Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Buổi Chiều Gặp Kim




Chuyến xe lửa muộn rời ga lớn
chiều dẩn mưa về trạm ốm o
em dẩn buồn tôi vàng mấy nến
câu thơ treo trên góc hẹn hò

Gặp Kim chiều đắm hồn sông rạch
mắt khói mơ màng ly tách tôi
café ngồi thở em vai nhỏ
chiều Melbourne hoa nhà em rơi

Em nói gì đi.tôi nhớ lắm
nhà ga mắt đỏ thức đêm dài
nhà em cây lá xôn xao đứng
khách lạ đường xa tóc đương phai

Em nói gì đi.ngày tháng tới
mùa hoa.thí dụ nở mau tàn
con đường.thí dụ em cô lữ
tôi có về làm nắng mùa sang

Em nói gì đi. ngày ngắn lắm
trời chia phận số ở tay người
nắm chặt là buông mà vẫn giữ
chuyện tình đi là ở rất xa xôi

Lâm Hảo Khôi
(Cuối tháng 3-2014
)

Khúc Nguyệt Sầu - Thơ Kim Oanh - Yên Sơn Diễn Ngâm



 Trăng khuất mây vạn dặm tình xa
Cây đời nghiêng ngã giữa phong ba
Đêm nay uống rượu đời phiêu lãng
Bóng với ta cạn áng trăng tà

Sương trắng phủ bóng ôm sầu lắng
Ru nhạc lòng canh vắng tình câm
Khơi vết hằn tim rên rỉ nhức
Tình trăm năm dù mãi xa xăm

Uống ánh trăng nhốt trọn bóng hình
Phương trời xa khuất một hồn linh
Trăng tha hương tình đêm nguyệt hận
Đời lăn quay trái đất chuyển mình

Gió giao mùa chiếc lá thu tơi
Xào xạc bay khuất nẻo rã rời
Than với trách vàng trời ảm đạm
Vai lạnh lùng sương lệ chẳng vơi

Nước mắt rơi cạn chén ngậm ngùi
Trăng bỏ đi người có gì vui
Bóng ngả say chân vùi lạc lối
Rượu cạn bầu sầu vẫn chưa nguôi

Melbourne 2/2010

Thơ: Kim Oanh
Diễn Ngâm: Yên Sơn

Chiều Mơ


Một thoáng anh về trong giấc mơ
Vòng tay say đắm mấy thu chờ
Năm ngón tay mừng qua kẻ ấm
Đôi lòng bay bổng giữa trời thơ

Vẫn thấy mắt em thật dịu dàng
Thuyền anh đắm đuối, bến đò ngang
Hãy giữ hồn em từng bước nhẹ
Ngập ngừng lá gió nhón thu sang

Em muốn anh là một cánh chim
Chiều thương tổ ấm nhớ đi tìm
Em muốn anh là hơi thở nhẹ
Cho từng giọt ấm chảy qua tim

Em muốn anh là áng mây hồng
Chiều tà chảy mát cả dòng sông
Gió vờn quanh quẩn trời xanh biếc
Bên nhau phơi phới hết chờ mong

Em muốn anh là gió ngoài khơi
Hối hả tìm nhau khắp biển đời
Nắng gầy in bóng, mình trên cát
Biển reo sóng hát chẳng mòn hơi

Ta đã gặp nhau đời huyển mộng
Vương vấn ngà say chút ráng hồng
Tóc gió vờn quanh mây lử thứ
Ngàn năm mây gió…chỉ hư không

Kim Quang


Về Lại Chốn Xưa


               ( Gởi Bảo Lộc)
Ta trở về thăm lại chốn xưa
Khung trời kỷ niệm quãng đời thơ
Mây giăng đỉnh núi sương mù sớm
Gió hú đồi thông ánh nắng trưa
Con dốc dã quỳ bên thác nước
Cánh rừng tre nứa dưới cơn mưa...
Vẫn còn tất cả như ngày ấy
Vì...chỉ là trong một giấc mơ!

Phương Hà


Câu Đối Của Kim Dung

     

      Hôm nay, tôi sẽ kể một giai thoại về câu đối trong tiểu thuyết võ hiệp của KIM DUNG để mọi người cùng đọc chơi tiêu khiển cuối tuần nhé ! Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều biết qua truyện " Anh Hùng Xạ Điêu ", tức " Xạ điêu anh hùng truyện " 射鵰英雄傳 của nhà văn Kim Dung, xem phim thì không có,nhưng nếu xem truyện, chúng ta sẽ đọc thấy.....
      .... Khi bị Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận đánh cho một thiết chưởng thừa sống thiếu chết, Hoàng Dung phải nhờ Quách Tĩnh cỏng đi tìm người trị thương. Được sự chỉ điểm của Thần Toán Tử Anh Cô, đi tìm Đoàn Nam Đế nhờ ngài dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho Hoàng Dung. Vì mỗi lần dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho ai, thì Đoàn Nam Đế phải mất hết công lực, sau 3 năm mới phục hồi lại được, cho nên các học trò của ngài là Ngư, Tiều, Canh và Độc có ý ngăn cản không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi. Từ chân núi đến đỉnh núi, Ngư Tiều Canh Độc 魚,樵,耕,讀 chia làm 4 trạm để cản trở, khó khăn lắm mới vượt qua được 3 trạm Ngư, Tiểu và Canh.... Bây giờ tới trạm cuối cùng của ông ĐỘC nhé !...

