Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Gia Đình Bác Bùi Văn Thân Cảm Tạ



Bác Bùi Văn Thân và con Bùi Thị Mỹ lệ,
Vô cùng xúc động với lòng ưu ái của mấy cháu, cùng đồng hành, chia sẻ,
phân ưu và cầu nguyện hương linh Hiền Nội của Bác là Nguyễn Thị Xinh,
Pháp danh Đức Sanh vừa từ giã cõi trần.
Bác xin ghi nhận nơi đây và thành thật tri ân sâu xa cùng mấy cháu.
Bác xin cảm tạ cháu Huỳnh Hữu Đức
Cảm tạ hai cháu Phụng & Nhung Lê Quang
Cảm tạ cháu Kim Phượng
Cảm tạ cháu Kim Oanh
Cảm tạ cháu Suối Dâu
Cảm tạ cháu Lục Lạc
Tang gia đồng cảm tạ



Những Lời Cho Người Nằm Xuống

Sinh ra trong ba vạn sáu ngàn ngày
Sinh thì hữu hạng, tử bất kỳ nào hay
Sống còn lặn hụp biển khổ trần thế
Thác đi rồi một kiếp nghiệp trả vay

Những tưởng phu thê xum hợp mãi
Nào ngờ đâu tan rã kiếp bèo mây
Đành đôi đường u hiễn kể từ đây
Một phút chia ly ngàn năm nhung nhớ!

Trăm năm sóng biển bạc đầu
Người thương đã mất biết đâu mà tìm
Từ nay tăm cá bóng chim
Vào ra hiu quạnh con tim thẩn thờ!

Quang Thân



Bùi Văn Thân

Thành Kính Phân Ưu Cùng Gia Đình Bác Bùi Văn Thân

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU



Kính Gửi Bác Thân cùng Trung và Mỹ Lệ
Chúng cháu vừa nhận được tin muộn, Bác Gái Bùi Văn Thân, nhũ danh Nguyễn Thị Xinh,Pháp danh Đức Sanh đã mãn phần.
- Bác Gái sinh năm 1923
- Qua đời  ngày 22-03 2014 - Nhằm ngày 22-02 năm Giáp Ngọ
- Tại Sydney - Australia
- Thượng Thọ 91 tuổi.
- Lễ an táng được tổ chức ngày 25-3-2014

Chúng cháu xin chia sẻ nỗi buồn mất mát với Bác Trai và Gia đình Trung, Mỹ Lệ.
Kính nguyện Hương Linh Bác Gái được sớm về Cõi Niết Bàn.

Đồng Kính Phân Ưu
Hai cháu Phụng, Nhung Lê Quang
Các cháu: Huỳnh Hữu Đức, Suối Dâu, Kim Phượng, Lục Lạc, Kim Oanh

Lên Chùa




Tinh sương bỏ bước lên chùa
Thấy con sông chảy giữa mùa xuân xanh
Chừng như hương bưởi hương chanh
Và hương thượng Phật trong manh áo vàng
Cỏ nằm đợi nắng sương tan
Tôi còn đợi tiếng chuông vang lên trời.

Lý Thừa Nghiệp


Lời Hay Ý Đẹp: Ấm Áp!



- Ấm áp không phải khi ngồi bên đống lửa, mà là ngồi bên cạnh người mà bạn thương yêu!
- Ấm áp không phải khi bạn mặc một lúc hai, ba áo, mà là khi bạn đứng trước gió lạnh, từ phía sau đến có ai đó khoác lên bạn một tấm áo.
- Ấm áp không phải khi bạn nói "ấm quá", mà là khi có người thì thầm với bạn:
"Có lạnh không?".
- Ấm áp không phải khi bạn dùng hai tay xuýt xoa, mà là khi tay ai kia khẽ nắm lấy bàn tay bạn.
- Ấm áp không phải khi bạn đội chiếc mũ len, mà là khi đầu bạn dựa vào một bờ vai tin cậy.

  Chúc bạn mỗi ngày đều tốt hơn ngày hôm.


  Về Chiều -Sưu tầm

Ngàn Thu Áo Tím - Hoàng Trọng - Thái Thanh

      Có một thời cách nay đã lâu lằm rồi một sồ trường nữ sinh trung học mặc áo dài màu tím đi học, như Đồng Khánh ở Huế, Gia Long Trưng Vương ờ Sài gòn. . .Những tà áo dài ấy đã đi vào thơ nhạc của một số thi sĩ, nhạc sĩ. Bài hát này cũng là nhắc đến hình bóng tà áo dài tím ấy với một mối tình êm đẹp nhưng phải chia lìa trong đau thương như ý nghĩa của màu tím luôn buồn là như vậy.


Nhạc Sĩ: Hoàng Trọng  
Ca Sĩ Thái Thanh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Bố Tôi


1.

       Tuần trước, chúng tôi đã có cơ hội kể cho quý vị nghe 1 câu chuyện thật riệng tư, đó là chuyện về mẹ tôi, người đã từ giã cõi trần này vào đêm vọng lễ giáng sinh. Nói chuyện về 1 người đàn bà có chồng mà không nói đến ‘phân nửa còn lại’ thì có lẽ cũng có vài thiếu xót, nên xin 1 lần nưã, mượn những khoảng khắc sáng thứ bảy này để nói về ‘phân nửa kia’, đó là bố tôi.

       Năm nay bố tôi đã 86 tuổi. Ông không bao giờ ngờ rằng người đàn bà kết duyên chồng vợ với mình 54 năm trước, trẻ hơn mình 1 con giáp lại ra đi trước mình. Năm 80 tuổi, bố tôi nói: “Mọi sự ở trần gian bố giao cho mấy mẹ con, lo sao thì lo; còn bố, bố chỉ lo suy nghĩ về chuyện đời sau”.

       Người ta bảo ‘sống gửi thác về”. Lẽ sống chết trong đời sống con người phải chăng là thế. Trong 4 cái khổ theo nhà Phật là ‘Sinh Lão Bịnh Tử’ thì bố tôi đã trải qua được ba cái rồi, chỉ còn cái khổ cuối cùng thì ông đang chiêm niệm để chờ ngày bước tới. Ấy thế mà trong những ngày chơi vơi cuả tuổi già, Thiên Chuá lại cất đi cái xương sườn cụt cuả bố tôi để ông vốn chao đảo với cuộc đời, nay lại càng chao đảo thêm.
       Thánh vịnh 89, câu 10 ghi nhận như sau:

“Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”


2.
       Cái khổ nhất cuả tuổi già là sự cô đơn. Bố tôi từ trước đến nay dường như chỉ có 1 người chính để tâm sự, để nâng đỡ, để nhờ vả. Người đó là mẹ tôi. Trước đây mẹ tôi hay phàn nàn là bố không để cho mẹ ngủ qua đêm. Bởi vì mẹ tôi có thói quen ngủ sớm. Mới 9 giờ thì gà đã lên chuồng. Còn bố tôi thì mãi 10g30 tối mới ngủ. Mắt đã loà thì làm sao coi TV, đọc sách; nghe radio thì tai nghễnh ngãng phải mở thật to; thành ra mẹ tôi vẫn thường hay chiều bố ráng thức để nghe bố tỉ tê chuyện cuộc đời.

       Không hiểu có phải vì thế hay chăng mà mẹ tôi trở thành phát ngôn viên cho bố. Điều gì bố muốn anh em trong nhà làm thì đều nói cho mẹ, rồi mẹ nói với anh em. Thế cho nên khi mẹ tôi chết, dường như trong gia đình mất đi hẳn cái gạch nối giưã bố và mọi người trong gia đình.
Trước đây, tôi vẫn chờ đến 8 giờ tối để nói chuyện với mẹ vì sau 8 giờ tối gọi Optus free. Thực ra, nhiều khi chuyện cũng chẳng có gì, lắm khi chỉ là 1 chuyện tầm phào nào đó nhưng có lẽ chỉ để nghe được tiếng cuả nhau, biết rằng mẹ khoẻ, bố khoẻ mà yên tâm.

       Đã biết bao nhiêu lần tôi muốn tung hê tất cả mọi sự để trở về Adelaide sống, ấy thế mà cũng đã lê lết ở đất Melbourne này hơn 15 năm. May mà Trời cho bố mẹ tôi khoẻ mạnh, không mang 1 chứng bịnh gì gọi là nghiêm trọng nên 1 năm đôi lần gặp nhau xem ra cũng yên tâm 1 phần nào.
Có 1 tâm nguyện cuả mẹ mà tôi chưa toại nguyện là việc mẹ tôi muốn về lại quê hương thăm gia đình và bạn bè mà trong gia đình chẳng có ai đi cùng. Mấy năm trước khi bố tôi còn khoẻ mạnh thì cả hai người đã đi từ bắc ra nam trong 1 chuyến đi gọi là ‘dối già’ và giã biệt mọi người cùng 1 nhóm bạn già.
       Bố tôi nay không đủ sức đi đâu nữa mà mẹ tôi, vốn là chân chạy vẫn còn muốn về nhưng ngại về 1 mình. Đã mấy lần rủ mà chúng tôi cứ khất lần. Mẹ tôi gạ gẫm: “Mẹ chỉ cần đưá nào cùng đi, đến được Saigon thì chả cần nữa, muốn đi đâu thì đi”. Bà vẫn ngại chuyến đi xa lỡ có trục trặc gì thì không biết ứng phó ra sao.

