Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

Cát Bụi...




Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay.

Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi.

Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui.

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thươg mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen.

Ta là cát ta sẽ về với bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!


Vĩnh Trinh

Vào Thu

      

   Tháng Tư vừa sang. Mùa gì sẽ đến, Hạ hay Thu? Mùa thi về thì phải và cũng là ngày sắp chia tay. Hè lại về!

Xa quê hương xa cả mái trường,
Xa hàng phượng v vươn mình trổ hoa
Hè về ba tháng chia xa
Chợt mình tỉnh mộng! Thu qua xứ người.

      Ồ, Thì ra không phải quê nhà, mà ta đang đi vào mùa thu xứ người!
      Đấy là tâm trạng của người xa xứ.Trời Melbourne đã chuyển mùa se lạnh, lá trở mình chợt biết thu về.
      Thu vừa về rồi đó! Mùa thu nơi đây đẹp lạ lùng như chặng đường đời của một thời con gái. Ba màu hài hòa trong một chiếc lá. Màu xanh như sức sống vươn cao, mặn mòi của tuổi ngọc. Tuổi thanh xuân một thoáng hiền hòa, khoác chiếc áo màu vàng lám dáng làm duyên, và một màu đỏ thắm như trái tim rạo rực của một thời khi biết nhớ nhung và yêu say đắm.
      Tôi ra đời vào mùa thu, rồi từ giã quê hương cũng vào tiết thu, nên tôi yêu  thu vàng với những chiếc lá rơi, nhưng lại vẫn vơ lo sợ những buổi chiều xuống vội.
      Bất chợt những câu thơ ca ngợi tình thu làm lòng tôi thổn thức, xao động một góc trời. Hai phương trời  cách biệt, mặt không giáp mặt nhưng có bao giờ lòng người chợt giao tiếp với tình thu?

      Đêm xuống, khoác áo len ra hàng hiên tìm lấy bóng, gió lùa những chiếc lá reo vi vu, cái se lạnh làm chùng nhịp đập của tim, tôi rùng mình thu người cho thêm ấm. Thời tiết Melbourne cũng chẳng khác gì tính tình của con gái, một ngày có bốn mùa. Ai lần đầu đặt chân đến đây, cho là thời tiết khắc nghiệt, lạ lùng, mới thấy tia nắng đầu ngày lung linh xuyên qua kẽ lá, lóng lánh những hạt sương đọng trên cành, phút chốc gió lùa cây nghiêng,  hoa rụng. Trời u ám kéo mây, chợt mưa rơi lạnh buốt lòng. Trời thảm sầu, lòng cũng hắt hiu!
      Trong sâu thẳm cũng vấy lên niềm mơ ước, ước được người làm ấm lại đôi tay, một âu yếm được choàng vai, hay tựa đầu kể lể những gì thuôc về ta.
      Được nghe lời ngọt ngào ai đọc những vần thơ, mô tả mắt em là một hồ thu gợn sóng, ướm lời thương yêu sâu sắc của một thời. Tuy thẹn lòng mắt mình không đẹp như thơ ai, nhưng cũng đủ một khoảnh trời thu để nhốt bóng. Cuộc đời ta đã bao mùa lá đổ? Lòng se sắt với tháng ngày đằng đẵng trôi qua? Thấy lòng trống trải mênh mông. Đôi lúc chạnh lòng muốn xoay ngược một vòng quay trái đất, để không phải nơi  này thức thì người trăn trở, sáng bên người thì nơi đây thao thức từng canh,để tiếng thở dài không vang vọng trong đêm, làm nhói lòng và thương xót cuộc đời qua.
      Đêm nơi này sắp tàn rồi đó! Chỉ mình ôm gọn mùa thu, mưa nhè nhẹ rơi, gió lắc lay chiếc lá nửa vàng, xanh, đỏ như những chiếc đèn hoa. Có cảm giác như đang thắp thêm ánh sáng gửi đến bên người, để thu chỉ vừa chạm ngõ, lá đừng vội úa vàng, lià cành sớm tung bay. Vì tôi không đủ trọn đôi tay nhặt lá, đếm từng chiếc lá như đếm nỗi hoài mong.