      Thấy Hoàng Dung giỏi văn thơ và đã lên tiếng chê trách là ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa của Thánh hiền, qua câu chuyện nghe ông Độc đọc một câu trong sách Luận ngữ là : " Mạc xuân dã, xuân phục ký thành, quan giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui...末春也,春服既成,冠者五六人,童子六七人,浴乎宜,風乎 宇于,咏而歸... Có nghĩa ; Vào cuối xuân, quần áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người lớn, sáu bảy trẻ nhỏ, tắm ở dòng sông Nghi, hứng gió ở đền Vũ Vu, rồi hát mà về....( tả cảnh sống thanh bình vui vẻ, tự do tự tại của dân chúng trong buổi đầu xuân )....mà hỏi ông rằng : " Ông đọc sách Thánh hiền, mà có biết Bảy Mươi Hai người thành đạt 七十二賢 ( thất thập nhị hiền ) trong số 3 ngàn học trò của Không Tử, là : Có bao nhiêu người già, bao nhiêu người trẻ không ? Ông Độc suy nghĩ mãi không ra , sách chỉ nói Thất thập nhị Hiền, chứ đâu có nói gì đến già trẻ đâu. Hoàng Dung mới cười ông , và đem câu Luận ngữ mà ông vừa đọc ở trên để giải thích như thế nầy : Quan giả là người đội mũ, là người lớn, ngũ lục nhân, năm sáu người, 5 lần 6 là 30 người. Đồng tử là con nít là người trẻ, luc thất nhân, sáu bảy người, 6 lần 7 là 42 người. 30 cộng với 42, chẳng phải 72 là gì ? Cho nên tôi nói ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa sâu xa ở bên trong là vậy đó ! " .Thấy Hoàng Dung mặc dù ngụy biện, lấy câu sách mình vừa đọc để mắng mình, nhưng cũng phải phục tài thông minh, cơ trí của cô ta, nên định thử xem con bé nầy giỏi tới đâu...

      Đầu tiên, ông ta đọc một bài thơ, cho Hoàng Dung đoán lý lịch của mình, bài thơ như sau :

Lục kinh uẩn tịch hung trung cửu, 六經蕴籍胸中久
Nhất kiếm thập niên ma tại thủ, 一剣十年磨在手
Hạnh hoa đầu thượng nhất chi hoành 杏花頭上一枝横
Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu 恐泄天機莫露口
Nhất điểm luy luy đại như đẩu 一点畾畾大如斗
Giảm khước bán sàng chung sở hữu 减却半牀终所有
Hoàn danh trực đãi quải quan quy 完名直待挂冠歸
Bản lai diện mục quân tri phủ ? 本来面目君知否 ?

      Bài thơ có nghĩa:
      Lục kinh là : Sáu bộ kinh sách đã nung nấu trong lòng từ lâu và trong tay mười năm nay đã luôn mài một lưỡi gươm. Trên đầu hạnh hoa có một cành ngang, sợ để lộ thiên cơ nên đừng mở miệng. Một chấm to lớn như là cái đấu, sẽ có được khi đã giảm nửa sàng. Công thành danh toại nên muốn cáo lão về quê, gốc gác mặt mũi của ta, bạn đã biết rồi chưa ?

     Hoàng Dung nghe xong, bèn lập lại hai câu đầu : Lục kinh đã thuộc nằm lòng, lại mười năm mài một lưỡi gươm, Quả là văn võ song toàn. Chữ lục 六 thêm chữ nhất 一 trong chữ nhât kiếm và chử thập 十 trong chữ thập niên, gộp lại thành chữ Tân 辛.Trên đầu chữ Hạnh 杏 thêm một gạch ngang , và ở phía dưới bỏ đi chữ khẩu ( mạc lộ khẩu 口) còn lại là chữ Mùi 未. Nhất điểm là một chấm ở trên chữ đại là chữ Khuyển 犬, giảm phân nữa chữ sàng 牀, tức là bỏ chữ mộc 木 đi, thêm chữ khuyển vào, sẽ thành chữ Trạng 狀. Cuối cùng, chữ hoàn danh, hoàn 完 mà quải quan là treo nón, bỏ cái nón ra, chữ Hoàn chỉ còn chữ Nguyên 元. Nhập kết quả của tám câu lại thành ra 4 chữ : Tân Mùi Trạng Nguyên, thì ra ông xuất thân là Trạng Nguyên đậu năm Tân Mùi, Xin kính chào Ngài Trạng Nguyên ạ !

    Ông Độc rất phục cái thông minh, tài trí của Hoàng Dung, nhưng ông vẫn phải làm khó, vì nếu để Đoàn Nam Đế trị thương cho Hoàng Dung thì ông ta phải chịu mất hết công lực trong 3 năm, mà trước mắt ông ta đang gặp phải cường địch. Vì vậy, Ông bắt Hoàng Dung phải đối thêm 2 câu đối nữa, nếu đối được mới cho vào. Câu thứ nhất, vế ra của Ông như sau :

Phong bãi tông lư, thiên thủ Phật dao triệp điệp phiến ,
風 摆 棕 梠 ,千 手 佛 摇 槢 叠 扇

      Có nghĩa : Gió đưa các nhánh cọ ( như cây thốt nốt xòe các nhánh như lá dừa ), giống như là ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt.

      Vế ra hay quá, lại rất tượng hình, muốn đối lại không khó, nhưng muốn đối cho hay thì....Chợt Hòang Dung nhìn thấy một cọng sen vương cao lên trong hồ, bèn xúc cảnh sinh tình mà đối ngay rằng :

Sương điêu hà diệp, độc cước quỷ đái tiêu dao cân.
霜 凋 荷 叶, 独 脚 鬼 戴 逍 遥 巾

      Có nghĩa :Sương thu làm héo úa lá sen, trông giống như con quỷ một giò đội khăn tiêu dao. 
Bấy giờ đã vào buổi tàn thu, sen trong đầm đà tàn tạ, một cọng sen vương cao lên, lá sen bên trên bị sương thu nên héo úa đen đúa rũ xuống , trông tựa như người đang đội khăn, ông Độc dang đội khăn Tiêu Dao, khăn của thư sinh ngày xưa, bây giờ bị Hòang Dung diễu là Con quỷ một giò đội khăn tiêu dao, để đối lại với Ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt. Đối khéo và hay quá, lại còn mắng mình là con quỷ một giò nữa chớ!. Nhưng vẫn không chịu thua, ông tiếp tục moi ra câu đối hóc búa mà ngày xưa thầy ông đã ra cho ông khi còn đi học, và mãi cho đến nay mặc dù đã đậu Trạng Nguyên mấy chục năm rồi ông vẫn chưa đối lại được. Câu đối như sau :

Cầm Sắt Tì Bà bát đại vương, nhất ban đầu diện ,
琴 瑟 琵 琶 八 大 王, 一 般 頭 面 

       Có nghĩa : Cầm sắt tì bà ( là 4 loại nhạc cụ ) , mỗi chữ trên đầu đều có 2 chữ VƯƠNG  王, nên gọi là bát đại vương, Nhất ban đầu diện là mặt mũi đều giống nhau, vì 2 chữ vương của mỗi chữ đều nằm ở trên đầu.

