Soạn Hòa Âm và Trình Bày: Nguyễn Đức Tri Tâm
tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014
Lá Thư Định Mệnh
- Lâu quá mới gặp lại em, từ xa chị nhìn hoài nhưng đoán không ra là ai.
-Dạ! Từ khi toàn khu xóm của cô bị giải tỏa, nhà cô dời vào khu đất mới nên Tuyết không tiện để ghé thăm. Sẳn sáng nay ra chợ mua ít đồ nên Tuyết ghé ngang qua nhà chị, may mắn bửa nay có chị ở nhà.
Hồng mời Tuyết vào nhà, mở tủ lạnh rót cho Tuyết một ly trà lạnh trao cho Tuyết:
- Chị cũng rất vui mừng gặp lại em!
Hồng mời Tuyết vào nhà, mở tủ lạnh rót cho Tuyết một ly trà lạnh trao cho Tuyết:
- Chị cũng rất vui mừng gặp lại em!
Hồng bảo Tuyết ra băng đá trước nhà ngồi cho mát để hai chị em tâm sự.
- Ừ! Cũng hơn mười năm rồi, căn nhà của má chị dời vào khu đất mới. May mắn nhà của chị không nằm cạnh mé sông nên vẫn còn đến nay.
Hồng chỉ tay về công viên đối diện bên đường:
- Em thấy đó, từ chân cầu đến trường học trung học Nguyễn Tường Tộ bây giờ là khu công viên Sông Tiền; cái xui thành ra cái may đó em!
Tuyết ngạc nhiên:
- Sao vậy chị?
- Dọc mé sông đất lở sụp gần hết, còn vài căn nhà nữa là đến ngôi nhà của má chị rồi! Mấy người trong xóm đều dọn vào khu đất mới, xưa là đồng ruộng, tiền bồi thường chỉ vừa đủ xây một căn nhà nhỏ để ở. Lúc đó bà con lo rầu và than vãn hoài! Nhưng bây giờ khu đất đó có giá nhất ở tỉnh mình đó em!
- Dạ! Em có nghe qua!
- Dạ! Em có nghe qua!
- Bây giờ ai ở căn nhà của cô vậy chị?
Hồng trả lời:
- Thì mẹ con của con Cúc nó ở đó em!
- Còn anh Đức, Mai Thảo và Nguyệt Lan bây giờ ra sao hở chị?
- Ba đứa nó ở nước ngoài, cuộc sống bây giờ cũng ổn định. Thỉnh thoảng hai cô em có về thăm gia đình nhưng Đức thì chưa về bao giờ.
- Chị nhắc đến Nguyệt Lan làm cho em nhớ lại chuyện xưa khi mới quen chồng em. Lan có kể cho chị nghe không?
Chợt Tuyết nhìn qua công viên đối diện. Xưa nơi đó có một căn nhà lầu nhỏ, trước nhà có hai cây me rợp bóng, phía sau là xóm nhỏ dọc theo sông Tiền Giang. Từ bờ nhìn qua bên kia là cù lao An Thành, xa hơn nữa thì nhìn thấy được bắc Mỹ Thuận. Tuyết nghe cô kể lại là sau khi dượng mất, khoảng năm 1960 từ tiệm tạp hóa cô sửa lại thành quán cà phê nho nhỏ, có đèn màu, nhạc yêu cầu, nhạc Việt, và nhạc Ngoại Quốc từ sáng cho đến 12 giờ khuya, từ đầu xóm đến cuối xóm ai cũng nghe. Lúc đó không nghĩ đến tiếng nhạc lớn quá sẽ làm phiền người trong xóm, mà từ lâu không nghe ai phàn nàn gì cả!
Tuyết buông tiếng thở dài….nhớ lại những ngày tháng xưa, nơi đã cho nàng biết bao là kỷ niệm.
***
Tuyết mới mười lăm tuổi, sống ở ruộng vườn nhưng nàng là cô gái quê duyên dáng, nước da trắng, đôi mắt đẹp đuôi mắt hơi xếng lên, sóng mũi dọc dừa, miệng nhỏ, môi son, hàm răng trắng đều đặn, nét đẹp tự nhiên không cần trang điểm, dễ gây thiện cảm với nhiều người.
Thời gian đầu làm việc, Hồng dạy cho Tuyết giá tiền, tên gọi của các loại nước ngọt, cà phê đen (xây chừng) cà phê sữa (xây nạy), bạc xỉu phé, v. v… Với tính lanh lẹ, thông minh và nhớ dai nên Tuyết học rất nhanh.
Mỗi lần được tiền lương,Tuyết gởi một ít về quê cho cậu mợ và nhín lại chút đỉnh để mua quần áo. Vài tháng, Tuyết sắm thêm một cái áo bà ba bằng tơ và quần sa teng đen bóng; có lẽ đây là ước mơ của Tuyết từ lâu. Mỗi ngày trong tuần,Tuyết mặc một màu áo vì thế ai cũng nói Tuyết có cá tính đặc biệt. Khách của quán hường gọi Tuyết là “Cô Tuyết quán Cây Me”.
Từ ngày có Tuyết quán đông khách hẳn lên! Buổi trưa khi các nam học sinh có giờ trống hoặc lúc tan trường thường ghé lại uống cà phê hoặc ngồi cạnh cửa quán để nhìn các cô nữ sinh tan trường về. Chiều cuối tuần quán thêm đông khách, đôi khi là các anh sinh viên từ Saigon về thăm nhà hay các anh lính, sĩ quan thường ghé quán, nơi đây cũng là điểm hẹn để bạn bè gặp nhau..Đăc biệt, có một khách hàng quen thuộc là một nam học sinh của ngôi trường gần quán , trưa nào cũng hay đến ngồi hàng giờ. Tuyết nghĩ anh chàng này có giờ trống hay cúp cua mà ngày nào cũng thế! Đến một ngày nhân lúc Tuyết đến bàn để tính tiền, anh ta len lén đưa cho Tuyết một cuốn tiểu thuyết và nói:
- Tôi vừa coi xong cuốn tiểu thuyết này thấy rất hay, muốn đưa cho Tuyết xem thử!
Tuyết nhận quyển sách nói thầm trong bụng: “Trời ơi! Làm sao mà mình đọc được đây!” nhưng miệng vẫn tươi cười:
Tuyết nhận quyển sách nói thầm trong bụng: “Trời ơi! Làm sao mà mình đọc được đây!” nhưng miệng vẫn tươi cười:
-Tuyết cám ơn anh Dân. Khi đọc xong Tuyết sẽ trả lại anh!
Dân mỉm cười, đứng dậy trả tiền rồi ra về.
Tuyết vội vã cất cuốn tiểu tuyết vào ngăn tủ để chờ đến lúc vắng khách mở ra xem. Bên trong có một phong thơ với bao bì trang nhã, nét rất đẹp. Nhìn lá thơ Tuyết mãi phân vân: “Ừ, không biết Dân viết gì trong ấy!”.
Dân mỉm cười, đứng dậy trả tiền rồi ra về.
Tuyết vội vã cất cuốn tiểu tuyết vào ngăn tủ để chờ đến lúc vắng khách mở ra xem. Bên trong có một phong thơ với bao bì trang nhã, nét rất đẹp. Nhìn lá thơ Tuyết mãi phân vân: “Ừ, không biết Dân viết gì trong ấy!”.
Đứng ngồi không yên nhưng đành phải đợi Nguyệt Lan tan học về mới nhờ đọc dùm. Cuối cùng Nguyệt Lan cũng về đến! Chưa kịp vào phòng thay áo dài và cất cặp vở, thì Tuyết vội vàng trao thư cho cô em nhờ đọc dùm. Nhỏ đọc xong và nói:
- Tuyết ơi, lá thư “tỏ tình” mà sao đưa cho Lan đọc chi vậy?
Từ lâu Nguyệt Lan cũng quên hẳn là Tuyết không biết đọc và viết. Nhỏ chợt nhớ lại trước đây má có kể cho gia đình nghe hoàn cảnh của Tuyết, lâu nay dường như trong gia đình ai cũng quên điều nầy!
Nhớ khi xưa Tuyết làm cho cả nhà ngạc nhiên về tài tính nhẩm nhanh nhẹn và chính xác. Có những lần trong quán có vài bàn đông khách từ tám đến mười người ngồi một bàn, ai gọi thức uống gì Tuyết đều nhớ rõ, khi dọn ra cho khách không bao giờ sai lệch!
- Tuyết ơi, lá thư “tỏ tình” mà sao đưa cho Lan đọc chi vậy?
Từ lâu Nguyệt Lan cũng quên hẳn là Tuyết không biết đọc và viết. Nhỏ chợt nhớ lại trước đây má có kể cho gia đình nghe hoàn cảnh của Tuyết, lâu nay dường như trong gia đình ai cũng quên điều nầy!
Nhớ khi xưa Tuyết làm cho cả nhà ngạc nhiên về tài tính nhẩm nhanh nhẹn và chính xác. Có những lần trong quán có vài bàn đông khách từ tám đến mười người ngồi một bàn, ai gọi thức uống gì Tuyết đều nhớ rõ, khi dọn ra cho khách không bao giờ sai lệch!
Lưỡng lự và có chút tò mò, Nguyệt Lan cười và nói:
- Ừ, xin lỗi! Vây để Lan đọc tỉ mỉ cho Tuyết nghe nha!
- Ừ, xin lỗi! Vây để Lan đọc tỉ mỉ cho Tuyết nghe nha!
Theo lời yêu cầu của Tuyết, Lan đọc đi đọc lại lá thư không biết là mấy lần. Thấy gương mặt Tuyết rạng rỡ, nhỏ hỏi:
- Bây giờ Tuyết tính làm sao trả lời?
- Còn hỏi gì nữa? Sẳn đọc thư thì viết trả lời luôn giùm đi!
- Trời ơi, đâu có được!
- Trời ơi, đâu có được!
- Ừ, thì viết đại khái là Tuyết cám ơn lá thơ và nhận lời mời đi “Vườn dưa gang” với Dân là được rồi!
- Tuyết biết khi nam nữ học sinh hẹn hò đi vườn dưa gang là để chi không?
Tuyết ngập ngừng giây lát, rồi nói:
- Bởi vì không biết nên Tuyết muốn đi thử cho biết!
Nguyệt Lan đùa:
- Ồ! Chỉ có ý nầy thôi sao?
Thấy Tuyết thẹn đỏ mặt, nên Lan cười thương hại:
- Vậy thì chờ Lan học bài xong thì sẽ viết thử!
* * *
Như lời hứa và vì tò mò nên sau khi học bài xong, Lan lấy lá thơ ra đọc lại vài lần nữa. Nhỏ bắt đầu ngồi “thả hồn” viết thư hồi âm cho cô chị nầy.
Viết thư xong Lan đọc lại cho Tuyết nghe, rất hài lòng lá thư hồi âm nên Tuyết yêu cầu Lan đọc đi đọc lại đến năm bảy lần! Cầm lá thư trên tay mà lòng Tuyết vô cùng hớn hở. Tuyết đâu có biết cô em này là dân ghiền chuyện “Hoa Tím”, kệ sách trong phòng đầy chuyện tình thơ mộng của tuổi hoa học trò mà Mai Thảo và Nguyệt Lan thay phiên nhau mua từ lúc bắt đầu bước vào Trung học.
Tuyết xem đi xem lại lá thư miệng luôn khen Nguyệt Lan có chữ viết rất đẹp, nét nghiêng nghiêng thêm mực tím thật lãng mạn. Tuyết nhủ thẩm:“Chắc là Dân sẽ vui lắm khi nhận được lá thư này!”.
Như thườnng lệ, Dân đến quán tìm vào góc bàn hay ngồi mỗi trưa. Khi quán hơi vắng khách, Tuyết trao vội quyển tiểu thuyết cho Dân mà gương mặt ửng hồng vì thẹn! Dân mỉm cười khi nhận lại quyển sách, ngồi nán lại thêm một vài phút, trả tiền cà phê rồi ra về.
Ngày sau, Dân đến quán cũng gọi ly cà phê sữa đá như mọi ngày nhưng dường như vị cà phê trưa nay hương vị thơm ngon và ngọt lạ lùng! Đang lim dim phì phà khói thuốc thả hồn mơ mộng, Dân bỗng giựt mình khi nghe Tuyết đến cạnh bàn và hỏi:
- Anh Dân đọc lá thư của Tuyết chưa?
Có chút lúng túng, Dân trả lời:
- Rồi Tuyết ạ! Anh muốn hẹn với Tuyết trưa thứ Sáu mình đi được không?
Không chần chờ, Tuyết trả lời:
- Vậy cũng tiện, vì trưa thứ sáu quán sẽ vắng hơn buổi chiều, Tuyết có thể xin phép cô, ra ngoài vài tiếng, chắc là không sao!
