay rượu đế Hóc Môn -Gò Đen -Gò Công danh tiếng là ngon, cao chữ.
Đến Gò Đen, vào các lò rượu nghe mấy ông lão kể chuyện thời Tây, họ cấm người mình nấu rượu Họ lập ra công ty độc quyền sản xuất và phân phối; lúc đó gọi là chế độ R.A (Régie Alcohol) mà người dân gọi là rượu Công Ty (Công Xi). Tây họ còn đếm đầu người dân trong làng để bắt đóng thuế tiêu thụ rượu công ty, ai nấu rượu lậu bị bắt bỏ tù, tịch thâu tài sản.
Rượu nếp muốn ngon phải lựa nếp. Danh tửu Gò Công được nấu bằng nếp hương hay nếp mở, tệ lắm cũng là nếp mù u.
Các lò rượu thường mua nếp vào đầu mùa, đem về quạt sạch, phơi khô, chứa trong bồ, để dành nấu suốt năm.
Nếp nấu rượu là nếp lức, chỉ xay bỏ vỏ trấu mà thôi, xay phải dùng cối xay tay, để giữ cho hột nếp không bể nát, không bị nóng. Trong nghề nấu rượu cho rằng nếp xay ở nhà máy sẽ cho rượu không thơm và sẽ làm mất rượu nữa.
Cơm nếp lức nấu chín hơi nhão một chút gọi là “cơm da”, trải trên vỉ tre cho nguội thì rắc men lên, cho vào hủ vào lu hay khạp, ủ độ ba đêm thì nếp lên men và phân hủy tinh bột.
Sau đó chan nước cho ngập đậy kín thêm ba đêm nữa thì cho vào nồi mà nấu.
Bí quyết của nghề nấu rượu là men, mỗi lò rượu cho người uống một hương vị riêng, làm cho bao nhiêu dân ghiền phải mềm môi, đảo điên, quen mùi, quen rượu, quen lò bỏ không được.
Người chủ lò chăm sóc, theo dõi nồi rượu với tâm cảm thích thú, nghệ thuật, theo từng giọt rượu rơi xuống miêng chai.
Rượu bọt là rượu ngon, uống vào chạy tới đâu, biết tới đó, cả người nóng rang, thật đã.
- Rượu hồng đào, trút nhào vô nhạo,
Kiếm nơi nào nhơn đạo hơn anh.
- Rượu ngon chẳng nệ, be sành,
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Xưa, ngoài Bắc đựng rượu bằng be, loại bình nhỏ bằng sành, còn trong Nam đựng rượu trong hu và dùng cái nhạo để rót rựơu ra ly để uống trông rất tao nhã. Người ta còn dùng cái tỉn để chứa rượu, có người dùng hủ loại nhỏ. Sau này nhà lò chứa rượu trong thùng nylon, hoặc chai lít.
Rượu ngon trong hủ trút ra,
Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em.
Phong cách uống rượu của người Việt từ trần tục đến lễ nghi, quan cách, mà người uống rượu cần phải biết.
Trước hết, rượu theo văn hóa phong tục người Việt là thuộc về lễ:
- Vô tửu bất thành lễ
Trong phép lễ nghi như cưới hỏi, cúng giỗ, rượu xếp trên cả trầu và cau.
Rượu mời luôn phải rót đầy để tỏ lòng quý khách. Người được mời phải uống cạn để tỏ lòng kính trọng gia chủ.
Ta hãy xem cách đối nhơn xử thế của tổ tiên mình ngày xưa.
Này nhé!
Ruợu tiễn đưa thì Nguyễn Du gọi là "chén quan hà"
Tiễn đưa một chén quan hà (Truyện Kiều)
Tế quân sĩ mình thì Tiền Quân Nguyễn Văn Thành gọi là “rượu đầu ghềnh”
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh,
Sẽ nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh.
Đặng Đức Siêu gọi rượu tế người chết là “chén Tân Khổ”.
Chén Tân Khổ nhắp ngon mùi chánh khí
(tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu)
Người chủ lò chăm sóc, theo dõi nồi rượu với tâm cảm thích thú, nghệ thuật, theo từng giọt rượu rơi xuống miêng chai.
Rượu bọt là rượu ngon, uống vào chạy tới đâu, biết tới đó, cả người nóng rang, thật đã.
- Rượu hồng đào, trút nhào vô nhạo,
Kiếm nơi nào nhơn đạo hơn anh.
- Rượu ngon chẳng nệ, be sành,
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Xưa, ngoài Bắc đựng rượu bằng be, loại bình nhỏ bằng sành, còn trong Nam đựng rượu trong hu và dùng cái nhạo để rót rựơu ra ly để uống trông rất tao nhã. Người ta còn dùng cái tỉn để chứa rượu, có người dùng hủ loại nhỏ. Sau này nhà lò chứa rượu trong thùng nylon, hoặc chai lít.
Rượu ngon trong hủ trút ra,
Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em.
Phong cách uống rượu của người Việt từ trần tục đến lễ nghi, quan cách, mà người uống rượu cần phải biết.
Trước hết, rượu theo văn hóa phong tục người Việt là thuộc về lễ:
- Vô tửu bất thành lễ
Trong phép lễ nghi như cưới hỏi, cúng giỗ, rượu xếp trên cả trầu và cau.
Rượu mời luôn phải rót đầy để tỏ lòng quý khách. Người được mời phải uống cạn để tỏ lòng kính trọng gia chủ.