      Vế ra quả là hóc búa, trong một lúc muốn đối cho chỉnh không phải là dễ. Nhưng Hoàng Dung lại rất thông minh dĩnh ngộ, lại đúng ngay tình cảnh mình đang gặp trước mắt , nên nàng bèn cất tiếng đối ngay :

Si Mị Võng Lượng tứ tiểu quỷ, các tự đỗ tràng .
魑 魅 魍 魉 四 小 鬼, 各 自 肚 肠

      Có nghĩa : Si mị võng lượng là 4 loài tiểu quỷ ở trong núi, chuyên phá phách người đi đường, các tự đỗ tràng( trường ) là mỗi con bụng dạ đều khác nhau. Câu đối thật khéo, thật chỉnh, Cầm sắt tì bà đối với Si mị võng lượng, bát đại vương đối với Tứ tiểu quỷ, Nhất ban đầu diện đối với Các tự đỗ tràng vì phần trong của 4 chữ QUỶ là 4 bộ khác nhau. Câu đối còn hay ở chỗ, vừa đối chỉnh lại vừa mượn ý câu đối mà mắng 4 ông Ngư Tiều Canh Độc là " tứ tiểu quỷ " , mỗi người một bụng dạ khác nhau, như 4 con quỷ núi đều tìm cách ngăn chặn không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi......
      Đến nước nầy, Ông Độc cũng phải chịu Hoàng Dung là giỏi và để cho 2 người lên núi........

      Riêng tôi, thì tôi không biết là Hoàng Dung giỏi cở nào, nhưng KIM DUNG thì quả nhiên giỏi thiệt, chả trách mọi người đều mê đọc truyện của ông ta, già mê theo già, trẻ mê theo trẻ, trí thức mê theo trí thức, bình dân mê theo bình dân.....Quả thật là Ông Thần của tiểu thuyết Võ Hiệp Trung Hoa. Chả trách ở Trung Quốc có thành lập một tổ chức gọi là : Kim Dung Học, để chuyên nghiên cứu về 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung về tất cả các mặt tâm lý, tình cảm, triết học, lịch sử, đia lý....

Xin hẹn bài viết sau...

Đỗ Chiêu Đức.


Thơ Tranh: Biển Nhớ


Thơ: Thiên Thu
Thơ Tranh: Kim Oanh

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Ghen


Xin cơn gió ngưng lùa qua mái tóc
Ngưng mơn man áo trắng dịu dàng bay
Hãy để yên gót ngọc đẹp đường dài
Ngưng xóa vết chân nàng trên lối vắng
Đừng hong má nàng hồng thêm, cơn nắng
Đừng soi thêm cho môi thắm thêm tình
Để những người qua lại thấy em xinh
Ta ghen lắm. Nắng vàng ơi có biết?
Trong giấc mơ không để người thân thiết
Hay những người khách lạ chợt thoáng qua
Dù chợt thoáng qua, nếu chẳng phải là
Một hình ảnh trọn đời: Anh. Em nhé!
Yêu thương lắm, vẫn thường ghen tương lắm
Em tôi ơi! Hiểu được khối tình si?
Nụ hoa yêu tròn kiếp vẫn xuân thì


1962
Lê Kim Thành
 

Thơ Tranh: Trăng Huế Xưa


Thơ Và Thơ Tranh: Nam Chi


Tháng Tư


Gió lang thang thơ thẩn chốn giao mùa
Ve gióng giả khúc gọi mùa xưa cũ
Tháng tư về rồi, cây cành trĩu quả
Em chợt buồn nỗi sớm nắng, chiều mưa
Mãi khung đời thăm thẳm một quê xa
Hương cỏ dại cọ mài sâu nỗi nhớ
Chim sẻ đồng mái hiên tre lợp tổ
Cánh cò chao lơi lả đồng chiều
Tháng tư - tuổi thơ - dòng sông thân yêu
Phượng lấp ló đầu mùa nhen đỏ lửa
Chín lòng nhau tuổi học trò trang lứa
Thương vu vơ chật chội cả sân trường
Ta ru mình giấc hoài cỗ mờ sương
Tháng tư người ơi! Bằng lăng tím phố
Có chiều hôm oi nồng cơn mưa đổ
Và bâng khuâng trông bóng dáng ai về !..

Hương Ngọc

Đong Đầy Kỷ Niệm


Ta đón Thu về một thoáng say
Bao năm vương vấn cõi mê này
Thân thương kỷ niệm ngày xưa đó
Đếm lá Thu vàng nương gió bay


Anh vẫn đan hoài giấc mộng xa
Ươm trong nỗi nhớ những ngày qua
Quê hương vời vợi ngàn lưu luyến
Khắc khoải ru lòng bao thiết tha


Thu ghé về đây gợi nhớ mong
Heo may lãng đãng lạnh trong lòng
Nhớ EM áo trắng sân trường cũ
Chừ bóng thời gian mãi ruổi rong


Viết vần thơ nhỏ nhớ nhung ơi
Anh gởi về EM ướp những lời
Kỷ niệm vương buồn bao nhắc nhở
Ru đêm vơi lạnh với sao trời


Thu về rồi đó, mộng vu vơ
Nắn nót đôi dòng gói ghém mơ
Ươm những niềm vui còn sót lại
Chất đầy kỷ niệm một vần thơ


Hoàng Dũng 

Mùa Thu Tân Tây Lan









Biện Công Danh



Việt Nam Sử Lược : Thượng Cổ Thời Đại Chương III

CHƯƠNG III

XÃ-HỘI NƯỚC TÀU

VỀ ĐỜI TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ TẦN

1. Phong-kiến
2. Quan-chế
3. Pháp-chế
4. Binh-chế
5. Điền-chế
6. Học-hiệu
7. Học-thuật
8. Phong-tục

Khi Triệu Đà sang đánh An-dương-vương thì ở bên Tàu nhà Tần đã suy, nhà Hán sắp lên làm vua, nước Tàu đang vào lúc đại loạn, phong-tục, chính-trị đều đổi khác cả. Vả lại Triệu-Đà là người Tàu, làm quan nhà Tần, cho nên đến khi lấy được Âu-lạc, gồm cả các quận ở phương nam, lập làm một nước tự-chủ, bèn đem chính-trị, pháp-luật nước Tàu sang cai-trị đất Nam-việt[1]. Vậy trước khi nói đến chuyện nhà Triệu, ta nên xét-xem xã-hội nước Tàu lúc bấy giờ là thế nào.

