tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014
Tình Không Phai Màu..
Ngày xưa hai đứa chung đường
Đèo em xe đạp đến trường cùng anh
Như đôi chim sáo trên cành
Líu lo vui hát, ngày xanh rạng ngời
Tưởng rằng hai đứa chung đôi
Không ngờ sau cuộc đổi đời vỡ tan
Anh theo cha mẹ lên đàng
Viễn du xứ lạ bàng hoàng ngày đi
Xa em trong lúc chia ly
Lòng đau đớn lắm, nói gì cho cam
Bỗng dưng lệ đổ hai hàng
Thuyền xa bến đậu, rơi ngàn giọt châu
Thuyền đi đi mãi về đâu ?
Mênh mông biển cả nguyện cầu bình an
Mong sau sẽ gặp lại nàng
Bao năm xa vắng hợp tan trùng phùng
Nghĩ rằng sẽ được tin mừng
Đời vui biết mấy, nếu đừng phụ nhau
Nếu em không nghĩ sang giàu
Tình xưa nghĩa cũ kết giao sống đời
Thỏa nguyền nguyện ước em ơi !
Không ngờ ước vọng một thời vỡ tan.
* * *
Tin từ quê mẹ gởi sang
Bao năm chờ đợi, em sang ngang rồi
Ngày đi biển cả trùng khơi
Ngày về xa thẳm biển đời mênh mông
Thương em, anh giữ trong lòng
Dù hai màu tóc, tình không phai màu…
Song An Châu
Phiếm Về Di Tích Lịch Sử
Sau khi Hai Bà Trưng tuẩn tiết, người
Tàu đô hộ Việt Nam lần thứ 2 (gần 1000 năm) cho đến lúc Ngô Quyền phá
quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng để mở đầu thời kỳ độc lập. Những triều
đại sau như Đinh, Lê , Lý, Trần, Hồ, Lê (Hậu Lê), Mạc được khoảng 600
năm. Trong thời gian đó có loạn thập nhị sứ quân, nhà Trần phải 3 lần
chống quân Mông Cổ, đất nước bị nhà Minh đô hộ trong 10 năm ... Tiếp
theo là thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, nhà Tây Sơn (quân Mãn Thanh và
Thái Lan xâm lăng) và cuối cùng Gia Long thống nhất đất nước cho đến gần
cuối đời Tự Đức thì Pháp đô hộ nước ta. Sau khi dành độc lập từ ngưòi
Pháp, đất nước phân chia và cuộc nội chiến Bắc-Nam kéo dài đến năm 1975.
Lịch sử nước ta hầu như dính liền với chiến tranh vì thế không có
thời gian, nhân lực và ngân sách để trùng tu các di tích lịch sử hay để
xây dựng những kiến trúc vĩ đại như Đế Thiên Đế Thích.
Về mặt
kiến trúc, những công trình kiến trúc Việt Nam thường là bằng gỗ thay vì
bằng đá như nên dễ hư hại, dễ bị tàn phá hơn. Phải công nhận Đế Thiên
Đế Thích là một công trình vĩ đại, được xây dựng nhiều lần từ thế kỷ thứ
9 đến thế kỷ 14 nhưng xét cho cùng đa số nhân công là nô lệ và dân bản
xứ với địa vị xã hội thấp (low caste) vì người Khmer lúc đó theo Ấn Độ
giáo, rất phân biệt giai cấp xã hội. Dân chúng được xem như là low caste
và phải phục vụ giai cấp quí tộc và các giáo sĩ Bà La Môn. Tóm lại công
trình tuy vĩ đại nhưng không "văn minh" vì thiếu "nhân bản".
Sau khi xây dựng Đế Thiên Đế Thích xong, ngân sách quốc gia thâm
thủng, phía Bắc bị quân Xiêm quấy phá, thêm vào đó Phật giáo Tiểu Thửa
với nguyên tắc bình đẳng, bác ái đã làm vai trò Ấn Độ giáo và địa vị của
giai cấp thống trị lung lay, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của đế chế
Angkor.
Cũng trong thời gian đó, đạo Phật rất thịnh hành ở nước ta và cũng
với nguyên tắc bình đẳng, bác ái này hầu như không có sử liệu nào cho
thấy dân mình bắt những dân tộc khác làm nô lệ để xây dựng lâu đài,
thành quách ...
Di tích lịch sử lớn nhất còn tồn tại là kinh thành Huế mặc dù chiến
tranh đã tàn phá một số kiến trúc trong Đại Nội (Do người Pháp tấn công
kinh thành Huế (1885) và biến cố Tết Mậu Thân (1968)).
Còn "dấu
tích lịch sử" thì nhiều lắm. Như VD đã viết "Dấu tích lịch sử" không cần
phải là một công trình kiến trúc vĩ đại. Một rặng núi, một con đường,
một khu rừng ... có thể là "dấu tích lịch sử" nếu bạn thích tìm hiểu
lịch sử.
Dọc theo quốc lộ 1 từ Huế ra Quảng Trị, có thể bạn ngậm ngùi khi nhớ
đến đại lộ kinh hoàng của "mùa hè đỏ lửa" năm 1972 (Phan Nhật Nam). Ở
thành phố Huế, đến thôn Vĩ Dạ, bạn sẽ ngâm nga thơ Hàn Mặc Tử hoặc bùi
ngùi với "Dãi khăn sô cho Huế" (Nhã Ca).
Tại Bình Định, nhìn dấu tích hoang tàn, đổ nát của thành Đồ Bàn, lầu
Bát Giác bất giác bạn cảm thông với nỗi buồn mất nước của người Chiêm
Thành, nhớ đến Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Trần Quang Diệu, các anh em nhà
Tây Sơn và cảm phục Trần Quang Diệu đã tha chết cho binh sĩ của Võ Tánh
vì thế ông ta đã xin được cho mẹ già khỏi chết và chỉ bị chém thay vì bị
voi giày như vợ và con gái trong lễ hiến phù dã man của Nguyễn Phúc
Ánh.
(....)
ktk
(Cựu Học Sinh Pleiku)
Tình Sầu - Huyền Kiêu
Sơ Lược Tiểu Sử:
Nhà thơ Huyền Kiêu tên thật là Bùi Lão Kiều, nguyên quán tỉnh Hà Đông,
ngụ ở Hà Nội nay là thành phố Hà Nội. Những năm 40, ông viết văn, làm
thơ, cộng tác với các báo ở Hà Nội.
1976 ông vào sống ở Sài Gòn và mất ở đây vào ngày 8-1-1995, thọ 80 tuổi.