      Môt buổi sáng tinh mơ, trời còn lắng trong sương mờ, khoác vội chiếc áo gió đi rong, lang thang ra công viên, mặt đất vừa đủ ướt vì cơn mưa đêm qua, cây cối trở nên tươi mát và khí trời cũng dễ chịu cho lòng người. Nhìn những người lớn tuổi đi dạo chung quanh, họ cũng tay trong tay và nói cười vui vẻ. Ở tuổi đời còn lại hình như cái tình thâm trầm và đầm ấm hơn!? Tôi chợt tìm được trong lá vàng kia cũng thế, trổ màu, từng chiếc lơ lững mong manh nhưng vẫn cố bám vào nhánh cây khoe sắc..Thu chưa qua mà lá nhỉ?
      Nắng đầu ngày bắt đầu ló dạng, Bỗng vang lên  cùng một tiếng “Ồ!” trầm trồ ca ngợi một tuyệt tác thiên nhiên, mọi người ngước nhìn bầu trời, nụ cười thoả ước, ánh mắt tràn ngập niềm vui. Trong mắt tôi một bức tranh sống động, Cơn gió vô tình nhẹ lay, những giọt mưa đêm qua còn bám cành chờ đợi rắc nhẹ xuống, cuốn theo những chiếc lá vàng long lánh ánh nắng mai, lã lướt trên không, như những viên kim cương rực rỡ. 
      Như ai đó hay nói về điều ước của sao băng. Tôi thầm bảo lòng, xin mùa thu cho tôi một điều ước
      Mùa thu ơi! Điều ước mơ tôi có to lớn lắm không, thu có vui lòng không thu hỡi!? Nếu thu ngại ngần tôi sẽ nhờ chút gió khơi hương, gom trọn cuộc tình chấp cánh cùng thu. Lá rơi …rơi  thật dịu dàng ..nhẹ phủ dày lên cuộc tình, cho tình mặc áo mới nhé thu!

Thở đi gió!
Lá vương rạo rực
Ướp hương yêu
Ngất ngưỡng men cay
Đêm ngây ngất, chân đi lạc bước
Vào rừng yêu, vấp ngã cơn say

Thở đi gió!
Lá cuộn tròn mặt đất
Tình lao xao!
Trời đất chao nghiêng
Lá nương gió lăn triền dốc đổ
Tắt ngàn sao! Lá ngủ bình yên

Men cay!
Tình say!
Lá reo
Gió thở
Lá ngạt ngào
Hương ủ rừng thu

Kim Oanh
1/5/2009



Mùa Thu Melbourne, Australia

Hỏi Lòng


Yêu chưa mà nghĩ đến người
Chưa yêu sao nhớ tiếng cười của ai
Như là chim hót bên tai
Như là giọng hát liêu trai ngọt ngào

Yêu chưa bịn rịn câu chào
Chưa yêu sao buộc tình vào con tim
Như là trăng sáng về đêm
Như là bóng nguyệt nằm im trong lòng
Yêu chưa nhìn giọt nắng hồng
Chưa yêu hồn lại bềnh bồng theo mưa
Như là mới gặp buổi trưa
Như là đêm xuống say sưa mơ màng
Yêu chưa sao nhớ nhẹ nhàng
Chưa yêu mà thấy bóng nàng đâu đây
Như là gió rủ đường mây
Như là lá ngủ trên cây giữa trời
Yêu chưa lòng biết yêu đời
Chưa yêu mà muốn nghe lời thiết tha
Như là nhơ nhớ người ta
Như là tơ tưởng xa xa bóng hình
Yêu chưa ngơ ngẩn một mình
Chưa yêu mà viết thơ tình tặng ai
Như là sương ủ cành mai
Như là hơi thở chia hai lạ lùng
Yêu chưa lòng vẫn ngượng ngùng
Hay là người ấy thẹn thùng chưa yêu ?

Đỗ Hữu Tài
29.10.2013

Thơ Tranh: Nụ Cười Thu



Thơ: Hoàng Dũng
Thơ Tranh: Kim Oanh

Xin Đừng Khẻ Tay Nhé



Anh vừa bốc đựơc môi em chín
vỏ đỏ thơm mùi trái chín cây
em thở cùng anh giấc mơ đầy
anh từ đó ôm hòai nỗi nhớ
mắt anh vướng eo mềm, ngực nở
tóc gió bay hương cỏ ngây ngây

Ước gì anh nắm được bàn tay
để anh lượn tình say khắp phố
anh vừa lượm ở ngay đầu ngõ
dáng nhỏ y nguyên bóng một người
áo dài trắng quá bóng còn tươi
anh về nhốt niềm vui bất tận

Anh mới nhặt trên vai áo nắng
sợi tóc dài, sợi tóc còn thơm
tóc cùng anh hai kẻ biết buồn
đêm xa lắc đầu thôn cuối xóm
anh vừa trộm ánh đèn đom đóm
làm ngôi sao trong mắt lung linh

Ánh mắt em ươm mộng hữu tình
anh về ngủ mơ hình tưởng bóng
anh thấy giữa trăm ngàn khỏang trống
em là em chỉ có em thôi
anh bốc thơm, em đẹp nhất đời
em đừng khẻ tay anh tội nghiệp!