Dân đứng đợi Tuyết bên dốc cầu phía bên kia quán cà phê, dưới chân cầu có bóng mát của cây xoài hoang. Dân cười tươi khi Tuyết tiến lại gần, mời nàng lên Honda chở đến điểm hẹn. Dân cho xe ngừng lại trước một quán lá trong một đường nhỏ hơi xa phố, Dân nắm tay Tuyết bước vào quán và chọn một góc bàn trống.
Tuyết nhìn xung quanh có chút ngạc nhiên nên hỏi nhỏ Dân:
- Vườn dưa gang đâu sao không thấy mà anh dẫn Tuyết vô quán lá này vậy?
***
Ngày chờ đợi rồi cũng đến, Tuyết mặc áo bà ba mới màu hồng đào và quần sa teng đen bóng, chảy lại mái tóc rồi nhìn thoáng trong gương, mỉm cười hài lòng với chính mình! Tuyết xuống lầu thưa cô rồi rời nhà.Dân đứng đợi Tuyết bên dốc cầu phía bên kia quán cà phê, dưới chân cầu có bóng mát của cây xoài hoang. Dân cười tươi khi Tuyết tiến lại gần, mời nàng lên Honda chở đến điểm hẹn. Dân cho xe ngừng lại trước một quán lá trong một đường nhỏ hơi xa phố, Dân nắm tay Tuyết bước vào quán và chọn một góc bàn trống.
Tuyết nhìn xung quanh có chút ngạc nhiên nên hỏi nhỏ Dân:
- Vườn dưa gang đâu sao không thấy mà anh dẫn Tuyết vô quán lá này vậy?
Muốn cười thật lớn vì câu hỏi ngây thơ của cô quán cà phê đáng yêu nầy, Dân chỉ tay ra sau quán:
- Vườn ở phía sau của quán, nếu Tuyết quay lưng lại thì sẽ nhìn thấy!
Tuyết nhìn theo hướng Dân chỉ thì thấy nhiều luống đất thẳng hàng, các trái dưa gang được cẩn thận bọc lại bằng rơm khô nằm xen lẫn trong dây và lá xanh.
Dân nói tiếp:
- Tuyết có biết tại sao học trò hay hẹn đi “vườn dưa gang” không?
- Dạ không!
Dân ngập ngừng trả lời:
- Vì nơi đây yên tỉnh, các cô cậu thường vào quán vắng ăn dưa gang và tâm tình!
Dân ngừng giây lát, rồi nói tiếp:
- Vào mùa dưa chín, chủ vườn không hái dưa đem ra chợ bán nhưng chỉ bày bán tại quán cho khách đến ăn dưa tươi.
Tuyết nói:
- Người có ý kiến này cũng hay quá anh Dân há!
- Ừ, thật ra dưa gang không ngọt nhưng mình cho đường và đá sẽ thơm ngon và mát. Có người sang hơn thì cho thêm chút sữa đặc vào, khi ăn sẽ ngon hơn nhiều!
Cô bé hầu bàn đến hỏi:
Cô bé hầu bàn đến hỏi:
- Anh chị dùng chi?
Dân quay sang hỏi Tuyết, nhưng Tuyết để cho Dân quyết định dùm mình.
- Cho hai ly dưa gang đường, sữa và đá nhưng dùng đá đập chứ không dùng đá bào nhe em!
- Dạ, anh chị chờ một chút!
Ngồi chờ vài phút, thức uống mang đến, hai ly dưa gang thơm và mát lạnh. Dân thân mật khuấy ly thức uống cho Tuyết. Hai người vừa uống vừa nói chuyện cũng gần hai tiếng, đến khi hết ly dưa gang thứ hai thì mới tính tiền ra về.
Chuyện Tuyết và Dân quen nhau, người trong gia đình của cô dường như ai cũng biết. Một buổi chiều sau sáu tháng liên tiếp hẹn hò, Tuyết xin phép cô cho về quê để gia đình của Dân đến coi mắt. Tuyết cũng ngỏ lời xin lỗi cô vì sợ bị rầy nên đã giấu cô mình mấy tháng qua. Tuyết đâu có biết là cô vui mừng khôn xiết vì cháu gái mình có người hỏi cưới đàng hoàng, mai nầy sẽ có một nơi nương tựa tốt.
Chuyện Tuyết và Dân quen nhau, người trong gia đình của cô dường như ai cũng biết. Một buổi chiều sau sáu tháng liên tiếp hẹn hò, Tuyết xin phép cô cho về quê để gia đình của Dân đến coi mắt. Tuyết cũng ngỏ lời xin lỗi cô vì sợ bị rầy nên đã giấu cô mình mấy tháng qua. Tuyết đâu có biết là cô vui mừng khôn xiết vì cháu gái mình có người hỏi cưới đàng hoàng, mai nầy sẽ có một nơi nương tựa tốt.
* * *
Chuẩn bị đâu vào đó, Tuyết nhờ Thảo pha trà, mang bánh ra để cúng trên bàn thờ ông bà và tiếp đãi họ hàng. Cậu mợ đang ngồi chờ Tuyết lạy xuất giá . Tuyết mặc chiếc áo dài màu hồng thêu bông, trên đầu cài một đóa hoa vải, thoa một tí son môi, ngắm mình sơ qua trước gương rồi bước ra chào ba má và họ hàng. Lễ lạy xuất giá bắt đầu, vừa dâng rượu cho ba má mà Tuyết khóc nức nở.
Sau khi xong lễ, Tuyết vào trong thay đồ, Thảo hỏi:
- Sao lúc lạy ba má Tuyết nhiều khóc vậy?
- Ừ, khi nào Thảo có chồng thì sẽ biết!
Tuy là nguời tỉnh thành nhưng Dân thích làm lễ cưới theo miệt vườn. Thay vì xe đò, Dân thuê ba chiếc ghe lớn có hàng ghế hai bên để ngồi, đủ cho gia đình đi xuống quê rước dâu và mời họ hàng đàn gái lên thành dự tiệc. Buổi rước dâu cử hành khá trịnh trọng. Cậu của Tuyết thật vui mừng và hảnh diện với người trong xóm, tuy Tuyết không phải là con gái ruột của mình.
Gia đình chồng của Tuyết không giàu nhưng cuộc sống cũng gọi là sung túc. Tuyết được sự thương yêu của ba má chồng và các em. Nghỉ học sau khi lập gia đình, Dân cùng vợ phụ giúp ba má lo chuyện bán buôn của tiệm tạp hóa trước nhà, hai vợ chồng son sống thật hạnh phúc.
Sống với nhau gần nửa năm thì Dân mới khám phá ra Tuyết không biết viết và biết đọc! Lòng mãi thắc mắc về lá thư hồi âm của Tuyết khi xưa, vì nó đã cho Dân nhiều ấn tượng về cô quán cà phê dễ mến. Sau bao ngày suy nghĩ, cuối cùng Dân quyết định hỏi vợ cho ra lẽ. Kể cho Dân nghe sự thật mà Tuyết không cầm được nước mắt.
Sự thất vọng hiện lên nét mặt của chồng làm cho Tuyết lo lắng vô cùng! Riêng Dân miên man nghĩ ngợi đến những ngày tháng quen nhau, chuỗi ngày sống êm đềm sau ngày cưới, sự yêu thương của Tuyết dành cho mình, sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, thương và chăm sóc đàn em như ruột thịt . Tất cả điều nầy đã bù đấp lại lỗi của Tuyết, bao nhiêu hờn giận dần tan biến trong lòng của Dân. Từ đấy hai vợ chồng vui sống hạnh phúc vài năm sau thì hạ sanh được một bé gái và một bé trai.
Sau 1976, cuộc sống của gia đình ngày càng khó khăn, từ thành thị đến thôn quê nơi nào cũng đều gặp cảnh gạo châu củi quế, dường như số lượng người bán nhiều hơn người mua. Ba mẹ chồng sức khỏe ngày càng yếu, buôn bán không mang lại lợi nhuận nhiều nên hai vợ chồng Tuyết thay ba má lo chuyện cơm áo cho gia đình.
Sau ngày ba mẹ chồng qua đời, Tuyết vất vã hơn nhiều! Đóng cửa tiệm tạp hóa, Dân chạy Honda ôm ngày hai buổi,Tuyết bán cơm và hủ tiếu trước nhà, quần quật suốt ngày. Vừa lo việc buôn bán, vừa chăm sóc con, vừa lo cho mấy đứa em chồng ăn học, trách nhiệm trĩu nặng đôi vai nhưng không bao giờ Tuyết than thở.
Riêng Dân, chạy xe cũng ế ẩm, giang nắng suốt ngày mà tiền kiếm không được bao nhiêu. Sau đó bán đi chiếc Honda để đủ chi phí trong gia đình và mua một chiếc xe đạp đón đưa khách để tiếp tục phụ vợ kiếm cơm hai bữa. Nghề xe đạp ôm thật vất vả lại ít tiền làm cho Dân thất chí nên sau giờ nghỉ anh ta thường theo bạn bè trong xóm nhậu cho đến tối. Trách nhiệm kiếm tiền của Dân ngày càng thưa thớt, khi về đến nhà lúc nào cũng say bí tỉ.
Nhớ đến đây Tuyết rưng rưng khóc, rút lấy khăn “mù xoa” ra lau mắt, nói tiếp:
- Chị có biết đôi khi em thấy chồng của người ta chết mà phát ham!
Hồng vội nói:
- Em không nên nói như vậy, tội chết đó cưng!
- Chồng em lúc đầu chỉ qua lại nhậu lai rai với bạn, riết thành ghiền! Lúc đầu chỉ vào buổi chiều, nay thì sáng sỉn chiều say!
Nghe Tuyết kể đến đây, Hồng khẻ thở dài và hỏi:
Nghe Tuyết kể đến đây, Hồng khẻ thở dài và hỏi:
- Còn hai đứa con em bây giờ ra sao?
Nghe Hồng nhắc đến con mình, ánh mắt của Tuyết chợt sáng lên:
Nghe Hồng nhắc đến con mình, ánh mắt của Tuyết chợt sáng lên:
- Dạ! Hai đứa vẫn được em lo cho đi học đàng hoàng. Tụi nó học cũng khá vì trước đây chồng em thường xuyên kềm cho chúng mỗi tối!
Tuyết ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Đứa con gái của em có chồng cũng hơn năm nay rồi đó chị!
- Còn cháu trai thì sao?
- Dạ, nó đang học lớp mười một.
Tuyết ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Đứa con gái của em có chồng cũng hơn năm nay rồi đó chị!
- Còn cháu trai thì sao?
- Dạ, nó đang học lớp mười một.
Thấy Tuyết vui trở lại và vơi bớt nước mắt, Hồng bớt lo lắng! Thân mật nắm lấy bàn tay của cô em và nói:
- Chị thấy Tuyết giỏi giang lắm! Em vừa làm mẹ, vừa làm cha mà chu đáo lo cho hai con học hành. Bây giờ lại làm sui gia với người ta nữa chớ!
- Vì em không muốn cuộc đời của con bị khổ như em chị Hồng ạ!
Nghe Hồng khen làm Tuyết thấy vui và ấm lòng vì đã lâu lắm rồi nỗi lòng của mình không dám tỏ bày cùng một ai cả!
Tuyết nán lại chơi với Hồng vài phút rồi đứng dậy từ giã ra về, Hồng tiễn Tuyết ra cửa. Nhìn cô em ọp ẹp trong chiếc xe đạp cũ kỹ đang cố leo lên dốc cầu mà lòng của Hồng thật bùi ngùi cho số phận của cô em này!
Yên Dạ Thảo
Mùa Đông 2012
Mưa Học Trò - Từ Kế Tường
Sơ Lược Tiểu Sử:
Từ Kế Tường tên thật là Võ Tấn Tước, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1946,
quê quán tại xã Phú Vang, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Ông sống ở Sài
Gòn từ trước năm 1975. Từ 1969 ông đã bắt đầu viết văn, làm báo. Tính
đến 1975, ông đã xuất bản nhiều sách gồm: thơ, tập truyện ngắn, tiểu
thuyết, trong đó có các sách viết cho thiếu niên và nhi đồng.
Tháng 5 năm 1975, Từ Kế Tường gia nhập Hội Văn nghệ Giải phóng Sài
Gòn – Gia Định. Từ 1979 đến 1986 ông làm việc trong ngành Văn hóa thông
tin; từ 1986 đến 2003 làm Thư ký tòa soạn báo CA.Hiện nay, ông làm việc tại tuần báo Văn nghệ.
Từ Kế Tường là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông còn có bút danh khác là Phan Tường Niệm.