Xuân hồng có chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội
Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi hoa trắng cài đầu
Đi giặt tơ vàng bên suối
Thu biếc cũng chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi
Đông xám lại chàng tới hỏi
- Em thơ, chị đẹp em đâu ?
- Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã ngủ trong hầm mộ tối
Huyền Kiêu
(Suối Dâu sưu tầm)
Việt Dzũng Phổ Nhạc - Tiếng Hát Anh Dũng
Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014
Việt Nam Sử Lược : Thượng Cổ Thời Đại Chương II "Nhà Thục"
Các Phần Đã Đăng :
NHÀ THỤC
蜀 氏
(257-207 tr. Tây-lịch)
-
-
- 1. Gốc-tích nhà Thục
- 2. Nước Âu-lạc
- 3. Nhà Tần đánh Bách-Việt
- 4. Nhà Thục mất nước
-
1. GỐC-TÍCH NHÀ THỤC. Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là
nước Thục bên Tàu, vì rằng cứ theo sử nước Tàu thì đời bấy giờ đất
Ba-thục 巴 蜀 (Tứ-xuyên) đã thuộc về nhà Tần 秦 cai-trị rồi, thì còn có vua
nào nữa. Vả, sử lại chép rằng khi Thục-vương Phán 蜀 王 泮 lấy được nước
Văn-lang thì đổi quốc hiệu là Âu-lạc 甌 駱, tức là nước Âu-lạc gồm cả nước
Thục và nước Văn-lang. Song xét trong lịch-sử không thấy đâu nói đất
Ba-thục thuộc về Âu-lạc. Huống chi lấy địa-lý mà xét thì từ đất Ba-thục
(Tứ-xuyên) sang đến Văn-lang (Bắc-Việt) cách bao nhiêu đường đất và có
bao nhiêu núi sông ngăn-trở, làm thế nào mà quân nhà Thục sang lấy nước
Văn-Lang dễ-dàng như vậy? Sử cũ lại có chỗ chép rằng An-dương-vương họ
là Thục 蜀 tên là Phán 泮. Như vậy chắc hẳn Thục tức là một họ nào độc-lập
ở gần nước Văn-lang, chứ không phải là Thục bên Tàu. Sách « Khâm-định Việt-sử » cũng bàn như thế.
2. NƯỚC ÂU-LẠC. Sử chép rằng Thục-vương 蜀 王 hỏi con gái của
Hùng-vương 雄 王 thứ 18, là Mị-nương 媚 娘 không được, trong bụng lấy làm
tức giận, dặn con cháu ngày sau
đánh báo-thù lấy nước Văn-lang. Hùng-vương bấy giờ cậy mình có binh
cường tướng dũng, bỏ trễ việc nước, chỉ lấy rượu chè làm vui thú. Người
cháu Thục-vương tên là Phán 泮 biết tình-thế ấy, mới đem quân sang đánh
lấy nước Văn-lang. Hùng-vương thua chạy, nhảy xuống giếng mà tự-tử.
Năm giáp-thìn (275 tr. Tây-lịch), Thục-vương dẹp yên mọi nơi rồi,
xưng là An-dương-vương 安 陽 王, cải quốc-hiệu là Âu-lạc 甌 駱, đóng đô ở
Phong-khê 封 溪 (nay thuộc huyện Đông-anh, tỉnh Phúc-an). Hai năm sau là
năm bính-ngọ (255 tr. Tây-lịch), An-dương-vương xây Loa-thành 螺 城. Thành
ấy cao và từ ngoài vào thì xoáy trôn-ốc, cho nên mới gọi là Loa-thành.
Hiện nay còn dấu-tích ở làng Cổ-loa, huyện Đông-anh, tỉnh Phúc-an.
3. NHÀ TẦN ĐÁNH BÁCH-VIỆT. Khi An-dương-vương làm vua nước Âu-lạc ở
bên này, thì ở bên Tàu vua Thỉ-hoàng nhà Tần 秦 始 皇 đã nhất-thống
thiên-hạ. Đến năm đinh-hợi (214 tr. Tây-lịch) Thỉ-hoàng sai tướng là Đồ
Thư 屠 雎 đem quân đi đánh lấy đất Bách-Việt 百 越 (vào quãng tỉnh Hồ-nam,
Quảng-đông và Quảng-tây bây giờ). An-dương-vương cũng xin thần-phục nhà
Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách-Việt và đất Âu-lạc ra làm ba quận, gọi
là: Nam-hải 南 海 (Quảng-đông), Quế-lâm 桂 林 (Quảng-tây) và Tượng quận 象 郡
(Bắc-Việt).
Người bản-xứ ở đất Bách-Việt không chịu để người Tàu cai-trị, trốn
vào rừng ở. Được ít lâu quân của Đồ Thư, vốn là người ở phương bắc,
không chịu được thủy-thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách-Việt
thừa thế nổi lên giết được Đồ Thư.
4. NHÀ THỤC MẤT NƯỚC. Chẳng được bao lâu thì nhà Tần suy, nước Tàu có
nhiều giặc-giã, ở quận Nam-hải có quan úy là Nhâm Ngao 壬 嚣 thấy có
cơ-hội, muốn mưu đánh lấy Âu-lạc để lập một nước tự-chủ ở phương nam.
Nhưng công-việc chưa thành, thì Nhâm Ngao mất. Khi sắp mất, Nhâm Ngao giao binh-quyền lại cho Triệu Đà 趙 佗 để thay mình làm quan úy 尉 quận Nam-hải.
Năm quí-tị (208 tr. Tây-lịch) là năm thứ 50 đời vua An dương-vương.
Triệu Đà đem quân sang đánh lấy nước Âu-lạc, lập ra nước Nam-việt 南 越 [1].
Tục truyền rằng khi An dương-vương xây Loa-thành, có những yêu-quái
quấy-nhiễu, xây mãi không được. An-dương-vương mới lập đàn lên cầu-khấn,
có thần Kim-qui hiện lên bày phép cho vua trừ những yêu-quái đi, bấy
giờ mới xây được thành. Thần Kim-qui lại cho An-dương-vương một cái móng
chân, để làm cái lẫy-nỏ. Lúc nào có giặc thì đem cái nỏ ấy ra bắn một
phát, giặc chết hàng vạn người.
Cũng nhờ có cái nỏ ấy cho nên Triệu Đà đánh không được
An-dương-vương. Triệu Đà dùng kế, cho con là Trọng Thỉ 仲 始 sang lấy Mị
Châu 媚 洙 là con gái An-dương-vương, giả kết nghĩa hòa thân để do thám
tình thực.