Phạm Tương Như
20  11  12

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014

Phần Giới Thiệu Việt Sử



Nam quốc sơn hà nam đế cư        Nước nam sông núi vua nam ngụ
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư   Phân định sách thiên đã vạch rành
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?    Nếu bọn giặc thù sang lấn chiếm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!    Bọn ngươi sẽ bị đánh tan tành
                     Lý Thường Kiệt                            Quên Đi

Lời Mở Đầu

      Ghi ơn những bậc Tiền Nhân đã b rất nhiều tâm huyết ghi lại những chặn đường, những thăng trầm của Dân Tộc cho các thế hệ Con Cháu.
      Xin giới thiệu đến Quý Độc Giả ba bộ Sử có giá trị nhất của Việt Nam:
1- " Đại Việt Sử Ký Toàn Thư"
          Đây là bộ sử được các đời Sử gia nhà Hậu Lê, chủ yếu là Lê Văn Hưu, kế đến là Phan Phu Tiên, sau cùng là Ngô Sĩ Liên... Các sử Gia trên đã biên soạn chỉnh sửa bổ sung từ năm 1272 đến 1697 mới hoàn thành.
          Bộ Sử bắt đầu từ đời Kinh Dương Vương Lộc Tục đến đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.
          Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, là di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, là kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác nữa và cũng là một bộ sử có giá trị văn học. Các bộ quốc sử sau này của Việt Nam như Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục đều được biên soạn dựa trên cơ sở của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
2- "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục"
          Đây là bộ sử được Biên soạn lại dựa vào quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Vua Tự Đức giao cho Quốc Sử Quán do Phan Thanh Giản chủ biên, dựa vào những quyển sử các đời trước nhất là quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư làm căn bản. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục được soạn từ năm 1856 đến năm 1881 mới hoàn tất. Bắt đầu từ thời Kinh Dương Vương đến cuối nhà Hậu (Lê Chiêu Thông) 1789.

3 - "Việt Nam Sử Lược "
           Trần Trọng Kim là một nhà nho theo tây học. Ông tham khảo, nghiên cứu và đối chiếu các sách sử chữ Hán có từ trước của Việt và Tàu, theo phương pháp của phương tây. Do đó bộ Việt Nam Sử Lược được biên soạn tương đối đầy đủ, rõ ràng và mạch lạc. Quyển sử bắt đầu từ thời Thượng cổ đến đời Vua Thành Thái ( Bửu Lân).
     Như đã nêu trên, bộ  " Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" Viết theo lối Biên Niên. Tuy có những lời bình, lời ghi chú nhưng không tiện theo dõi, theo chúng tôi, nếu dùng làm tài liệu tham khảo thì tốt hơn. Riêng bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim được biên soạn rất khoa học, rất dể hiểu, tiện sử dụng trong việc giảng dạy.
          Để Quý Vị tiện theo dõi, chúng tôi sẽ tuần tự giới thiệu từng chương của quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.

      Đối với những Đọc giả muốn tìm hiểu, tham khảo trước, xin mời vào các đường dẫn bên dưới:
1- " Đại Việt Sử Ký Toàn Thư "

2- "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục"

3 - "Việt Nam Sử Lược "
- Quyển 1:


4 - An Nam Chí Lược - Lê Tắc

5 - Đại Việt Sử Lược- Tác Giả Khuyết Danh

6 - Việt Sử Tiêu Án - Ngô Thời Sĩ

7 - Đại Việt Thông Sử - Lê Quý Đôn

8 - Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn


                                                    Trân trọng kính chào 
                                 Ban Biên Tập longhovinhlong.blogspot.com

* * *

Việt Nam Sử Lược Phần mở Đầu

Lệ Thần
TRẦN TRỌNG KIM

越 南 史 略
V I Ệ T - N A M
S Ử - L Ư Ợ C
(HISTOIRE DU VIÊT-NAM)

IN LẦN THỨ TƯ
Sửa-chữa cẩn-thận

NHÀ XUẤT-BẢN
TÂN VIỆT - HANOI
In và phát-hành tại Saigon
1951

Viet Nam Su Luoc 1.djvu


Lệ thần
TRẦN-TRỌNG-KIM
VIỆT-NAM
SỬ-LƯỢC

QUYỂN I
BỘ GIÁO-DỤC
-------------------
TRUNG-TÂM
HỌC-LIỆU
xuất-bản


BỘ GIÁO-DỤC
TRUNG-TÂM HỌC-LIỆU XUẤT-BẢN
Lần thứ nhất, 1971 : 80.000 cuốn
(Thêm Phụ-lục và Sách-dẫn)