       Chuyến đi ấy đã chẳng bao giờ xảy ra dù rằng đã thấp thỏm hẹn hò với bà bác bên Mỹ, hay với bạn bè ở những nơi xa xôi để cùng về gặp nhau nơi quê hương. 3.
Người xưa bảo rằng: “Hãy để kẻ chết lo cho kẻ chết, còn kẻ sống hãy lo cho kẻ sống”. Đám tang cho mẹ xong, điều làm bản thân chúng tôi lo nhiều nhất là cuộc sống cuả bố tôi từ đây. Căn nhà tổ mà bố mẹ tôi sinh sống từ trước đến nay, bây giờ 1 mình ông cụ không thể ở. Có cho 1 đưá cháu đến ở với ông thì cũng không xong vì vẫn phải lo cơm nước cho cả hai ông cháu. Thế nên đành phải bán nhà và bố tôi nay là kẻ không nhà, đi lưu vong thay phiên đến nhà 4 đưá em còn ở lại Adelaide mỗi đưá 1 tháng. Ông cụ nhất định không chịu lên Melbourne chơi vì muốn mỗi ngày có dịp ra mộ thăm.

       Sáng thứ hai khi chúng tôi lái xe trở về Melbourne. Cả gia đình giã biệt căn nhà tổ, đưa bố tôi đến ở nhà đưá em, trên đường ghé thăm mộ, ông cụ đứng lặng thinh rồi quỳ xuống đầu mộ kể kể như bao lần đã kể lể cho mẹ tôi nghe mỗi tối. Ngày hôm ấy, khi đến nhà đưá em, ông cụ âm thầm lặng lẽ vào phòng dành cho mình, và ở luôn trong ấy không chịu ra ăn uống gì cả, suốt ngày chỉ ngồi nhìn bức hình cuả mẹ tôi mà thẫn thờ cầu nguyện, làm cho đưá em phải gọi tất cả những anh em còn ở Adelaide đến nhà dỗ dành ông cụ. Rủ ra mộ thăm thì mới xem ra nguôi ngoai đôi chút.
Có lẽ mấy tuần trước đây, dù thiếu mẹ, nhưng ngày nào tất cả các con cái đều quây quần chung quanh ăn uống đọc kinh mỗi tối. Nay mỗi người 1 phương hẹn nhau 100 ngày mới trở lại gặp nhau, làm cho ông cụ bỗng dưng thấy như hụt hẫng.

      Bố ơi,
      Nếu bố có nghe đài sáng hôm nay thì hãy can đảm lên nhé. Hành trình làm người phải chăng chỉ như đi đến 1 điểm hẹn để sống gửi thác về. Thiên Chuá ban cho con người 1 thân xác như chiếc áo bọc bao phủ phần hồn để sống để thở trong cõi đời này. Rồi cũng có lúc cái áo đó cũ kỹ đi, mục nát đi.
       Con người như 1 giọt nước tình thương đi lang thang, đến cuộc đời để học hỏi và có để lại chăng chỉ là chút ít tình thương rải rác nào đó rồi trở về cùng Thiên Chuá là cha tình thương, là biển đại dương cuả yêu thương. Giọt nước lang thang đó nhập vào đại dương tình thương để làm thành 1 gạch nối giưã trời và đất, giưã đời này và đời sau.
Để từ nay, chúng ta tin rằng trên thiên quốc, sẽ có 1 người trong gia đình phù hộ cho chúng ta là những người còn phải đi cho trọn kiếp lầm than làm người cuả mình.

4.
       Chuyện xưa kể rằng khi Huệ Tử thắc mắc tại sao Trang Tử lại vỗ trống mà hát khi vợ mình qua đời thì Trang Tử đáp:

Lúc nàng mới chết, tôi làm sao không khỏi buồn rầu.
Nhưng xét đầu tiên cả nàng vốn không sinh
Không những không sinh mà vốn không hình
Không những không hình mà vốn không khí
Lộn xộn trong cõi hoảng hốt,
biến mà có khí,
khí biến mà có hình,
hình biến mà có sinh;
nay lại biến mà chết:

những việc ấy có khác gì sự đi lại cuả bốn muà, xuân hạ thu đông ?
Người đã nằm yên trong ngôi nhà lớn, mà tôi lại đi theo khóc lóc,
như vậy tự thấy mình không thông hiểu mệnh, cho nên tôi không khóc”
Chúng ta sinh ra trần truồng, rồi lại trần truồng mà trở về lòng đất; chúng ta vốn từ cõi vô hình mà đến, rồi lại trở về cõi vô hình. Trang Tử vả các đệ tử cuả ông phải chăng đã hiểu được ý nghiã cuả thế giới vô thường, cho nên ‘cỡi trên sự biến hoá cuả lục khí, để dong chơi trong cõi vô cùng”.


       Bản thân chúng tôi đã đi tham dự nhiều đám ma, nhưng chưa bao giờ có cái cảm nhận vưà đau xót vưà lạ thường như khi đi đám ma cuả mẹ mình. Phải chăng trước đây, khi đi đám ma là đi đám ma cuả ai đó, 1 người dù thân quen nhưng cũng không thể có cái cảm giác như xé ruột xé gan.
Nói như 1 chia sẻ cuả 1 nữ thính giả gửi đến thì những giọt nước mắt không chảy ra ngoài thì nó lại chảy vào tim, làm cho nhức nhối và đau đớn bội phần hơn nưã. Những cuộc chia ly, dù biết ‘sinh hữu hạn, tử vô kỳ’ và chẳng có ai trên đời này đưcợ trường sinh bất tử, rằng cha mẹ già rồi sẽ qua đời, nhưng khi điều ấy xảy đến, chúng ta lại dường như không thể chấp nhận được nó.
Thế cho nên, có những thoáng chợt khi kỷ niệm cũ ào đến, nước mắt ưá ra, chính lúc đó mới bật khóc trong lặng lẽ mà than rằng “má ơi, sao má bỏ con má ra đi”.

5.
       Ngày xưa ở Việt Nam, gia đình chúng tôi theo thói thượng cuả người Hà Nội gọi cha mẹ mình là ‘cậu mợ’. Khi khôn lớn bố tôi bảo, người kinh đô lạ kỳ, chọn hai người xa họ nhất là cậu mợ để bảo con cái dùng gọi cha mẹ mình, thôi từ nay phải gọi lại cho chính danh. Ấy thế mà không hiểu sao trong khi người ta thường gọi ‘bố mẹ’ hay ‘ba má’ thì anh em chúng tôi lại nửa nam nưả bắc mà gọi là ‘bố má’.
       Bài điếu văn đọc trong thánh lễ an táng trước khi tiễn mẹ tôi ra lòng đất, đoạn cuối ghi nhận như sau:
       Chúng con nào có bao giờ ngờ rằng ngày hôm nay má ra đi, bỏ bố, bỏ các con bỏ các cháu ở lại cõi đời này. Còn biết bao nhiêu chuyện ngổn ngang trong lòng con muốn hỏi má, nay biết hỏi ai.
Từ trước đến giờ lúc nào má cũng là cột trụ cuả gia đình mình, chuyện lớn chuyện nhỏ đều từ tay má lo liệu. Những lúc anh em không đồng ý kiến, má là người kết hợp cho tình gia đình vẹn toàn.

       Má là chỗ nương tựa từ tinh thần đến vật chất cho chúng con. Không biết có phải vì thế mà má đã ôm trọn những lo âu vào lòng âm thầm chịu đựng. Bao nhiêu lần cuộc đời làm cho má đau khổ, lắm khi má muốn tâm sự, thế mà chúng con lại vô tình không biết đến để chia sẻ cùng má.

       Bố vẫn bảo, má họ VŨ, nên đã đem mưa hồng ân trên trời đến để tưới cho cây LÊ nhà mình tốt tươi. Cây LÊ ấy ngày hôm nay không còn được má chăm sóc dưới thế này nữa, nhưng với Đức Tin cuả người công giáo, chúng con luôn khẩn nài Thiên Chuá là cha tình yêu tha thứ những lỗi lầm nếu có cuả má ở trần thế. Chúng con tin rằng trên cõi trời cao, má sẽ vẫn phù trợ cho mọi người trong gia đình để các con, các cháu cũng sống sao cho nên người như sự trông mong dưỡng dục sinh thành cuả bố má.
       Con có nói ngàn lời cũng không đủ cho hết những điều muốn nói. Giã biệt má yêu thương cuả chúng con.
        Thân phận con người là bụi tro, đến từ bụi tro và trở về bụi tro, hôm nay chúng con xin tiễn đưa má trở về lòng đất.

       Má ơi,
       Má cuả con ơi, má có nghe tiếng con không ?