1. PHONG-KIẾN. Nguyên về đời thái-cổ, nước Tàu chia ra từng địa-phương một. Mỗi một địa-phương thì có một người làm thủ-lĩnh, lập thành một nước, gọi là nước chư-hầu 諸 侯, phải triều cống nhà vua.

Số những nước chư hầu ấy thì mỗi đời một khác. Xem như khi vua Đại-vũ 大 禹 nhà Hạ 夏, hội các nước chư-hầu ở núi Đồ-sơn, kể có hàng vạn nước. Đến khi vua Vũ-vương nhà Chu 周 đi đánh Trụ-vương nhà Ân 殷 紂 王, thì các nước chư-hầu hội lại cả thảy được 800 nước.

Đánh xong nhà Ân, vua Vũ-vương 武 王 phong cho hơn 70 người làm vua chư-hầu, chia ra làm 5 bậc là: công, hầu, bá, tử, nam. Nước phong cho tước công, tước hầu thì rộng 100 dặm gọi là đại-quốc; nước phong cho người tước thì rộng 70 dặm, gọi là trung quốc; nước phong cho người tước tử, tước nam thì rộng 50 dặm, gọi là tiểu quốc. Những nước không đủ 50 dặm, thì gọi là nước phụ-dung 附 庸.

2. QUAN-CHẾ. Nhà Hạ đặt tam-công 三 公, cửu-khanh 九 卿, 27 đại-phu 大 夫, 81 nguyên-sĩ 元 士.

Nhà Ân đặt hai quan tướng 二 相, sáu quan thái 六 太 là: thái-tể, thái-tông, thái-tử, thái-chúc, thái-sĩ, thái-bốc; năm quan 五 官 là: tư-đồ, tư-mã, tư-không, tư-sĩ, tư-khấu; sáu phủ 六 府 là: tư-thể, tư-mộc, tư-thủy, tư-thảo, tư-khí, tư-hóa; sáu công 六 工 là: thổ-công, kim-công, thạch-công, thủy-công, thú-công và thảo-công.

Đến nhà Chu, ông Chu-công đặt ra sáu quan 六 官 gọi là: thiên-quan 天 官, địa-quan 地 官, xuân-quan 春 官, hạ-quan 夏 官, thu-quan 秋 官, đông-quan 冬 官. Mỗi một quan lại có 60 thuộc-quan, cộng cả lại là 360 người.

Người làm đầu thiên-quan 天 官, gọi là trủng-tể 冢 宰, thống cả việc chính-trị trong nước, việc thu-nạp cả năm và mọi việc ở trong cung. Người làm đầu địa-quan 地 官 gọi là đại-tư-đồ 大 司 徒 giữ việc nông, việc thương, việc giáo-dục và việc cảnh-sát. Người làm đầu xuân-quan 春 官 gọi là đại-tông-bá 大 宗 伯, giữ việc tế, tự, triều, sính, hội-đồng v.v... Người làm đầu hạ-quan 夏 官, gọi là đại-tư-mã 大 司 馬, giữ việc binh-mã và việc đi đánh-dẹp. Người làm đầu thu-quan 秋 官 gọi là đại-tư-khấu 大 司 寇, giữ việc dân, việc hình và việc kiện-tụng. Người làm đầu đông-quan 冬 官 gọi là đại-tư-không 大 司 空 giữ việc khuyến-công, khuyến nông và việc thổ-mộc v.v...

Trên lục-quan lại đặt tam-công 三 公, là: thái-sư 太 師, thái-phó 太 傅, thái-bảo 太 保; tam-cô 三 孤 là : thiếu-sư 少 師, thiếu-phó 少 傅, thiếu-bảo 少 保, để bàn xét việc trị nước yên dân, chứ không dự vào việc hành-chính.

3. PHÁP-CHẾ. Về đời thái-tổ thì có năm hình, ngoài năm hình lại có phép đánh bằng roi da và tội lưu. Đến đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu thì lại đặt phép chặt chân, gọt đầu và tội đồ. Đến cuối đời nhà Chu thì đặt ra tội bêu đầu, xé thây lăng-trì, mổ, muối v.v...

4. BINH-CHẾ. Binh-chế nhà Hạ và nhà Ân thì không rõ, đến đời nhà Chu thì đặt 5 người làm một ngũ 伍; 5 ngũ tức là 25 người thành một lượng 兩; 4 lượng tức là 100 người làm một tốt 卒; 5 tốt tức là 500 người làm một lữ 旅; 5 lữ tức là 2500 người làm một sư 師; 5 sư tức là 12500 người tức là một quân 軍.

Quân thì đặt quan mạnh-đan làm tướng, sư thì đặt quan trung đại-phu làm súy, lữ thì đặt quan hạ đại-phu làm súy, tốt thì đặt quan thượng-sĩ làm trưởng, lượng thì đặt quan trung-sĩ làm tư-mã.

Thiên-tử có 6 quân; còn những nước chư-hầu, nước nào lớn thì có 3 quân, nước vừa có 2 quân, nước nhỏ 1 quân.

Trong nước chia ra làm tỉnh 井, mỗi tỉnh 8 nhà, 4 tỉnh làm một ấp 邑, 32 nhà; 4 ấp làm một khâu 邱, 128 nhà; 4 khâu làm một điện 甸, 512 nhà. Cứ mỗi điện phải chịu một cỗ binh-xa, bốn con ngựa, 12 con bò, 3 người giáp-sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người để khiêng-tải những đồ nặng. Cả thảy là 100 người.