M Ụ C - L Ụ C

Tựa
Nước Việt Nam
Chương I.
Chương II.
Chương III.
Chương IV.
Chương I.
Chương II.
Chương III.
Chương IV.
Chương V.
Chương VI.
Chương I.
Chương II.
Chương III.
Chương IV.
Chương V.
Chương VI.
Chương VII.Giặc nhà Nguyên — I133 — 150
Chương VIII.Giặc nhà Nguyên — II151 — 162
Chương IX.Nhà Trần ( Thời-kỳ thứ hai )163 — 172
Chương X.Nhà Trần ( Thời-kỳ thứ ba )173 — 188
Chương XI.Nhà Hồ189 — 197
Chương XII.Nhà Hậu-Trần199 — 206
Chương XIII.Thuộc nhà Minh211 — 216
Chương XIV.Mười năm đánh quân Tàu217 — 245
Chương XV.Nhà Lê247 — 276
Phụ-lục.Phiên âm bài Bình Ngô đại-cáo277 — 280
Những-sách soạn-giả dùng để kê-cứu281
BẢN-ĐỒ
1. Nước Tàu về đời nhà Tần27
2. Nước Tàu về đời Tam-quốc45
3. Nước Tàu về đời Ngũ Quý69
4. Nước Nam khi nhà Trần chống với Mông-cổ135
BIỂU-ĐỒ
1. Ngô-triều thế-phổ83
2. Đinh-triều thế-phổ88
3. Tiền-Lê triều thế-phổ92
4. Lý-triều thế-phổ117
5. Hồ-triều thế-phổ197
6. Trần-triều thế-phổ207
7. Lê-triều thế-phổ271
TỰA

     

Sử là sách không những chỉ để ghi-chép những công-việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải suy-xét việc gốc-ngọn, tìm-tòi cái căn-nguyên những công-việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận-hội trị-loạn của một nước, những trình-độ tiến-hóa của một dân-tộc. Chủ-đích là để làm cái gương chung-cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh-hoạt của người trước đã phải lao tâm lao lực những thế nào, mới chiếm-giữ được cái địa-vị ở dưới bóng mặt trời này.




Người trong nước có thông-hiểu những sự-tích nước mình mới có lòng yêu nước yêu nhà, mới biết cố-gắng học-hành, hết sức làm-lụng, để vun-đắp thêm vào cái nền xã-hội của tiên-tổ đã xây-dựng nên mà để lại cho mình. Bởi những lẽ ấy cho nên phàm dân-tộc nào đã có đủ cơ-quan và thể-lệ làm cho một nước độc-lập, thì cũng có sử cả. Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng thế-kỷ thứ XIII. Từ đó trở đi nhà nào lên làm vua cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối làm sử của ta theo lối biên niên của Tàu, nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện gì quan-trọng thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn-tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải-thích cái gốc-ngọn và sự liên-can việc ấy với việc khác là thế nào.
Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự chép sử cũng không được tự-do, thường có ý thiên-vị về nhà vua, thành ra trong sử chỉ cần chép những chuyện quan-hệ đến nhà vua, hơn là những chuyện quan-hệ đến sự tiến-hóa của nhân-dân trong nước. Vả, xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên-chế, vẫn cho việc nhà vua là việc nước. Cả nước chỉ cốt ở một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ-nghĩa ấy mà chép sử, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích-lợi cho sự học vấn là mấy.
Sử của mình đã không hay, mà người mình lại không mấy người biết sử. Là vì cái cách học-tập của mình làm cho người mình không có thể biết được sử nước mình. Bất kỳ lớn nhỏ, hể ai cắp quyển sách đi học thì chỉ học sử Tàu,chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ-phú văn-chương gì cũng lấy điển-tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước mình thì nhất-thiết không nói đến. Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ-mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc-văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm-hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc-sắc, thành ra thật rõ như câu phương-ngôn: «Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!»