Minh Duy

Cảm Tác: Lạc Vào Chùa Hoa Âm




Lạc Vào Chùa Hoa Âm

Tình cờ lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
Nước reo suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm
Ngoài song tùng hát êm êm
Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
Tiếng chày đánh thức bình minh
Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ.
Kim Oanh
* * *  
Lạc Vào Chùa Hoa Âm

(Cảm tác từ Vào Chùa Hoa Âm của Kim Oanh)

Tình cờ lạc lối đến chùa Hoa
May thay được nửa chõng sư già

Sáng dậy ta tìm nơi xúc miệng
 Đêm nằm trong trướng với mây sa
Trái thông rụng đập vô cửa sổ
Vượn hú bên sông muốn nhào qua
Bổng dưng tiếng mỏ làm ta thức
Mới biết mình đang mộng dưới hoa

Biện Công Danh


Thơ Tranh: Hai Đầu Nỗi Nhớ


Thơ: Dương Hồng Thủy
Thơ Tranh: Kim Oanh

Người Về


Người đã đến từ trùng khơi sóng dữ
Tay trần lao dâng tặng ngút ngàn mưa
Mưa đẫm tình xanh
Mưa tràn tuổi dại
Mưa trùng phùng dập nát một thời vui
Người đã đến vung tay chèn mắt lửa
Miệng cười hư không
Môi méo mó lời ru
Ru đêm mây mưa
Ru ngày tục lụy
Đội trên đầu vụn vỡ mấy lời ru.

6/2/2004
Tín Đức

Nhớ - Tô Như

                       
Đêm qua Phạm Thái nhớ Quỳnh Như
Đồng mạ xanh non nhớ vũng hồ
Chiêm nữ bâng khuâng ngồi nhớ bạn
Ngũ Hành Sơn... có nhớ Tây Du

Trọng Thủy lên đường nhớ Mỹ Châu
Ngưu Lang Chức Nữ nhớ nhau sầu
Cô Tô buồn nhớ Hàn Sơn Tự
Bến nước Tầm Dương... nhớ thuở nào

Biết rồi... Phạm Lãi nhớ Tây Thi
Chim nhớ... cành đa muốn trở về
Đêm cũ... xa xưa... đèn nhớ bóng
Đường Minh Hoàng... nhớ Dương Quý Phi

Khắc Chung... rong ruổi nhớ Huyền Trân
Kim Trọng... thương Kiều nhớ Thúy Vân
Trăm năm... bến nhớ con đò cũ
Biết Tấn rồi đây có nhớ Tần?

Lưu Bình trở giấc nhớ Châu Long
Lạc nẻo ai kia nhớ giống dòng
Nguyễn Huệ, Trưng Vương mình nhớ mãi
Con Hồng cháu Lạc... nhớ non sông

Bạch mã bên thành nhớ Trạng Nguyên
Chế Bồng Nga nhớ gót chinh yên
Mỵ Nương nhớ sáo Trương Chi lắm
Trăng nhớ hoàng hôn...em nhớ anh!!!!

Tô Như

(Huỳnh Hữu Đức sưu tầm)

Đỗ Vỡ (Ái Hữu 72)

      Thế mà đã mười hai năm mài miệt ở ghế nhà trường,mười hai năm đầy kỹ niệm,giờ đây kết quả mười hai năm học là nhập ngủ.Đỗ vỡ tất cả,những gì hiện tại trong tầm tay đã vượt khỏi, tất cả đều đổỉ thay không còn gì cả .

      Bây giờ mới thấy là mình đã quá ngu xuẩn, đã đánh mất tương lai không suy nghĩ,đã dìm sâu tất cả những gì hiện có và sẽ có xuống vũng bùn,nhưng đã quá muộn khi hối tiếc lại những gì mà mình đã đánh mất. Dù sao đi nữa thì ngày nhập ngủ đã gần, hối tiếc cũng bằng thừa,cứ nghĩ rằng ta sống với hiện tại xóa nhòa quá khứ và che lấp tương lai.


A.H.8 Quang  & A.H 15 Lộc dâng sớ trước Hoàng Thái Hậu( Má Tùng) 

      Sự săn sóc lo lắng của gia đình đã làm cho mình nghẹn ngào tủi thẹn,vì sao gia đình mình đã lo lắng săn sóc cho mình từng miếng ăn giấc ngũ với kỳ vọng độc nhất là đặt chân vào ngưỡng cửa đại học,nhưng mình đã làm phụ lòng tất cả kỳ vọng,xung quanh bất cứ ở đâu luôn luôn mình cũng thấy một dấu hỏi to tướng là mình đã làm được gì vừa lòng cha mẹ hay chưa? Chắc hẳn là không vì mình không đáp lại được sự mong ước của cha mẹ nơi mình là phải vào đại học.Không thể qui trách nhiệm cho ai,không thể đổ thừa cho định mạng,mà mình nhận thấy rằng đã chính mình tự đào hố để chôn mình,tuy đã tự hứa không nghĩ gì đến hiện tại và quá khứ nhưng mình vẫn cứ nghĩ,nghĩ mãi đến ngày phải rời xa thành phố Vĩnh Long thân yêu mang đầy kỹ niệm yêu đẹp nhất của mình nơi bao gồm tất cả những người thân của mình để vào quân trường,để khép mình vào khuôn phép sống một cuộc sống với câu châm ngôn hay đúng hơn là kinh nhật tụng “quân đội không ý kiến “

      Còn sự khổ sở cùng cực nào khác hơn không? Nếu còn hãy đến ngay tức khắc,con người không thể chịu đựng quá mức, sự chán nản đến tột độ,tất cả sự khổ nhục hãy đến ngay trong giờ phút này,để rồi sau đó xin miễn đừng bao giờ đến với ta nữa,mình giờ đây chỉ còn ước mong duy nhất là được sống mãi dưới mái nhà thân yêu luôn gần gũi mấy người thân,đó chỉ là những ước vọng mà có, là những gì mình ước không bao giờ đến. Mình muốn gào thét lên, muốn sụp đổ tất cả, muốn điên lên được khi nghĩ rằng tại sao mình không được như người khác?

      Dẫu sao đi nữa chuyện cũng đã rồi,giờ mình mới là Nguyễn Tất Nhiên là hữu lý khi sáng tác bài thơ
“thà như giọt mưa"  với câu “ hy vọng mất rồi ta đợi ngày đi“ ./.

Phan Tấn Lộc

Nguyễn Khoa Nam - Thủ Khoa Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc

      Ngày 12/12/2013 vừa qua Nguyễn Khoa Nam là một em Việt Nam được sinh ra và lớn lên tại Melbourne, Úc Châu, đã tốt nghiệp Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc tại Canberra và Học Viện Hàng Hải Hoàng Gia Úc HMAS Creswell với cấp bực Trung úy. 

Nguyễn Khoa Nam 

      Nhưng điều đáng nói là Khoa Nam đã tốt nghiệp với ngôi vị thủ khoa của khoá huấn luyện bốn năm. Khoa Nam được vinh dự đại diện khóa cầm kiếm dẫn đầu các tân sĩ quan tiến ra lễ đài và đại diện trường để chào đón bà Toàn Quyền, đại diện Nữ Hoàng Anh tại Úc, và giới thiệu các bạn đồng trang lứa với bà và các quan khách.

Nguyễn Khoa Nam được vinh dự đại diện khóa cầm kiếm dẫn đầu các tân sĩ quan tiến ra lễ đài 

      Điều ngạc nhiêu hơn nữa khi vị chưởng ấn của Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc xướng tên Khoa Nam Nguyễn được nhận lãnh huy chương cao qúi “Commander-In-Chief’s Medal” dành cho sinh viên sĩ quan xuất sắc nhất trong mọi lãnh vực của toàn trường do Bà Toàn Quyền Quentin Bryce trao tặng. 

Nguyễn Khoa Nam nhận lãnh huy chương cao quý “Commander-In-Chief’s Medal” do Bà Toàn Quyền Quentin Bryce trao tặng 

      Đặc biệt nữa là Khoa Nam cũng là người xuất sắc đã giữ được huy chương “Megan Anne Pelly Perpertual Memorial Award” dành cho sinh viên sĩ quan xuất sắc trong mọi lãnh vực của Học Viện Hải Quân trong hai năm liền, điều chưa từng xảy ra tại Học Viện.
      Là con trai trưởng của anh Nguyễn Minh Khoa và chị Bạch Mai, Khoa Nam khi còn là học sinh tiểu học đã từng là sói con Hướng Đạo Thăng Long (West Footscray) và Hướng Đạo Hoa Lư (Broadmeadows), khi lên trung học đã tham gia Thiếu Sinh Quân trường Melbourne High School và cuối tuần em thường tới Giáo xứ St Margaret Mary’s North Brunswick tham gia sinh hoạt đoàn Thanh Thiếu Niên Salesian và Nam đã tỏ ra xuất sắc là một trưởng có tài chỉ huy trong Đoàn Thanh Thiếu Niên Salesian, và cũng là nơi mà ba mẹ của Khoa Nam có tên trong Ban Mục Vụ của Giáo xứ. Khoa Nam cũng đã từng theo ba mẹ giúp các cô chú bác rất tích cực trong các hội chợ Tết do Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do Victoria tổ chức.
      Trong bốn năm huấn luyện tại Đại Học Võ Bị Liên Quân Hoàng Gia Úc tại Canberra và Học Viện Hàng Hải Hoàng gia Úc HMAS Creswell, Khoa Nam tuy là một sinh viên trẻ nhưng đã biết dấn thân trong nhiều lành vực xã hội và từ thiện, và sinh hoạt rất tích cực.