Ta hãy xem cách đối nhơn xử thế của tổ tiên mình ngày xưa.
Này nhé!
Ruợu tiễn đưa thì Nguyễn Du gọi là "chén quan hà"
Tiễn đưa một chén quan hà (Truyện Kiều)
Tế quân sĩ mình thì Tiền Quân Nguyễn Văn Thành gọi là “rượu đầu ghềnh”
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh,
Sẽ nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh.
Đặng Đức Siêu gọi rượu tế người chết là “chén Tân Khổ”.
Chén Tân Khổ nhắp ngon mùi chánh khí
(tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu)
Ruợu trong đời sống lứa đôi, bằng hữu cũng đầy bi tráng, hào hùng, lãng mạn, nên thơ biết bao.
- Rượu lưu ly chân quỳ tay rót
Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh.
- Tửu phùng tri kỷ, thiên bối thiểu.
- Rượu ngon cái cặn cũng ngon,
Thương em chẳng luận chồng con mấy đời.
- Rượu lưu ly chân quỳ tay rót
Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh.
- Tửu phùng tri kỷ, thiên bối thiểu.
- Rượu ngon cái cặn cũng ngon,
Thương em chẳng luận chồng con mấy đời.
Xem ra, đến nay không có một lễ nghi nào của người Việt mà không có rượu. Rượu lể xứ mình là rượu trắng và nhớ là không ai dùng rượu thuốc để cúng.
Trong dân gian có một mảng lớn "văn hóa uống rượu" của người bình dân, lao động.
Uống rượu miệt quê gọi là nhậu. Nhậu chỉ lối uống rượu bình dân, ở vỉa hè, góc phố, quán bên đường.
Nhậu với đa số người mình là tìm cái vui bên bạn bè, để nói điều muốn nói, nghe những điều người khác nói.
Nơi bàn rượu, bữa nhậu, mạnh ai nấy nói như là một nhu cầu, thư giãn tâm hồn.
Rượu cúng là rượu trắng, trong khi rượu để nhậu thì thôi đủ cả, từ rượu trắng chế biến ra thành rượu thuốc tức là rượu đế ngâm thuốc Bắc. Mỗi quán, mỗi tiệm ngâm một loại thuốc khác nhau mà cũng chẳng thấy dân nhậu nào tìm hiểu các toa thuốc Bắc đó là gì.
Rượu thuốc tuy giá cao hơn rượu đế, nhưng không thành vấn đề, đó là chuyện lẻ tẻ đối với dân chơi.
Dân nhậu rất điệu, xài xộp và hảo ăn, rộng rãi miễn tìm thấy vui là được rồi.
Từ rượu ngâm thuốc người ta còn bày ra ngâm với trái cây như rượu sơ-ri, rượu nhào, rượu ngâm chuối; rồi ngâm rắn, cắc kè, hải mã... Cái gì cũng ngâm và cứ thế mà nhậu và cho là bổ, khỏe, không đau lưng.
Trong dân gian có một mảng lớn "văn hóa uống rượu" của người bình dân, lao động.
Uống rượu miệt quê gọi là nhậu. Nhậu chỉ lối uống rượu bình dân, ở vỉa hè, góc phố, quán bên đường.
Nhậu với đa số người mình là tìm cái vui bên bạn bè, để nói điều muốn nói, nghe những điều người khác nói.
Nơi bàn rượu, bữa nhậu, mạnh ai nấy nói như là một nhu cầu, thư giãn tâm hồn.
Rượu cúng là rượu trắng, trong khi rượu để nhậu thì thôi đủ cả, từ rượu trắng chế biến ra thành rượu thuốc tức là rượu đế ngâm thuốc Bắc. Mỗi quán, mỗi tiệm ngâm một loại thuốc khác nhau mà cũng chẳng thấy dân nhậu nào tìm hiểu các toa thuốc Bắc đó là gì.
Rượu thuốc tuy giá cao hơn rượu đế, nhưng không thành vấn đề, đó là chuyện lẻ tẻ đối với dân chơi.
Dân nhậu rất điệu, xài xộp và hảo ăn, rộng rãi miễn tìm thấy vui là được rồi.
Từ rượu ngâm thuốc người ta còn bày ra ngâm với trái cây như rượu sơ-ri, rượu nhào, rượu ngâm chuối; rồi ngâm rắn, cắc kè, hải mã... Cái gì cũng ngâm và cứ thế mà nhậu và cho là bổ, khỏe, không đau lưng.
Ngày nay ở quê nhà có nhiều loại rựơu để nhậu, nào là bia, rượu Tây, rượu Mỹ... nhưng rượu đế, rượu thuốc vẫn còn được nhiều người ưa thích và gọi là "nước mắt quê hương".
Xưa trong thời chiến tranh, cái sống cái chết đến với bao thế hê thanh niên miền Nam bất cứ lúc nào, gặp nhau hôm nay rồi ngày mai không còn gặp lại !
Chính sự thể đó đã đưa thanh niên đến với quán nhậu, tìm đến rượu đế, rượu thuốc nhiều hơn.
Ruợu vào lời ra, kể chuyện người yêu, chuyện mẹ già, chuyện tình đời và chuyện chiến tranh. Bao chàng trai trẻ mềm môi, chảy nước mắt bên ly rượu. Không biết khóc vì rượu hay vì thân phận của mình hay vì cả hai?
Rượu đế gọi là nước mắt quê hương có từ đó, và được lưu truyền cho tới nay.