5. ĐIỀN-CHẾ. Về đời thái-cổ thì không biết cách chia ruộng đất ra làm sao. Từ đời nhà Hạ trở đi thì chia 50 mẫu làm một gian 間, 10 gian làm một tổ 組. Cứ 10 nhà cày một lô ruộng, hoa-lợi được bao nhiêu chia làm 10 phần, nhà-nước lấy một, gọi là phép cống 貢.

Nhà Ân và nhà Chu thì dùng phép tỉnh-điền, nghĩa là chia đất ra làm chín khu hình chữ tỉnh (井). Những khu ở chung quanh làm tư-điền, khu ở giữa để làm công-điền. Mỗi một tỉnh cho 8 nhà ở, đều phải xuất lực cày-cấy công điền rồi nộp hoa-lợi cho nhà vua.

Về đời nhà Ân thì mỗi tỉnh có 630 mẫu, mỗi nhà được 70 mẫu; phép đánh thuế gọi là phép trợ 助. Đến đời nhà Chu thì mỗi tỉnh có 900 mẫu, mỗi nhà 100 mẫu, phép đánh thuế gọi là phép triệt 徹.

Nhà Chu lại đặt ra lệ cứ 20 tuổi thì được 100 mẫu ruộng, đến 60 tuổi thì trả lại cho nhà nước. Nhà nào có con thứ nhì gọi là dư phu 餘 夫 đến 16 tuổi thì được lĩnh 25 mẫu ruộng.

Nhờ có phép chia ruộng như thế nên lúc bấy giờ không có người nào nghèo lắm mà cũng không có người giàu lắm. Về sau đến đời Chiến-quốc 戰 國, ngươi Lý Khôi 李 悝 làm tướng nước Ngụy 魏, bắt dân hết sức làm ruộng, không định hạn như trước nữa; ngươi Thương Ưởng 商 鞅 làm tướng nước Tần 秦, bỏ phép tỉnh-điền 井 田, mở thiên-mạch 阡 陌, cho mọi người được tự tiện làm ruộng. Phép chia đất từ đó mới mất dần dần đi.

6. HỌC-HIỆU. Nhà Hạ đặt nhà Đông-tự 東 序 làm đại-học, nhà Tây-tự 西 序 làm tiểu-học. Nhà Ân đặt là Hữu-học 右 學 làm đại-học, nhà Tả-học 左 學 làm tiểu-học. Những nhà đại-học, tiểu-học ấy, là chỗ để tập bắn, để nuôi những người già-cả và để tập văn nghệ.

Nhà Chu thì đặt Tích-ung 辟 雍 hoặc nhà Thành-quân 成 均 làm nhà đại-học, để cho con vua, con các quan và những người tuấn-tú tuyển ở các thôn-xã đến học; còn ở châu, ở đảng[2] thì đặt nhà tiểu-học gọi là Tự 序 và nhà Tường 庠 để cho con dân-gian vào học. Lại đặt lệ cứ từ 8 tuổi đến 14 tuổi làm niên-hạn cho tiểu-học, từ 15 đến 20 tuổi, làm niên-hạn cho đại-học. Đại-học thì dạy lễ, nhạc, thi, thư; tiểu-học thì dạy cách kính trên nhường dưới và cách ứng đối, v.v.

7. HỌC-THUẬT. Học-thuật ở nước Tàu về đời nhà Chu đã thịnh lắm, cho đến đời Xuân-thu 春 秋 có nhiều học-giả như là Lão-tử 老 子 bàn đạo; Khổng-tử 孔 子 bàn hiếu, đễ, nhân, nghĩa; Mặc Địch 墨 翟 bàn lễ kiêm-ái, nên chuộng sự tiết-kiệm bỏ âm-nhạc; Dương Chu 楊 朱 thì bàn lẽ vị-kỷ, nên tự-trọng thân mình và không chịu thiệt mình để lợi người.

Lại có những pháp-gia như Thân Bất-Hại 申 不 害, Hàn Phi 韓 非 bàn việc trị thiên-hạ thì chỉ nên dùng pháp-luật, chứ không nên dùng nhân-nghĩa. Còn những người như Quỉ Cốc 鬼 谷, Thi Giảo 尸 狡, Điền Biền 田 騈, v.v..., mỗi người đều xướng một học-thuyết để dạy người đương thời.

8. PHONG-TỤC. Nước Tàu lấy sự cày ruộng làm gốc, nhưng mà việc nuôi tằm, dệt lụa, việc họp chợ, việc buôn-bán cũng phát-đạt cả.

Dân trong nước chia ra làm 4 thứ: sĩ, nông, công, thương, nhưng mà con người làm quan lại làm quan, con người làm ruộng cứ làm ruộng, chứ con người làm ruộng không được làm quan. Tuy vậy, đến đời Xuân-thu những người thứ dân lên làm tướng văn tướng võ cũng nhiều.

Trong gia-đình thì già trẻ trên dưới phân-biệt nghiêm lắm. Con phải theo cha, vợ phải theo chồng, con-trai con-gái từ 7 tuổi trở đi, là không được ăn một mâm, nằm một chiếu nữa. Con trai 30 tuổi mới lấy vợ, gái 20 tuổi mới lấy chồng mà hai người cùng họ không được lấy nhau.

Nước Tàu về đời Tam-đại 三 代 cũng sùng sự tế-tự lắm. Thường cúng-tế thiên, địa, nhật, nguyệt, sơn, xuyên, lâm, trạch. Nhà vua lập đàn Nam-giao để tế Thượng-đế. Lại có nhà Xã-tắc để tế Thổ-thần và Hậu-tắc. Còn sự thờ-phụng tổ-tiên thì từ vua cho đến thứ-dân đều lấy làm một việc rất quan-trọng trong đời người.

Xem như thế, thì xã-hội nước Tàu về đời Tam-đại đã văn-minh lắm, nhưng sau đến cuối đời nhà Chu, vì nhà vua suy-nhược, cho nên chư-hầu, người xưng hầu, kẽ xưng vương rồi tranh nhau, đánh nhau như Ngũ Bá đời Xuân-thu, Thất-hùng đời Chiến-quốc, làm cho trăm họ lầm-than khổ-sở.