Tác phẩm đã xuất bản:
* Tiểu thuyết : Huyền xưa – Đường Phượng bay – Mùa áo vàng – Con
đường sỏi buồn – Áo tím qua đường- Còn những bóng mưa tan – Mối tình
sương khói – Tuyệt vời khi giã từ nhau – Một chút hương thời gian – Tới
một tuổi nào – Tình yêu có màu gì – Tìm nhau trong hương khói – Bông
hồng cho tình đầu – Áo vàng qua ngõ – Bờ vai nghiêng nắng – Cánh hồng
gai – Ngày vắng mưa thưa – Bầu trời màu trứng sáo – Hoa lưu ly không về…
* Thơ: Trên xác lá mùa hè – Thơ hồng – Khi bỏ trường mà đi – Tái hiện
một giấc mơ – Nửa đời ta yêu em – Áo còn vướng lại – Có tên một dòng
sông…
Cùng nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi.
Hình như là lất phất mưa
Đủ cho hạt bụi lên vừa mắt em
Tiếng ve ru cánh phượng mềm
Cháy trong vòm lá nỗi niềm tháng năm
Tóc dài từ thủa xa xăm
Thả trên vạt nắng xưa nằm nghiêng nghiêng
Mộng về một khoảng trời riêng
Mắt xanh cửa lớp ưu phiền gửi theo
Tay lùa ngọn gió trong veo
Mới thương mùa hạ rơi vèo như không
Hàng me xanh đến nao lòng
Tiếc chi một nét môi cong với chiều
Em về khua guốc liêu xiêu
Áo bay cuối phố dài theo mắt người
Hình như mưa lất phất cười
Hồn nhiên làm tuổi hai mươi biết buồn.
Từ Kế Tường
( Suối Dâu sưu tầm)
( Suối Dâu sưu tầm)
Nghẹn Ngào
Đêm khuya ánh sáng muôn màu
Phố xưa lặng lẻ kề nhau mái đầu
Anh ca em hát vui câu
Đôi ta thề hẹn một màu yêu thương
Bông hoa lài nở tỏa hương
Cách nhau mấy khúc sông tương sum vầy
Rồi ngày qua tháng lặng nầy
Anh đi em ở không may lạc loài
Mất nhau một cõi nghẹn ngào
Để đâu hơi thở dìu nhau cuối đường
Còn đâu phố cũ tên đường
Mộng còn hay thật viễn phương thẩn thờ
Lục Lạc
Thu Melbourne
Trời Melbourne vào Thu
Buổi sáng khoác sương mù
Ngồi đây nhớ Phố núi
Một thuở em và tôi
Buổi chiều chầm chậm trôi
Lặng lẽ trong ngậm ngùi
Nhớ em và Phố núi
Cuốn trôi một phận người.
Nguyễn Đức Tri Ân
Melb, 03/03/2014
Ngồi đây nhớ Phố núi
Một thuở em và tôi
Buổi chiều chầm chậm trôi
Lặng lẽ trong ngậm ngùi
Nhớ em và Phố núi
Cuốn trôi một phận người.
Nguyễn Đức Tri Ân
Melb, 03/03/2014
Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014
Gia Đình Bác Bùi Văn Thân Cảm Tạ
Vô cùng xúc động với lòng ưu ái của mấy cháu, cùng đồng hành, chia sẻ,
phân ưu và cầu nguyện hương linh Hiền Nội của Bác là Nguyễn Thị Xinh,
Pháp danh Đức Sanh vừa từ giã cõi trần.
Bác xin ghi nhận nơi đây và thành thật tri ân sâu xa cùng mấy cháu.
Bác xin cảm tạ cháu Huỳnh Hữu Đức
Cảm tạ hai cháu Phụng & Nhung Lê Quang
Cảm tạ cháu Kim Phượng
Cảm tạ cháu Kim Oanh
Cảm tạ cháu Suối Dâu
Cảm tạ cháu Lục Lạc
Tang gia đồng cảm tạ
Những Lời Cho Người Nằm Xuống
Sinh ra trong ba vạn sáu ngàn ngày
Sinh thì hữu hạng, tử bất kỳ nào hay
Sống còn lặn hụp biển khổ trần thế
Thác đi rồi một kiếp nghiệp trả vay
Những tưởng phu thê xum hợp mãi
Nào ngờ đâu tan rã kiếp bèo mây
Đành đôi đường u hiễn kể từ đây
Một phút chia ly ngàn năm nhung nhớ!
Trăm năm sóng biển bạc đầu
Người thương đã mất biết đâu mà tìm
Từ nay tăm cá bóng chim
Vào ra hiu quạnh con tim thẩn thờ!
Quang Thân
Bùi Văn Thân
Thành Kính Phân Ưu Cùng Gia Đình Bác Bùi Văn Thân
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Kính Gửi Bác Thân cùng Trung và Mỹ Lệ
Chúng cháu vừa nhận được tin muộn, Bác Gái Bùi Văn Thân, nhũ danh Nguyễn Thị Xinh,Pháp danh Đức Sanh đã mãn phần.
- Bác Gái sinh năm 1923
- Qua đời ngày 22-03 2014 - Nhằm ngày 22-02 năm Giáp Ngọ
- Tại Sydney - Australia
- Thượng Thọ 91 tuổi.
- Lễ an táng được tổ chức ngày 25-3-2014
Chúng cháu xin chia sẻ nỗi buồn mất mát với Bác Trai và Gia đình Trung, Mỹ Lệ.
Kính nguyện Hương Linh Bác Gái được sớm về Cõi Niết Bàn.
Đồng Kính Phân Ưu
Hai cháu Phụng, Nhung Lê Quang
Các cháu: Huỳnh Hữu Đức, Suối Dâu, Kim Phượng, Lục Lạc, Kim Oanh
Lên Chùa
Tinh sương bỏ bước lên chùa
Thấy con sông chảy giữa mùa xuân xanh
Chừng như hương bưởi hương chanh
Và hương thượng Phật trong manh áo vàng
Cỏ nằm đợi nắng sương tan
Tôi còn đợi tiếng chuông vang lên trời.
Lý Thừa Nghiệp
Lời Hay Ý Đẹp: Ấm Áp!
- Ấm áp không phải khi ngồi bên đống lửa, mà là ngồi bên cạnh người mà bạn thương yêu!
- Ấm áp không phải khi bạn mặc một lúc hai, ba áo, mà là khi bạn đứng trước gió lạnh, từ phía sau đến có ai đó khoác lên bạn một tấm áo.
- Ấm áp không phải khi bạn nói "ấm quá", mà là khi có người thì thầm với bạn:
"Có lạnh không?".
- Ấm áp không phải khi bạn dùng hai tay xuýt xoa, mà là khi tay ai kia khẽ nắm lấy bàn tay bạn.
- Ấm áp không phải khi bạn đội chiếc mũ len, mà là khi đầu bạn dựa vào một bờ vai tin cậy.
Chúc bạn mỗi ngày đều tốt hơn ngày hôm.
Về Chiều -Sưu tầm
Ngàn Thu Áo Tím - Hoàng Trọng - Thái Thanh
Có một thời cách nay đã lâu lằm rồi một sồ trường nữ sinh trung học mặc áo dài màu tím đi học, như Đồng Khánh ở Huế, Gia Long Trưng Vương ờ Sài gòn. . .Những tà áo dài ấy đã đi vào thơ nhạc của một số thi sĩ, nhạc sĩ. Bài hát này cũng là nhắc đến hình bóng tà áo dài tím ấy với một mối tình êm đẹp nhưng phải chia lìa trong đau thương như ý nghĩa của màu tím luôn buồn là như vậy.
Nhạc Sĩ: Hoàng Trọng
Ca Sĩ Thái Thanh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình
Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014
Bố Tôi
1.
Tuần trước, chúng tôi đã có cơ hội kể cho quý vị nghe 1 câu chuyện thật riệng tư, đó là chuyện về mẹ tôi, người đã từ giã cõi trần này vào đêm vọng lễ giáng sinh. Nói chuyện về 1 người đàn bà có chồng mà không nói đến ‘phân nửa còn lại’ thì có lẽ cũng có vài thiếu xót, nên xin 1 lần nưã, mượn những khoảng khắc sáng thứ bảy này để nói về ‘phân nửa kia’, đó là bố tôi.
Năm nay bố tôi đã 86 tuổi. Ông không bao giờ ngờ rằng người đàn bà kết duyên chồng vợ với mình 54 năm trước, trẻ hơn mình 1 con giáp lại ra đi trước mình. Năm 80 tuổi, bố tôi nói: “Mọi sự ở trần gian bố giao cho mấy mẹ con, lo sao thì lo; còn bố, bố chỉ lo suy nghĩ về chuyện đời sau”.
Người ta bảo ‘sống gửi thác về”. Lẽ sống chết trong đời sống con người phải chăng là thế. Trong 4 cái khổ theo nhà Phật là ‘Sinh Lão Bịnh Tử’ thì bố tôi đã trải qua được ba cái rồi, chỉ còn cái khổ cuối cùng thì ông đang chiêm niệm để chờ ngày bước tới. Ấy thế mà trong những ngày chơi vơi cuả tuổi già, Thiên Chuá lại cất đi cái xương sườn cụt cuả bố tôi để ông vốn chao đảo với cuộc đời, nay lại càng chao đảo thêm.
Thánh vịnh 89, câu 10 ghi nhận như sau:
“Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”
2.
Cái khổ nhất cuả tuổi già là sự cô đơn. Bố tôi từ trước đến nay dường như chỉ có 1 người chính để tâm sự, để nâng đỡ, để nhờ vả. Người đó là mẹ tôi. Trước đây mẹ tôi hay phàn nàn là bố không để cho mẹ ngủ qua đêm. Bởi vì mẹ tôi có thói quen ngủ sớm. Mới 9 giờ thì gà đã lên chuồng. Còn bố tôi thì mãi 10g30 tối mới ngủ. Mắt đã loà thì làm sao coi TV, đọc sách; nghe radio thì tai nghễnh ngãng phải mở thật to; thành ra mẹ tôi vẫn thường hay chiều bố ráng thức để nghe bố tỉ tê chuyện cuộc đời.
Không hiểu có phải vì thế hay chăng mà mẹ tôi trở thành phát ngôn viên cho bố. Điều gì bố muốn anh em trong nhà làm thì đều nói cho mẹ, rồi mẹ nói với anh em. Thế cho nên khi mẹ tôi chết, dường như trong gia đình mất đi hẳn cái gạch nối giưã bố và mọi người trong gia đình.
Trước đây, tôi vẫn chờ đến 8 giờ tối để nói chuyện với mẹ vì sau 8 giờ tối gọi Optus free. Thực ra, nhiều khi chuyện cũng chẳng có gì, lắm khi chỉ là 1 chuyện tầm phào nào đó nhưng có lẽ chỉ để nghe được tiếng cuả nhau, biết rằng mẹ khoẻ, bố khoẻ mà yên tâm.
Đã biết bao nhiêu lần tôi muốn tung hê tất cả mọi sự để trở về Adelaide sống, ấy thế mà cũng đã lê lết ở đất Melbourne này hơn 15 năm. May mà Trời cho bố mẹ tôi khoẻ mạnh, không mang 1 chứng bịnh gì gọi là nghiêm trọng nên 1 năm đôi lần gặp nhau xem ra cũng yên tâm 1 phần nào.
Có 1 tâm nguyện cuả mẹ mà tôi chưa toại nguyện là việc mẹ tôi muốn về lại quê hương thăm gia đình và bạn bè mà trong gia đình chẳng có ai đi cùng. Mấy năm trước khi bố tôi còn khoẻ mạnh thì cả hai người đã đi từ bắc ra nam trong 1 chuyến đi gọi là ‘dối già’ và giã biệt mọi người cùng 1 nhóm bạn già.
Bố tôi nay không đủ sức đi đâu nữa mà mẹ tôi, vốn là chân chạy vẫn còn muốn về nhưng ngại về 1 mình. Đã mấy lần rủ mà chúng tôi cứ khất lần. Mẹ tôi gạ gẫm: “Mẹ chỉ cần đưá nào cùng đi, đến được Saigon thì chả cần nữa, muốn đi đâu thì đi”. Bà vẫn ngại chuyến đi xa lỡ có trục trặc gì thì không biết ứng phó ra sao.
Chuyến đi ấy đã chẳng bao giờ xảy ra dù rằng đã thấp thỏm hẹn hò với bà bác bên Mỹ, hay với bạn bè ở những nơi xa xôi để cùng về gặp nhau nơi quê hương. 3.