Chia nhau ly rượu gọi là nước mắt quê hương, kẻ rót người uống, liếm môi, khề khà, nhăn mặt, nài ép "trăm phần trăm" là cung cách uống rượu dân giã quê mình.
"Dô-dô" cạn ly đầy, rồi rót đầy ly cạn.
Uống hết đánh đòn, uống còn mất vợ.
Nay người Hà Nội cũng bắt chước cách nhậu của miền Nam, thích nhậu hè phố và nhứt là cách uống “trăm phần trăm”
Đúng là "tửu nhập tâm như hổ nhập lâm"
Cung cách uống rượu dân dã xưa nay là thế, và nay ra tận hải ngoại chúng ta còn mang theo cung cách uống "nước mắt quê hương" dầu bên lon Bud, hay chai Remy đắc tiến.
Nhưng muốn thực sự tìm hương vị rượu đế, nước mắt quê hương, không gì bằng tìm về quê hương danh tửu Gò Đen, Bà Điểm, Gò Công và phải nhớ tìm đến tận lò rượu đế làm một chầu thì mới hiểu thế nào là "nước mắt quê hương".
Xưa trong thời chiến tranh, cái sống cái chết đến với bao thế hê thanh niên miền Nam bất cứ lúc nào, gặp nhau hôm nay rồi ngày mai không còn gặp lại !
Chính sự thể đó đã đưa thanh niên đến với quán nhậu, tìm đến rượu đế, rượu thuốc nhiều hơn.
Ruợu vào lời ra, kể chuyện người yêu, chuyện mẹ già, chuyện tình đời và chuyện chiến tranh. Bao chàng trai trẻ mềm môi, chảy nước mắt bên ly rượu. Không biết khóc vì rượu hay vì thân phận của mình hay vì cả hai?
Rượu đế gọi là nước mắt quê hương có từ đó, và được lưu truyền cho tới nay.
Chia nhau ly rượu gọi là nước mắt quê hương, kẻ rót người uống, liếm môi, khề khà, nhăn mặt, nài ép "trăm phần trăm" là cung cách uống rượu dân giã quê mình.
"Dô-dô" cạn ly đầy, rồi rót đầy ly cạn.
Uống hết đánh đòn, uống còn mất vợ.
Nay người Hà Nội cũng bắt chước cách nhậu của miền Nam, thích nhậu hè phố và nhứt là cách uống “trăm phần trăm”
Đúng là "tửu nhập tâm như hổ nhập lâm"
Cung cách uống rượu dân dã xưa nay là thế, và nay ra tận hải ngoại chúng ta còn mang theo cung cách uống "nước mắt quê hương" dầu bên lon Bud, hay chai Remy đắc tiến.
Nhưng muốn thực sự tìm hương vị rượu đế, nước mắt quê hương, không gì bằng tìm về quê hương danh tửu Gò Đen, Bà Điểm, Gò Công và phải nhớ tìm đến tận lò rượu đế làm một chầu thì mới hiểu thế nào là "nước mắt quê hương".
Nam Sơn Trần Văn Chi
Nỗi Nhớ Không Phai
Chiều mùa đông “mặt trời đi ngủ sớm”
Cảnh vật đìu hiu khi nắng chết rồi
Ngoài song cửa sương đêm vừa mới chớm
Trong tâm tư hoài niệm chợt lên ngôi.
Ngày tháng trôi không xóa mờ hình bóng
Sự chia phôi càng nung nấu tình thương
“Nhỏ” ngày xưa vẫn ngự trong tâm tưởng
Tình yêu em càng bền tợ kim cương.
Nhớ mái tóc thề vương vương má thắm
Gió bình minh thơm hơi thở của ai
Sau “Nhỏ” : hàn sinh si tình say ngắm
Hồn buâng khuâng mơ mộng chuyện ngày mai.
Chuyện tuổi ô mai của thời con gái
“Nghề làm cái đuôi” của thuở con trai
Khắc khảm vào tim từng giây lãng mạn
Tình yêu học trò nỗi nhớ không phai.
Anh Tú
12. 12.2011
Bên Dòng Sông Kỷ Niệm
Tuổi ô mai của một thời con gái
Tình đầu đời tha thiết với hàn sinh
Thuở con trai, anh là kẻ si tình
“Làm cái đuôi” khổ năm dài ngày tháng!
Tình ta xưa ngỡ không là tình thoáng
Phút luyến thương trang lứa tuổi học trò
Ngày bâng khuâng đêm gối mộng dệt mơ
Nào dám nghĩ đến chuyện tình ngang trái
Em còn nhớ trên dòng sông êm chảy
Mình hẹn hò nơi bến vắng sớm, trưa
Đôi lần ta trên những chuyến đò thưa
Rẽ con nước viếng thăm vườn cây trái
Trước nhà ai có một giàn hoa giấy
Ngày đến trường len lén hái tặng em
Anh nâng niu từng lá mỏng cánh mềm
Hoa tim tím thế hồng nhung đỏ thắm
Anh hàn sinh nhưng chân tình say đắm
Em đáp tình ... sâu đậm mến yêu người
Ngày tháng qua tim chưa chút phai phôi
Nỗi nhớ nhung tâm tư thêm khắc khoải
Bến vắng xưa đôi lần ngang ghé lại
Tìm dư âm thuở hai đứa yêu đương
Bến còn đây … đò thiếu bóng người thương
Còn lại “Nhỏ” bên dòng sông kỷ niệm!