Sau nhà Tần thống-nhất được thiên-hạ, mới bỏ lệ phong-kiến, lập ra quận huyện; bỏ phép tỉnh-điền, lập thiên-mạch; cấm nho-học đốt sách-vở, việc chính-trị thì cốt dùng pháp-luật, để lấy quyền-lực mà áp-chế.

Đang khi phong-tục nước Tàu biến-cải như thế, thì Triệu Đà lập ra nước Nam-việt[3], đem văn-minh nước Tàu sang truyền-bá ở phương nam, cho nên từ đó về sau người nước mình đều nhiễm cái văn-minh ấy.

Viet Nam Su Luoc 1.djvu
   






Chú thích cuối trang


  1. Xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-Việt của nước Việt-nam hiện nay.
  2. Cứ 12 500 nhà một châu, và 500 nhà làm một đảng thì có nhà Tự, ở đảng thì có nhà Tường.
  3. Xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-Việt của nước Việt-nam hiện nay.
 Huỳnh Hữu Đức sưu tầm

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Đến Từ Cát Bụi Hay Vô Thủy


Đốt nén trầm hương, suối lệ tràn
Trách đời sao tạo cảnh ly tan
Chị từ cát bụi hay vô thủy
Hóa kiếp làm người, nợ thế gian?

Hơn nửa cuộc đời vai trĩu gánh
Trái ngang, toan khổ, chịu âm thầm
Đàn con thưở nhỏ, hồn trong trắng
Có hiểu gì đâu cảnh một thân

Mười bảy năm dài nào chị biết?
Mặc cho thế sự, mặc trầm thăng
Sống đời quên lảng không phiền não
Cái mặc, cái ăn cũng chẳng màng

Ôi xót xa! Dẫu tâm chị tịnh
Biết gì đâu khi hưởng thanh nhàn
Bên con hiếu hạnh chăm lo mẹ
Trọn đạo báo đền công dưỡng sanh

Lần cuối giữa thu sang viếng chị
Chạnh lòng, nhòa lệ cảnh thương tâm
Bao năm đột quỵ hành thân xác
Mệnh bạc hồng nhan quá bẽ bàng!

Chị từ cát bụi hay vô thủy?
Hóa kiếp làm người, nợ thế gian
Tạo duyên, kết oán, hay vay mượn
Trải kiếp trầm luân … xóa nợ trần.

Khúc Giang
23/11/2013  


Thơ Tranh: Huế Thương Yêu


Thơ: Kim Hương
Thơ Tranh: Kim Oanh

Cố Gắng Tạo Nụ Cười


Nhớ thuở hai chúng mình cùng đi dạo
Gió phân luồng bay tóc xỏa bên tôi
Chỉ một thoáng mà nghe hồn điên đảo
Em mĩm cười – tôi rạo rực bờ môi !..

Mắt em to - lọn tóc huyền buông thả
Da em mềm phơi phới một màu mây
Chưa chạm tay nên xem chừng xa lạ
Dù tình như... sông gợn sóng dâng đầy.

Quên sao được những ngày còn thơ dại
Em đi guốc vong mặc chiếc áo dài
Tôi có lúc diện đồ bà ba trắng
Bước chân chim dưới ánh nắng ban mai.

Bây giờ chúng mình xa nhau thăm thẳm
Nhớ chuyện ngày xưa tóc đã bạc rồi
Thôi giã biệt một thời yêu say đắm
Nếu gặp nhau cố gắng tạo nụ cười…

Dương Hồng Thủy


Cầu Vòng - Tỉnh Vĩnh Long


Rời cầu Tân Hữu đi về hướng Cần Thơ khoảng 30 m là ngã tư, rẽ trái đi về hướng cầu Vòng (đường đi Trà Vinh)

 Ảnh 2 và 3 : nhìn về hướng ngã tư bến xe(rẽ trái là đường đi về Cần Thơ)

Ảnh 4 và 5 : nhìn về hướng Trà Vinh ( ngã ba Chiều Tím)

Huỳnh Hữu Đức

Giấc Mơ Thu


Trăng xuống lững lờ một bóng thơ
Tình xưa anh mòn mỏi đợi chờ
Đêm thu hò hẹn người chưa đến
Anh vẫn tìm em trong giấc mơ

Rồi có khi nào em trở lại
Mang hương tình cũ mắt môi xưa
Cho anh vui nỗi buồn hạnh phúc
Bên lá thu vàng theo gió đưa

Em hỡi thu về trong tiếng mưa
Có nghe tình trở giấc mơ xưa
Hay chỉ mình anh trong cô quạnh
Đêm nghe tiếng lá rớt theo mùa...

Biện Công Danh
Autumn 2014

Trúc Mai



      Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả lúc nàng Kiều bán mình chuộc cha, đành lỗi ước với Kim Trọng, nàng than thở có câu:

Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. 

 Và, đoạn diễn tả cảnh của Kiều lúc sống đầm ấm với Thúc Sinh: 

Một nhà xum họp trúc mai, 
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.

      "Trúc mai" là cây trúc và cây bương. 
      Trúc thuộc một loại tre nhỏ. Bương là một giống tre to ở rừng. Lá to có thể dùng gói bánh. Thân to dùng làm cột nhà. Cây bương già có hoa, gần giống bông lau nhưng dài hơn, người ta gọi là bông mai, thường bó làm chổi, gọi là chổi bông mai. Mai này không phải cây mơ, nở hoa trắng về mùa xuân.
      Măng bương to và mập, người ta gọi là măng mai. Trong ca dao "Lính thú ngày xưa" có câu: 
Miệng ăn măng trúc măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng.