Người xưa bảo rằng: “Hãy để kẻ chết lo cho kẻ chết, còn kẻ sống hãy lo cho kẻ sống”. Đám tang cho mẹ xong, điều làm bản thân chúng tôi lo nhiều nhất là cuộc sống cuả bố tôi từ đây. Căn nhà tổ mà bố mẹ tôi sinh sống từ trước đến nay, bây giờ 1 mình ông cụ không thể ở. Có cho 1 đưá cháu đến ở với ông thì cũng không xong vì vẫn phải lo cơm nước cho cả hai ông cháu. Thế nên đành phải bán nhà và bố tôi nay là kẻ không nhà, đi lưu vong thay phiên đến nhà 4 đưá em còn ở lại Adelaide mỗi đưá 1 tháng. Ông cụ nhất định không chịu lên Melbourne chơi vì muốn mỗi ngày có dịp ra mộ thăm.
Sáng thứ hai khi chúng tôi lái xe trở về Melbourne. Cả gia đình giã biệt căn nhà tổ, đưa bố tôi đến ở nhà đưá em, trên đường ghé thăm mộ, ông cụ đứng lặng thinh rồi quỳ xuống đầu mộ kể kể như bao lần đã kể lể cho mẹ tôi nghe mỗi tối. Ngày hôm ấy, khi đến nhà đưá em, ông cụ âm thầm lặng lẽ vào phòng dành cho mình, và ở luôn trong ấy không chịu ra ăn uống gì cả, suốt ngày chỉ ngồi nhìn bức hình cuả mẹ tôi mà thẫn thờ cầu nguyện, làm cho đưá em phải gọi tất cả những anh em còn ở Adelaide đến nhà dỗ dành ông cụ. Rủ ra mộ thăm thì mới xem ra nguôi ngoai đôi chút.
Có lẽ mấy tuần trước đây, dù thiếu mẹ, nhưng ngày nào tất cả các con cái đều quây quần chung quanh ăn uống đọc kinh mỗi tối. Nay mỗi người 1 phương hẹn nhau 100 ngày mới trở lại gặp nhau, làm cho ông cụ bỗng dưng thấy như hụt hẫng.
Bố ơi,
Nếu bố có nghe đài sáng hôm nay thì hãy can đảm lên nhé. Hành trình làm người phải chăng chỉ như đi đến 1 điểm hẹn để sống gửi thác về. Thiên Chuá ban cho con người 1 thân xác như chiếc áo bọc bao phủ phần hồn để sống để thở trong cõi đời này. Rồi cũng có lúc cái áo đó cũ kỹ đi, mục nát đi.
Con người như 1 giọt nước tình thương đi lang thang, đến cuộc đời để học hỏi và có để lại chăng chỉ là chút ít tình thương rải rác nào đó rồi trở về cùng Thiên Chuá là cha tình thương, là biển đại dương cuả yêu thương. Giọt nước lang thang đó nhập vào đại dương tình thương để làm thành 1 gạch nối giưã trời và đất, giưã đời này và đời sau.
Để từ nay, chúng ta tin rằng trên thiên quốc, sẽ có 1 người trong gia đình phù hộ cho chúng ta là những người còn phải đi cho trọn kiếp lầm than làm người cuả mình.
4.
Chuyện xưa kể rằng khi Huệ Tử thắc mắc tại sao Trang Tử lại vỗ trống mà hát khi vợ mình qua đời thì Trang Tử đáp:
Lúc nàng mới chết, tôi làm sao không khỏi buồn rầu.
Nhưng xét đầu tiên cả nàng vốn không sinh
Không những không sinh mà vốn không hình
Không những không hình mà vốn không khí
Lộn xộn trong cõi hoảng hốt,
biến mà có khí,
khí biến mà có hình,
hình biến mà có sinh;
nay lại biến mà chết:
những việc ấy có khác gì sự đi lại cuả bốn muà, xuân hạ thu đông ?
Người đã nằm yên trong ngôi nhà lớn, mà tôi lại đi theo khóc lóc,
như vậy tự thấy mình không thông hiểu mệnh, cho nên tôi không khóc”
Chúng ta sinh ra trần truồng, rồi lại trần truồng mà trở về lòng đất; chúng ta vốn từ cõi vô hình mà đến, rồi lại trở về cõi vô hình. Trang Tử vả các đệ tử cuả ông phải chăng đã hiểu được ý nghiã cuả thế giới vô thường, cho nên ‘cỡi trên sự biến hoá cuả lục khí, để dong chơi trong cõi vô cùng”.
Bản thân chúng tôi đã đi tham dự nhiều đám ma, nhưng chưa bao giờ có cái cảm nhận vưà đau xót vưà lạ thường như khi đi đám ma cuả mẹ mình. Phải chăng trước đây, khi đi đám ma là đi đám ma cuả ai đó, 1 người dù thân quen nhưng cũng không thể có cái cảm giác như xé ruột xé gan.
Nói như 1 chia sẻ cuả 1 nữ thính giả gửi đến thì những giọt nước mắt không chảy ra ngoài thì nó lại chảy vào tim, làm cho nhức nhối và đau đớn bội phần hơn nưã. Những cuộc chia ly, dù biết ‘sinh hữu hạn, tử vô kỳ’ và chẳng có ai trên đời này đưcợ trường sinh bất tử, rằng cha mẹ già rồi sẽ qua đời, nhưng khi điều ấy xảy đến, chúng ta lại dường như không thể chấp nhận được nó.
Thế cho nên, có những thoáng chợt khi kỷ niệm cũ ào đến, nước mắt ưá ra, chính lúc đó mới bật khóc trong lặng lẽ mà than rằng “má ơi, sao má bỏ con má ra đi”.
5.
Ngày xưa ở Việt Nam, gia đình chúng tôi theo thói thượng cuả người Hà Nội gọi cha mẹ mình là ‘cậu mợ’. Khi khôn lớn bố tôi bảo, người kinh đô lạ kỳ, chọn hai người xa họ nhất là cậu mợ để bảo con cái dùng gọi cha mẹ mình, thôi từ nay phải gọi lại cho chính danh. Ấy thế mà không hiểu sao trong khi người ta thường gọi ‘bố mẹ’ hay ‘ba má’ thì anh em chúng tôi lại nửa nam nưả bắc mà gọi là ‘bố má’.
Bài điếu văn đọc trong thánh lễ an táng trước khi tiễn mẹ tôi ra lòng đất, đoạn cuối ghi nhận như sau:
Chúng con nào có bao giờ ngờ rằng ngày hôm nay má ra đi, bỏ bố, bỏ các con bỏ các cháu ở lại cõi đời này. Còn biết bao nhiêu chuyện ngổn ngang trong lòng con muốn hỏi má, nay biết hỏi ai.
Từ trước đến giờ lúc nào má cũng là cột trụ cuả gia đình mình, chuyện lớn chuyện nhỏ đều từ tay má lo liệu. Những lúc anh em không đồng ý kiến, má là người kết hợp cho tình gia đình vẹn toàn.
Má là chỗ nương tựa từ tinh thần đến vật chất cho chúng con. Không biết có phải vì thế mà má đã ôm trọn những lo âu vào lòng âm thầm chịu đựng. Bao nhiêu lần cuộc đời làm cho má đau khổ, lắm khi má muốn tâm sự, thế mà chúng con lại vô tình không biết đến để chia sẻ cùng má.
Bố vẫn bảo, má họ VŨ, nên đã đem mưa hồng ân trên trời đến để tưới cho cây LÊ nhà mình tốt tươi. Cây LÊ ấy ngày hôm nay không còn được má chăm sóc dưới thế này nữa, nhưng với Đức Tin cuả người công giáo, chúng con luôn khẩn nài Thiên Chuá là cha tình yêu tha thứ những lỗi lầm nếu có cuả má ở trần thế. Chúng con tin rằng trên cõi trời cao, má sẽ vẫn phù trợ cho mọi người trong gia đình để các con, các cháu cũng sống sao cho nên người như sự trông mong dưỡng dục sinh thành cuả bố má.
Con có nói ngàn lời cũng không đủ cho hết những điều muốn nói. Giã biệt má yêu thương cuả chúng con.
Thân phận con người là bụi tro, đến từ bụi tro và trở về bụi tro, hôm nay chúng con xin tiễn đưa má trở về lòng đất.
Má ơi,
Má cuả con ơi, má có nghe tiếng con không ?
Minh Duy
Cảm Tác: Lạc Vào Chùa Hoa Âm
Lạc Vào Chùa Hoa Âm
Tình cờ lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
Nước reo suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm
Ngoài song tùng hát êm êm
Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
Tiếng chày đánh thức bình minh
Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.
Kim Oanh
* * *
Lạc Vào Chùa Hoa Âm
(Cảm tác từ Vào Chùa Hoa Âm của Kim Oanh)Lạc Vào Chùa Hoa Âm
Tình cờ lạc lối đến chùa Hoa
May thay được nửa chõng sư già
Sáng dậy ta tìm nơi xúc miệng
Đêm nằm trong trướng với mây sa
Trái thông rụng đập vô cửa sổ
Vượn hú bên sông muốn nhào qua
Bổng dưng tiếng mỏ làm ta thức
Mới biết mình đang mộng dưới hoa
Biện Công Danh
Người Về
Người đã đến từ trùng khơi sóng dữ
Tay trần lao dâng tặng ngút ngàn mưa
Mưa đẫm tình xanh
Mưa tràn tuổi dại
Mưa trùng phùng dập nát một thời vui
Người đã đến vung tay chèn mắt lửa
Miệng cười hư không
Môi méo mó lời ru
Ru đêm mây mưa
Ru ngày tục lụy
Đội trên đầu vụn vỡ mấy lời ru.
6/2/2004
Tín Đức
Nhớ - Tô Như
Đêm qua Phạm Thái nhớ Quỳnh Như
Đồng mạ xanh non nhớ vũng hồ
Chiêm nữ bâng khuâng ngồi nhớ bạn
Ngũ Hành Sơn... có nhớ Tây Du
Trọng Thủy lên đường nhớ Mỹ Châu
Ngưu Lang Chức Nữ nhớ nhau sầu
Cô Tô buồn nhớ Hàn Sơn Tự
Bến nước Tầm Dương... nhớ thuở nào
Biết rồi... Phạm Lãi nhớ Tây Thi
Chim nhớ... cành đa muốn trở về
Đêm cũ... xa xưa... đèn nhớ bóng
Đường Minh Hoàng... nhớ Dương Quý Phi
Khắc Chung... rong ruổi nhớ Huyền Trân
Kim Trọng... thương Kiều nhớ Thúy Vân
Trăm năm... bến nhớ con đò cũ
Biết Tấn rồi đây có nhớ Tần?
Lưu Bình trở giấc nhớ Châu Long
Lạc nẻo ai kia nhớ giống dòng
Nguyễn Huệ, Trưng Vương mình nhớ mãi
Con Hồng cháu Lạc... nhớ non sông
Bạch mã bên thành nhớ Trạng Nguyên
Chế Bồng Nga nhớ gót chinh yên
Mỵ Nương nhớ sáo Trương Chi lắm
Trăng nhớ hoàng hôn...em nhớ anh!!!!
Tô Như
(Huỳnh Hữu Đức sưu tầm)
Đỗ Vỡ (Ái Hữu 72)
Thế mà đã mười hai năm mài miệt ở ghế nhà trường,mười hai năm đầy kỹ niệm,giờ đây kết quả mười hai năm học là nhập ngủ.Đỗ vỡ tất cả,những gì hiện tại trong tầm tay đã vượt khỏi, tất cả đều đổỉ thay không còn gì cả .
Bây giờ mới thấy là mình đã quá ngu xuẩn, đã đánh mất tương lai không suy nghĩ,đã dìm sâu tất cả những gì hiện có và sẽ có xuống vũng bùn,nhưng đã quá muộn khi hối tiếc lại những gì mà mình đã đánh mất. Dù sao đi nữa thì ngày nhập ngủ đã gần, hối tiếc cũng bằng thừa,cứ nghĩ rằng ta sống với hiện tại xóa nhòa quá khứ và che lấp tương lai.
A.H.8 Quang
& A.H 15 Lộc dâng sớ trước Hoàng Thái Hậu( Má Tùng)
Sự săn sóc lo lắng của gia đình đã làm cho mình nghẹn ngào tủi thẹn,vì sao gia đình mình đã lo lắng săn sóc cho mình từng miếng ăn giấc ngũ với kỳ vọng độc nhất là đặt chân vào ngưỡng cửa đại học,nhưng mình đã làm phụ lòng tất cả kỳ vọng,xung quanh bất cứ ở đâu luôn luôn mình cũng thấy một dấu hỏi to tướng là mình đã làm được gì vừa lòng cha mẹ hay chưa? Chắc hẳn là không vì mình không đáp lại được sự mong ước của cha mẹ nơi mình là phải vào đại học.Không thể qui trách nhiệm cho ai,không thể đổ thừa cho định mạng,mà mình nhận thấy rằng đã chính mình tự đào hố để chôn mình,tuy đã tự hứa không nghĩ gì đến hiện tại và quá khứ nhưng mình vẫn cứ nghĩ,nghĩ mãi đến ngày phải rời xa thành phố Vĩnh Long thân yêu mang đầy kỹ niệm yêu đẹp nhất của mình nơi bao gồm tất cả những người thân của mình để vào quân trường,để khép mình vào khuôn phép sống một cuộc sống với câu châm ngôn hay đúng hơn là kinh nhật tụng “quân đội không ý kiến “
Còn sự khổ sở cùng cực nào khác hơn không? Nếu còn hãy đến ngay tức khắc,con người không thể chịu đựng quá mức, sự chán nản đến tột độ,tất cả sự khổ nhục hãy đến ngay trong giờ phút này,để rồi sau đó xin miễn đừng bao giờ đến với ta nữa,mình giờ đây chỉ còn ước mong duy nhất là được sống mãi dưới mái nhà thân yêu luôn gần gũi mấy người thân,đó chỉ là những ước vọng mà có, là những gì mình ước không bao giờ đến. Mình muốn gào thét lên, muốn sụp đổ tất cả, muốn điên lên được khi nghĩ rằng tại sao mình không được như người khác?