      Khoa Nam dù sinh ra và lớn lên tại Úc nhưng rất thông thạo tiếng Việt nên đã từng là thông dịch viên cho những cuộc gặp gỡ giữa quân đội Úc Việt. Khoa Nam cũng đã được bộ trưởng quốc phòng Stephan Smith và thủ tướng đương nhiệm Tony Abbott, khi ông còn nắm giữ vai trò chủ tịch Liên Đảng trong cương vị là nhân vật đối lập tại Quốc Hội trước khi thắng cuộc bầu cử Liên Bang vào tháng 9/2013 và trở thành vị Thủ Tướng thứ 28 của nước Úc, đề cử làm đại diện Bộ Quốc Phòng Úc để tham gia Đại Hội An Ninh Toàn Cầu tại Slovakia và Singapore.

Nguyễn Khoa Nam và Thủ Tướng Tony Abott 
Nguyễn Khoa Nam và Cựu Thủ Tướng Kevin Rudd 

      Vào tháng 7/2013 Khoa Nam đã nghiên cứu về mối liên hệ và giao tiếp hỗ tương của Hải Quân các nước Á Châu trước việc tranh chấp tại vùng biển Đông Nam Á nên đã được mời tham dự cuộc họp bàn về các vấn đề biển đảo của Biển Đông tại Singapore.
      Ước vọng của Khoa Nam là mong có được nhiều cơ hội nói chuyện, chia sẻ cùng các bậc phụ huynh để khuyến khích con em mình chọn con đường binh nghiệp cho tương lai, nếu đó là điều các em mơ ước, và có dịp khuyến khích các bạn trẻ và các em nhỏ tham gia dấn thân phục vụ đất nước và cộng đồng để nâng cao tinh thần yêu nước, làm rạng danh Con Rồng Cháu Tiên.
      Vì sự mến mộ và cảm phục đối với Khoa Nam, một vị Trung Uý Hải Quân 22 tuổi, nên Học viện Hàng Hải Anh Quốc Britannia Royal Navy College Dartmouth đã gởi lời mời Khoa Nam tham dự buổi lễ tốt nghiệp vào 20/12/2013 này. Đây là một niềm vinh dự vô cùng lớn lao cho Khoa Nam, gia đình và cộng đồng Người Việt hải ngoại.

Britannia Royal Navy College Dartmouth 
      Khi được hỏi những yếu tố nào đã giúp Khoa Nam chọn con đường binh nghiệp và nguyên nhân nào đã giúp em đạt được thành qủa này, Khoa Nam cho biết ngoài cha mẹ và em gái mình, một trong những điều đã có ảnh hưởng lớn đến sự chọn lựa và nỗ lưc giúp em cố gắng trong 4 năm qua, còn có những yếu tố quan trọng không kém đó là sự tham gia các sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo, hướng đạo, thiếu nhi, và học tiếng Việt.
      Qua những công việc này, Khoa Nam học được cách phục vụ, dấn thân từ các linh mục tu sĩ, các ông bà chú bác, những người luôn đóng góp vào những mục tiêu cao cả hơn bản thân, và nhờ đó Khoa Nam có được động lực giúp mình chọn con đường phục vụ có ý nghĩa cho một công cuộc chung. 
      Tương lai Khoa Nam sẽ phục vụ trên những tầu chiến tại vùng biển Úc Á. 

  
Nguyễn Khoa Nam cùng gia đình và Bà Toàn Quyền Quentin Bryce 


Melbourne 19/12/2013
Lê Quan Vinh sưu tầm

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Những Cọc Thu Sầu




Trên những cọc thu sầu
Đâm nát cả trời cao
Nên đời nghe rỉ máu
Giữa lòng rừng của nhau

Ta nhặt lá thay màu
Vớt vát kỷ niệm sâu
Lá bây giờ đã đổi
Nhận diện gì? Nỗi đau

Ta đếm những con tàu
Qua bến cạnh rừng sâu
Hôn vội vùng lá úa
Phủi bỏ lại phía sau

Em một chuyến hôm nào
Ta chiếc bến từ lâu
Thu ôm mềm sương khói
Nhớ gì đã qua mau

Ta như cọc thu sầu
Cắm giữa trời xanh xao
Giữa cọc rừng trụi lá
Nghe lá gõ niềm đau

Hoài Tử

Một Đời Ngủ Quên

 
              (Cảm tác từ ảnh)

Lũng sâu vắng bóng mặt trời
Đêm ngày tăm tối, một đời ngủ quên
Quen người mà chỉ biết tên
Trời che khuất mặt, làm nên tội tình!

Lê Kim Thành




Túc Hoa Âm Tự



Cùng Bạn
Xin chuyển đến bạn thơ, một bài thơ của Nguyễn trung Ngạn, một bài thơ mang sắc thái thiền khiến lòng tôi vô cùng cảm khái.
Nguyễn trung Ngạn ( 1289-1370) tự là Bang Trực, hiệu Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên. Năm 16 tuổi đỗ Hoàng Giáp đời vua Trần Anh Tôn (cùng khoá với Mạc đỉnh Chi), làm quan tới chức Đại Hành Khiển Tước Thân Quốc Công, thọ 82 tuổi.
Thân kính 
Mailoc

           Túc Hoa Âm tự 
                   Nguyễn Trung Ngạn

  宿花陰寺          Túc Hoa Âm tự

偶徬招提宿     Ngẫu bạng chiêu đề túc
僧留半榻分     Tăng lưu bán tháp phân
石泉朝汲水     Thạch tuyền triêu cấp thuỷ
紙帳夜眠雲     Chỉ trướng dạ miên vân
松子臨窗墜     Tùng tử lâm song truỵ
猿聲隔岸聞     Viên thanh cách ngạn văn
粥魚敲夢醒     Chúc ngư sao mộng tỉnh
花雨落繽紛。 Hoa vũ lạc tân phân.

 Dịch Nghĩa :

Ngẫu nhiên vào ngủ đêm trong chùa
Sư dành cho nửa giường 
Sáng ra đi múc nước ở suối đá,
Đêm ngủ với mây trong trướng giấy.
Quả thông rụng trước cửa sổ,
Tiếng vượn bên kia sông.
Mõ chùa khua tỉnh giấc mộng,
Mưa hoa rơi xuống tơi bời.   

Bản dịch:
 
              Trọ tại chùa Hoa Âm
 
         Ghé trọ chùa tình cờ đêm tối
   Sư nhượng cho nửa gối chăn giường .
         Sáng ra múc nước suối nguồn
Đêm về trong trướng mây vương ngủ vùi .
     Ngoài song cửa thông rơi một trái
       Vượn gọi bầy vẳng lại bên sông .
          Mõ chùa lay tỉnh giấc nồng
     Từ đâu tan tác mưa bông rợp trời

                                                Mailoc


* * *
         Trọ Đêm Tại chùa

Ngẫu nhiên được trọ lại trong chùa
Chia với sư già chiếc chõng thưa
Nước suối trong veo khua thỏa thích
Phòng mây ấm áp ngủ say sưa
Thông rơi lộp độp ngoài song cửa
Vượn hót véo von cách khoảng bờ
Tiếng mõ vang đều xua giấc mộng
Rào rào hoa rụng xuống như mưa.
                                   Phương Hà 
* * *

           Ghé Ngủ Chùa

Ngẫu nhiên ngủ nhờ chùa vắng
Sư nhường nửa chõng tre nằm
Sáng ra múc nước suối đá
Đêm nằm mượn mây thay màn
Trái tùng vào song cũng thích
Vượn kêu bờ suối inh vang
Sáng ra giật mình tỉnh mộng
Quanh mình mưa bụi mênh mang
                                       C.D.M.   
* * *
           Đêm Trọ Chùa Hoa Âm

             Tình cờ tá túc Hoa Âm,
Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
          Nước trong suối đá êm êm,
Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
          Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
       Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
 Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !
                                      Đỗ Chiêu Đức.

* * * 

Ở Lại Chùa Hoa Âm

Ở lại chùa đêm xuống
Nửa giường sư nhượng ta
Nước ngoài khe sáng lấy
Mây dỗ giấc mơ qua
Trong cửa nhìn thông rụng
Vượn kêu vẳng suối xa
Chày kình (*) vang tỉnh mộng
Lất phất trận mưa hoa
                            Quên Đi
(*) Chúc ngư ( 粥魚)  là Cháo Cá. Ở đây có nghĩa là Chày Kình. Chày Kình là cái chày khắc hình con cá voi để dọng vào cái chuông lớn trong chùa. 


* * *
     Hoa Âm Tự Qua Đêm


Hữu duyên tạm trú chùa Hoa Âm
Nhường lại sư chia đôi chỗ nằm
Nguồn suối tinh mơ chờ lấy nước
Màn mây tối ủ giấc  mơ Nam
Ngoài song thông quả đang rơi rụng
Bờ nọ vẳng xa tiếng vượn thầm
Chày dọng lay lay choàng giấc điệp
Mưa hoa lất phất gió căm căm.