Cái sự học-vấn của mình như thế, cái cảm-tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở-mang ra làm sao được?
Nhưng dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có sử ta thì cũng có thể bởi đó mà biết được những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà khảo-cứu được nhiều việc quan-hệ đến vận-mệnh nước mình từ xưa đến nay xoay-vần ra làm sao. Hiềm vì sử nước ta thì làm bằng chữ Nho cả, mà chữ Nho thì từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi. Hiện nay số người đọc được chữ Nho còn nhiều, mà trong nước còn không có mấy người biết được chuyện nước nhà, huống chi mai sau này chữ Nho bỏ không học nữa, thì sự khảo-cứu về những việc quan-hệ đến lịch-sử nước mình sẽ khó biết bao nhiêu!


Nay nhân sự học ở nước ta đã thay-đổi, chữ quốc-ngữ đã phổ-thông cả trong nước, chi bằng ta lấy tiếng nước nhà mà kể chuyện nước nhà, ta soạn ra bộ VIỆT-NAM SỬ-LƯỢC, xếp-đặt theo thứ-tự, chia ra từng thời-đại, đặt thành chương, thành mục rõ-ràng, để ai ai cũng có thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện, khiến cho sự học sử của người mình được tiện-lợi hơn trước.


Bộ VIỆT-NAM SỬ-LƯỢC này, soạn-giả chia ra làm 5 thời-đại. Thời đại-thứ nhất là Thượng-cổ thời-đại, kể từ họ Hồng-bàng cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời-đại ấy, từ chương thứ III, bàn về xã-hội nước Tàu trước đời nhà Tần, phần nhiều là những chuyện hoang-đường huyền-hoặc cả. Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không có di-tích gì mà khảo-cứu cho đích-xác. Tuy vậy, soạn-giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê-bình một đôi câu để tỏ cho độc-giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là xác-thực.


Thời đại thứ nhì là Bắc thuộc thời-đại, kể từ khi vua Vũ-đế nhà Hán lấy đất Nam-việt của nhà Triệu, cho đến đời Ngũ-quí, ở bên ta có họ Khúc và họ Ngô xướng lên sự độc-lập. Những công-việc trong thời-đại ấy, thì sử cũ của nước ta chép rất là sơ lược lắm. Vì rằng trong thời-đại Bắc-thuộc, người mình chưa được tiến-hóa, sự học-hành còn kém, sách-vở không có, cho nên về sau những nhà làm sử của ta chép đến thời-đại này cũng không kê-cứu vào đâu được, chỉ theo sử Tàu mà chép lại thôi. Vả, người Tàu lúc ấy vẫn cho mình là một xứ biên-địa dã-man, thường không ai lưu tâm đến, cho nên những chuyện chép ở trong sử, cũng sơ-lược lắm, mà đại-để cũng chỉ chép những chuyện cai-trị, chuyện giặc-giã, chứ các công việc khác thì không nói đến.


Thời-đại Bắc-thuộc dai-dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời-đại ấy dân-tình thế-tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn-minh của Tàu một cách rất sâu-xa, dẫu về sau có giải-thoát được cái vòng phụ-thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh- hưởng của Tàu. Cái ảnh-hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc-túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ-bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy-gội cho sạch được. Những nhà chính-trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu-tâm về việc ấy, thì sự biến-cải mới có công-hiệu vậy.


Thời-đại thứ ba là Thời-đại tự-chủ, kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến Sơ-diệp nhà Hậu-Lê. Nước mình từ thời đại ấy về sau là một nước độc-lập, tuy đối với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ thực là không ai xâm-phạm đến cái quyền tự-chủ của mình.


Buổi đầu, nhà Đinh, nhà Lê mới dấy lên, còn phải xây-đắp cái nền tự-chủ cho vững-bền, phải lo sửa-sang việc võ-bị để chống với kẻ thù-nghịch, cho nên sự văn-học không được mở-mang lắm. Về sau đến đời nhà Lý, nhà Trần, công-việc ở trong nước đã thành nền-nếp, kẻ cừu-địch ở ngoài cũng không quấy-nhiễu nữa, lại có nhiều vua hiền tôi giỏi nối nhau mà lo việc nước, cho nên từ đó trở đi việc chính-trị, việc tông-giáo và việc học-vấn mỗi ngày một khai-hóa ra, làm cho nước ta thành một nước có thế-lực, bắc có thể chống được với Tàu, nam có thể mở rộng thêm bờ-cõi. Nhà Lý và nhà Trần lại có công gây nên cái quốc-hồn mạnh-mẽ, khiến cho về sau đến đời Trần mạt, nhân khi họ Hồ quấy-rối, người Tàu đã toan đường kiêm-tính, người mình biết đồng tâm hiệp lực mà khôi-phục lại giang-sơn nhà. Kế đến nhà Lê, trong khoảng một trăm năm về buổi đầu, nước mình cũng có thể gọi là thịnh-trị, nhất là về những năm Quang-thuận (1460-1469) và Hồng-đức (1470-1497), thì sự văn-trị và võ-công đã là rực-rỡ lắm. Nhưng về sau gặp những hôn-quân dung chúa, việc triều-chính đổ-nát, kẻ gian-thần dấy-loạn. Mối binh-đao gây nên từ đó, người trong nước đánh giết lẫn nhau, làm thành ra nam bắc chia rẽ, vua chúa tranh quyền. Ấy thật là một cuộc biến lớn ở trong nước vậy.