Dẫu sao đi nữa chuyện cũng đã rồi,giờ mình mới là Nguyễn Tất Nhiên là hữu lý khi sáng tác bài thơ
“thà như giọt mưa" với câu “ hy vọng mất rồi ta đợi ngày đi“ ./.
Phan Tấn Lộc
Nguyễn Khoa Nam - Thủ Khoa Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc
Ngày 12/12/2013 vừa qua Nguyễn Khoa Nam là một em Việt Nam được sinh ra và lớn lên tại Melbourne, Úc Châu, đã tốt nghiệp Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc tại Canberra và Học Viện Hàng Hải Hoàng Gia Úc HMAS Creswell với cấp bực Trung úy.
Nguyễn Khoa Nam
Nhưng điều đáng nói là Khoa Nam đã tốt nghiệp với ngôi vị thủ khoa của khoá huấn luyện bốn năm. Khoa Nam được vinh dự đại diện khóa cầm kiếm dẫn đầu các tân sĩ quan tiến ra lễ đài và đại diện trường để chào đón bà Toàn Quyền, đại diện Nữ Hoàng Anh tại Úc, và giới thiệu các bạn đồng trang lứa với bà và các quan khách.
Nguyễn Khoa Nam được vinh dự đại diện khóa cầm kiếm dẫn đầu các tân sĩ quan tiến ra lễ đài
Điều ngạc nhiêu hơn nữa khi vị chưởng ấn của Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc xướng tên Khoa Nam Nguyễn được nhận lãnh huy chương cao qúi “Commander-In-Chief’s Medal” dành cho sinh viên sĩ quan xuất sắc nhất trong mọi lãnh vực của toàn trường do Bà Toàn Quyền Quentin Bryce trao tặng.
Nguyễn Khoa Nam nhận lãnh huy chương cao quý “Commander-In-Chief’s Medal” do Bà Toàn Quyền Quentin Bryce trao tặng
Là con trai trưởng của anh Nguyễn Minh Khoa và chị Bạch Mai, Khoa Nam khi còn là học sinh tiểu học đã từng là sói con Hướng Đạo Thăng Long (West Footscray) và Hướng Đạo Hoa Lư (Broadmeadows), khi lên trung học đã tham gia Thiếu Sinh Quân trường Melbourne High School và cuối tuần em thường tới Giáo xứ St Margaret Mary’s North Brunswick tham gia sinh hoạt đoàn Thanh Thiếu Niên Salesian và Nam đã tỏ ra xuất sắc là một trưởng có tài chỉ huy trong Đoàn Thanh Thiếu Niên Salesian, và cũng là nơi mà ba mẹ của Khoa Nam có tên trong Ban Mục Vụ của Giáo xứ. Khoa Nam cũng đã từng theo ba mẹ giúp các cô chú bác rất tích cực trong các hội chợ Tết do Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria tổ chức.
Trong bốn năm huấn luyện tại Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc tại Canberra và Học Viện Hàng Hải Hoàng gia Úc HMAS Creswell, Khoa Nam tuy là một sinh viên trẻ nhưng đã biết dấn thân trong nhiều lành vực xã hội và từ thiện, và sinh hoạt rất tích cực.
Khoa Nam dù sinh ra và lớn lên tại Úc nhưng rất thông thạo tiếng Việt nên đã từng là thông dịch viên cho những cuộc gặp gỡ giữa quân đội Úc Việt. Khoa Nam cũng đã được bộ trưởng quốc phòng Stephan Smith và thủ tướng đương nhiệm Tony Abbott, khi ông còn nắm giữ vai trò chủ tịch Liên Đảng trong cương vị là nhân vật đối lập tại Quốc Hội trước khi thắng cuộc bầu cử Liên Bang vào tháng 9/2013 và trở thành vị Thủ Tướng thứ 28 của nước Úc, đề cử làm đại diện Bộ Quốc Phòng Úc để tham gia Đại Hội An Ninh Toàn Cầu tại Slovakia và Singapore.
Nguyễn Khoa Nam và Thủ Tướng Tony Abott
Nguyễn Khoa Nam và Cựu Thủ Tướng Kevin Rudd
Vào tháng 7/2013 Khoa Nam đã nghiên cứu về mối liên hệ và giao tiếp hỗ tương của Hải Quân các nước Á Châu trước việc tranh chấp tại vùng biển Đông Nam Á nên đã được mời tham dự cuộc họp bàn về các vấn đề biển đảo của Biển Đông tại Singapore.
Ước vọng của Khoa Nam là mong có được nhiều cơ hội nói chuyện, chia sẻ cùng các bậc phụ huynh để khuyến khích con em mình chọn con đường binh nghiệp cho tương lai, nếu đó là điều các em mơ ước, và có dịp khuyến khích các bạn trẻ và các em nhỏ tham gia dấn thân phục vụ đất nước và cộng đồng để nâng cao tinh thần yêu nước, làm rạng danh Con Rồng Cháu Tiên.
Vì sự mến mộ và cảm phục đối với Khoa Nam, một vị Trung Uý Hải Quân 22 tuổi, nên Học viện Hàng Hải Anh Quốc Britannia Royal Navy College Dartmouth đã gởi lời mời Khoa Nam tham dự buổi lễ tốt nghiệp vào 20/12/2013 này. Đây là một niềm vinh dự vô cùng lớn lao cho Khoa Nam, gia đình và cộng đồng Người Việt hải ngoại.
Britannia Royal Navy College Dartmouth
Khi được hỏi những yếu tố nào đã giúp Khoa Nam chọn con đường binh nghiệp và nguyên nhân nào đã giúp em đạt được thành qủa này, Khoa Nam cho biết ngoài cha mẹ và em gái mình, một trong những điều đã có ảnh hưởng lớn đến sự chọn lựa và nỗ lưc giúp em cố gắng trong 4 năm qua, còn có những yếu tố quan trọng không kém đó là sự tham gia các sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo, hướng đạo, thiếu nhi, và học tiếng Việt. Qua những công việc này, Khoa Nam học được cách phục vụ, dấn thân từ các linh mục tu sĩ, các ông bà chú bác, những người luôn đóng góp vào những mục tiêu cao cả hơn bản thân, và nhờ đó Khoa Nam có được động lực giúp mình chọn con đường phục vụ có ý nghĩa cho một công cuộc chung.
Tương lai Khoa Nam sẽ phục vụ trên những tầu chiến tại vùng biển Úc Á.
Nguyễn Khoa Nam cùng gia đình và Bà Toàn Quyền Quentin Bryce
Melbourne 19/12/2013
Lê Quan Vinh sưu tầm
Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014
Những Cọc Thu Sầu
Trên những cọc thu sầu
Đâm nát cả trời cao
Nên đời nghe rỉ máu
Giữa lòng rừng của nhau
Nên đời nghe rỉ máu
Giữa lòng rừng của nhau
Ta nhặt lá thay màu
Vớt vát kỷ niệm sâu
Lá bây giờ đã đổi
Nhận diện gì? Nỗi đau
Vớt vát kỷ niệm sâu
Lá bây giờ đã đổi
Nhận diện gì? Nỗi đau
Ta đếm những con tàu
Qua bến cạnh rừng sâu
Hôn vội vùng lá úa
Phủi bỏ lại phía sau
Qua bến cạnh rừng sâu
Hôn vội vùng lá úa
Phủi bỏ lại phía sau
Em một chuyến hôm nào
Ta chiếc bến từ lâu
Thu ôm mềm sương khói
Nhớ gì đã qua mau
Ta chiếc bến từ lâu
Thu ôm mềm sương khói
Nhớ gì đã qua mau
Ta như cọc thu sầu
Cắm giữa trời xanh xao
Giữa cọc rừng trụi lá
Nghe lá gõ niềm đau
Cắm giữa trời xanh xao
Giữa cọc rừng trụi lá
Nghe lá gõ niềm đau
Hoài Tử
Một Đời Ngủ Quên
(Cảm tác từ ảnh)
Lũng sâu vắng bóng mặt trời
Đêm ngày tăm tối, một đời ngủ quên
Quen người mà chỉ biết tên
Trời che khuất mặt, làm nên tội tình!
Lê Kim Thành
Túc Hoa Âm Tự
Xin chuyển đến bạn thơ, một bài thơ của Nguyễn trung Ngạn, một bài thơ mang sắc thái thiền khiến lòng tôi vô cùng cảm khái.
Nguyễn trung Ngạn ( 1289-1370) tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên. Năm 16 tuổi đỗ Hoàng Giáp đời vua Trần Anh Tôn (cùng khoá với Mạc đỉnh Chi), làm quan tới chức Đại Hành Khiển Tước Thân Quốc Công, thọ 82 tuổi.
Thân kính
Mailoc
Túc Hoa Âm tự
Nguyễn Trung Ngạn
宿花陰寺 Túc Hoa Âm tự
偶徬招提宿 Ngẫu bạng chiêu đề túc
僧留半榻分 Tăng lưu bán tháp phân
石泉朝汲水 Thạch tuyền triêu cấp thuỷ
紙帳夜眠雲 Chỉ trướng dạ miên vân
松子臨窗墜 Tùng tử lâm song truỵ
猿聲隔岸聞 Viên thanh cách ngạn văn
粥魚敲夢醒 Chúc ngư sao mộng tỉnh
花雨落繽紛。 Hoa vũ lạc tân phân.
Dịch Nghĩa :
Ngẫu nhiên vào ngủ đêm trong chùa
Sư dành cho nửa giường
Sáng ra đi múc nước ở suối đá,
Đêm ngủ với mây trong trướng giấy.
Quả thông rụng trước cửa sổ,
Tiếng vượn bên kia sông.
Mõ chùa khua tỉnh giấc mộng,
Mưa hoa rơi xuống tơi bời.
Bản dịch:
Trọ tại chùa Hoa Âm
Ghé trọ chùa tình cờ đêm tối
Sư nhượng cho nửa gối chăn giường .
Sáng ra múc nước suối nguồn
Đêm về trong trướng mây vương ngủ vùi .
Ngoài song cửa thông rơi một trái
Vượn gọi bầy vẳng lại bên sông .
Mõ chùa lay tỉnh giấc nồng
Từ đâu tan tác mưa bông rợp trời
Mailoc
* * *
Trọ Đêm Tại chùa
Ngẫu nhiên được trọ lại trong chùa
Chia với sư già chiếc chõng thưa
Nước suối trong veo khua thỏa thích
Phòng mây ấm áp ngủ say sưa
Thông rơi lộp
độp ngoài song cửa
Vượn hót véo von cách khoảng bờ
Tiếng mõ vang đều xua giấc mộng
Rào rào hoa rụng xuống như mưa.
Phương Hà
* * *
Ghé Ngủ Chùa
* * *
* * *
Ghé Ngủ Chùa
Ngẫu nhiên ngủ nhờ chùa vắng
Sư
nhường nửa chõng tre
nằm
Sáng ra múc nước suối đá
Đêm nằm mượn mây thay màn
Trái
tùng vào song cũng thích
Vượn kêu bờ suối inh vang
Sáng ra giật mình tỉnh mộng
Quanh mình mưa bụi mênh mang
C.D.M.
Đêm Trọ Chùa Hoa Âm
Tình cờ tá túc Hoa Âm,
Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
Nước trong suối đá êm êm,
Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !
Tình cờ tá túc Hoa Âm,
Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
Nước trong suối đá êm êm,
Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !
Đỗ
Chiêu
Đức.