                            Kim Phượng

* * *
          Lạc  Vào Chùa Hoa Âm 

          Tình cờ lạc lối cửa Chùa
Ghé thiền nửa chiếc chõng thưa Sư già
      Nước reo suối nguồn hoang dã
Tịnh tâm! Màn mây mượn ngã qua đêm 
          Ngoài song tùng hát êm êm 
     Xa xa vượn hú cảnh thêm hữu tình
      Tiếng chày đánh thức bình minh
   Mưa hoa lất phất giật mình tỉnh mơ. 
                                          Kim Oanh

* * *
      Qua Đêm Chùa Hoa Âm


Tình cờ ngủ trọ chùa khi đêm xuống
Nửa chiếc giường sư cụ nhượng cho nằm
Sáng múc nước suối chảy luồn kẻ đá
Đêm ngủ say, mây lót thảm thay màn
                                      
Bên song cửa thông rơi vương vài quả 
Vượn gọi bầy vang vọng cả ven sông
Tiếng chuông mõ trong chùa khua tỉnh mộng
Giọt mưa rơi làm rụng mấy cành bông
                                         Song Quang

Thơ Tranh: Tóc Mai


Thơ: Phạm Tương Như
Thơ Tranh: Kim Oanh

Khuê

        Thơ Thơ vừa mặc cái robe mới mua hôm thứ bảy tuần trước vừa ngắm nghía hình ảnh người thiếu phụ phản chiếu trong tấm gương lớn, tỏ vẻ hài lòng. Chiếc robe màu đen, dài phủ đầu gối, để lộ cặp chân trắng ngần. Thứ bảy tuần rồi đi shopping với Nga ở Rockland Center, ngang qua tiệm BCBG Nga lôi Thơ Thơ vào, mặc cho nàng dẫy nẫy:
            - Thôi mi ơi, tiệm này mắc thấy mồ. Lương ta ba cọc ba đồng...
            Nga cắt ngang:
            - Tuần này nó hạ 70%. Vô đi. Ta thấy một cái robe màu đen rất hợp với mi. Mặc hôm party tuần tới là có khối chàng... xỉu!
            Vừa nói Nga vừa nháy mắt với Thơ Thơ. Thơ nguýt cô bạn vàng một cái sát rạt:
            -Vớ vẩn! Ai mà thèm bà già háp này chớ!
            Nga cười bí mật:
            - Ha! Vậy mà có người... Nói tới đây cảm thấy mình lỡ lời, Nga đánh trống lãng bằng cách reo lên:
            - Đây rồi. May quá "Nó" chưa bị chôm đi mất!
            Nga lôi chiếc áo đầm treo tuốt trong góc đưa cho Thơ Thơ. Chiếc áo cắt khéo, cổ trễ vừa phải và những lằn xếp chéo trước ngực đầy nghệ thuật. Thơ Thơ thấy chiếc áo thật đẹp. Nhìn giá cũng phải chăng, nên sau khi thử nàng đã trả tiền lấy chiếc áo.
            Nga tuyên bố tổ chức party để chào đón ông anh họ từ Pháp qua chơi. Vốn không có tính tò mò nên Thơ Thơ cũng không hỏi gì nhiều về ông ấy. Chỉ biết ông ta đến tuổi sắp về hưu, có bằng Tiến sĩ và dạy ở một trường Đại Học tại Paris. Có gia đình nhưng đã ly dị và tên là Tú. Nga khen ông anh này hết mình. Đến nỗi Thơ Thơ phải kêu:
            - Thôi, khen quá coi chừng té hen đó mi. Ta phải thấy tận mắt mới tin. Mi là hay tô màu téc ni cô lo lắm!
            Nga chỉ cười mím chi:
            - Ờ, mai mốt gặp anh của ta rồi, nhớ đừng có bị coup de foudre đó nha. Lúc đó chỉ sợ có người năn nỉ tui nói... tốt dùm hổng chừng!
            - Thôi, cho em xin hai chữ bình an. Từ ngày thoát khỏi ách "đô hộ" của lão Nguyên, em sống rất thoải mái. Có điên mới đeo gông vào cổ lần nữa...! Nga chỉ cười cười, không trả lời.
            ...Thơ Thơ ngắm mình trong gương một lần nữa. Mái tóc cắt đơn sơ úp vào cổ, màu son hồng fuchsia khiến nàng trẻ ra cả chục tuổi. Tối nay Thơ đeo nữ trang hạt trai trắng càng tôn thêm nét quý phái. Dù đã qua tuổi năm mươi từ lâu, nhưng nhờ tập thể dục đều đặn nên thân hình nàng vẫn còn thon gọn trong chiếc robe bằng soie màu đen sang trọng. Cầm chiếc ví soirée màu bạc, mang đôi giày cùng tông, Thơ Thơ cảm thấy đầy tự tin.
           

            Đến nơi đã thấy xe hơi đậu kín hêt trước cửa nhà Lệ Nga, Thơ Thơ phải đậu xe ở con đường ngang hông và đi bộ đến nhà Nga. Bước vào phòng khách đã thấy bạn bè quen thuộc đứng đầy. Thơ Thơ mĩm cười, gật đầu chào tổng quát. Ánh mắt cánh đàn ông nhìn nàng toát đầy vẻ ngưỡng mộ, nhưng cánh đàn bà không dấu nỗi sự e dè! Thơ Thơ biết, từ khi li dị Nguyên, nhiều người đã không còn nhìn nàng với ánh mắt như xưa. Những lời mời dự party cũng thưa dần. Có vẻ như, nơi những người đàn bà độc thân nói chung, có cái gì đó khiến cho các bà vợ không yên tâm. Chỉ có Lệ Nga là không thay đổi. Nhờ bờ vai của bạn mà suốt những tháng đầu chia tay với Nguyên, Thơ Thơ đã có nơi nương tựa tinh thần vững chắc. Bất cứ lúc nào nàng cũng có thể gọi cho Nga. Có những đêm không ngủ được, đầu óc căng thẳng tột độ, những ý nghĩ đen tối bắt đầu nhen nhúm, Thơ Thơ vội vàng gọi cho bạn và Lệ Nga đã yên lặng lắng nghe, lòng đầy thương cảm và xẻ chia. Tiếng nức nở của Thơ Thơ nhiều lần khiến Lệ Nga cũng rơi nước mắt âm thầm. May mà Sĩ, chồng Nga, thông cảm cho hoàn cảnh của Thơ Thơ. Nàng đang trải qua thời kỳ đen tối nhất cuộc đời của một người đàn bà. Mất con và li dị chồng. Vì thế Sĩ không hề cằn nhằn khi thấy vợ bỏ nhiều thời giờ an ủi, chăm nom cho Thơ. Đứa con trai duy nhất của vợ chồng Thơ đã qua đời năm hai mươi lăm tuổi, trong một tai nạn xe mô tô. Biết con trai có niềm đam mê nguy hiểm, nhưng Nguyên chìu con, không hề ngăn cản. 

            Sau cái chết của con, Nguyên suy sụp dần rồi đâm ra nghiện rượu. Chuyện ly dị sẽ không xẩy ra nếu như Nguyên không theo bạn bè đi Casino và càng ngày càng lún sâu vào trò chơi đen đỏ. Bao nhiêu tiền dành dụm cho tuổi già cũng lần lượt đội nón ra đi, mặc cho Thơ Thơ năn nỉ, khóc lóc... Có là thánh nàng cũng không thể chịu đựng nỗi ông chồng vừa nghiện rượu, vừa nghiện cờ bạc. Thế rồi một ngày... xấu trời, Nguyên nhận được lá đơn ly dị của Thơ Thơ. Nàng dửng dưng, chai đá trước những lời hứa hẹn, thề thốt thứ một trăm lẻ... của chồng. Cuối cùng Nguyên đành đầu hàng, đặt bút ký vào lá đơn. Không có sự tranh giành, kiện tụng nào xảy ra. Hai người chia tay êm thấm trong sự đớn đau, hối tiếc. Hối tiếc một hạnh phúc đã qua. Hình ảnh gia đình ba người đầm ấm, vui vẻ ngày nào đã trôi vào dĩ vãng. Như một giòng suối chảy xuôi và mất hút vào vô tận...

            May mà Thơ còn có Lệ Nga. Hai người quen nhau từ lúc cùng ở nội trú Régina Pacis. Thơ học Luật và Lệ Nga học Dược. Phòng hai cô sát cạnh nhau, cùng tuổi nên hai người dễ thân thiết. Lệ Nga từ Đà Lạt xuống và Thơ Thơ từ Cao Lãnh lên. Ba má Lệ Nga quê Sài Gòn nhưng lên Đà Lạt lập nghiệp lúc cô bé còn nhỏ xíu. Suốt bốn năm học, rất nhiều lần Thơ Thơ lên Đà Lạt nghỉ mát và Lệ Nga về Cao Lãnh nghỉ hè. Cả hai có với nhau biết bao kỷ niệm đẹp tuyệt vời của thời con gái ngây thơ. Chính Thơ Thơ đã là phù dâu cho Lệ Nga trong ngày cười. Sĩ, chồng Nga là Bác sĩ Quân y. Sau đó Lệ Nga cho mướn bằng Dược sĩ và theo chồng đổi ra Quy Nhơn. Vợ chồng cô chỉ về Sài Gòn dự đám cưới của Thơ Thơ với Nguyên. Sau đó thì Nguyên cũng đổi đi làm Phó Tỉnh Trưởng một tỉnh miền Cao nguyên xa xôi. Hai cô chỉ còn gặp nhau qua những cơ hội hiếm hoi. Đất nước giặc giã điêu linh biết làm sao bây giờ? 