       "Trúc mai" ở đây chỉ người bạn tình chung thủy. Vì trúc và mai là giống cây có đốt thẳng lóng ngay (tiết thẳng); và suốt đời không thay đổi đốt, lóng ấỵ Người ta mượn "trúc mai" để chỉ người bạn suốt đời giữ được trọn tiết (tiết nghĩa đen là đốt, như đốt trúc), không thay lòng đổi dạ, không nghĩ quanh co (tre bao giờ cũng thẳng) tức là người giữ trọn được lời thề. 
      Hai người thề bồi với nhau, người này không giữ được lời thề, tức là mang nợ (lời thề) với người kia. 
      Và, theo thuyết luân hồi của đạo Phật: người mắc nợ kiếp này thì kiếp sau phải làm trâu ngựa để trả cái nợ cho người chủ nợ, như thế là tức là người giữ trọn lời thề. 
      Hình dung bằng cây trúc, cây mai là những người trọn đời giữ vững lòng ngay tiết thẳng. 
      Nhưng "Trúc mai" còn có một nghĩa khác hơn. 
      Đây không phải là cây tre và cây mơ (bamboo et abricotier), cũng không phải là cây tre và cây bương.
      Mà chính do tiếng "Mai trúc" đảo ngược. Nghĩa là Tre làm mai mối. 
      "Mai trúc" do điển tích chép trong sách "Lưỡng ban thu vũ am tùy bút": 
      Ở cửa sông Liêu Khê, huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông có một cái đầm (hồ), tên là "Đỗ Phụ đàm" (nghĩa là đầm đánh đố được vợ). 
      Tương truyền ngày xưa có một cậu và một cô bé trạc tuổi nhau, thường ngồi chơi bên mé đầm. Hai trẻ rất thân. Một hôm cả hai bảo nhau: 
- Chúng ta bây giờ chơi thân nhau nhưng không biết có được thân với nhau mãi chăng? Đây rồi khi lớn lên, kẻ nơi người ngã. 
Hai trẻ đều buồn. Nhưng rồi lại nghĩ ra một cách đánh đố nhau, chẻ một lóng tre ra làm đôi, mỗi người cầm một mảnh liệng xuống dòng nước, nguyền với nhau rằng: hể hai thanh tre ấy mà trôi khép lại làm một thì hai bên kết làm vợ chồng. Có thế mối tình thân mật, gần gũi nhau được mãi mãi. 
      Cả hai thực hành, quả nhiên hai mảnh tre trôi xuôi và khép liền nhau như lóng tre chưa chẻ. 
      Thế là cô cậu lấy nhau làm vợ chồng. Và, đầm ấy có tên là "Đỗ Phụ đàm". Giống tre mọc ở trên bờ đầm gọi là "Mai trúc" nghĩa là giống tre làm mai mối. 
Đời Thanh (1644-1909), thi hào Khuất Ông Sơn có thơ vịnh trúc mai:
Một đôi thanh trúc khép như in
Thanh trúc xe nên duyên bách niên.
Mai trúc trên đầm nay vẫn tốt,
Rườm rà cành nhánh cháu con hiền. 
(Bản dịch của Vân Hạc Lê Văn Hòe.) 
Nguyên văn: 
Lưỡng biên sinh trúc hợp vô ngần,
Sinh trúc năng thành phu phụ ân.
Đàm thượng chí kim mai trúc mỹ,
Chi chi từ hiếu cánh đa tôn. 

     "Một nhà xum họp trúc mai" là mai trúc ở chung nhau tức là vợ chồng xum họp. 

Trích Điển Hay Tích Lạ Kim Phượng sưu tầm

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Lời Hay Ý Đẹp: Luật Sống - Phần 1










Yên Đỗ sưu tầm

Em Tôi - Thuận Yến - Trọng Tấn

      Bài hát có 4 câu ,chỉ có 3 câu chính thôi,nhưng với tài nghệ sáng tác của mình nhạc sĩ Thuận Yến đã cho ta một giai điệu thật gần gủi đễ nghe và dễ cảm nhận, với giọng hát của dòng nhạc thính phòng Trọng Tấn bởi cách luyến láy nhả chữ và đặc biệt làn hơi thật dài cao vút thì nghe rất tuyệt.


Sáng Tác Thuận Yến
Ca Sĩ: Trọng Tấn
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Phút Cuối



Chầm chậm đời đi
hai màu tóc
tháng đếm ba mươi
lẻ một ngày
và chậm ngày đi
ngày sắp khóc
bởi ngày tháng đó
vuột tầm tay

Mù trong tăm tối
đời thua mỏi
tiếng nấc bi thương
lạ tháng ngày
giọt lệ chảy mòn
hai khoé mắt
nguội dần sức níu
những bàn tay.

Ra đi là dứt
không hề lại
tử biệt điềm nhiên
có một ngày
nấp ván linh thiêng
nào khép kín
còn gì siết chặt
nữa bàn tay

Hởi ơi trăm nẽo
u minh đó
chắc hẳn nhân sinh
có một ngày
từ giã cuộc đời
khi nhắm mắt
đâu bàn tay ấm
ấm bàn tay.

Đôi mắt lạnh tanh
còn nhuốm lửa
lòng như cháy rụi
đến muôn ngày
ánh chớp thiên thu
màu mắt chết
đốt tàn tâm vọng
của bàn tay.

Bàn tay yêu dấu
bàn tay lạnh
như nhánh hồn linh
tiếc tháng ngày
giây phút biệt ly
còn cố bám
hơi tàn vương víu
một bàn tay.

Trần Phù Thế

Thơ Tranh: Niềm Vui Chôn Kín


Thơ & Thơ Tranh:Nguyễn Đức Tri Ân

Bên Biên Giới Xanh

      Một thuở cạnh bờ sông thuộc sân trường Nguyễn trường Tộ, tôi đứng nhìn sóng xô dạt vào bờ đá rong rêu mà nghe dòng đời vỗ về trong tiếng "phạch, phạch" bâng quơ. Đời là những giòng sông, là những phù sa, là những lục bình lênh đênh, là sóng vỗ, là những trôi đi mênh mông, là những thủy triều bất tận. Tôi, hiện diện ở đây, nơi này, cũng chỉ là một chiếc cọc mơ hồ đóng xuống bờ thời gian. Ngày mai, chiếc cọc này cũng nhổ neo lìa bến. Ngày mai, tà áo trắng trong khuôn viên, sau lưng tôi, cũng sẽ xa bờ. Có còn chăng là gác chuông và ngôi thánh giá. Họa hoằn là còn lại gốc me già. Giòng nước trôi đi, giòng tóc xuôi bề, giòng đời chia nhánh theo thủy triều miên tận 