Trọng Thỉ lấy được Mị Châu rồi, hỏi dò vợ rằng: « Bên Âu-lạc có tài
gì mà không ai đánh được? » Mị Châu nói chuyện cái nỏ, và lấy cho chồng
xem. Trọng Thỉ bèn lấy cái móng của Kim-qui đi, làm cái lẫy giả thay
vào, rồi định về báo tin cho cha biết. Khi sắp ra về, Trọng Thỉ hỏi Mị
Châu rằng: « Tôi về, mà nhỡ có giặc-giã đánh-đuổi, thì rồi tôi biết đâu
mà tìm? » — Mị Châu nói rằng: « Thiếp có áo lông ngỗng, hễ khi thiếp có
chạy về đâu, thiếp sẽ lấy lông ấy mà rắc ra ở dọc đường thì rồi sẽ
biết ».
Trọng Thỉ về kể lại với Triệu Đà tình đầu mọi sự, Triệu Đà bèn khởi
binh sang đánh Âu-lạc. An-dương-vương cậy có cái nỏ, không phòng-bị gì
cả, đến khi quân giặc đến gần chân thành mới đem nỏ ra bắn, thì không
thấy hiệu-nghiệm nữa. An-dương-vương mới đem Mị Châu lên ngựa mà chạy về
phía nam.
Chạy đến núi Mộ-dạ 墓 夜 山 (thuộc huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an) gần bờ
bể, vua thấy giặc đuổi kíp quá, mới khấn Kim-qui lên cứu, Kim-quy lên
nói rằng: « Giặc ngồi sau lưng nhà vua đấy! » An-dương-vương tức giận
quá, rút gươm ra chém Mị Châu đi, rồi nhảy xuống bể mà tự tận[2].
Trọng Thỉ theo dấu lông ngỗng của vợ rắc, đem binh đuổi đến núi
Mộ-dạ, thấy xác vợ chết nằm đó, thương-xót vô cùng, vội-vàng đem về
cấp-táng, xong rồi, nhảy xuống cái giếng ở trong Loa-thành mà tự-tử.
Nay ở làng Cổ-loa trước đền thờ An-dương-vương có cái giếng tục
truyền là Trọng Thỉ chết ở giếng ấy. Tục lại truyền rằng Mị-Châu bị giết
rồi, vì nỗi tình thực mà phải thác oan, cho nên máu nàng ấy chảy xuống
bể, những con trai ăn phải hóa ra có ngọc trân-châu. Hễ ai lấy được ngọc
ấy đem về rửa vào nước cái giếng ở trong Loa-thành là chỗ Trọng Thỉ đã
tự-tử, thì ngọc ấy trong và đẹp thêm ra.
Chú thích cuối trang
- ▲ Xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-Việt của nước Việt-nam hiện nay.
- ▲ Nay ở trên núi Mộ-dạ, gần xã Cao-ái, huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an, có đền thờ An-dương-vương. Ở đấy có nhiều cây-cối và có nhiều chim công, cho nên tục gọi là đền Công hay Cuông.
Hết Chương II
longhovinhlong.blogspot.com
Huỳnh Hữu Đức sưu tầm
Cơn Lốc
Buổi trưa. Cơm
nước xong, đang ngồi chấm bài học sinh, một chiếc mô tô khủng ào vào sân. Trên
xe là hai người đàn ông khoảng trên dưới 60, mắt kính đen, quần bò, giày thể
thao, túi xách, máy ảnh lỉnh kỉnh…
Nghĩ bạn của Nhung, tôi vừa gấp vội chồng vở vừa quay vào nhà gọi to:
- Nhung ơi, có khách!
Người lái xe mô tô bước xuống mở mũ bảo
hiểm. Ui trời! Bùi Hoàng Sơn. Người thứ hai cũng vừa xuống xe, gỡ mắt kính ra. Một
khuôn mặt khá quen. Sơn hỏi:
- Biết ai đây không?
- Vũ Bình Quảng.
Giọng Quảng vang lên:
- Chưa gặp lần nào sao biết?
- Mới xem hình cuộc họp mặt ngày 24/11 ở
Thanh Đa. Quảng chụp với Vượng Minh- Vượng Tư…Mời hai bạn vào chơi. Nhung ơi,
Bùi Hoàng Sơn với Quảng nè.
Sơn và Quảng
ngồi ở bàn học- loại bàn bốn chỗ ngồi. Nhung lấy mứt gừng mời khách rồi chu đáo
vào trong pha trà.
-Mứt gừng phải có trà nóng- Nhung nói.
Từng lát gừng
vàng phủ nhẹ lớp đường áo. Quảng trầm trồ:
- Mứt gừng này ngon thật. Ăn đi Sơn
- Ừ, đây là mứt mà bà xã Vũ Quốc Từ mới
làm. Từ học lớp Hoàng Đào đó. Ngon đặc
biệt luôn.
Trà đã ngấm. Mứt
gừng cay thơm và những chén trà Bầu Cạn nóng…
- Đây là Đức. Mình và Đức chưa hề gặp nhau
phải không?- Quảng hỏi.
-Ừ, chỉ nghe tên Quảng, giờ mới gặp.
- Sơn học 12B với Đức?
- Đúng đó. Mấy bà này gan dàn trời, dám lên
học nhờ ở TH Pleiku đó.
- Chắc hồi đó dữ lắm.
- Trừ hai cặp đôi mà các bạn biết. Còn tụi
này hiền khô à.
Sơn tiếp lời:
-Học một năm mà có hai cặp đó.
Quảng cười:
- Còn lại là không nói gì nhưng về nhà hết
thở ra lại thở vô. Đúng không?
- Cái đó trúng ai nấy biết…
- Hên thật. Hồi đó mình không học chung lớp
với 8 cô này. Nhưng Đức có còn nhớ một mùa hè, mình là nam sinh duy nhất
trong lớp dạy thêm của cô Oanh đó…
-Tiếc quá, Đức không nhớ.
Giọng chị Nhung:
- Vậy hè năm đó Quảng là “ gươm lạc giữa
rừng hoa” hả?
Quảng bật cười:
- Chưa chắc. Biết đâu ngày đó em là “ hoa
lạc giữa rừng gươm” chị Nhung ơi.
-Ừ, mấy cô Pleime
mà. Nghịch phải biết!
- Quảng về Pleiku khi nào?- Chị Nhung hỏi
tiếp.