Yên Dạ Thảo
19.12.2011
Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014
Tiếng Đàn Trong Đêm
Ngón tay hôn nhẹ phím ngà
Thanh âm quyện ánh trăng tà bay cao
Buồn vương thân dáng xanh xao
Gởi mây gởi gió bóng sầu thiên thu
Đường xưa mãi mộng phiêu du
Gót chân lãng tử mịt mù trùng khơi
Người đi người ở xa rời
Đại dương ngăn cách bời bời nhớ thương
Một bên sống kiếp tha hương
Một bên ở lại trăm đường đắng cay
Ngang trời một áng mây bay
Gió đưa trôi mãi trôi hoài về đâu
Phím đàn run rảy cung sầu
Tiếng tơ ai oán tình sâu ngút ngàn
Làm sao thu nhỏ không gian
Cho đàn nức nở âm vang về nguồn
Hoà tan giòng lệ đang tuôn
Để hai thành một tâm hồn đan nhau
Ước mơ mộng đẹp mai sau
Người xưa tái ngộ bên cầu sông Tương.
Chinhnguyen/H.N.T. Dec 2013
* Hình phụ bản do chính tác giả gửi
Đừng Làm Mùa Hạ
Dường như hạ không
về thăm phố nhỏ
Bỏ con đường, xơ xác
cỏ u du
Dấu chân xưa còn mọc
những định từ
Mà sỏi đá thở dài
theo mỗi bước
Phượng vẫn say màu
môi hồng năm trước
Cánh cỗng trường
ai khép lối đi riêng
Tà áo ai trong nắng
bạc dịu hiền
Chiếc nón lá che
đời hay giấu mặt
Ta vẫn nghe chút gì
trong bóng mát
Mắt hải hồ chẳng rượu
mà ta say
Rồi tự giam trong
mộng thức lưu đày
Ngàn dấu hỏi như
khoanh tròng xích sắt
Trở về đây tựa lưng
tường vôi bạc
Nghe muôn trùng ký
ức chảy vào da
Nghe tên em như Hạ
đỗ chan hoà
Khoanh tay xiết bóng
hiên dài năm tháng
Dường như Hạ không
về nên phố vắng
Lâu lắm rồi mực nắng
vết màu xanh
Ngòi lá tre ta
viết một góc bàn
Ai thay đổi thay vào
mùi mực mới
Nắng mưa quen mà
như xa vời vợi
Hay cuộc đời quen
thói đổi họ tên
Mái trường im che
mãi những muộn phiền
Rong rêu phủ hay lấp
ngàn tiếng khóc
Thôi ta đi, vẫy
tay chào não nuột
Góc cuộc đời, góc
Hạ bỏ nơi đây
Nắng mai sau đừng
chiếu lại tháng ngày
Đừng đem Hạ làm mùa
chân phiêu lãng
Hoài Tử
081707
Nỗi Nhớ Cơn Mưa Sài Gòn
Gởi lời chào cơn mưa Sàigòn
Qua kẽ tay hạt lên đầy nỗi nhớ
Mưa chưa ướt hết chiều dài phố nhỏ
Ướt lòng người nầy đứng đợi người kia
Từ lúc nào mưa nhả những lời thơ
Những con chữ chạy theo mưa ướt đẫm
Gió ghé qua tim ai chừng lóng ngóng
Cho Sàigòn nhỏ giọt khúc pha lê
Giá như đèn không sáng bên kia
Chắc gì ai biết ai còn đứng đợi
Chảy vào lòng ai hạt mưa nóng hổi
Lạnh lẽo bên ngoài, ấm lại bên trong!
Hỏi thăm Sàigòn,
Thơ còn ướt hay không?
Vĩnh Trinh
Thương Cảm
Nắng tháng Tư ừ hoa phượng đỏ
Đong đưa cành mở ngõ bâng khuâng
Chân trời xa lững lờ mây trắng
Ửng sắc màu hoa nắng rưng rưng
Lời mộng đầu tràn dâng bút mực
Ghi thành dòng nhật ký ngu ngơ
Đôi dăm câu tỏ thư chờ đợi
Lòng Phượng ơi! Hoa rộn hạ về
Mờ lệ nhớ ai xui bối rối
Tim học trò thôi hết vô tư
Đời cuồng nộ chẳng tròn như ý
Cay nghiệt lần tan biến ước mơ
Nắng tháng Tư vuông thơ phượng đỏ
Từ Ba Mươi đó sắc phân ly
Cánh thiên di lạc đàn tìm lối
Phượng máu người hoa rụng tả tơi
Thời mực tím vun lòng kỷ niệm
Khúc nồng nàn đứt đoạn trường ca
Phượng mơ phượng nhớ lời thương hận
Ray rức buồn mỗi nắng tháng Tư
Kim Phượng
Một Thoáng Vĩnh Long 1992
Chợ Vĩnh Long
Lu nước sau nhà
Đình Tân Ngãi
Nguồn sử xanh
Âm thầm vẫn sống
Bến Bắc Mỹ Thuận
Bán hàng ở bến Bắc
Bến đò An Thành
Chuyện Hợp Tan
Gặp giây lát rồi xa nhau vạn dặm
Vầng trăng nghiêng sẽ khuất dấu bên trời
Vầng trăng nghiêng sẽ khuất dấu bên trời
Gặp một lúc rồi xa
Nỗi buồn dài vời vợi
Đã hết rồi những tháng ngày mong đợi
Đã qua rồi những xao xuyến, băn khoăn
Em về rồi, anh ở lại nhìn quanh
Nỗi trống vắng ngập tràn lên chăn gối
Anh thương em quá đỗiNỗi buồn dài vời vợi
Đã hết rồi những tháng ngày mong đợi
Đã qua rồi những xao xuyến, băn khoăn
Em về rồi, anh ở lại nhìn quanh
Nỗi trống vắng ngập tràn lên chăn gối
Khi quay mặt, rời tay