Thời-đại thứ tư là Nam-bắc phân-tranh, kể từ khi nhà Mạc làm sự thoán-đoạt cho đến nhà Tây-sơn. Trước thì nam Lê, bắc Mạc, sau thì Nguyễn nam, Trịnh bắc, sự cạnh-tranh càng ngày càng kích-liệt, lòng ghen-ghét càng ngày càng dữ-dội. Nghĩa vua tôi mỏng-mảnh, đạo cương-thường chểnh-mảng: nước đã có vua lại có chúa. Trong Nam ngoài Bắc mỗi nơi một giang-sơn, công việc ở đâu chủ-trương ở đấy. Tuy vậy việc sửa-đổi ở ngoài Bắc cũng có nhiều việc hay, mà việc khai-khẩn trong Nam thật là ích-lợi. Nhưng cuộc thành-bại ai đâu dám chắc, cơn gió-bụi khởi đầu từ núi Tây-sơn, làm đổ-nát cả ngôi vua cùng nghiệp chúa. Anh em nhà Tây-sơn vẫy vùng không được 20 năm, thì bản-triều nhà Nguyễn lại trung-hưng lên, mà đem giang-sơn về một mối, lập thành cái cảnh-tượng nước Việt-nam ta ngày nay vậy.


Thời-đại thứ năm là Cận-kim thời-đại, kể từ vua Thế-tổ bản-triều cho đến cuộc Bảo-hộ bây giờ. Vua Thế-tổ khởi đầu giao-thiệp với nước Pháp-lan-tây để mượn thế-lực mà đánh Tây-sơn. Nhưng về sau vì những vua con cháu Ngài đổi chính sách khác, nghiêm-cấm đạo Thiên-chúa và đóng cửa không cho ngoại-quốc vào buôn-bán. Những đình-thần thì nhiều người trí-lự hẹp-hòi, cứ nghiễm-nhiên tự-phụ, không chịu theo thời mà thay-đổi. Đối với những nước ngoại dương, thì thường hay gây nên sự bất hòa, làm cho nước Pháp phải dùng binh-lực để bênh-vực quyền-lợi của mình. Vì những chính-sách ấy cho nên mới thành ra có cuộc Bảo-hộ.


Đại-khái đó là những mục lớn trong những phần mà soạn-giả đã theo từng thời-đại để đặt ra. Soạn-giả đã cố sức xem-xét và góp-nhặt những sự ghi-chép ở các sách chữ Nho và chữ Pháp[1], hoặc những chuyện rải-rác ở các dã-sử, rồi đem trích bỏ những sự huyền-hoặc đi mà soạn ra bộ sách này, cốt để người đồng-bang ta biết được chuyện nước nhà mà không tin nhảm những sự huyễn-hoặc. Thời-đại nào nhân-vật ấy và tư-tưởng ấy, soạn-giả cứ bình-tĩnh cố theo cho đúng sự thực. Thỉnh-thoảng có một đôi nơi soạn-giả có đem ý-kiến riêng của mình mà bàn với độc-giả, thí-dụ như chỗ bàn về danh-hiệu nhà Tây-sơn thì thiết-tưởng rằng sử là của chung cả quốc-dân, chớ không phải riêng cho một nhà một họ nào, cho nên mới phải lấy công lý-mà xét đoán mọi việc và không vị tình riêng để phạm đến lẽ công-bằng vậy.

Độc-giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ Sử-lược chỉ cốt ghi-chép những chuyện trọng-yếu để hãy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách mà xem cho tiện. Còn như việc làm thành ra bộ sử thật là đích-đáng, kê-cứu và phê-bình rất tường-tận, thì xin để dành cho những bậc tài-danh sau này sẽ ra công mà giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hãy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu-xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hãy làm thế nào cho những thiếu-niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đôi chút sự-tích nước nhà, cho khỏi tủi quốc-hồn. Ấy là cái mục-đích của soạn-giả, chỉ có thế thôi. Nếu cái mục-đích ấy mà có thể tới được thì tưởng bộ sách này là bộ sách có ích vậy.