            Cho đến tháng Tư Bảy Lăm, cả hai tình cờ gặp nhau trên đảo Guam. Ôi! không lời nào có thể diễn tả được cái cảm giác hạnh phúc của hai cô bạn chí thân khi gặp lại nhau trong một hoàn cảnh oan khiên như thế. Cả hai oà lên khóc trước ánh mắt ngạc nhiên của những người tị nạn. Những giọt nước mắt xót xa lẫn vui mừng... Khi phái đoàn Canada đến phỏng vấn, hai gia đình ghi tên và chỉ một tuần sau là họ có mặt tại thành phố Montréal. Rồi những ngày cơ cực cũng dần qua. Sĩ cày cục thi lấy lại bằng bác sĩ, Lệ Nga cũng lấy được bằng dược sĩ. Cả hai đều đi làm chăm chỉ nên đời sống thật dư dã, thoải mái. Nguyên học ra Kỹ sư cơ khí, có việc làm tốt. Phần Thơ Thơ, thấy nghề computer dễ tìm việc nên nàng ghi tên học. Sau khi yên ổn rồi Thơ Thơ mới sinh cu Nhật. Vì nhau không tróc, Thơ bị làm băng suýt chết. Bác sĩ cuối cùng phải cắt bỏ tử cung. Biết vợ không thể sinh nở thêm nữa, bao nhiêu tình thương Nguyên dồn cả vào thằng con trai duy nhất. Cả hai cưng con như châu báu. Thế mà định mệnh lại bắt nó lìa cha bỏ mẹ mà ra đi ở độ tuổi tươi đẹp nhất, như trái còn xanh mơn mởn trên cành... chợt rụng và một gia đình tan vỡ!...

            - Thơ Thơ. Tiếng Lệ Nga phát ra từ ngưỡng cửa phòng đọc sách. Vô đây ta giới thiệu với mi một người.
            Thơ Thơ tiến về phía bạn, vừa cười vừa hỏi:
            - Làm gì mà bí mật dữ vậy...
            Nhưng nụ cười trên môi nàng vụt tắt. Thay vào đó là một sự ngạc nhiên tột độ. Thơ Thơ tự hỏi mình đanh tỉnh hay mơ. Người đàn ông trong bộ complet màu kem, dáng dấp sang trọng đứng giữa phòng có phải là...? Quay sang định hỏi Lệ Nga, nhưng nàng ta đã biến tự hồi nào, sau khi kín đáo khép cửa phòng lại. Giờ thì chỉ có hai người đối diện nhau. Một cảm giác mơ hồ vừa xa lạ vừa thân thiết xâm chiếm Thơ Thơ. Nàng không thốt được lời nào, chỉ nhìn đăm đăm người đối diện. Cặp mắt to, vẫn còn tinh anh sau cặp kính trắng, mái tóc hơi quăn có nhiều sợi bạc hai bên thái dương và chiếc cằm chẻ đôi. Chỉ có một người có đôi mắt này và chiếc cằm này... Lần cuối cùng nàng thấy người ấy trong tấm ảnh treo trên vách nhà của Nguyệt. Năm đó nàng mười sáu tuổi. 

            Người đàn ông tiến lại gần, cặp mắt đắm đuối nhìn sâu vào mắt Thơ Thơ, giọng êm như ru:
            - Thơ Thơ. Còn nhận ra anh không?
            Thơ Thơ đáp khẻ, giọng có chút nghẹn ngào:
            - Anh Khuê! Phải anh Khuê không?
            Người đàn ông cúi xuống cầm hai bàn tay đang run rẩy của Thơ Thơ, siết nhẹ, giọng đầy chợt trầm xuống:
            - Anh đây. Anh Khuê đây...
            Sự xúc động mãnh liệt  khiến đôi chân Thơ Thơ hầu như mềm nhũn. Người đàn ông tên Khuê vội vòng tay ngang lưng, dìu Thơ Thơ ngồi xuống chiếc ghế bành bọc nhưng đỏ gần đó. Sau khi an vị, Khuê đứng lên nói:
            - Để anh ra ngoài lấy cho em ly rượu.
             Nhưng Thơ đã vội vàng nắm tay chàng kéo ngồi xuống. Nàng không muốn xa rời Khuê dù chỉ vài phút. Đã mất nhau gần nửa thế kỷ rồi vẫn chưa đủ sao? Từ năm Thơ lên chín và Khuê là một cậu bé mười hai tuổi.
            - Không cần đâu. Khuê ngồi đây với em. Trời ơi, Thơ đang tỉnh hay đang mơ đây? Anh Khuê... Anh Khuê! Thơ không bao giờ ngờ có ngày được gặp lại anh.
            Khuê không trả lời, chàng vòng tay ôm Thơ Thơ thật chặt và bất ngờ đặt lên môi nàng một chiếc hôn nóng bỏng. Chàng cắn nhẹ lên bờ môi đang căng mọng của Thơ Thơ rồi nói, giọng mơ màng:
            - Em có tưởng tượng được là anh ao ước giây phút này suốt cả cuộc đời của anh không Thơ Thơ. Từ khi theo ba má nuôi lên Sài Gòn, rồi sang Thụy Sĩ, Pháp và cho đến ngày hôm nay... chưa bao giờ anh quên được Thơ Thơ cũng như những ngày tháng hai đứa mình sống hồn nhiên như cây cỏ ở Tân An. Anh đã có một tuổi thơ thật cơ cực, nghèo nàn. Nếu như không có cô tiên bé nhỏ tên Thơ Thơ bên cạnh, thì những ngày sống trong gia đình cậu hai của anh càng đau khổ biết bao nhiêu! Anh đã bị bắt làm việc như một người ở đợ, bị sự hà hiếp của mấy đứa con cậu Hai, bị bà mợ đánh đập, bỏ đói... nhưng bù lại anh có Thơ Thơ. Cô tiên đã băng bó những vết thương thể xác và xoa dịu những vết thương tinh thần cho thằng bé mồ côi khốn khổ. Em nghĩ là anh có thể quên được sao? Ngàn lần không. Anh đã nhớ, đã nghĩ đến em hằng ngày. Liên miên từ năm nọ sang năm kia. Những khi gặp khó khăn, buồn chán... anh chỉ cần nghĩ đến nụ cười rạng rỡ, trong như pha lê, cặp mắt đen huyền ngây thơ, lấp lánh khi gặp chuyện vui và nét mặt phụng phịu, cặp môi cong lên thật dễ thương khi gặp chuyện không vừa ý của Thơ là trong anh lại tràn đầy sức mạnh để vượt qua. 

            Khuê nói xong, móc chiếc ví con trong túi quần, lấy ra một tấm ảnh đen trắng đã úa vàng. Trong hình là hai cô nhỏ độ tuổi mười lăm, mười sáu. Mái tóc dài xõa ngang lưng, nụ cười tươi như hoa và một trong hai cô là Thơ Thơ! Nàng kêu lên kinh ngạc:
             - Ơ! Đây là tấm hình em chụp với Nguyệt khi hai đứa còn học ở Cao Lãnh. Sao anh có được?
           - Lần đó, trước khi đi du học bên Thụy Sĩ, anh đã về Cao Lãnh thăm và từ giã gia đình cậu Hai. Đáng tiếc là em đi vắng. Nguyệt khoe anh tấm ảnh hai cô chụp chung. Anh viện cớ muốn giữ kỹ niệm với Nguyệt nên xin tấm ảnh và nó đã theo anh cho đến ngày nay. So với người trong ảnh, Thơ Thơ không khác gì mấy. Chỉ có mái tóc ngắn hơn và người thật trước mặt anh bây giờ... đẹp và quyến rũ hơn xưa!
            Thơ Thơ mắc cỡ:
            - Xí! Anh chỉ sạo! Em bây giờ già xọm. Anh đâu có biết em đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ với...
            Khuê cắt ngang:
            - Anh biết! Anh biết. Lệ Nga đã kể cho anh nghe hết rồi.
            Thơ Thơ chợt nhớ ra:
            - À, nói tới nhỏ này. Em phải la nó một trận mới được. Tụi em chơi với nhau mấy chục năm. Nó chỉ nói là có một ông anh ở Paris tên Marcel Tú! Như vậy nghĩa là sao?
            Khuê cười:
            - À, cái này không phải lỗi của Nga. Để anh kể cho Thơ nghe. Em biết là má sanh anh xong, chỉ hai tháng sau là mất vì bịnh sản hậu. Từ đó anh sống với gia đình cậu Hai và bà ngoại. Lúc nhỏ bà ngoại chăm sóc cho anh tử tế, nhưng khi anh sáu tuổi thì bà mất. Từ đó anh mới bị cậu mợ ngược đãi.
            Thơ Thơ cắt ngang:
            - Đúng rồi. Má em kể, cô ba Huê má của anh tuy nhà nghèo nhưng đẹp lắm. Tóc dài da trắng. Trong làng biết bao nhiêu người đeo đuổi mà cô không ưng. Năm cô mười chín tuổi thì gặp ba anh. Nghe nói ông là con nhà giàu trên Sàigòn, vì lý do gì đó chạy theo kháng chiến. Một hôm ông về làng làm công tác dân vận, gặp và thương cô thôn nữ xinh đẹp tên Huê. Nàng cũng thương anh chàng công tử Sài Thành thắm thiết, nên dù gặp sự chống đối quyết liệt của gia đình bên đàng trai, cô Ba vẫn quyết định trao thân gởi phận cho chàng công tử hào hoa. Họ chỉ làm một bữa cơm đơn sơ ra mắt ông bà. Ông anh Hai, tuy không bằng lòng nhưng vì nể mẹ nên cũng đành chấp nhận. Ông ta nghĩ con em lấy một chàng trai nào đó trong làng, tương lai còn tốt hơn là lấy anh chàng công tử cha căng chú kiết, chỉ có cái mã đẹp trai này. Khi cô ba Huê sinh anh ra, dượng ba từ trong đồng lén về thăm, bị lính ở đồn ngoài đồn rình bắn chết. Hình như có người ghen ghét báo tin rằng thế nào ba anh cũng mò về thăm vợ con. Họ đã rình 3 ngày liền. Xác dượng ba được ông nội em cho chôn trong đất gia đình em, gần ngoài lộ mới. Cô ba đau khổ quá nên hai tháng sau cũng qua đời. Má em nói gia đình bên nội anh thật là tệ. Khi nghe tin, chỉ cho người con gái lớn xuống Cao Lãnh. Sau khi làm lễ cúng kiến trước mộ người em xong là bà ta trở về Sài Gòn, sau khi cho mẹ anh một món tiền nho nhỏ. Rồi từ đó về sau không có tin tức gì nữa mặc cho anh sống cực khổ với gia đình cậu Hai. À, mà sao anh lại tên Tú?