-Em mới về hôm qua. Tối nay lại bay rồi..
-Sao vội thế?
-Kì này em về Việt Nam vẻn vẹn có
một tuần
- Sao về chỉ một tuần?
- Là vì em quyết tâm dự họp mặt liên trường
Pleiku tại Thanh Đa ngày 24/11 vừa rồi đó. Họp mặt xong em vội bay lên đây gặp
bạn bè, tối nay về lại Sài Gòn, mai lại đi Nha Trang…
- Đi dữ quá
-Dạ, chân em còn khỏe mà
-Như vậy là Đức và chị Nhung đã nghỉ hưu.
Bên này nghỉ sớm, bên đó phải 66-67 tuổi
-Đúng đó. Nghỉ hưu lâu rồi
-Bên đó thời gian làm việc kéo dài như thế
liệu có còn dưỡng già được không?- Chị Nhung xen vào
-Được chứ! Em vừa làm việc vừa nghỉ ngơi
đây
Quảng nhìn
quanh rồi nói:
-Dạy thêm là công việc của Đức sau khi nghỉ
hưu?
-Ừ
-A, học trò viết đầy bàn. Để Quảng đọc xem
có viết thư gửi cho mây gió như mình ngày xưa không?
-Đừng đọc! Tụi nó viết vớ vẩn lắm!
Quảng nheo mắt
nghiêng người đọc rồi nhăn mặt:
-Ui, đúng rồi. Lũ nhóc này viết quá bậy.
Chắc ít nhiều giống cha mẹ chúng. Nhưng lúc nãy xem chồng vở Đức đang chấm thì thấy
chữ của tụi nhỏ lại đẹp và sạch sẽ ghê.
Chắc là nhờ thầy chăng? Hay là Đức chụp và cho lên mạng đi!
-Đã nói rồi mà. Ai bảo đọc.
-Đức có Facebook không?
-Có chứ. Để biết tin và buồn vui với bạn
bè…
-Quảng nghĩ là thầy cô thì không nên chơi
Facebook.
-Sao vậy? Bạn Đức ở Úc lại nói nhà trường
yêu cầu giáo viên phải lập Facebook để hiểu thêm về học trò và khéo léo định
hướng, giáo dục chúng.
-Quảng vẫn cho là không nên
Một người khá
bảo thủ- Tôi thầm nghĩ.
-Dạy học có khi nào Đức đánh học trò không?
-Không
Sơn cười:
-Làm gì có sức mà đánh. Tay
lại đau nữa, đánh gì nổi. Chỉ nói vài câu học trò đã đau đầu rồi..
-Đức có dạy mấy đứa nhà Quảng không? Mình
có nghe Khang và Mạnh nhắc tên cô Sen…
Sơn cắt ngang:
-Sao không? Hồi đó Sen+ Đức bóp mũi mấy đứa
em ông đó. Hai bà này dạy trường Trung Học Pleiku những năm 1976-1977-1978 mà
-Sen hẳn là có dạy, Đức chỉ biết hai cậu em
của Quảng vì đường Trần Khánh Dư nhà Quảng liền kề đường Trần Quang Khải. À, qua đó Quảng có
thường gặp Đào- Hoa- Vân không?
-Hồi trước ở Cali
thì hay gặp; giờ Quảng qua Texas
nên ít gặp hơn. Các bạn đó giỏi lắm.
-Ừ, nghe Sen nói gặp lại sau mấy chục năm
Sen thấy Hoa- Đào- Vân thay đổi rất nhiều. Ai cũng có những suy nghĩ, những
quan niệm về cuộc sống, về bạn bè, về công việc làm ăn, về tiền bạc, về chuyện
được mất… thật là sâu sắc. Nghe cứ nhẹ
tênh.
-Về Pleiku Quảng đi những đâu rồi?
-Nhiều. Đã gặp được những người cần gặp. Bất
ngờ là được gặp cả một bạn ở tận Quảng Ngãi. Mà gặp tại Pleiku đó.
-Hay thật!
-Quảng còn đi Nha
Trang. Có việc ở đó. Quảng định gì là phải làm cho được.
-Rồi. Vậy bạn
tiếp tục thực hiện dự định của mình nhé.
-Ừ. Chào chị Nhung.
Chào Đức.
Không hẹn. Không báo trước. Hai người bạn cũ ào đến thăm bất ngờ như một
cơn lốc. Nghe đâu cơn lốc ấy còn tiếp tục đại náo nhà Huyền ở Ninh Thượng- Ninh
Hòa rồi đâu đó nữa theo một lộ trình đã vạch sẵn cho chuyến trở về này.
Như “cơn lốc”! “ Vouloir, c’est pouvoir!”- Ở đời mấy ai làm được ...
Nguyễn Thị Đức
(Cựu Học Sinh Trung Học Pleime - Pleiku)
Có Những Đêm - Thơ Đỗ Hữu Tài
Có những đêm giật mình tôi thức giấc
Xót xa nhìn cùng bóng tối cô đơn
Nghe đắng cay cho một kiếp con người
Còn hơi thở nhưng “Tiếng Người Đã Bặt”
Tôi mong muốn đêm đen thôi trừ tịch
Đừng như rừng không tiếng hót của chim
Đừng âm u như cuộc chiến vừa tàn
Như con suối im lìm trong thung lũng
Ở ngoài kia ve sầu thôi lên tiếng!
Trăng lững lờ gác nhẹ lên mái hiên!
Mặt hồ xưa phẳng lặng mãi muôn đời
Nên gió nhẹ thoảng lên lời tình tự!
Đã bao đêm tôi nghe lòng trĩu nặng
Nỗi u sầu vì “Bóng Tối Côi Đơn”
Thèm được nghe lời nói thật chân tình
Một tiếng động dù chỉ là “Tiếng Động”
Trích đoạn từ bài thơ “Có Những Đêm” của - Đỗ Hữu Tài.