TRẦN TRỌNG KIM

Nhớ Quỳnh Lan


Một ngày mưa chiều như hoang vắng
một ngày mây có mấy phút vui
gió theo mây  ghẹo ngày mưa nắng
anh theo em xin chút ngọt bùi

Nhưng đừng nhé nắng vàng mưa trắng
vì mắt anh sáng tối nhạt nhòa
vì tai anh sợ nghe gió lộng
và môi anh thường thiếu nụ cười

Đêm ngạt thở và ngày vô vọng
còn gì vui giữa những thăng trầm
âm thanh lặng ngang trời đất trống
gió hoang vu đi đến âm thầm

Tâm hồn trống thì gì cũng trống
chỉ có trái tim còn chút khát thèm
rung điệu nhớ riêng mình vô vọng
anh nhớ em hoa nở môi mềm

Đêm quỳnh lan điểm sương trắng mộng
ngát hương đưa ngày gục bên thềm
chuyện tử sinh mặc trời cao rộng
vẫn thường tình di dịch dịu êm

Một ngày mưa là một ngày chết cứng
anh nhớ em như thú nhớ rừng
biết có kịp ghi lời di chúc
và không em ai nhỏ lệ dùm

Uất ngày đêm cách chia xa lắc

thương nhớ hai đầu giữa trống không.

Túy Hà

Thơ Tranh: Nhặt Lá Thu Rơi


Thơ: Thiên Thu
Thơ Tranh: Suối Dâu

Hành Lá


      Hành lá không chỉ là một loại gia vị trong nhà bếp mà còn đem lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe của bạn khi kết thân với chúng hàng ngày.
      Hành lá vốn được gọi bằng nhiều cái tên như hành xanh, hành ta. Nó là một kho lưu trữ của tất cả những điều tốt đẹp mà cơ thể bạn cần. Đây cũng là nguyên liệu rất quen thuộc với các bà nội trợ. Nó được sử dụng 
      Thực tế, hành lá có thể đem lại rất nhiều lợi ích đáng ngạc nhiên cho sức khỏe của bạn khi kết thân với chúng hàng ngày.

1- Giúp xương chắc khoẻ.
Bạn có biết 12 gm hành lá có chứa 20 microgram vitamin K và 1,6 mg vitamin C. Cả hai loại vitamin này đều rất cần thiết cho sự tăng trưởng và duy trì xương chắc khoẻ.
Trong hành có chứa một hợp chất có thể ngăn ngừa các hoạt động phá vỡ xương. Đặc biệt nó có lợi cho những phụ nữ có nguy cơ bị loãng xương khi họ đi qua thời kỳ mãn kinh.Thực tế, hành lá có thể đem lại rất nhiều lợi ích đáng ngạc nhiên cho sức khỏe của bạn khi kết thân với chúng hàng ngày

2- Giúp điều hòa lượng đường trong máu.
Hành lá là một kho tàng của allyl propyl và crom. Trong khi allyl propyl giúp làm giảm lượng đường trong máu, thì crôm có tác dụng điều chỉnh lượng đường và hạ thấp mức insulin trong máu.
Đó cũng là lý do khiến cho hành lá được xếp vào nhóm những thực phẩm tốt nhất giúp điều hòa nồng độ đường trong máu. Chromium trong hành tây giúp các tế bào trong cơ thể của bệnh nhân tiểu đường có phản ứng thích hợp để làm giảm mức độ insulin và cải thiện lượng đường glucose hấp thụ vào cơ thể. Bởi vậy, nó cũng được coi là thực phẩm đáng “kết thân” với những bệnh nhân tiểu đường.

3- Thúc đẩy một trái tim khỏe mạnh.
Hành lá là một thực phẩm thân thiện với trái tim. Sự hiện diện của Crom, vitamin B6 và lưu huỳnh giúp giữ trái tim của bạn khỏe mạnh. Crom không chỉ làm giảm lượng triglyceride và cholesterol xấu mà còn làm tăng lượng cholesterol tốt trong cơ thể, do đó bảo vệ trái tim của bạn khỏi những căn bệnh tiềm ẩn. Hành lá là một trong những loại gia vị chữa rất nhiều bệnh.
Những người mắc bệnh liên quan tới huyết áp cũng giúp cải thiện bệnh đáng kể khi ăn hành lá thường xuyên do sự hiện diện của kali. Nhờ sự ổn định của cả cholesterol và huyết áp, những rủi ro liên quan với nhồi máu cơ tim và đột quỵ cũng giảm đáng kể.