            Khuê kể tiếp, giọng ngậm ngùi:
            - Thơ còn nhớ không, khi  anh được mười hai tuổi. Một hôm có cặp vợ chồng và một bà đứng tuổi thật sang trọng từ Sàigòn xuống Cao Lãnh kiếm nhà cậu Hai. Thì ra đó là vợ chồng chú Út và cô Hai của anh. Gia đình bên nội, ngoài cô thứ hai không chồng, còn cô Tư và chú Út. Vợ chồng chú Út lấy nhau mười năm mà không có con. Một hôm cả nhà họp mặt đám giỗ ông nội, cô Hai mới nhắc đến ba anh. Hình như cô ấy có ý ân hận đã không nhìn nhận thằng cháu đích tôn là anh. Họ tin tưởng chú Út lấy vợ thế nào cũng sinh con nối giõi tông đường. Có ngờ đâu! Khi sự việc xảy ra chú anh còn quá trẻ nên không để ý. Giờ nghe nhắc lại chú mới hỏi phăng tới và vợ chồng chú quyết định xuống Cao Lãnh tìm anh để nhận làm con nuôi. Lúc gặp mặt, thấy anh giống hệt ba anh, cô Hai đã ôm anh khóc  mùi mẫn. Chú Út cũng cảm động rưng rưng nước mắt. Anh tuy không hiểu gì lắm, thấy họ khóc anh cũng khóc theo. Đúng là tình máu mủ thật thiêng liêng phải không em? Gia đình bên nội anh rất giàu. Chú Út anh là Luật sư. Ông đã làm giấy khai sinh nhận anh làm con. Họ muốn đổi tên khác, nhưng anh nhất định đòi giữ tên Khuê, chú Út đành đặt là Nguyễn Khuê Tú. Từ đó về sau mọi người đều gọi anh là Tú. Thơ biết không, sở dĩ cậu Hai bằng lòng cho anh về bên nội  là vì chú Út đưa ra một món tiền rất lớn, gọi là đền ơn công lao cậu mợ đã nuôi nấng anh trong suốt bấy nhiêu năm. Cậu mợ mừng húm nhận lời ngay. Họ đón anh đi ngay hôm ấy, có lẽ sợ cậu mợ đổi ý. Anh chạy đến nhà từ giã Thơ, nhưng em đi thăm ông bà ngoại trên Đốc Vàng. Xa em, anh đã nhớ và khóc thầm mỗi đêm hàng mấy tháng trời mới hơi nguôi ngoai. Tuy nhiên hình ảnh em thì choán đầy trái tim của anh, không chừa chỗ cho người con gái nào khác.

            - Em cũng vậy. Thơ Thơ xen vô. Ở nhà ngoại về, hay tin anh đi rồi em khóc quá chừng. Em buồn rũ rượi không thiết chơi nhà chòi, nhảy giây, đánh chuyền  hay bất cứ trò gì tụi con Hải rủ. Đến nỗi, con Hải còn chọc em "Tụi bây coi con Thơ kìa. Nó nhớ thằng Khuê, giống như thằng Khuê là chồng nó vậy đó..." Em vừa tức vừa mắc cở, xông tới nắm cái đuôi ngựa của nó kéo một cái thật mạnh. Con nhỏ  té lăn cù xuống đất, khóc một trận như mưa.
            Nghe Thơ kể, Khuê bật cười, hai tay ôm mặt Thơ Thơ, hôn tới tấp lên  má, lên môi, lên cặp mắt nhắm hờ của nàng, thì thầm:
            - Thơ là tình yêu duy nhất của anh! Chưa bao giờ anh ngừng yêu em.
            Thơ Thơ ngạt thở, né tránh những chiếc hôn nóng bỏng của Khuê, cười rúc rích :
            - Coi kìa, để em thở với chứ. Coi chừng Lệ Nga đi vào bắt gặp thì quê lắm đó.
            Vừa nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo tới liền. Lệ Nga mở cửa bước vào:
            - Sao, hai anh chị tâm tình xong chưa? Bên ngoài bắt đầu nhập tiệc rồi đó. Ngạc nhiên không Thơ Thơ?
            Thơ hừ một tiếng, xỉ ngón tay trỏ vào trán Lệ Nga:
            - Ta còn chưa hạch tội nhà ngươi. Bao nhiêu năm nay không hé môi cho ta biết ông anh mi chính là anh Khuê...
            Lệ Nga giơ hai tay lên trời phân bua:
            - Thượng đế chứng giám nỗi oan của con! Ta có biết anh Tú có tên là Khuê bao giờ đâu? Hồi nào tới giờ mọi người đều gọi ông ấy là Tú. Anh phải làm chứng cho em đó nha anh Tú! Ủa mà tên Khuê từ đâu nhảy ra vậy? Em bị tẩu hỏa nhập ma rồi anh Tú ơi!
            Khuê và Thơ Thơ bật cười trước vẻ mặt ngớ ra của Lệ Nga. Khuê nói:
            - Thôi chúng ta ra ngoài đi. Chuyện này anh sẽ kể cho Nga nghe sau. Vừa nói Khuê vừa nắm tay Thơ Thơ kéo ra ngoài. Lệ Nga nhìn theo, lắc đầu tỏ vẻ bất lực, nhưng trong lòng tràn ngập niềm vui!
            Suốt buổi tối, Khuê không rời Thơ Thơ nửa bước. Họ đã nhảy với nhau những bài slow mùi mẫn, những bản tango tình tứ, luân vũ lã lướt... Thơ Thơ cảm thấy nàng đã thực sự hồi sinh. Khi Khuê bước lên bục hát tặng Thơ Thơ bài "Niệm Khúc Cuối" thì mắt nàng nhòa lệ:

            Dù cho mưa tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời
            Dù cho mây hay cho bão tố có kéo qua đây
            Dù có gió, có gió lạnh đầy
            Có tuyết buồn lầy, có lá buồn gầy
            Dù sao, dù sao đi nữa xin vẫn yêu em...
           

            Giọng Khuê ấp áp, tựa tấm chăn len êm ái phủ lên tâm hồn đang băng giá của Thơ Thơ. Nàng cảm thấy lòng mình mềm đi, mềm đi, lãng đãng khói sương... Khuê hướng vào góc tối, nơi Thơ Thơ đang ngồi, ánh mắt đắm đuối như muốn nói lên ngàn lời tha thiết. Thơ nhìn chàng đứng đó mà vẫn tưởng như một cơn mơ. Nàng thầm van vái giấc mơ đừng bao giờ tàn và nàng đừng bao giờ tỉnh giấc. Tiếng vỗ tay rào rào kéo Thơ Thơ trở về thực tại. Khuê đi xuống, ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Thơ Thơ, ghé tai nàng thì thào:
            - Em thích bản nhạc này không?
          - Bắt đầu từ đây, với em, Niệm Khúc Cuối là bản nhạc hay nhất của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên! Thơ Thơ trả lời, ranh mảnh nhưng chân thành.
            - Anh đã để hết tâm tình của mình vào trong bản nhạc. Thơ có hiểu ý anh không?
            Thơ không trả lời. Nàng đứng lên ra hiệu cho Khuê đi theo mình. Cả hai đi ra khu vườn phía sau nhà. Đang giữa mùa hạ nên hoa nở tưng bừng rực rỡ. Lệ Nga rất yêu hoa. Có nhiều loại hoa rất lạ. Từ khi chia tay Nguyên, Thơ bán nhà và mua một condo ở cho tiện. Một mình trong căn nhà rộng lớn càng thấy trống trải, cô đơn. Thơ dắt tay Khuê đến ngồi trên chiếc băng đá dưới vòm dây clématis đang trổ hoa màu tím hồng lộng lẫy. Nàng nói khẽ, như sợ phá tan cái tĩnh lặng của đêm trường:
            - Khi nào buồn, em đến đây để ngắm hoa, ngắm bướm và nghe tiếng chim hót. Tâm hồn cảm thấy bình yên lạ lùng. Ban đêm em còn nhìn thấy những vì sao lấp lánh trên cao... À, em quên hỏi vì sao anh biết em ở đây?
            - Hôm vợ chồng Lệ Nga qua Paris thăm ba má anh, tình cờ anh thấy hình em đứng chụp chung với cô ấy. Anh hỏi tên thì đích thị là Thơ Thơ của anh. Em có biết anh đã mất ngủ bao nhiêu đêm hay không? Khi biết em đã li dị, anh cám ơn Thượng Đế còn cho anh cơ hội tìm lại được mối tình thơ ngây của anh. Anh nói với Lệ Nga em là cô bạn thân thiết nhất của anh thuở nhỏ. Anh dặn Nga không được tiết lộ tí gì về anh để dành cho em sự ngạc nhiên. Cuối cùng không thể chờ đợi lâu hơn, anh đã bay sang đây để gặp em. Thơ Thơ, em chưa trả lời câu hỏi của anh lúc nảy. Khuê nhẹ nhàng nhắc nhở, mắt ánh lên vẻ đợi chờ và lo lắng.