(Cây me Nguyễn Trường Tộ)


      Chiều xuống. Mặt trời đang chết đuối trên mặt sông về hướng Mỹ Thuận mà không ai buồn cứu. Xa xa vài con đò tìm về bến, mặc cho mặt trời chới với trên giòng nước mênh mông. Đò dọc lang thang. Đò ngang vội vàng. 
      Đò ngang, phía bên mặt tôi, là đò về cù lao An Thành. Tà áo trắng ngồi rũ trong khoang xa dần, là dáng người học trò buổi sáng vừa qua. Em qua đò, nhưng đừng dùng chữ sang ngang nhé em! Để cho tôi còn chút mơ màng, cho tôi còn thấy dịu dàng, để giòng sông tôi còn viết lên lời yêu thương, để giòng sông này là trang giấy mênh mông chứa những lời thì thầm. Trang giấy tôi sóng vỗ thủy triều, trang giấy tôi nét mực rong rêu, trang giấy tôi đầy bọt chữ viết hoài về một mái trường, về em. Trên chuyến đò ngang đó, em có thấy tôi chăng? Em có thấy mái trường rêu phong, ngôi thánh giá ngỡ ngàng và một người đang đứng lặng bên bờ tình ái?
      Nhìn những chiếc cọc nhà sàn, gần cổng trường mà niềm mong ước trở thành đôi chân tôi để mình được đứng đó chơ vơ mỗi buổi em đi, về, không có ai làm em ngại, không ai làm em che nghiêng vành nón. Tôi muốn mình như chiếc cọc buồn. Ở đó tôi sẽ được nhìn em thật trọn vẹn, hồn nhiên (Như chiếc cọc buồn).

Như những chiếc cọc buồn
Tôi cắm cạnh giòng sông
Em đi, về lẩn tránh
Mưa nắng phủ ngập hồn
Chiều rơi ngọn sóng vàng
Không còn ai trong sân
Nguyễn Trường Tộ ngơ ngác
Mình tôi đếm bước chân
Em đêm nay học bài
Chiếc cọc nào, có hay
Xin một lần ngủ gục
Viết giùm tôi nỗi say
Tôi như chiếc cọc buồn
Giòng sông hững hờ tuôn
Đò sang ngang em bước
Tôi lặng lẽ bên trường.



      Giòng sông đã trôi đi. Từng chiều, tôi quanh quẩn nơi đây làm chiếc cọc nhọn cắm lên một giao điểm thời gian. Chiếc cọc giữa sóng xô, giữa trang giấy lăn cuộn như chiếc bút lòng đang viết. Nét chữ bọt bèo. Lời như sóng gợn lăn tăn rồi chìm đục giữa phù sa vàng vuột.
      Con đò ngang giờ đã sang ngang. Cù lao An Thành xa hun hút. Tiếng máy héo hon nổ giòn trong tôi những ký ức còn thơm mùi mực. Giòng Tiền Giang đã cách ngăn cuộc đời . Giòng Tiền giang là biên giới tình tôi. Tôi không thể vượt biên, em chẳng khi nào vượt giới. Chỉ còn con đò đi, về thản nhiên qua vùng giới tuyến. Nó chở buồn tôi sang sông nhưng không chở được bóng em về.

      Bên kia bờ biên giới em có còn nhìn về mái trường rêu phong không em? Có còn nhìn lại ngôi thánh giá chơ vơ trên ráng chiều không em? Em có còn thấy chiếc cọc nhọn bên giòng sông còn cặm đó, từng buổi chiều lặng lẽ. Có lẽ là không! Bây giờ có lẽ tóc em thơm mùi lúa mạ, bóng em đẩm hương bưởi trắng tinh trong nồng nàn lối rẽ. Lối rẽ cuộc đời (Bên bờ biên cương). 

Chuông rung chiều đổ ơ thờ
Trường rêu áo bạc bên bờ biên cương
Phù sa bó đắp vết thương
Một ngôi Thánh giá tội nguồn hư hao
Bên này dấu tích chiêm bao
Bên kia tửu nguyệt yên câu mộng thường
Chiều rơi giữa bãi sân buồn
Tiếng chân cô lữ dội hồn tịch liêu


Chiều xuống bên bờ Tiền Giang. Tôi trở về đây, ngỡ ngàng. Cuộc đời ở đây như bãi đất này, đầy cỏ dại. Những văn hóa của mái trường năm nào chỉ còn là sự hoang tàn như phong cảnh ở đây. Ngôi trường Nguyễn Trường Tộ chỉ còn là một bãi đất hoang, ngập lối. Ngôi thánh giá, có thấy chăng, chỉ là tượng hình của những bông cỏ dại như hình chữ "T" cao vừa gối. Bờ sông vẫn nằm đó, vỗ về như ơ thờ không đếm xỉa đến biến cố của cuộc đời. Biến cố chỉ là sóng vỗ chơi vơi mà nó chẳng cần réo gọi. Phù sa vẫn đắp đầy ký ức rong rêu. Em bây giờ qua nhánh sông nào, xuôi thuyền về đâu? Những hàng chữ của tôi vẫn còn in trên bọt sóng thẫn thờ mà nghe cảm giác loài người đã chết chìm từ lâu lắm. Cuộc đời chỉ là cái xác chết biết đi. Tôi giờ về đây để thấy mình như con cá thòi lòi buồn quảy giữa bùn lầy cô đọng. 

Hoài Tử
Ảnh của Trương Văn Phú & Huỳnh Hữu Đức


Biệt Ly Sầu



Không còn ai vuốt tóc đêm nay
Ủ hương cho gió mong tin chàng
Mấy mùa hoa nở vàng thân áo
Một kiếp phù sinh trót mênh mang

Tư bề vắng vẻ nàng mong nhớ
Khúc nhạc tình ca lắm ngây thơ
Chàng đi theo gió trôi muôn hướng
Nàng chẳng còn chi để nhớ thương

Hồn em chết lịm ngàn khốn khổ
Một mảnh tình xưa dạ xót xa
Chiếc cầu đã gãy chia đôi hướng
Còn gì mong đợi để vấn vương

Lục Lạc