Giấu đôi mắt đỏ hoe sau suối tóc dài
Bước vội vã cố đẩy lùi lưu luyến
Nhìn dáng em cuối hành lang lạnh vắng
Anh bồi hồi “thế là đã chia xa”
Tựa cửa sổ nhìn ra
Một vườn xuân xanh biếc
Nhìn hoa cỏ xanh tươi càng nuối tiếc
Đã không cùng em dạo bước chung đôi
Không đông tây mà mỗi đứa mỗi nơi
Trong tầm với nhưng muôn trùng ngăn cách
Mong em đừng hờn trách
Trái ngang rụng xuống đời
Tình chúng mình như đợt sóng trùng khơi
Dẫu xao động cũng chỉ đùa nắng gió
Dẫu nói nhau nghe những lời gắn bó
Rồi chia tay, mỗi đứa một phương về
Chiều qua dài lê thê
Đắm chìm trong quạnh vắng
Đời thản nhiên như gừng cay muối mặn
Chỉ riêng mình thắt thỏm một niềm đau
Đêm lạnh dài hơn cùng khối tình sầu
Và nỗi nhớ tràn lên vầng trăng khuyết
Đầu tháng 4/2014
Yên Sơn
Héo Hắt
Ta chợt nghe từng cơn sầu trổi dậy,
Đưa ta về vùng quạnh quẻ, hoang vu.
Gió cuối mùa, gió đổi sang Thu,
Ta hấp hối trong dòng đời mưa lũ...
Gió cuồng ngạo cuốn phăng hồn lữ thứ,
Ta bập bềnh trong nỗi nhớ đong đưa.
Hạnh phúc nào ta nắm trọn hay chưa,
Nay bỗng chốc chợt tan thành mây khói.
Hồn lịm ngất theo cơn đau nhức nhối,
Mất người rồi, ta mất cả tương lai.
Mất người rồi, ta mất cả ngày mai.
Ta còn lại một vùng trời ảm đạm,
Ta còn lại những hoàng hôn u ám.
Điếu thuốc tàn, đếm từng tuổi già nua,
Điếu thuốc tàn, ôn lại chuyện xa xưa,
Đời đơn độc, không ai cùng chia xẻ.
Đời đơn độc, ngày từng ngày lặng lẽ,
Ta bước dần về cõi chết hư không.
Ta lấy gì để nhớ, để chờ mong,
Ôi, những tháng, những năm dài lạnh lẻo...
Trời cay nghiệt cách ngăn người đôi nẽo
Nên chẳng hờn hay oán trách người đâu.
Đường người đi rực rỡ ánh muôn màu,
Ngàn hạnh phúc đang đón chờ người đó!
Ta trở lại con đường xưa mưa gió,
Lủi thủi đi tìm hình bóng cố nhân...
Garden City, Kansas 1994
Mặc Thái Thủy
Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014
Huỳnh Hữu Đức - CHSTống Phước Hiệp (62-69), CGS Sư Phạm Khoá 8 (69-71)
Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Long NK 1962 - 1969 . Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Vĩnh Long Khoá 8 - NK 1969 - 1971.
Ảnh năm Đệ Thất (Lớp 6 bây giờ). Niên Học 1962 - 1963
Ảnh năm Đệ Ngũ (Lớp 8 bây giờ). Niên Học 1964 - 1965.
Ảnh năm Đệ Tam ( Lớp 10 bây giờ ). Niên học 1966 - 1967
Ảnh năm Nhất Niên trường Sư Phạm Vĩnh Long. Năm Học 1969 - 1970
Từ trái sang phải: Lượm, Ngỡi, Đức,Việt.
Tham dự lễ Phát Thưởng trường Tiểu Học Cộng Đồng Thới Hoà năm học 1971 -1972
Ảnh chụp tại trường Trung Học Công Lập Thới Bình năm 1972
Chuẩn bị Liên hoan cuối năm, năm học 1971 - 1972 trường Trung Học Công Lập Thới Bình
Huỳnh Hữu Đức
Tình Muộn
Đời
nhiệt ngã dã quỳ kia vẫn nở
Vẫn còn
đây một lối đón em về
Vòng
tay ấm chở che bao run sợ
Giông
tố lùi dần nhường chỗ đam mê
Cuối
con đường ta tình cờ hạnh ngộ
Hai tâm
hồn rêu phủ đã xanh xao
Chợt ấm
lại cho tình yêu hé mở
Dịu mát
đời trăng rọi sáng vần thơ
Và anh
nhé đêm không còn trăn trở
Vóc
trang đài dù đã úa nhạt phai
Bước
phong trần mệt nhoài bao nhịp thở
Vẫn tìm
nhau chung bóng giữa khuya dài
Ngày đã
hết hoàng hôn đời buông xuống
Mắt
nhìn nhau dâng nước mắt rưng rưng
Khúc tình
chiều quên bao ngày gió lộng
Gánh
nặng đời xin trao trả sau lưng
Những
muộn phiền thả theo cánh bèo trôi
Mây
giăng mắc gom ân tình đến muộn
Ừ anh
nhé trái tim thôi tù tội
Dấu
lặng buồn thôi hết những khoảng không
Trần Thị Dã Quỳ
Vĩnh Long Một Thời Gắn Bó - Phần 3
Vĩnh Long 1971
Trong Đại đội của mình có gia đình của Ông Hội đồng tỉnh , Ông HDT có 2 gái 1 trai, ông bà lúc nào cũng tỏ ra người cao sang? Mình được may mắn họ tốt với mình, có lẽ vì con trai của ông bà tên T. cùng trang lứa nên mới như vậy ? Hai cô con gái dễ thương. nhứt là cô út tên T.
