Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Còn Đó Xuân Xưa

      Dòng sông Cổ Chiên lặng lờ, mênh mông... Từng mảng lục bình trôi rời rạc, cô đơn. Ánh sáng của buổi chiều tàn vàng vọt, chiếu xuống mặt sông lấp lánh...  Tôi đã ngồi đây từ lâu lắm rồi. Bên cạnh Ánh vẫn im lìm, gục đầu. Thỉnh thoảng tôi nghe nàng chợt buông tiếng thở dài... Tôi biết nàng buồn lắm và tôi cũng không biết lời lẽ nào để an ủi nàng.  Sự việc đã đến với chúng tôi một cách quá đột ngột, quá bất chợt, ngoài sự tưởng tượng.
       Mái tóc tơ óng mượt hững hờ chảy dài xuống quá nửa chiếc lưng thon đã che khuất một phần bờ vai bé bỏng của nàng. Đôi vai chợt run lên từng đợt.  Ánh đã khóc... Khóc nghẹn ngào, tức tưởi... Nàng khóc cho môt cuộc tình ngang trái.


      Tôi và Ánh cùng học chung trường, nhưng tôi hơn nàng bốn lớp. Do đó tôi biết Ánh từ những ngày cô bé còn thắt bím.  Nàng đã được những người bạn cùng lớp gọi nàng bằng một cái tên dễ yêu là “Nữ Hoàng Chân Không”.  Sở dĩ nàng có tên ấy vì sau giờ học, khi về đến nhà, nàng thường đi chân đất, ít khi thấy nàng mang dép. Nàng có đôi bàn chân đẹp vô cùng. Vì thế đôi lúc tôi thường nói đùa:
      -  Ánh, anh tội nghiệp đôi bàn chân của em quá chừng.
      Ánh mỉm cười và hỏi lại tôi:
      -  Tại sao anh lại tôi nghiệp nó?
      -  Vì anh yêu đôi bàn chân của em như anh yêu em vậy.
      Những lúc ấy thường thường tôi phải chịu một cái véo nên thân.  Mặc dù tôi nói đùa với Ánh như thế, nhưng thật ra tôi rất thích nhìn nàng đi chân đất.  Những lúc ấy tôi thấy nàng bình dị, ngây thơ và dễ yêu vô cùng.  Có lẽ chính nhờ đặc điểm nầy mà tôi yêu nàng.  Tình yêu đó tôi đã lặng lẽ, âm thầm giấu kín. Mãi cho đến khi tôi vào học lớp Sư phạm, tôi mới dám thổ lộ cùng nàng.

      Hôm ấy, cũng vào một chiều cuối tuần, chúng tôi cùng đi dạo bên bờ sông Cỗ Chiên. Nàng đang cười đùa, trò chuyện bên tôi thật là vô tư, cho nên đã nhiều lần tôi muốn nói cho nàng biết là tôi yêu nàng, thế mà tôi đã phải ngập ngừng không dám.  Tôi sợ khi nàng biết thì sự vô tư của nàng không còn nữa.  Và biết đâu nàng sẽ không còn đến bên tôi.  Biết đâu tôi sẽ mất nàng vĩnh viễn... Còn nếu không nói với nàng thì biết đến bao giờ? Cuối năm nay tôi sẽ ra trường.  Tôi sẽ đi dạy học và với số tiền tôi kiếm được lúc đó cũng đủ cho một gia đình ấm cúng.  Tôi vẫn có thể lo cho nàng tiếp tục đi học. Cuối cùng rồi tôi cũng đánh bạo nói với nàng.
       Tôi không làm sao quên được ánh mắt của nàng lúc đó. Trong ánh mắt có chút gì thẹn thùng, chút gì sung sướng, cũng có chút gì e dè.  Bàn tay nàng run rẩy trong tay tôi...  Qua một phút bàng hoàng, nàng đã tựa đầu vào ngực tôi thỏ thẻ:
      -  Anh đừng gạt em nhé anh!
      Ánh ơi!  Anh làm sao gạt em được.  Anh đã yêu em từ lâu rồi mà.  Tất cả mọi việc làm, mọi ý nghĩ của anh đều là cho em.  Anh chỉ sợ một điều là phải mất em mà thôi.
      Tôi gật đầu và nhẹ hôn lên mái tóc nàng.  Mùi hương mái tóc thoang thoảng làm tôi ngây ngất và cho đến giờ phút nầy tôi vẫn còn nhớ mãi.


      Từ ngày hôm ấy, mỗi lần gặp tôi Ánh tỏ ra dè dặt hơn, khôn lớn hơn.  Nàng bây giờ thật sự là một cô gái biết yêu và có người yêu; chứ không còn là một cô bé liến thoắng, vô tư như ngày xưa nữa.  Có những lúc tôi bắt gặp trong đôi mắt nàng một chút đăm chiêu, mơ mộng.  Chúng tôi đã cùng nhau hoạch định một tương lai. Tôi dự trù là sau khi đi dạy một năm, tôi sẽ dành dụm tiền và xin cưới nàng.  Ánh cũng đồng ý với tôi điều nầy.  Chúng tôi muốn sống tự lập, không nhờ vả vào gia đình, vì cả hai gia đình chúng tôi đều không phải là gia đình khá giả.
      Những tưởng cuộc tình sẽ mãi mãi êm trôi.  Thế nhưng một biến cố đã đến.  Mẹ Ánh đã gọi Ánh trở về Sài Gòn trong dịp Hè nầy và sẽ không trở lại đây trong niên học tới nữa.  Từ nhỏ Ánh đã ở đây với bà nội, còn ba mẹ Ánh sống tại Sài Gòn.  Ba Ánh là một công chức ở đó.