Năm 1986
Thơ: Đỗ Hữu Tài
Nhạc: Con Chỉ Là Tạo Vật - Sáng tác: Phanxicô
Đàn Bầu: Nhạc Sĩ Phạm Đức Thành
Trình Bày: Khúc Giang
Có Những Đêm
(Cảm tác bài thơ Có Những Đêm của Đỗ Hữu Tài)
Có những đêm nằm chờ đợi sáng
Kiếm trăng ngàn thỏa bước chân rong
Đi đi về đến dòng sông cũ
Màu tím hoa trôi ủ giấc nồng
Có những đêm mong thời khắc qua
Thèm nghe kẽo kẹt võng quê nhà
Khát khao hơi ấm vòng tay mẹ
Êm ái đầu đời nôi trẻ thơ
Có những đêm mơ hồ ngủ say
Tường vôi ủ rũ trắng canh dài
Rưng rưng hồi tưởng thời thơ dại
Tìm lại mùi hương áo mẹ già
Có những đêm ngút ngàn nhớ em
Còn thơm tuổi ngọc dấu chân mềm
Chiêm bao đất khách ngày mong đợi
Ru giấc thiên thần có những đêm
Kim Phượng
Si Trăng - Mơ trăng
Xướng:
Thả lỏng hồn thơ đến ả Hằng
Ta người nhân thế lụy tình trăng
Ghe phen những muốn xuôi vào mộng
Biết chốn Quảng Hàn có nhận không?
Họa:
Nặng tình thơ thẩn với cô Hằng
Cõi tục đua đòi mộng đến trăng
Cũng muốn co mình an phận bạc
Nhưng tình si dại biết cho chăng?
Quên Đi
* * *
Mơ trăng
(Họa "Si Trăng" của Quên Đi)
Tựa bên song cửa ngắm nàng Hằng
Mơ ước nép vào trong bóng trăng
Mặc hồn thơ thẩn vương tình mộng
Một mối tình si biết được chăng?
Thiên Thu
Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2014
Biển nhớ
Chiều nghiêng biển vắng bến xa bờ
Lắng đọng sầu buông vương ý thơ
Người đi khuất nẻo, lòng xa cách
Kẻ ở nơi đây, mắt lệ mờ
Chia tay ước hẹn ngày tao ngộ
Lạc bước chồn chân dạ vẩn vơ
Biển nhớ miên man sầu ly biệt
Ngàn năm khắc khoải mộng vẫn chờ…
4/2014
Thiên Thu
Đi Tìm Thu Xưa
Mưa đầu mùa hay Thu làm rơi lá
Nghe hương tình thoang thoảng cả không gian
Giật mình thơm tràn ngập buổi Thu vàng
Mộng ngây ngất ngút ngàn đêm trổi dậy
Ai nỡ dấu đi mùa thu năm ấy
Để khổ anh tìm mấy chục Thu qua
Một mùa vui tuy lá hoa tàn tạ
Kỷ niệm này ray rức cả đời anh
Mối tình xưa thêu dệt của chân thành
Êm ấm nhỏ như tơ mành trước gió
Anh vẫn muốn đi tìm mùa Thu đó
Mong có chút gì thổn thức đầu mưa
Một chiếc lá khóc cho tình đôi lứa
Nhẹ nhàng rơi vừa chợt tối phong ba
Đêm Thu ảm em đi không từ tạ
Vất vả lòng đau nát mỗi lần Thu
Trời Pleiku nay lại lắm sương mù
Hơi lành lạnh thêm phần Thu thi vị
Nhưng men say vắng bóng người tri kỷ
Nhạc rừng hoang nghe thảm chỉ mình ta!
Lần Thu tới anh sớm ra chờ đợi
Nơi đồi yêu Thu cũ bỏ ta đi
Hy vọng gặp người em khăn quàng tím
Mấy chục Thu hồn ngự chiếm tim anh!
Lại thêm một Thu đau đành cam chịu!
Pleiku 19-7-2012
Lê Kim Hiệp
Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014
Chợt Ngộ
Đã biết quay cuồng trong mộng thực
Được, thua cũng chỉ áng phù vân
Tình yêu chênh vênh bên bờ vực
Quanh quẫn tìm hoài mỏi bước chân
Mai về ta rũ sạch sầu đau
Lặng nghe gió hát khúc thanh nhàn
Mộng xưa tựa bức tranh vân cẩu
Nhẹ lòng áo lộng giữa thênh thang
Một thưở vần xoay củng cơm áo
Lăn tròn trầy xước nát con tim
Cuối cuốc hành trình ta chợt ngộ
Cát bụi phù du sao cứ tìm
Ừ nhỉ, buông tay là tỉnh mộng
Không còn vương víu nặng lòng thêm …
Trần Thị Dã Quỳ
Điệu Ru Buồn
Có những lúc ta ngồi nghe sóng vỗ
Nhịp lao xao từng đợt dội trong hồn,
Tiếp nối tiếp đưa nhau về vô tận,
Cơn đau nào ghi dấu một hoàng hôn?
Thuyền tách bến ta nghe lòng đoài đoạn,
Mắt dõi nhìn, lệ ứa đọng mi em.
Lần cuối đó có thể là vĩnh viễn!
Vượt nghìn trùng nào ai biết rủi may!!!
Em cố nén từng cơn đau vùng dậy,
Vì tương lai, vì sự nghiệp mai sau.
Cơn trốt xoáy trong hồn cuồn cuộn chảy,
Âm thanh nào dìu dặt điệu ly tao!
Từ dạo ấy ta một thân mòn mỏi,
Nơi xứ người cơ cực kiếp lưu vong.
Ta nào quên chí hồ thỉ tang bồng,
Vẫn mơ ước một ngày về cố quốc.
Em phương ấy vẫn một đời cơ cực,
Vẫn âm thầm, gạo từng bữa nuôi con...
Dù xác thân ngày tháng có mỏi mòn,
Em vẫn đợi một ngày vui đoàn tụ...
Mấy hôm nay trời bỗng dưng tuyết đổ
Cơn gió nào làm buốt giá tim ta...
Dù thời gian có vùn vụt trôi qua
Ta vẫn đợi, vẫn chờ ngày em đến!
Dodge City, Kansas – Đông 1989
Mặc Thái Thủy
Trà
Người Việt có thói quen gọi trà là trà Tàu, dầu nay trà đều trồng tại xứ mình rất ngon, dư uống và còn xuất khẩu nữa.
Ở Bắc thì có trà Bắc Thái, Trung có trà Mai Hạc, Nam có trà Blao (Bảo Lộc) nổi tiếng là ngon.
Uống trà là thú ăn chơi tao nhã như cái thú hút thuốc lào, chơi cây kiểng mà đa phần dành cho đấng nam nhi!