1970 gia đình nào mà có xe gắn mày Honda là khá giả, họ đã tậu cho đứa con trai xe Honđa 67 đen thật đẹp, chiều nào mình cũng thấy cậu ta luôn trên phố, một số các cô gái nhìn cậu với anh mắt mến mộ..
Riêng mình, không hiểu số mệnh hay có duyên gì đó, lúc nào cũng có cơ hội để quen với mấy cô Nữ sinh Vĩnh Long nhất là nữ sinh trường Tống Phước Hiệp và Nguyễn Trường Tộ
Vào một buổi trưa đang đứng trước cổng trại thì thấy một cô Nữ sinh đi qua, ôi sao mà đẹp và kiêu sa lạ lùng (đa số nữ sinh ở đó).Có phải mình được cái phước đó? đi tìm hiểu là mình biết có đó tên là MH, học trường Tống Phước Hiệp.
Buổi chiều đang ngồi trên lan can cầu Cái Cá thì ..thấy T con của Ông HDT chở MH làm cho mình hỏi ngỡ ngàng, suy nghĩ lại cũng đúng. Đẹp trai, nhà giàu gặp gái đẹp cao sang là đúng, vì MH lúc đó là người con gái mình mến mộ và đang tìm cách để quen nhưng " vỡ mộng rồi .". Rồi cũng qua đi...
Bước chân mình lần hồi đã di chuyển đến bên kia Cầu Cái Cá, quán café cây me lúc nào cũng đông khách bình dân, rôm rả bàn tán sự đời, thỉnh thoảng mình cũng qua đó nhâm nhi café, diện quần áo đẹp ghé quán em Duyên bên đường nghe nhạc Miên Đức Thắng, em Duyên không đẹp nhưng em có cái răng khểnh, giọng nói như mật rót vào tai đó, cây si trồng cả đống, thằng bạn của mình cũng là một cây si ở đó, đi lần lên chút nữa, có tiệm giặt ủi của chú Chệt , lính mà sang, toàn là mặc đồi ủi hồ.
Nơi xóm Bún có tòa lâu đài cũ của Tây còn sót lại có nhiều gia đình ở trong đó, có anh hai may quần áo thiệt là đẹp và vừa ý mình lắm.
Thời gian đó có những có những điều vui và cũng có những việc làm mình ray rức trong lòng, xóm bún có một em bé tên T, bị tật bẫm sinh hôm đó không hiểu vì sao T lai qua đời ở trong cầu ngoài bờ sông Cái Cá,từ dạo đó mình không dám đi qua xóm bún vào ban đêm nữa vì lính cũng sợ Ma .
Ray rức là vì mấy hôm sau đó Đại đội đi xét tờ khai gia đình (ban đêm), trong nhà dân có một anh thanh niên không có giấy tờ tùy thân ở đang tuổi quân dịch, Ba má và anh thanh niên đó cũng khóc và năn nỉ Ông Trung si, xếp của mình thả cho họ, Ông TS vì công việc và an ninh nên đành phải giao anh thanh niên đó cho Tiểu khu, sau vụ đó,về đến đại đội trong lòng nặng trĩu và buồn, tại sao lúc đó mình không tha cho họ?
Nơi Cầu Cái Cá hai năm mà sao lại có quá nhiều kỷ niệm đẹp của thằng con trai 19 tuổi, nhiều chuyện tinh cảm lặng nhăng mà đa số đó mấy cô gái VL họ đã gây nhiều cảm tình cho mình mà không tiện viết ra đây (Lính mà em).
Ngày mình rời khỏi Saigon đi lính ở miền tây cũng có nhiều chị nuôi,bạn gái thổn thức, tháng nào cũng có mấy lá thư của chị em gái ở hậu phượng gởi cho mình.
Cuối năm 1971 lệnh của Liên đoàn là đại đội mình phải đổi xuống kho xăng cũ ở Cầu Lầu, cuộc đời và tình cảm của mình sẽ thay đổi từ đấy vì ở nơi đó sẽ có những cảnh vật và con người mới? Lại phải bắt đầu từ nơi đó.
Ngày nay mình suy nghĩ và ngẫm lại vì sao trường Tống Phước Hiệp lai có quá nhiều ngôi sao vậy? Nào là AH, N, KimL, MH, KO.. còn nhiều nữa và mình sẽ kể sau này vì những nhân vật này dù ít hay nhiều cũng có chút liên hệ và làm cho tình cảm mình giao đọng?!