4- Giúp ngăn ngừa ung thư.
Khi ăn hành lá thường xuyên, bạn cũng làm giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư cho chính mình. Điều này là do sự hiện diện của flavonoid trong hành lá.
Quercitin là một flavonoid trong hành lá có thể ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư trong ruột kết, do đó làm giảm nguy cơ ung thư ruột kết. Bên cạnh đó, chất Kaempferol, một loại flavonoid khác trong hành lá cũng có tác dụng tích cực cho phụ nữ, làm giảm rủi ro liên quan với ung thư buồng trứng ít nhất là 40 %.

5- Giúp giảm viêm nhiễm.
Hành lá đóng vai trò “cứu trợ” hữu hiệu khi trong cơ thể đang có tình trạng viêm. Điều này là do rau ngăn chặn enzyme gây viêm trong cơ thể, đặc biệt là viêm khớp và bệnh gút.
Do đó, khi bị mắc các bệnh liên quan đến chứng viêm nhiễm thì bạn được khuyên là nên ăn nhiều hành lá để có được lợi ích chống viêm hiệu quả.
Nếu bị nhiễm trùng đường tiết niệu, bạn có thể đun sôi hành trong nước cho đến khi nước bốc hơi. Lọc lấy nước củ hành, để nguội và uống. Các đặc tính chống vi khuẩn của hành sẽ giúp làm giảm các cảm giác nóng khi tiểu tiện.

6- Giúp tăng cường miễn dịch.
Hành lá là một nguồn phytochemical phong phú. Chất này giúp hỗ trợ hệ thống miễn dịch rất tốt, đồng thời giúp loại bỏ các enzyme tạo ra các gốc tự do trong cơ thể con người. Nhờ vậy, giúp giảm thiểu đáng kể thiệt hại do các mô tế bào và DNA.
Vị hăng của hành làm tăng lưu thông máu và sự tiết mồ hôi. Đặc biệt trong thời tiết lạnh, hành có tác dụng tránh nhiễm trùng, giảm sốt và đổ mồ hôi ra cảm lạnh và cúm rất tốt.
Sự vắng mặt hoặc thiếu vitamin A có thể tạo ra một số loại rối loạn tầm nhìn bao gồm cả bệnh quáng gà, bảo vệ đôi mắt cho bạn .



7- Giúp tăng cường thị lực.
Sự vắng mặt hoặc thiếu vitamin A có thể tạo ra một số loại rối loạn tầm nhìn bao gồm cả bệnh quáng gà. Một thân cây hành xanh có chứa 24 microgram vitamin A có thể chuyển đổi thành retinol và bảo tồn sức khỏe mắt của bạn.
Do đó hành lá là một nguồn dinh dưỡng và vitamin tự nhiên, quan trọng chịu trách nhiệm về các hoạt động lành mạnh của mắt, trái tim và cơ thể nói chung. Thân và củ hành đều ăn được. Chúng có thể được ăn sống hoặc trộn lẫn trong salade, gỏi, nộm hoặc nước sốt. Không phụ thuộc vào cách tiêu thụ, có rất nhiều lợi ích sức khỏe của hành lá mà bạn không nên bỏ lỡ nguyên liệu này trong thực đơn của gia đình.

8- Giảm cholesterone và chống đông máu.
Chất sắt có trong hành tây chính là lý do tại sao hành tây được cho là rất tốt trong việc điều trị thiếu máu. Chỉ cần mỗi ngày ăn nửa củ hành thôi là bạn đã có thể tự giảm đáng kể lượng cholesterone cho mình và giúp bản thân ngăn ngừa những cơn đau tim.
Dù bạn ăn sống hoặc nấu chín, hành tây cũng giúp bạn hạ huy ết áp một cách tự nhiên. Nó cũng làm loãng máu, hòa tan cục máu đông và lọc máu khỏi các chất béo không lành mạnh.

9- Chống nhiễm khuẩn.
Hành có tác dụng tiêu diệt các vi khuẩn lây nhiễm, bao gồm cả vi khuẩn E.coli và Salmonella. Ngoài ra, nó còn có hiệu quả chống lại bệnh lao và nhiễm trùng đường tiểu, chẳng hạn như viêm bàng quang.
Ngoài ra, hành có thể giúp giảm tình trạng táo bón mãn tính và đầy hơi. Cũng vậy, trong một số nền văn hóa, chỉ cần nhúng bông vào nước ép hành và chấm vào tai có thể chống ù tai.




Lê Quan Vinh - Sưu tầm