- Làm trai biết đánh tổ tổ tôm
Uống trà liên-tửu ngâm Nôm Thúy Kiều
- Uống nước trà Tàu
Ngồi ghế trường kỷ
Trà có nguồn gốc bên Tàu theo ông Phạm Đình Hổ (1768-1840) trong “Vũ Trung Tùy Bút” thì vào thế kỷ 18 trà Tàu rất quí chỉ có những người thế tộc mới uống trà Tàu. Vì vậy cho nên người uống trà tới nay vẫn giữ phong cách tao nhã như kiểu thế tộc quý phái ngày xưa. Thế mới có câu:
-Trà Tiên rượu Thánh
- Trà lầu, tửu quán
Trà từ bên Tàu qua bên ta, từ Bắc vào Trung đến miệt vườn Lục Tỉnh đã có nhiều biến đổi trong cung cách uống, cách pha chế.
Nước trà ai cũng biết là nước pha với trà.
Nhưng nước pha trà phải nấu sôi mới cho ta đầy đủ cái hương vị của trà.
Nước thì phải là nước mưa, chớ nước sông, nước giếng có tạp chất, có phèn ... sẽ làm mất mùi trà. Hồi xưa ông bà mình ở miệt vườn, nấu nước pha trà bằng cài siêu, làm bằng đất nung. Cái siêu còn dùng để sắc thuốc Bắc, thuốc Nam rất gần gũi với các bà, các cô.
Nước nấu bằng siêu, trước khi sôi có phát ra tiếng kêu gọi là “kêu siêu” như báo trước là nước sắp sôi. Thuở xưa, dùng rơm, củi để nấu bếp, nên có rất nhiều khói. Nấu nước pha trà phải biết ý chớ không nước bị “hôi khói”.
Trà vào Việt Nam tạo ra phong cách uống trà Việt khác người Tàu mà có người gọi là “trà đạo Việt”. Cái đạo trà Việt thể hiện qua cách pha trà, rót trà, dụng cụ uống trà đến khung cảnh uống trà...
Thật là lắm chuyện quá!
Theo sách vở nói rằng Chúa Trịnh Sâm là sư tổ trong nghệ thuật uống trà, sau này khi nhà Nguyễn đóng đô ở Huế tạo ra hệ phái uống trà riêng cho đất Thần Kinh.
Xưa, dụng cụ uống trà, quí hiếm, đều sản xuất bên Tàu, nhưng nên nhớ là các kiểu dáng đó không có lưu dùng ở xứ Tàu.
Dụng cụ uống trà của ta xinh đẹp, nhỏ nhắn do các sứ thần của mình đi sứ sang Tàu đặt các nghệ nhân bên đó làm. Rồi sau này, các nhà buôn Tàu bắt chước sản xuất ra, đem qua nước ta bán, mà dân gian quen gọi đó là “đồ sứ” ( đồ do sứ thần mang về).
Các bộ tách pha trà, bộ ly, nhạo uống rượu của ta sau này sản xuất ở trong nước cũng lấy từ kiểu dáng ngày xưa do các sứ giả của ta mang về.
Uống trà một mình gọi là độc ẩm, có hai người thì dùng bình 2 chén gọi là đối ẩm, nhiều nữa thì dùng bộ trà nhiều chén gọi là quần ẩm.
Trước khi pha trà phải dùng nước sôi trán bình và chén cho nóng.
Lấy mấy ngón tay, bóc một nhúm trà mà số lượng vừa phải, theo thói quen và theo nhu cầu cần cho bao nhiêu khách. Bỏ nhúm trà vào lồng bàn tay kia, săm soi nhìn các cánh trà; đoạn cho vào bình và châm nước sôi vào. Nhớ chắt bỏ nước ngay mà trong nghề gọi là rửa trà.
Trà đã rửa, bình đã ấm, sẵn sàng để pha trà, khách và chủ ngồi trò chuyện chờ cho nước “ra trà”.
Trà rót ra tách, phải chia đều theo vòng kim đồng rồi ngược lại, hết hai vòng là vừa hết nước nhất, để sao cho tách trà nào cũng có cùng một độ đậm như nhau.
Nếu xài chén tống (chén lớn) thì rót ra chén tống rồi mới chia ra chén quân (chén nhỏ)
Bên chén trà, chủ khách có bao nhiêu điều để nói, để kể nhau nghe, thật vô cùng tâm đắc và ý nhị làm sao.
Cái cung cách uống trà nay không quá phức tạp như người xưa, nhưng vẫn còn giữ được cái gì tinh tế, tao nhã, mang nét văn hóa riêng của người mình.
Uống trà lâu ngày phải ghiền, bởi lẽ cái hương vị trà rất độc đáo: Chát, đắng, ngọt, dịu dàng, ghiền lúc nào mà ta không biết.
Trà cho ta vị đắng, hơi chát, nuốt vào để lại một chút vị ngọt nơi cổ họng. Đắng –chát –ngọt sẽ tan mau, nên người uống trà phải uống tiếp chén thứ hai rồi chén thứ ba mới hưởng hết được cái dư vị ngon của trà.
Pha trà đến ba lần là đã lấy hết hương vị trà rồi. Do đó người xưa rót trà mời khách hoặc rót để cúng chỉ rót 3 lần mà thôi, gọi là “trà tam-rượu tứ”.
Sau này trà còn được ướp bông ngâu, bông sứ, bông sói và ngon nhứt là trà ướp bông sen. Có mấy loại trà ướp mà người Việt mình ưa chuộng tới nay là trà Long Tỉnh, trà Thiết Quan Am, trà Chính Thái.
Trà nhìn chung có 3 loại tùy theo cách chế biến mà ra:
Trà Xanh là trà đã ép bỏ chất tinh dầu rồi đem sấy khô như trà Long Tỉnh; còn trà Ô Long là loại cho ủ lên men bán phần có mùi thơm như loại Thiết Quan Âm; riêng trà Đen (Hồng Trà) là loại chế cho lên men toàn phần, nước màu đỏ, người Âu Mỹ rất ưa thích.
Riêng ở miệt vườn, ngoài lối uống trà cầu kỳ sang trọng như ở Bắc, ở Trung còn có một mãn uống trà dân dã, bình dân.
Cái bình uống trà ở miệt vườn xưa rất bự, chứa hơn một lít nước, có tráng men và vẽ hoa văn, hình bát tiên. Cho vào bình nguyên một gói trà, châm hết một siêu nước thì vừa đầy cái bình. Bình này người ta gọi là cái “bình tích” trà. Độc đáo hơn nữa là bình tích trà được đặt vào trọn trong cái vỏ dừa khô, để giữ nóng lâu.
Khởi đầu cái vỏ trà bằng trấu rồi biến thành cái vỏ bằng trái dừa, mới thấy hết cái cách sáng tạo của người miệt quê.