* * *
Ở Lại Chùa Hoa Âm
Ở lại chùa đêm xuống
Nửa giường sư nhượng ta
Nước ngoài khe sáng lấy
Mây dỗ giấc mơ qua
Trong cửa nhìn thông rụng
Vượn kêu vẳng suối xa
Chày kình (*) vang tỉnh mộng
Lất phất trận mưa hoa
Quên ĐiỞ lại chùa đêm xuống
Nửa giường sư nhượng ta
Nước ngoài khe sáng lấy
Mây dỗ giấc mơ qua
Trong cửa nhìn thông rụng
Vượn kêu vẳng suối xa
Chày kình (*) vang tỉnh mộng
Lất phất trận mưa hoa
(*) Chúc ngư ( 粥魚) là Cháo Cá. Ở đây có nghĩa là Chày Kình. Chày Kình là cái chày khắc hình con cá voi để dọng vào cái chuông lớn trong chùa.
* * *
Hoa Âm Tự Qua Đêm
Hữu duyên tạm trú chùa Hoa Âm
Nhường lại sư chia đôi chỗ nằm
Nguồn suối tinh mơ chờ lấy nước
Màn mây tối ủ giấc mơ Nam
Ngoài song thông quả đang rơi rụng
Bờ nọ vẳng xa tiếng vượn thầm
Chày dọng lay lay choàng giấc điệp
Mưa hoa lất phất gió căm căm.
Kim Phượng
* * *
Lạc Vào Chùa Hoa Âm
Tình cờ lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
Nước reo suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm
Ngoài song tùng hát êm êm
Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
Tiếng chày đánh thức bình minh
Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.
Kim Oanh
Tình cờ lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
Nước reo suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm
Ngoài song tùng hát êm êm
Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
Tiếng chày đánh thức bình minh
Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.
Kim Oanh
* * *
Qua Đêm Chùa Hoa Âm
Tình cờ ngủ trọ chùa khi đêm
xuống
Nửa chiếc giường sư cụ nhượng cho nằm
Sáng múc nước suối chảy luồn kẻ đá
Đêm ngủ say, mây lót thảm thay màn
Nửa chiếc giường sư cụ nhượng cho nằm
Sáng múc nước suối chảy luồn kẻ đá
Đêm ngủ say, mây lót thảm thay màn
Bên song cửa thông rơi vương vài quả
Vượn gọi bầy vang vọng cả ven sông
Tiếng chuông mõ trong chùa khua tỉnh mộng
Giọt mưa rơi làm rụng mấy cành bông
Song Quang
Khuê
Thơ Thơ vừa mặc cái robe mới mua hôm
thứ bảy tuần trước vừa ngắm nghía hình ảnh người thiếu phụ phản chiếu trong tấm
gương lớn, tỏ vẻ hài lòng. Chiếc robe màu đen, dài phủ đầu gối, để lộ cặp chân
trắng ngần. Thứ bảy tuần rồi đi shopping với Nga ở Rockland Center, ngang qua
tiệm BCBG Nga lôi Thơ Thơ vào, mặc cho nàng dẫy nẫy:
- Thôi mi ơi, tiệm này mắc thấy mồ.
Lương ta ba cọc ba đồng...
Nga cắt ngang:
- Tuần này nó hạ 70%. Vô đi. Ta thấy
một cái robe màu đen rất hợp với mi. Mặc hôm party tuần tới là có khối chàng...
xỉu!
Vừa nói Nga vừa nháy mắt với Thơ
Thơ. Thơ nguýt cô bạn vàng một cái sát rạt:
-Vớ vẩn! Ai mà thèm bà già háp này
chớ!
Nga cười bí mật:
- Ha! Vậy mà có người... Nói
tới đây cảm thấy mình lỡ lời, Nga đánh trống lãng bằng cách reo lên:
- Đây rồi. May quá "Nó"
chưa bị chôm đi mất!
Nga lôi chiếc áo đầm treo
tuốt trong góc đưa cho Thơ Thơ. Chiếc áo cắt khéo, cổ trễ vừa phải và những lằn
xếp chéo trước ngực đầy nghệ thuật. Thơ Thơ thấy chiếc áo thật đẹp. Nhìn giá
cũng phải chăng, nên sau khi thử nàng đã trả tiền lấy chiếc áo.
Nga tuyên bố tổ chức party
để chào đón ông anh họ từ Pháp qua chơi. Vốn không có tính tò mò nên Thơ Thơ
cũng không hỏi gì nhiều về ông ấy. Chỉ biết ông ta đến tuổi sắp về hưu, có bằng
Tiến sĩ và dạy ở một trường Đại Học tại Paris. Có gia đình nhưng đã ly dị và
tên là Tú. Nga khen ông anh này hết mình. Đến nỗi Thơ Thơ phải kêu:
- Thôi, khen quá coi chừng
té hen đó mi. Ta phải thấy tận mắt mới tin. Mi là hay tô màu téc ni cô lo lắm!
Nga chỉ cười mím chi:
- Ờ, mai mốt gặp anh của
ta rồi, nhớ đừng có bị coup de foudre đó nha. Lúc đó chỉ sợ có người năn nỉ tui
nói... tốt dùm hổng chừng!
-
Thôi, cho em xin hai chữ bình an. Từ ngày thoát khỏi ách "đô hộ" của lão Nguyên, em sống rất thoải
mái. Có điên mới đeo gông vào cổ lần nữa...! Nga chỉ cười cười, không trả lời.
...Thơ Thơ ngắm mình trong
gương một lần nữa. Mái tóc cắt đơn sơ úp vào cổ, màu
son hồng fuchsia khiến nàng trẻ ra cả chục tuổi. Tối nay Thơ đeo nữ trang hạt
trai trắng càng tôn thêm nét quý phái. Dù đã qua tuổi năm mươi từ lâu, nhưng
nhờ tập thể dục đều đặn nên thân hình nàng vẫn còn thon gọn trong chiếc robe
bằng soie màu đen sang trọng. Cầm chiếc ví soirée màu bạc, mang đôi giày cùng
tông, Thơ Thơ cảm thấy đầy tự tin.
Đến nơi đã thấy xe hơi đậu kín hêt
trước cửa nhà Lệ Nga, Thơ Thơ phải đậu xe ở con đường ngang hông và đi bộ đến
nhà Nga. Bước vào phòng khách đã thấy bạn bè quen thuộc đứng đầy. Thơ Thơ mĩm
cười, gật đầu chào tổng quát. Ánh mắt cánh đàn ông nhìn nàng toát đầy vẻ ngưỡng
mộ, nhưng cánh đàn bà không dấu nỗi sự e dè! Thơ Thơ biết, từ khi li dị Nguyên,
nhiều người đã không còn nhìn nàng với ánh mắt như xưa. Những lời mời dự party cũng
thưa dần. Có vẻ như, nơi những người đàn bà độc thân nói chung, có cái gì đó
khiến cho các bà vợ không yên tâm. Chỉ có Lệ Nga là không thay đổi. Nhờ bờ vai
của bạn mà suốt những tháng đầu chia tay với Nguyên, Thơ Thơ đã có nơi nương tựa
tinh thần vững chắc. Bất cứ lúc nào nàng cũng có thể gọi cho Nga. Có những đêm
không ngủ được, đầu óc căng thẳng tột độ, những ý nghĩ đen tối bắt đầu nhen
nhúm, Thơ Thơ vội vàng gọi cho bạn và Lệ Nga đã yên lặng lắng nghe, lòng đầy
thương cảm và xẻ chia. Tiếng nức nở của Thơ Thơ nhiều lần khiến Lệ Nga cũng rơi
nước mắt âm thầm. May mà Sĩ, chồng Nga, thông cảm cho hoàn cảnh của Thơ Thơ.
Nàng đang trải qua thời kỳ đen tối nhất cuộc đời của một người đàn bà. Mất con
và li dị chồng. Vì thế Sĩ không hề cằn nhằn khi thấy vợ bỏ nhiều thời giờ an
ủi, chăm nom cho Thơ. Đứa con trai duy nhất của vợ chồng Thơ đã qua đời năm hai
mươi lăm tuổi, trong một tai nạn xe mô tô. Biết con trai có niềm đam mê nguy
hiểm, nhưng Nguyên chìu con, không hề ngăn cản.
Sau cái chết của con, Nguyên suy sụp
dần rồi đâm ra nghiện rượu. Chuyện ly dị sẽ không xẩy ra nếu như Nguyên không
theo bạn bè đi Casino và càng ngày càng lún sâu vào trò chơi đen đỏ. Bao nhiêu
tiền dành dụm cho tuổi già cũng lần lượt đội nón ra đi, mặc cho Thơ Thơ năn nỉ,
khóc lóc... Có là thánh nàng cũng không thể chịu đựng nỗi ông chồng vừa nghiện
rượu, vừa nghiện cờ bạc. Thế rồi một ngày... xấu trời, Nguyên nhận được lá đơn
ly dị của Thơ Thơ. Nàng dửng dưng, chai đá trước những lời hứa hẹn, thề thốt
thứ một trăm lẻ... của chồng. Cuối cùng Nguyên đành đầu hàng, đặt bút ký vào lá
đơn. Không có sự tranh giành, kiện tụng nào xảy ra. Hai người chia tay êm thấm trong
sự đớn đau, hối tiếc. Hối tiếc một hạnh phúc đã qua. Hình ảnh gia đình ba người
đầm ấm, vui vẻ ngày nào đã trôi vào dĩ vãng. Như một giòng suối chảy xuôi và
mất hút vào vô tận...
May mà Thơ còn có Lệ Nga. Hai người
quen nhau từ lúc cùng ở nội trú Régina Pacis. Thơ học Luật và Lệ Nga học Dược.
Phòng hai cô sát cạnh nhau, cùng tuổi nên hai người dễ thân thiết. Lệ Nga từ Đà
Lạt xuống và Thơ Thơ từ Cao Lãnh lên. Ba má Lệ Nga quê Sài Gòn nhưng lên Đà Lạt
lập nghiệp lúc cô bé còn nhỏ xíu. Suốt bốn năm học, rất nhiều lần Thơ Thơ lên Đà
Lạt nghỉ mát và Lệ Nga về Cao Lãnh nghỉ hè. Cả hai có với nhau biết bao kỷ niệm
đẹp tuyệt vời của thời con gái ngây thơ. Chính Thơ Thơ đã là phù dâu cho Lệ Nga
trong ngày cười. Sĩ, chồng Nga là Bác sĩ Quân y. Sau đó Lệ Nga cho mướn bằng
Dược sĩ và theo chồng đổi ra Quy Nhơn. Vợ chồng cô chỉ về Sài Gòn dự đám cưới
của Thơ Thơ với Nguyên. Sau đó thì Nguyên cũng đổi đi làm Phó Tỉnh Trưởng một
tỉnh miền Cao nguyên xa xôi. Hai cô chỉ còn gặp nhau qua những cơ hội hiếm hoi.
Đất nước giặc giã điêu linh biết làm sao bây giờ?
Cho đến tháng Tư Bảy Lăm, cả hai
tình cờ gặp nhau trên đảo Guam. Ôi! không lời nào có thể diễn tả được cái cảm
giác hạnh phúc của hai cô bạn chí thân khi gặp lại nhau trong một hoàn cảnh oan
khiên như thế. Cả hai oà lên khóc trước ánh mắt ngạc nhiên của những người tị
nạn. Những giọt nước mắt xót xa lẫn vui mừng... Khi phái đoàn Canada đến phỏng
vấn, hai gia đình ghi tên và chỉ một tuần sau là họ có mặt tại thành phố
Montréal. Rồi những ngày cơ cực cũng dần qua. Sĩ cày cục thi lấy lại bằng bác
sĩ, Lệ Nga cũng lấy được bằng dược sĩ. Cả hai đều đi làm chăm chỉ nên đời sống
thật dư dã, thoải mái. Nguyên học ra Kỹ sư cơ khí, có việc làm tốt. Phần Thơ
Thơ, thấy nghề computer dễ tìm việc nên nàng ghi tên học. Sau khi yên ổn rồi
Thơ Thơ mới sinh cu Nhật. Vì nhau không tróc, Thơ bị làm băng suýt chết. Bác sĩ
cuối cùng phải cắt bỏ tử cung. Biết vợ không thể sinh nở thêm nữa, bao nhiêu
tình thương Nguyên dồn cả vào thằng con trai duy nhất. Cả hai cưng con như châu
báu. Thế mà định mệnh lại bắt nó lìa cha bỏ mẹ mà ra đi ở độ tuổi tươi đẹp
nhất, như trái còn xanh mơn mởn trên cành... chợt rụng và một gia đình tan
vỡ!...
- Thơ Thơ. Tiếng Lệ Nga phát ra từ
ngưỡng cửa phòng đọc sách. Vô đây ta giới thiệu với mi một người.
Thơ Thơ tiến về phía bạn, vừa cười
vừa hỏi:
- Làm gì mà bí mật dữ vậy...
Nhưng nụ cười trên môi nàng vụt tắt.
Thay vào đó là một sự ngạc nhiên tột độ. Thơ Thơ tự hỏi mình đanh tỉnh hay mơ.