Thái Lâm
Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014
Mừng Lễ Phục Sinh
Hân hoan mừng Chúa đã hồi sinh
Phép lạ bây giờ thấy hiển linh
Chịu chết nào hay người sống lại
Cứu đời thoát khỏi cảnh điêu linh
Mến Cha mến Chúa đạo làm con
Kinh thánh ngày thường đọc sớm hôm
Cầu nguyện Chúa Trời ban phước lộc
Tông đồ thế giới vẫn thường tôn
Thái Hanh
Nhớ Dòng Sông Quê Tôi
Từ khi rời mái trường làng
Là như xa chiếc đò ngang quê nghèo
Dòng sông nâng nhịp dầm;chèo
Đưa tôi đến lớp học theo bạn bè
Làm sao quên những ngày hè
Buộc thân cây chuối làm bè vượt sông
Lục bình giả vịt chạy đồng
Lặn sâu, rượt bắt lội sông tranh tài
Đua ghe thích thú mê say
Bơi xuồng cho cậu đi chài vui thêm
Dòng sông tựa cái võng mềm
Ôi ! sông kỷ niệm êm đềm tuổi thơ...
.....
Từ khi rời đất Cần Thơ
Là như xa bến sông mơ quê nhà
Nơi đây thành phố phồn hoa
Sông dài ít thấy, toàn là hồ bơi
Quê hương xa nửa bầu trời
Qua rồi cái thuở tuyệt vời mộng mơ
Tâm tư xin gởi vần thơ
Đi đâu vẫn nhớ Cần Thơ thật nhiều
Hừng đông dưới bến Ninh Kiều
Theo đò Sông Hậu thăm nhiều rạch; kinh
Sông Cái Cui đẹp thân tình
Ơi ! sông tuổi nhỏ quê mình nhớ thương...
Phượng Trắng
Canada, một ngày hè 7/2012
Anh Về Gom Lá Đem Phơi
(Từ Nhớ Dòng Sông Quê Tôi của Phượng Trắng)
Em xa mái lá trường làng
Đi lên Tỉnh học hàng bần quạnh hiu
Dưới sông dừa nước đăm chiêu
Trên bờ phượng cũng tiêu điều trổ hoa
Ngày nào anh hái hoa cà
Cài lên mái tóc kiêu sa - em cười
Những con nước lớn tháng Mười
Xuồng bơi anh rước sang chơi bên nầy
Hai ta liền luống ruộng cày
Nhưng nhà ngăn cách thành hai bến bờ
Tuổi ngây thơ – tình vu vơ
Bây giờ mới thấy bơ phờ nhớ em
Sông Cái Cui lúc chiều lên
Đàn chim lá rụng mông mênh trở về
Từng đêm đom đóm bốn bề
Chớp lên vầng sáng lê thê nỗi buồn
Bây giờ em ở ngàn phương
Xứ xa giàu đẹp phố phường đông vui
Anh về gom lá đem phơi
Để hong kỷ niệm nhớ người ngày xưa…
Dương Hồng Thủy
(18/03/2014)
Kỷ Niệm Cuối Tháng Tư
Kỷ niệm năm nào cuối tháng tư
Học hành chẳng thiếu cũng không dư
Mái trường giao lại người xa lạ
Khăn gói quay về chỗ ngất ngư
Bè bạn tan hàng đi mỗi nẻo
Người yêu trở gót viết dăm từ
Mấy mươi lửa hạ đầu sương điểm
Cuối nẻo đường trần chân lắc lư.
Cao Linh Tử
28/4/2014
Bất Chợt...!
Bất chợt chiều nay... lá vàng rơi xuống
Không đặc dày sao lắm nỗi buồn hơn
Chiếc còn lại cố bám cành nặng trĩu
Gió đong đưa sầu.. Thu hỡi đìu hiu
Bất chợt chiều nay... mưa rơi nhè nhẹ
Giọt không đầy sao lắm chuyện phiền vây
Ngồi bên hiên nhìn sợi nước vơi đầy
Mi mắt bỗng cay cay rơi giọt tủi...
Bất chợt chiều nay... một mình thui thủi
Gom lá vàng từng chiếc xếp hồn nhiên
Đan thành thảm lụa chôn kín niềm riêng
Tháng Tư Hạ! Sao ta mùa Thu chết!?
Kim Oanh
Lối Nắng Đường Mây
Sớm mai mở cửa chờ lượm báo
Mới hay nắng đợi ở hiên ngoài
Nắng vờn lên tóc, nắng choàng vai
Lung linh cỏ lá, lung linh áo
Đất trời chào nắng, con chim hót
Cất giọng hoài hương rất dịu êm
Nắng tìm ai lặng lẽ leo thềm
Ừ ! Ta đó bốn mươi năm trước !
Ta như nắng nối đời xuôi ngược
Thuở tung mây xé gíó lưng trời
Giờ tha phương gãy cánh trùng khơi
Gặp lại nhau tơi bời nỗi nhớ
Gởi theo nắng cuộc đời dĩ lỡ
Cánh bướm bay, hoa nở sân ngoài
Câu thơ tình, điệp khúc nồng say
Còn vọng lại thời xưa trăng gió
Ừ! Ta đó kiếp này ở trọ
Ngọn tình em chung thủy nghĩa nhân
Cõi tâm ta, bè bạn chí thân
Vui được sống Tự Do Nhân Bản
Trời ngọt lịm thơm mùi nắng sáng
Hoa cỏ tươi vũ điệu Xuân thì
Mây hồn nhiên, gió thoảng mê ly
Hồn lãng tử hẹn kỳ tình tự
Phạm Tương Như
Nov 27 12
Khó, Dễ Trong Đời
DỄ là nói chẳng nghĩ suy
KHÓ là cẩn trọng những gì nói ra.