Ở quê có thói quen uống trà vào buổi sáng sớm, như nay ta uống cà phê sáng vậy. Uống xong bình trà thì mặt trời vừa ló dạng bắt đầu đi ruộng.
Uống trà đối với người miệt quê ngoài là thú vui, còn làm dễ tiêu hóa, điều hòa khí huyết, có ích cho sức khỏe nữa.
Nhiều người còn rang đậu, gạo, hột keo để nấu nước uống thay trà, vừa thơm vừa bổ dưỡng, mát gan nhứt là vào mùa hè. Cái tục lệ uống nước gạo rang, đậu rang tới nay vẫn còn vì bà con cho rằng uống nước đậu, gạo rang “tốt lắm” nên khuyên con, khuyên cháu không nên bỏ.
Còn một kiểu uống trà độc đáo nữa.
Đó là kiểu uống trà với cá khô.
Nhiều người nghe phải “giựt mình” vì khô làm sao uống trà cho được. Trà phải uống với bánh ngọt, kẹo đậu phộng hoặc tệ lắm phải với đường tán, đường thẻ chớ!
Này nhé!
Về Tân An, vô trong sâu miệt Đồng Tháp, bạn sẽ được mời uống trà với khô.
Vừa đặt chân vô nhà, chủ kéo bạn ngồi xuống bộ ghế trường kỷ, bảo mấy xấp nhỏ nấu trà, đãi khách phương xa. Kèm theo bình tích trà tổ bố bự là dĩa khô cá bống trứng ngào đường.
Con cá bống trứng nhỏ bằng đầu mút đủa, vàng óng và lóng lánh phơi cái bụng đầy trứng thấy mà thèm.
Nhai con khô vừa mặn, vừa ngọt, vừa béo, dòn dòn nuốt xong, ngụm một tách nước trà ngon mới hiểu thế nào là uống trà với khô. Lúc đầu còn hơi ngán, làm vài con nữa bạn sẽ thấy ngon và bắt đầu “biết đã”, biết thích.
Ngồi trong căn nhà ngói ba căn, hai chái, nền đất nghe mát rượi giữa trưa hè, bạn sẽ nghe gia chủ kể chuyện lai lịch cái kiểu uống trà kỳ cục của miệt này.
Hồi đó – gia chủ say sưa kể - nhà có tiền nhưng ở tận Đồng Tháp này đâu có quán xá, chợ búa gì đâu, nên uống trà thường cầm tay bằng đường tán.
Gặp khi hết đường phải uống “khan khan”, đâm ra buồn nên kiếm “đồ cầm tay” cho vui. Sẵn nhà có khô lấy nhai bậy cho đỡ buồn, rồi thành quen thấy ngon và ghiền tới nay là vậy đó.
Nay dầu bánh trái không thiếu, chợ búa sát nhà mà nhiều người còn có thói quen uống trà với khô tạp, cá sặc, cá lóc.
Trà là thức uống dùng để cúng của người mình. Có những lễ cúng không cần rượu, nhưng trà không thể thiếu. Ngày Tết, ngày giỗ ngoài cúng cơm hai buổi sáng chiều thì trà được dâng cúng vào buổi tối.
Từ khi trà có mặt như là thức uống của ta, trà không phân biệt sang hèn, làm tri kỷ từ vua chúa đến thứ dân.
Trà cũng hãnh diện có mặt trong bàn tròn, bàn vuông cùng anh hùng hào kiệt bàn chuyện nước, chuyện non.
Trà ơi, còn nước là vinh hạnh,
Cháy lưỡi, khô môi, thêm những ai.
Nam Sơn Trần Văn Chi
Thu Buồn
Trời đã vào Thu em có hay ?
Nắng
vàng se sắt cuối tầng mây.
Lẻ loi
một cánh chim phiêu lãng.
Gậm nhấm
nỗi đau, nhạn lạc bầy.
Là vàng
chưa đan trên lối xưa.
Mà hồn
nhung nhớ nói sao vừa.
Mùa Thu
năm ấy, mình chung bóng.
Thu
này, ta hiu hắt dưới mưa.
Ừ thôi
em nhé! Thế cũng xong..
Vương vấn
làm chi chỉ bận lòng.
Biết
bao ân ái, bao hò hẹn.
Tất cả đã
chìm vào hư không.
Hãy để
thời gian phủ bụi mờ,
Trên
giòng ký ức, những vần thơ.
Mai này
chợt nhớ về dĩ vãng.
Bàng
hoàng như tỉnh một giấc mơ.
Dương
Thượng Trúc.
Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014
Vô Đề Kỳ Nhị - Lý Thương Ẩn (813 - 858)
Tôi
hiện đang đọc lại các bài thơ của Lý Thương Ẩn đời Vãn Đường và coi lại
các bản mà tôi đã chuyến dịch trước đây. Cứ mỗi lần đọc lại, lại muốn
ngồi chuyển dịch lại sao cho được vừa ý, mặc dù đã biết là một điều
không thể. Nhưng dù sao âu cũng là tốt thôi cho tuổi già và cũng tiện
dịp gọi là bày tỏ chút tình tôi quí mến đối với chữ nghĩa và với mọi
người thân quí. Xa cách, nhớ nhau, dường như lúc này, nhà-giáo-tôi
đang cần, rất cần cái cảm giác luôn được sống yên lành trong vòng
thương yêu của mọi người. Thế thôi. Và, thật tình cũng chỉ mong ước có
bấy nhiêu thôi.
PKT03/08/2014
PKT03/08/2014
Vô Đề (Kỳ Nhị) - Lý Thương Ẩn (813 - 858)
Tương kiến thời nan biệt diệc nan
Đông phong vô lực bách hoa tàn
Xuân tàm đáo tử ti phương tận
Lạp chúc thành hôi lệ thủy can
Hiểu kính đản sầu vân mấn cải
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan
Đông phong vô lực bách hoa tàn
Xuân tàm đáo tử ti phương tận
Lạp chúc thành hôi lệ thủy can
Hiểu kính đản sầu vân mấn cải
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan
Dịch Xuôi : Vô Đề
Gặp được nhau đã là khó khăn mà lúc phải xa cách nhau cũng khó khăn lắm
Gió xuân bất lực , không giữ được trăm hoa khỏi tàn úa
Con tằm xuân cho đến khi chết mới thôi nhả tơ
Ngọn nến cháy thành tro rồi, giọt lệ nến cuối cùng mới khô, (mới thôi đổ lệ)
Buổi sáng soi gương chỉ thêm buồn râu tóc đã đổi màu,(đã bạc)
Ban đêm ngâm thơ lại càng cảm thấy thấm ánh trăng lạnh
Từ đây đến Bồng Lai chắc không có nhiều lối đến
Xin cậy chim xanh hãy vì nhau mà tìm lối dùm cho
Gió xuân bất lực , không giữ được trăm hoa khỏi tàn úa
Con tằm xuân cho đến khi chết mới thôi nhả tơ
Ngọn nến cháy thành tro rồi, giọt lệ nến cuối cùng mới khô, (mới thôi đổ lệ)
Buổi sáng soi gương chỉ thêm buồn râu tóc đã đổi màu,(đã bạc)
Ban đêm ngâm thơ lại càng cảm thấy thấm ánh trăng lạnh
Từ đây đến Bồng Lai chắc không có nhiều lối đến
Xin cậy chim xanh hãy vì nhau mà tìm lối dùm cho
Chú Thích:
(1) Bài này là 1 trong số các bài thơ có tựa đề là Vô Đề của Lý Thương Ẩn.