Người đàn ông trong bộ complet màu kem, dáng dấp sang trọng đứng giữa phòng có
phải là...? Quay sang định hỏi Lệ Nga, nhưng nàng ta đã biến tự hồi nào, sau
khi kín đáo khép cửa phòng lại. Giờ thì chỉ có hai người đối diện nhau. Một cảm
giác mơ hồ vừa xa lạ vừa thân thiết xâm chiếm Thơ Thơ. Nàng không thốt được lời
nào, chỉ nhìn đăm đăm người đối diện. Cặp mắt to, vẫn còn tinh anh sau cặp kính
trắng, mái tóc hơi quăn có nhiều sợi bạc hai bên thái dương và chiếc cằm chẻ
đôi. Chỉ có một người có đôi mắt này và chiếc cằm này... Lần cuối cùng nàng
thấy người ấy trong tấm ảnh treo trên vách nhà của Nguyệt. Năm đó nàng mười sáu
tuổi.
Người đàn ông tiến lại gần, cặp mắt đắm
đuối nhìn sâu vào mắt Thơ Thơ, giọng êm như ru:
- Thơ Thơ. Còn nhận ra anh không?
Thơ Thơ đáp khẻ, giọng có chút nghẹn
ngào:
- Anh Khuê! Phải anh Khuê không?
Người đàn ông cúi xuống cầm hai bàn
tay đang run rẩy của Thơ Thơ, siết nhẹ, giọng đầy chợt trầm xuống:
- Anh đây. Anh Khuê đây...
Sự xúc động mãnh liệt khiến đôi chân Thơ Thơ hầu như mềm nhũn.
Người đàn ông tên Khuê vội vòng tay ngang lưng, dìu Thơ Thơ ngồi xuống chiếc
ghế bành bọc nhưng đỏ gần đó. Sau khi an vị, Khuê đứng lên nói:
- Để anh ra ngoài lấy cho em ly
rượu.
Nhưng Thơ đã vội vàng nắm tay chàng kéo ngồi
xuống. Nàng không muốn xa rời Khuê dù chỉ vài phút. Đã mất nhau gần nửa thế kỷ
rồi vẫn chưa đủ sao? Từ năm Thơ lên chín và Khuê là một cậu bé mười hai tuổi.
- Không cần đâu. Khuê ngồi đây với
em. Trời ơi, Thơ đang tỉnh hay đang mơ đây? Anh Khuê... Anh Khuê! Thơ không bao
giờ ngờ có ngày được gặp lại anh.
Khuê không trả lời, chàng vòng tay
ôm Thơ Thơ thật chặt và bất ngờ đặt lên môi nàng một chiếc hôn nóng bỏng. Chàng
cắn nhẹ lên bờ môi đang căng mọng của Thơ Thơ rồi nói, giọng mơ màng:
- Em có tưởng tượng được là anh ao
ước giây phút này suốt cả cuộc đời của anh không Thơ Thơ. Từ khi theo ba má
nuôi lên Sài Gòn, rồi sang Thụy Sĩ, Pháp và cho đến ngày hôm nay... chưa bao
giờ anh quên được Thơ Thơ cũng như những ngày tháng hai đứa mình sống hồn nhiên
như cây cỏ ở Tân An. Anh đã có một tuổi thơ thật cơ cực, nghèo nàn. Nếu như
không có cô tiên bé nhỏ tên Thơ Thơ bên cạnh, thì những ngày sống trong gia
đình cậu hai của anh càng đau khổ biết bao nhiêu! Anh đã bị bắt làm việc như
một người ở đợ, bị sự hà hiếp của mấy đứa con cậu Hai, bị bà mợ đánh đập, bỏ
đói... nhưng bù lại anh có Thơ Thơ. Cô tiên đã băng bó những vết thương thể xác
và xoa dịu những vết thương tinh thần cho thằng bé mồ côi khốn khổ. Em nghĩ là
anh có thể quên được sao? Ngàn lần không. Anh đã nhớ, đã nghĩ đến em hằng ngày.
Liên miên từ năm nọ sang năm kia. Những khi gặp khó khăn, buồn chán... anh chỉ
cần nghĩ đến nụ cười rạng rỡ, trong như pha lê, cặp mắt đen huyền ngây thơ, lấp
lánh khi gặp chuyện vui và nét mặt phụng phịu, cặp môi cong lên thật dễ thương
khi gặp chuyện không vừa ý của Thơ là trong anh lại tràn đầy sức mạnh để vượt
qua.
Khuê nói xong, móc chiếc ví con
trong túi quần, lấy ra một tấm ảnh đen trắng đã úa vàng. Trong hình là hai cô
nhỏ độ tuổi mười lăm, mười sáu. Mái tóc dài xõa ngang lưng, nụ cười tươi như
hoa và một trong hai cô là Thơ Thơ! Nàng kêu lên kinh ngạc:
- Ơ! Đây là tấm hình em chụp với
Nguyệt khi hai đứa còn học ở Cao Lãnh. Sao anh có được?
- Lần đó, trước khi đi du học bên
Thụy Sĩ, anh đã về Cao Lãnh thăm và từ giã gia đình cậu Hai. Đáng tiếc là em đi
vắng. Nguyệt khoe anh tấm ảnh hai cô chụp chung. Anh viện cớ muốn giữ kỹ niệm
với Nguyệt nên xin tấm ảnh và nó đã theo anh cho đến ngày nay. So với người
trong ảnh, Thơ Thơ không khác gì mấy. Chỉ có mái tóc ngắn hơn và người thật
trước mặt anh bây giờ... đẹp và quyến rũ hơn xưa!
Thơ Thơ mắc cỡ:
- Xí! Anh chỉ sạo! Em bây giờ già
xọm. Anh đâu có biết em đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ với...
Khuê cắt ngang:
- Anh biết! Anh biết. Lệ Nga đã kể
cho anh nghe hết rồi.
Thơ Thơ chợt nhớ ra:
- À, nói tới nhỏ này. Em phải la nó
một trận mới được. Tụi em chơi với nhau mấy chục năm. Nó chỉ nói là có một ông
anh ở Paris tên Marcel Tú! Như vậy nghĩa là sao?
Khuê cười:
- À, cái này không phải lỗi của Nga.
Để anh kể cho Thơ nghe. Em biết là má sanh anh xong, chỉ hai tháng sau là mất
vì bịnh sản hậu. Từ đó anh sống với gia đình cậu Hai và bà ngoại. Lúc nhỏ bà
ngoại chăm sóc cho anh tử tế, nhưng khi anh sáu tuổi thì bà mất. Từ đó anh mới
bị cậu mợ ngược đãi.
Thơ Thơ cắt ngang:
- Đúng rồi. Má em kể, cô ba Huê má
của anh tuy nhà nghèo nhưng đẹp lắm. Tóc dài da trắng. Trong làng biết bao
nhiêu người đeo đuổi mà cô không ưng. Năm cô mười chín tuổi thì gặp ba anh.
Nghe nói ông là con nhà giàu trên Sàigòn, vì lý do gì đó chạy theo kháng chiến.
Một hôm ông về làng làm công tác dân vận, gặp và thương cô thôn nữ xinh đẹp tên
Huê. Nàng cũng thương anh chàng công tử Sài Thành thắm thiết, nên dù gặp sự
chống đối quyết liệt của gia đình bên đàng trai, cô Ba vẫn quyết định trao thân
gởi phận cho chàng công tử hào hoa. Họ chỉ làm một bữa cơm đơn sơ ra mắt ông
bà. Ông anh Hai, tuy không bằng lòng nhưng vì nể mẹ nên cũng đành chấp nhận.
Ông ta nghĩ con em lấy một chàng trai nào đó trong làng, tương lai còn tốt hơn
là lấy anh chàng công tử cha căng chú kiết, chỉ có cái mã đẹp trai này. Khi cô
ba Huê sinh anh ra, dượng ba từ trong đồng lén về thăm, bị lính ở đồn ngoài đồn
rình bắn chết. Hình như có người ghen ghét báo tin rằng thế nào ba anh cũng mò
về thăm vợ con. Họ đã rình 3 ngày liền. Xác dượng ba được ông nội em cho chôn
trong đất gia đình em, gần ngoài lộ mới. Cô ba đau khổ quá nên hai tháng sau
cũng qua đời. Má em nói gia đình bên nội anh thật là tệ. Khi nghe tin, chỉ cho
người con gái lớn xuống Cao Lãnh. Sau khi làm lễ cúng kiến trước mộ người em
xong là bà ta trở về Sài Gòn, sau khi cho mẹ anh một món tiền nho nhỏ. Rồi từ
đó về sau không có tin tức gì nữa mặc cho anh sống cực khổ với gia đình cậu Hai.
À, mà sao anh lại tên Tú?
Khuê kể tiếp, giọng ngậm ngùi:
- Thơ còn nhớ không, khi anh được mười hai tuổi. Một hôm có cặp vợ
chồng và một bà đứng tuổi thật sang trọng từ Sàigòn xuống Cao Lãnh kiếm nhà cậu
Hai. Thì ra đó là vợ chồng chú Út và cô Hai của anh. Gia đình bên nội, ngoài cô
thứ hai không chồng, còn cô Tư và chú Út. Vợ chồng chú Út lấy nhau mười năm mà
không có con. Một hôm cả nhà họp mặt đám giỗ ông nội, cô Hai mới nhắc đến ba
anh. Hình như cô ấy có ý ân hận đã không nhìn nhận thằng cháu đích tôn là anh.
Họ tin tưởng chú Út lấy vợ thế nào cũng sinh con nối giõi tông đường. Có ngờ
đâu! Khi sự việc xảy ra chú anh còn quá trẻ nên không để ý. Giờ nghe nhắc lại
chú mới hỏi phăng tới và vợ chồng chú quyết định xuống Cao Lãnh tìm anh để nhận
làm con nuôi. Lúc gặp mặt, thấy anh giống hệt ba anh, cô Hai đã ôm anh
khóc mùi mẫn. Chú Út cũng cảm động rưng
rưng nước mắt. Anh tuy không hiểu gì lắm, thấy họ khóc anh cũng khóc theo. Đúng
là tình máu mủ thật thiêng liêng phải không em? Gia đình bên nội anh rất giàu.
Chú Út anh là Luật sư. Ông đã làm giấy khai sinh nhận anh làm con. Họ muốn đổi
tên khác, nhưng anh nhất định đòi giữ tên Khuê, chú Út đành đặt là Nguyễn Khuê
Tú. Từ đó về sau mọi người đều gọi anh là Tú. Thơ biết không, sở dĩ cậu Hai
bằng lòng cho anh về bên nội là vì chú
Út đưa ra một món tiền rất lớn, gọi là đền ơn công lao cậu mợ đã nuôi nấng anh
trong suốt bấy nhiêu năm. Cậu mợ mừng húm nhận lời ngay. Họ đón anh đi ngay hôm
ấy, có lẽ sợ cậu mợ đổi ý. Anh chạy đến nhà từ giã Thơ, nhưng em đi thăm ông bà
ngoại trên Đốc Vàng. Xa em, anh đã nhớ và khóc thầm mỗi đêm hàng mấy tháng trời
mới hơi nguôi ngoai. Tuy nhiên hình ảnh em thì choán đầy trái tim của anh,
không chừa chỗ cho người con gái nào khác.
- Em cũng vậy. Thơ Thơ xen vô. Ở nhà
ngoại về, hay tin anh đi rồi em khóc quá chừng. Em buồn rũ rượi không thiết
chơi nhà chòi, nhảy giây, đánh chuyền hay bất cứ trò gì tụi con Hải rủ. Đến nỗi, con
Hải còn chọc em "Tụi bây coi con Thơ kìa. Nó nhớ thằng Khuê, giống như
thằng Khuê là chồng nó vậy đó..." Em vừa tức vừa mắc cở, xông tới nắm cái
đuôi ngựa của nó kéo một cái thật mạnh. Con nhỏ
té lăn cù xuống đất, khóc một trận như mưa.
Nghe Thơ kể, Khuê bật cười, hai tay
ôm mặt Thơ Thơ, hôn tới tấp lên má, lên
môi, lên cặp mắt nhắm hờ của nàng, thì thầm:
- Thơ là tình yêu duy nhất của anh! Chưa
bao giờ anh ngừng yêu em.
Thơ Thơ ngạt thở, né tránh những
chiếc hôn nóng bỏng của Khuê, cười rúc rích :
- Coi kìa, để em thở với chứ. Coi
chừng Lệ Nga đi vào bắt gặp thì quê lắm đó.
Vừa nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo tới
liền. Lệ Nga mở cửa bước vào:
- Sao, hai anh chị tâm tình xong
chưa? Bên ngoài bắt đầu nhập tiệc rồi đó. Ngạc nhiên không Thơ Thơ?
Thơ hừ một tiếng, xỉ ngón tay trỏ vào
trán Lệ Nga:
- Ta còn chưa hạch tội nhà ngươi.