DỄ làm đau đớn người ta
KHÓ sao hàn gắn bao là vết thương!
DỄ là biết được Vô thường
KHÓ, lòng cứ vẫn tơ vương cuộc trần,
DỄ là độ lượng bản thân
KHÓ sao dung thứ tha nhân lỗi lầm!
DỄ là vong phụ ân thâm
KHÓ, câu tình nghĩa ngàn năm dạ hoài..
DỄ là phạm những điều sai
KHÓ, tâm học hỏi những ai hơn mình,
DỄ cho kẻ khác niềm tin
KHÓ là luôn giữ chính mình thẳng ngay.
DỄ là nói những điều hay
KHÓ thay Sống tựa trình bày ngữ ngôn.
DỄ là suy tính thiệt, hơn..
KHÓ lùi một bước nhịn nhường lẫn nhau.
DỄ là sống vội, sống mau
KHÓ dừng chân lại thở sâu, biết là...
DỄ là hứa hẹn, ba hoa..
KHÓ, lời tín nghĩa thiệt thà một khi.
DỄ là gieo rắc thị phi
KHÓ là nội quán, tự tri lại mình .
DỄ là chiến thắng, quang vinh
KHÓ lòng khiêm hạ, thấy mình nhỏ nhoi.
DỄ xin địa chỉ mọi người
KHÓ mà tìm được chỗ ngồi trong tim.
DỂ biết nói, khó biết im
KHÓ cùng ánh sáng, dễ tìm bóng đêm.
DỄ vụng chân ngã xuống thềm
KHÓ vùng đứng dậy vượt lên chính mình
DỄ biết trời đất rộng thênh
KHÓ là biết được '' ngôi đền tự tâm ''
DỄ vui sáu nẻo thăng, trầm
KHÓ lần ngán ngẩm âm thầm hồi hương.
DỂ khi mất, cảm thấy buồn
KHÓ, trong hữu Phúc biết thương, giữ gìn.
DỄ là vun quén quanh mình
KHÓ, tình trải rộng ánh nhìn vị tha.
DỄ cho ngày tháng đi qua
KHÓ là tỉnh thức trong ta vài giờ..
DỄ Sinh, dễ Tử mơ hồ..
KHÓ khi đối diện nấm mồ Tuệ tri!..
DỄ là viết những lời thi
KHÓ rằng mơ ước đời ni vẹn toàn.
Thôi, chừ tìm cái bồ đoàn
Dễ là ngồi xuống, Khó hàng phục tâm.
Dầu sao cũng quyết một lần
Bằng không khó, dễ.. lần khân nối dài.
Thích Tánh Tuệ
( Võ Thị Kim Đính sưu tầm)
Kỷ niệm ngày Phật Đại Niết Bàn.
Bodhgaya- 3-2014
Tập Thơ:Tình Yêu Và Biển Nhớ,Tống Ngọc Nhan - Phần 1
Lời Giới Thiệu: Cựu Học Sinh Tống Ngọc Nhan
Tống Ngọc Nhan là cháu nội của Ông Tống Hữu Định, cựu nữ học sinh lớp 6/7, trường Tống Phước Hiệp, niên khóa 1973 -1974 Vĩnh Long, Việt Nam.
Từ khi còn đi học, Ngọc Nhan đã sưu tầm, chép lại những bài thơ xưa. Trong những tài liệu ấy, Ngọc Nhan đã lưu giữ một Tập Thơ:
- Tình Yêu Và Biển Nhớ của các cựu học sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Long chép tay.
- Do Nguyên Thảo xuất bản Trung Tuần Tháng Tư, năm 1971.
- Phụ bản : T.Đức
- Bià và trình bày : LTĐ
Tống Ngọc Nhan là cháu nội của Ông Tống Hữu Định, cựu nữ học sinh lớp 6/7, trường Tống Phước Hiệp, niên khóa 1973 -1974 Vĩnh Long, Việt Nam.
Từ khi còn đi học, Ngọc Nhan đã sưu tầm, chép lại những bài thơ xưa. Trong những tài liệu ấy, Ngọc Nhan đã lưu giữ một Tập Thơ:
- Tình Yêu Và Biển Nhớ của các cựu học sinh Tống Phước Hiệp Vĩnh Long chép tay.
- Do Nguyên Thảo xuất bản Trung Tuần Tháng Tư, năm 1971.
- Phụ bản : T.Đức
- Bià và trình bày : LTĐ
Quyển thơ nằm
trong tiệm bán ve chai được 20 năm, Ngọc Nhan mang về ấp ủ 20 năm
nữa.Thế là quyển thơ nay đã tròn 40 tuổi. Ngọc Nhan đã gìn giữ một gia
tài vô giá này trong suốt những năm qua.
Chị Kim Oanh thay mặt longhovinhlong.blogspot.com chân thành cảm ơn Ngọc Nhan đã lưu giữ những bài thơ hiếm quý từ xa xưa để lưu truyền mãi về sau, một gia tài quý báu mà Ngọc Nhan đã trân quý.
Thương mến
Chị Kim OanhChị Kim Oanh thay mặt longhovinhlong.blogspot.com chân thành cảm ơn Ngọc Nhan đã lưu giữ những bài thơ hiếm quý từ xa xưa để lưu truyền mãi về sau, một gia tài quý báu mà Ngọc Nhan đã trân quý.
Thương mến
A/Trang bìa
B/ Trang mở đầu1/ Trang 1
2/ Trang 2
3/ Trang 3
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)