            Thơ nhìn chàng mĩm cười, cặp mắt long lanh:
            - Khuê, anh có nhớ không. Năm em lên bảy tuổi. Một lần tắm sông với bọn con Hải, thằng Lân... chiếc hors-bord của ông Quận từ ngoài sông Cái chạy vào, những lượn sóng lớn lan thật mau. Mấy đứa kia nhanh chân chạy hết lên bờ. Chỉ có em còn lên chưa kịp, bị sóng đánh sắp chìm. Nếu không có anh tình cờ đi ngang nhảy xuống kéo em lên, thì giờ này đâu còn Thơ Thơ ngồi đây với anh nữa phải không? Từ đó, đối với em, Khuê là người con trai quan trọng và đáng yêu nhất trong đời. Em nghĩ đó chưa phải là tình yêu trai gái mà là lòng biết ơn, lòng ngưỡng mộ đối với ân nhân của mình. Em đã bất chấp những lời chế nhạo của tụi bạn, cứ đeo theo anh như hình với bóng. Bên anh, em cảm thấy được an toàn. Nhớ lại tức cười ghê!
            - Ạ! hèn nào có món gì ngon cô bé Thơ Thơ cũng chia cho anh. Nhớ nhất là lần Thơ đem cho anh mấy trái nho khô. Trời ơi, sao mà nó ngon không thể tả. Anh chỉ dám cắn mỗi lần một chút xíu. Ngậm trong miệng để "nghe" tất cả sự ngọt ngào, thơm tho của nó rồi mới dám nuốt!
            Thơ cười, giọng trong veo:
            - Ừ. Ngày còn nhỏ ăn thứ gì cũng ngon hả anh. Bác Tư em ở Sàigòn thỉnh thoảng về thăm ông bà nội. Lần nào bác cũng đem những thứ hàng nhập cảng hiếm quý về biếu ông bà. Mà ông thì cưng em nhất nhà, nên lúc nào em cũng được ông cho. Em ăn một nửa còn một nửa để dành cho Khuê. Anh Thiên em theo dụ khị em cũng không cho. Có lần em bị anh ấy cốc lên đầu một cái đau điếng. Em vừa khóc vừa chạy mét ông nội. Anh Thiên bị ông nội xách ba ton rượt chạy có cờ.
            - Hèn chi anh bị nó đổ nguyên bình mực vô cuốn vỡ. Về nhà còn bị cậu anh đánh một trận nên thân. Nhà anh nghèo đâu có tiền mua tập vở mới. May nhờ anh học giỏi nên được thầy cho anh cuốn vở khác để viết bài.
            - Không ngờ ông Thiên lại nhỏ mọn như vậy. Mà anh thông minh thật, làm quần quật suốt ngày mà vẫn đứng đầu lớp. Hèn chi ông Thiên không ganh tức!            
            Thơ Thơ tựa đầu vào vai Khuê, mắt nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời nhung đen, giọng ngậm ngùi:
            - Em còn nhớ một buổi chiều, ăn cơm xong em đem trái soài thanh ca chín vàng qua tìm anh. Không thấy anh trong nhà, con Nguyệt kéo em ra sau hè chỉ cho em xem anh đang bị bà mợ phạt quỳ. Quỳ và không được ăn cơm vì tội kho nồi cá linh bị khét. Anh quỳ mà hai tay không ngừng đập muỗi đang bu quanh. Anh đang đói, được trái soài bèn ăn ngấu nghiến. Em thấy vậy chạy về nhà, lén xuống bếp bới một chén cơm nguội, rưới nước cá kho còn lại hồi chiều. Vậy mà anh đã ăn ngon lành.
            - Thơ Thơ, nói thật, đó là chén cơm ngon nhất trong đời anh. Sau này ở với ba má nuôi trên Sàigòn, dù ăn sơn hào hải vị ngon đến đâu anh cũng không thấy ngon bằng chén cơm chan nước cá kho chiều hôm đó. Một chén cơm chan đầy tình nghĩa. Ân tình của Thơ Thơ ban cho anh.
            Thơ Thơ ngồi thẳng lên nhìn Khuê, cười một cách thú vị:
            -Khuê còn nhớ cái lần hai đứa mình leo lên cây soài gần chùa Phước Lâm Tự không. Hái đầy túi, khi nhảy xuống đất em bị trặc chân. Khuê phải cõng em từ đó về đến nhà. Nằm trên chiếc lưng tuy êm ái nhưng đầy mồ hôi, con nhỏ mới tám tuổi đầu đã có ước muốn được anh cõng trên lưng như vậy mãi mãi. Đó có phải là tình yêu không anh? Sau này khi nhớ đến anh, em vẫn tự hỏi.
            Khuê cảm động, giọng hơi nghẹn ngào:
            - Nếu biết vậy, ngày đó anh không cõng Thơ về nhà mà cõng đi hoài, đi mãi đến chân trời góc biển nào cũng được...Và bây giờ Thơ có còn muốn anh cõng đi mãi... đi hoài... suốt đời nữa hay không?
            Thơ Thơ không trả lời ngay, cắn môi cố nén tiếng cười:
            - Khuê, anh còn nhớ khi anh cõng em về gần tới nhà thì gặp tụi thằng Lân, thằng Hiển, thằng Tín đang chơi tán u, thấy anh cõng Thơ trên lưng, tụi nó đã nói gì không?
            Khuê bồi hồi nhớ lại cảnh tượng một thằng bé đi chân đất cõng đứa con gái trên lưng. Thằng bé mồ hôi mồ kê nhể nhại. Nó cắn răng bước, vì hai bàn chân đi đất cấn đá xanh đau điếng. Thằng Tín thấy hai đứa thì la lên "Tụi bây coi vợ chồng thằng Khuê, con Thơ kìa!" và cả ba đứa phá lên cười, lêu lêu chọc quê. Khuê cúi đầu bước thẳng, nhưng Thơ Thơ tức quá òa lên khóc nức nở. Con bé úp mặt lên lưng, nước mắt thấm qua áo cậu bé Khuê nóng hổi. Số là hồi hè, trường có tổ chức văn nghệ cuối năm. Trong hoạt cảnh cho bài hát Vợ Chồng Quê do Khuê trình diễn, cậu bé đã chọn Thơ Thơ đóng vai cô vợ. Tụi thằng Tín tức lắm, có dịp là trêu ghẹo ngay... Chuyện mà Thơ không biết là ngày hôm sau  lỗ mũi thằng Tín bị Khuê cho ăn trầu, vì tội đã làm Thơ Thơ khóc! Chàng dịu dàng nắm hai bàn tay Thơ Thơ đưa lên môi, mắt đắm đuối nhìn vào mắt nàng, nói khẽ khàng:
            - "Vợ chồng thằng Khuê - con Thơ"! Đúng là định mệnh đã se duyên cho chúng mình từ hồi còn bé, chỉ là bắt mình phải lạc nhau một thời gian. Giờ tìm lại được, em nghĩ thế nào hở Thơ Thơ?
            Thơ cười, giọng bỡn cợt nhưng đầy hạnh phúc:
            - Em còn nghĩ gì nữa khi đã trót mang tiếng là "Vợ thằng Khuê" ngay từ lúc mới lên tám? Chắc là đành chịu mang "danh hiệu" này trọn cuộc đời! Thôi chúng mình vào nhà đi anh. Em bắt đầu thấy lạnh rồi đó.
            Khuê kéo Thơ Thơ sát vào mình, ghé tai nàng nói nhỏ, trước khi đặt nụ hôn nồng nàn lên cặp môi đang hé mở:
            - Xin tuân lịnh... Vợ thằng Khuê!
            Có một ánh sao băng trên nền trời đen thăm thẳm, lấp lánh muôn vạn vì sao đêm. Sương bắt đầu rơi rơi trên cỏ cây hoa lá đang im lìm say ngủ...
  
Tiểu Thu
Mùa Hạ 2012