Bao nhiêu năm nay không hé môi cho ta biết ông anh mi chính là anh Khuê...
Lệ Nga giơ hai tay lên trời phân
bua:
- Thượng đế chứng giám nỗi oan của
con! Ta có biết anh Tú có tên là Khuê bao giờ đâu? Hồi nào tới giờ mọi người
đều gọi ông ấy là Tú. Anh phải làm chứng cho em đó nha anh Tú! Ủa mà tên Khuê
từ đâu nhảy ra vậy? Em bị tẩu hỏa nhập ma rồi anh Tú ơi!
Khuê và Thơ Thơ bật cười trước vẻ
mặt ngớ ra của Lệ Nga. Khuê nói:
- Thôi chúng ta ra ngoài đi. Chuyện
này anh sẽ kể cho Nga nghe sau. Vừa nói Khuê vừa nắm tay Thơ Thơ kéo ra ngoài.
Lệ Nga nhìn theo, lắc đầu tỏ vẻ bất lực, nhưng trong lòng tràn ngập niềm vui!
Suốt buổi tối, Khuê không rời Thơ
Thơ nửa bước. Họ đã nhảy với nhau những bài slow mùi mẫn, những bản tango tình
tứ, luân vũ lã lướt... Thơ Thơ cảm thấy nàng đã thực sự hồi sinh. Khi Khuê bước
lên bục hát tặng Thơ Thơ bài "Niệm Khúc Cuối" thì mắt nàng nhòa lệ:
Dù
cho mưa tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời
Dù
cho mây hay cho bão tố có kéo qua đây
Dù có gió, có gió lạnh đầy
Có tuyết buồn lầy, có lá buồn gầy
Dù sao, dù sao đi nữa xin vẫn yêu em...
Giọng Khuê ấp áp, tựa tấm
chăn len êm ái phủ lên tâm hồn đang băng giá của Thơ Thơ. Nàng cảm thấy lòng
mình mềm đi, mềm đi, lãng đãng khói sương... Khuê hướng vào góc tối, nơi Thơ
Thơ đang ngồi, ánh mắt đắm đuối như muốn nói lên ngàn lời tha thiết. Thơ nhìn
chàng đứng đó mà vẫn tưởng như một cơn mơ. Nàng thầm van vái giấc mơ đừng bao
giờ tàn và nàng đừng bao giờ tỉnh giấc. Tiếng vỗ tay rào rào kéo Thơ Thơ trở về
thực tại. Khuê đi xuống, ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Thơ Thơ, ghé tai nàng thì
thào:
- Em thích bản nhạc này
không?
- Bắt đầu từ đây, với em,
Niệm Khúc Cuối là bản nhạc hay nhất của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên! Thơ Thơ trả lời,
ranh mảnh nhưng chân thành.
- Anh đã để hết tâm tình
của mình vào trong bản nhạc. Thơ có hiểu ý anh không?
Thơ không trả lời. Nàng
đứng lên ra hiệu cho Khuê đi theo mình. Cả hai đi ra khu vườn phía sau nhà. Đang
giữa mùa hạ nên hoa nở tưng bừng rực rỡ. Lệ Nga rất yêu hoa. Có nhiều loại hoa
rất lạ. Từ khi chia tay Nguyên, Thơ bán nhà và mua một condo ở cho tiện. Một
mình trong căn nhà rộng lớn càng thấy trống trải, cô đơn. Thơ dắt tay Khuê đến
ngồi trên chiếc băng đá dưới vòm dây clématis đang trổ hoa màu tím hồng lộng
lẫy. Nàng nói khẽ, như sợ phá tan cái tĩnh lặng của đêm trường:
- Khi nào buồn, em đến đây
để ngắm hoa, ngắm bướm và nghe tiếng chim hót. Tâm hồn cảm thấy bình yên lạ
lùng. Ban đêm em còn nhìn thấy những vì sao lấp lánh trên cao... À, em quên hỏi
vì sao anh biết em ở đây?
- Hôm vợ chồng Lệ Nga qua
Paris thăm ba má anh, tình cờ anh thấy hình em đứng chụp chung với cô ấy. Anh
hỏi tên thì đích thị là Thơ Thơ của anh. Em có biết anh đã mất ngủ bao nhiêu
đêm hay không? Khi biết em đã li dị, anh cám ơn Thượng Đế còn cho anh cơ hội
tìm lại được mối tình thơ ngây của anh. Anh nói với Lệ Nga em là cô bạn thân
thiết nhất của anh thuở nhỏ. Anh dặn Nga không được tiết lộ tí gì về anh để
dành cho em sự ngạc nhiên. Cuối cùng không thể chờ đợi lâu hơn, anh đã bay sang
đây để gặp em. Thơ Thơ, em chưa trả lời câu hỏi của anh lúc nảy. Khuê nhẹ nhàng
nhắc nhở, mắt ánh lên vẻ đợi chờ và lo lắng.
Thơ nhìn chàng mĩm cười,
cặp mắt long lanh:
- Khuê, anh có nhớ không.
Năm em lên bảy tuổi. Một lần tắm sông với bọn con Hải, thằng Lân... chiếc
hors-bord của ông Quận từ ngoài sông Cái chạy vào, những lượn sóng lớn lan thật
mau. Mấy đứa kia nhanh chân chạy hết lên bờ. Chỉ có em còn lên chưa kịp, bị
sóng đánh sắp chìm. Nếu không có anh tình cờ đi ngang nhảy xuống kéo em lên,
thì giờ này đâu còn Thơ Thơ ngồi đây với anh nữa phải không? Từ đó, đối với em,
Khuê là người con trai quan trọng và đáng yêu nhất trong đời. Em nghĩ đó chưa
phải là tình yêu trai gái mà là lòng biết ơn, lòng ngưỡng mộ đối với ân nhân
của mình. Em đã bất chấp những lời chế nhạo của tụi bạn, cứ đeo theo anh như
hình với bóng. Bên anh, em cảm thấy được an toàn. Nhớ lại tức cười ghê!
- Ạ! hèn nào có món gì
ngon cô bé Thơ Thơ cũng chia cho anh. Nhớ nhất là lần Thơ đem cho anh mấy trái
nho khô. Trời ơi, sao mà nó ngon không thể tả. Anh chỉ dám cắn mỗi lần một chút
xíu. Ngậm trong miệng để "nghe" tất cả sự ngọt ngào, thơm tho của nó
rồi mới dám nuốt!
Thơ
cười, giọng trong veo:
- Ừ. Ngày còn nhỏ ăn thứ gì cũng
ngon hả anh. Bác Tư em ở Sàigòn thỉnh thoảng về thăm ông bà nội. Lần nào bác
cũng đem những thứ hàng nhập cảng hiếm quý về biếu ông bà. Mà ông thì cưng em
nhất nhà, nên lúc nào em cũng được ông cho. Em ăn một nửa còn một nửa để dành
cho Khuê. Anh Thiên em theo dụ khị em cũng không cho. Có lần em bị anh ấy cốc
lên đầu một cái đau điếng. Em vừa khóc vừa chạy mét ông nội. Anh Thiên bị ông
nội xách ba ton rượt chạy có cờ.
- Hèn chi anh bị nó đổ nguyên bình
mực vô cuốn vỡ. Về nhà còn bị cậu anh đánh một trận nên thân. Nhà anh nghèo đâu
có tiền mua tập vở mới. May nhờ anh học giỏi nên được thầy cho anh cuốn vở khác
để viết bài.
- Không ngờ ông Thiên lại nhỏ mọn
như vậy. Mà anh thông minh thật, làm quần quật suốt ngày mà vẫn đứng đầu lớp.
Hèn chi ông Thiên không ganh tức!
Thơ Thơ tựa đầu vào vai Khuê, mắt
nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời nhung đen, giọng ngậm ngùi:
- Em còn nhớ một buổi chiều, ăn cơm
xong em đem trái soài thanh ca chín vàng qua tìm anh. Không thấy anh trong nhà,
con Nguyệt kéo em ra sau hè chỉ cho em xem anh đang bị bà mợ phạt quỳ. Quỳ và không
được ăn cơm vì tội kho nồi cá linh bị khét. Anh quỳ mà hai tay không ngừng đập
muỗi đang bu quanh. Anh đang đói, được trái soài bèn ăn ngấu nghiến. Em thấy
vậy chạy về nhà, lén xuống bếp bới một chén cơm nguội, rưới nước cá kho còn lại
hồi chiều. Vậy mà anh đã ăn ngon lành.
- Thơ Thơ, nói thật, đó là chén cơm
ngon nhất trong đời anh. Sau này ở với ba má nuôi trên Sàigòn, dù ăn sơn hào
hải vị ngon đến đâu anh cũng không thấy ngon bằng chén cơm chan nước cá kho
chiều hôm đó. Một chén cơm chan đầy tình nghĩa. Ân tình của Thơ Thơ ban cho
anh.
Thơ Thơ ngồi thẳng lên nhìn Khuê,
cười một cách thú vị:
-Khuê còn nhớ cái lần hai đứa mình
leo lên cây soài gần chùa Phước Lâm Tự không. Hái đầy túi, khi nhảy xuống đất
em bị trặc chân. Khuê phải cõng em từ đó về đến nhà. Nằm trên chiếc lưng tuy êm
ái nhưng đầy mồ hôi, con nhỏ mới tám tuổi đầu đã có ước muốn được anh cõng trên
lưng như vậy mãi mãi. Đó có phải là tình yêu không anh? Sau này khi nhớ đến
anh, em vẫn tự hỏi.
Khuê
cảm động, giọng hơi nghẹn ngào:
- Nếu biết vậy, ngày đó anh không
cõng Thơ về nhà mà cõng đi hoài, đi mãi đến chân trời góc biển nào cũng
được...Và bây giờ Thơ có còn muốn anh cõng đi mãi... đi hoài... suốt đời nữa hay
không?
Thơ Thơ không trả lời ngay, cắn môi
cố nén tiếng cười:
- Khuê, anh còn nhớ khi anh cõng em
về gần tới nhà thì gặp tụi thằng Lân, thằng Hiển, thằng Tín đang chơi tán u,
thấy anh cõng Thơ trên lưng, tụi nó đã nói gì không?
Khuê bồi hồi nhớ lại cảnh tượng một
thằng bé đi chân đất cõng đứa con gái trên lưng. Thằng bé mồ hôi mồ kê nhể nhại.
Nó cắn răng bước, vì hai bàn chân đi đất cấn đá xanh đau điếng. Thằng Tín thấy
hai đứa thì la lên "Tụi bây coi vợ chồng thằng Khuê, con Thơ kìa!" và
cả ba đứa phá lên cười, lêu lêu chọc quê. Khuê cúi đầu bước thẳng, nhưng Thơ
Thơ tức quá òa lên khóc nức nở. Con bé úp mặt lên lưng, nước mắt thấm qua áo
cậu bé Khuê nóng hổi. Số là hồi hè, trường có tổ chức văn nghệ cuối năm. Trong
hoạt cảnh cho bài hát Vợ Chồng Quê do Khuê trình diễn, cậu bé đã chọn Thơ Thơ
đóng vai cô vợ. Tụi thằng Tín tức lắm, có dịp là trêu ghẹo ngay... Chuyện mà
Thơ không biết là ngày hôm sau lỗ mũi
thằng Tín bị Khuê cho ăn trầu, vì tội đã làm Thơ Thơ khóc! Chàng dịu dàng nắm
hai bàn tay Thơ Thơ đưa lên môi, mắt đắm đuối nhìn vào mắt nàng, nói khẽ khàng:
- "Vợ chồng thằng Khuê - con Thơ"!
Đúng là định mệnh đã se duyên cho chúng mình từ hồi còn bé, chỉ là bắt mình
phải lạc nhau một thời gian. Giờ tìm lại được, em nghĩ thế nào hở Thơ Thơ?
Thơ cười, giọng bỡn cợt nhưng đầy
hạnh phúc:
- Em còn nghĩ gì nữa khi đã trót mang
tiếng là "Vợ thằng Khuê" ngay từ lúc mới lên tám? Chắc là đành chịu
mang "danh hiệu" này trọn cuộc đời! Thôi chúng mình vào nhà đi anh.
Em bắt đầu thấy lạnh rồi đó.
Khuê kéo Thơ Thơ sát vào mình, ghé
tai nàng nói nhỏ, trước khi đặt nụ hôn nồng nàn lên cặp môi đang hé mở:
- Xin tuân lịnh... Vợ thằng Khuê!
Có một ánh sao băng trên nền trời
đen thăm thẳm, lấp lánh muôn vạn vì sao đêm. Sương bắt đầu rơi rơi trên cỏ cây hoa
lá đang im lìm say ngủ...
Tiểu Thu
Mùa Hạ 2012
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)