(2) Bồng Lai là tên một hòn đảo tiên, ở ngoài biển Bột Hải (?).
(3) Thanh điểu = chim xanh. Ý nói về con chim xanh , dẫn lối đưa đường , cho bà Tây Vương Mẫu đến thăm vua Hán Vũ Đế ,trong sách Hán Vũ Cố Sự. Trong Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du cũng có câu :"Thâm nghiêm kín cổng cao tường/ Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh ".
(4) Cùng một ý với câu thứ 3 trong nguyên tác "Xuân tàm đáo tử ti phương tận", trong Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du có câu: "Dẫu rằng sông cạn đá mòn/ Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ" và câu "Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng".
(2) Bồng Lai là tên một hòn đảo tiên, ở ngoài biển Bột Hải (?).
(3) Thanh điểu = chim xanh. Ý nói về con chim xanh , dẫn lối đưa đường , cho bà Tây Vương Mẫu đến thăm vua Hán Vũ Đế ,trong sách Hán Vũ Cố Sự. Trong Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du cũng có câu :"Thâm nghiêm kín cổng cao tường/ Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh ".
(4) Cùng một ý với câu thứ 3 trong nguyên tác "Xuân tàm đáo tử ti phương tận", trong Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du có câu: "Dẫu rằng sông cạn đá mòn/ Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ" và câu "Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng".
Vô Đề
Tan hợp, hợp tan, lắm đoạn trường
Đang xuân, hoa rụng, những tang thương
Thân tằm đến thác, tơ còn vướng
Ngọn nến hồ tàn, lệ vẫn tuôn
Gương sáng thêm buồn râu tóc bạc
Thơ khuya thấm lạnh bóng trăng suông
Bồng Lai bao lối, chim xanh nhỉ
Xin hãy vì nhau đến dẫn đường
Đang xuân, hoa rụng, những tang thương
Thân tằm đến thác, tơ còn vướng
Ngọn nến hồ tàn, lệ vẫn tuôn
Gương sáng thêm buồn râu tóc bạc
Thơ khuya thấm lạnh bóng trăng suông
Bồng Lai bao lối, chim xanh nhỉ
Xin hãy vì nhau đến dẫn đường
Phạm Khắc Trí
***
Không Đề
Mới hợp rồi tan thật não lòng
Gió xuân khôn giữ cánh hoa rung
Thân tằm sắp thác còn buông sợi
Lệ nến gần khô vẫn nhỏ
dòng
Sáng đến, buồn phiền nhìn tóc bạc
Đêm về, thờ thẫn ngắm trăng trong
Đường lên
tiên cảnh mông lung quá
Xin cậy chim xanh dẫn lối
cùng.
Phương Hà
***
無題 VÔ ĐỀ
相見時難別亦難 Tương kiến thời nan biệt diệc nan,
東風無力百花殘 Đông phong vô lực bách hoa tàn.
春蠶到死絲方盡 Xuân tầm đáo tử ty phương tận,
蠟炬成灰淚始乾 Lạp cự thành hôi lệ thủy can.
曉鏡但愁雲鬢改 Hiểu kính đản sầu vân mấn cải,
夜吟應覺月光寒 Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
蓬萊此去無多路 Bồng lai thử khứ vô đa lộ,
青鳥殷勤為探看 Thanh điểu ân cần vị thám khan.
李商隱 Lý Thương Ẩn.
Dịch nghĩa:
Khi gặp được nhau đã khó rồi, chia tay nhau lại càng khó hơn.
Gió xuân bất lực không đủ sức, để trăm hoa phải tàn héo.
Con tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ lòng.
Ngọn nến tàn thành tro mới khô hết những giọt lệ nến.
Sáng sớm soi gương, mới buồn là tóc mai đã đổi trắng như mây.
Ban đêm ngâm nga mới chợt thấy ánh trăng sao mà lạnh lẽo.
Từ đây không có nhiều lối để đến được Bồng Lai. Nên...
mới ân cần nhờ chim xanh dọ hỏi dùm đường đi nước bước.
Gió xuân bất lực không đủ sức, để trăm hoa phải tàn héo.
Con tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ lòng.
Ngọn nến tàn thành tro mới khô hết những giọt lệ nến.
Sáng sớm soi gương, mới buồn là tóc mai đã đổi trắng như mây.
Ban đêm ngâm nga mới chợt thấy ánh trăng sao mà lạnh lẽo.
Từ đây không có nhiều lối để đến được Bồng Lai. Nên...
mới ân cần nhờ chim xanh dọ hỏi dùm đường đi nước bước.
Vô Đề
Khó gặp được nhau khó cách xa,
Gió xuân bất lực héo ngàn hoa.
Tầm kia đến thác tơ còn vướng,
Nến nọ tàn canh lệ chửa
nhòa.
Trước kính sầu sao làn tóc trắng,
Thâu đêm ngâm mãi ánh trăng lòa.
Bồng Lai chẳng phải đường La Mã,
Nhờ cánh chim xanh dọ lối qua.
Nhờ cánh chim xanh dọ lối qua.
Đỗ Chiêu Đức.
***
Thơ Không Lời Tựa
Cảnh hợp rồi tan thật nảo nùng
Gió Đông bất lực ngó hoa rung
Tằm Xuân khi chết còn vươn nhả
Nến lệ gần khô chảy cuối giòng
Sáng đến,v nhìn gương buồn tóc bạc
Đêm về, thơ vịnh nguyệt mông lung
Bồng lai, đường đến qua nhiều ngõ
Nhờ cậy chim xanh dẩn dắt cùng
Song Quang
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)