      Ánh vẫn tiếp tục khóc.  Tôi thì chết lặng, thẩn thờ.  Tất cả những ước mơ đều sụp đỗ.  Tôi không biết phải nói gì với Ánh.  Ánh về lần nầy là để vu quy.  Ba mẹ Ánh đã hứa hôn Ánh với con một người bạn và bây giờ gia đình ấy đã đến nhắc và xin cưới Ánh.  Chính Ánh cũng không biết điều nầy.  Cãi lời cha mẹ thì Ánh không dám vì Ánh là một đứa con hiếu thảo và rất yêu cha mẹ.
      -  Ánh, đừng khóc nữa em.  Tất cả đều là định mệnh.  Dù sao bây giờ anh cũng là kẻ đến sau.  Yêu em nhưng anh cũng không muốn ba mẹ phải thất hứa với người ta.  Anh không muốn người đời chê trách em là đứa con bất hiếu.  Đời đã khắc khe với anh quá.  Vừa bước chân ra đời anh đã chịu một thất bại quá chua cay.  Anh cám ơn em thật nhiều đã cho anh những ngày hạnh phúc.  Em giúp cho anh hiểu thế nào là tình yêu và sự hy sinh.  Và anh chấp nhận hy sinh, miễn sau nầy em được hạnh phúc.
      Ánh ơi, năm tháng sẽ phôi phai nỗi nhớ.  Rồi em sẽ quen dần với cuộc tình mới vì trách nhiệm của người vợ, người mẹ sẽ ràng buộc em, sẽ giúp em quên lãng...

      Buổi chiều xuống chầm chậm...  Ánh nắng đã tắt tự bao giờ.  Dòng sông bao phủ đầy bóng tối mênh mông như nỗi mênh mông, hoang vắng trong lòng tôi.  Tiếng côn trùng bắt đầu vang vang từ những bụi cỏ bên bờ sông thành một điệu nhạc thê lương muôn thuở.  Tôi nhẹ nhàng lau nước mắt cho Ánh và dìu nàng trở về.  Chúng tôi đi im lặng bên nhau suốt quãng đường đó.  Chúng  tôi  biết  rằng rồi đây sẽ xa nhau mãi  mãi nên không ai muốn phá vỡ những giờ phút bên nhau ngắn ngủi nầy.  Tôi đã hôn tóc nàng giả biệt.  Tôi quay người đi thật nhanh vì sợ rằng nếu tôi còn chần chờ ở đó  có lẽ tôi sẽ bật khóc.  Biết rằng khóc đối với một người con trai như tôi là một điều hèn nhưng chắc chắn tôi sẽ không giữ được lòng mình.  Nỗi đau nầy to lớn quá!
       Những ngày sau đó, chúng tôi vẫn tìm đến bên nhau nhưng chúng tôi cũng đồng ý là không nhắc đến chuyện đó nữa.  Chúng tôi muốn được sống trọn vẹn cho những ngày còn lại.  Dù thế nhưng không còn được như xưa.  Giữa chúng tôi tự dưng đã có một cái gì ngăn cách.
      Ngày Ánh lên xe về Sài Gòn, tôi là người duy nhất tiễn nàng.  Tôi biết lần ra đi nầy là lần cách ngăn vĩnh viễn.  Tôi đã thật sự mất Ánh rồi đó.  Tôi đã trách mình với vòng tay quá bé nhỏ không đủ sức để giữ lại người mình yêu.  Cánh chim trời đã bắt đầu vượt tầng không, bao giờ mới có ngày quay trở lại?  Tôi chết lặng nhìn theo chiếc xe chở khách cho đến khi khuất hẳn.  Tôi mường tượng như nghe đâu đây có tiếng hát của Minh Hiếu vang vang:” Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế...”.

      Tôi thẫn thờ quay bước trở về nhà.  Bây giờ tôi thật sự cảm thấy mình bị mất mát một cái gì to lớn quá.
      -  Ánh ơi, anh đang nghe từng bước chân cô độc của mình.  Bây giờ không còn tiếng bước chân em.  Anh nhớ em vô cùng...  Trong cuộc tình nầy anh là kẻ chiến bại.  Kẻ chiến bại không có quyền đòi hỏi, không có quyền van xin một điều gì phải không em?  Biết thế mà sao anh vẫn yêu em, vẫn đau khổ vì em!

      Thế rồi mùa Hè ấy đã lặng lẽ trôi qua.  Tôi được bổ nhiệm về dạy học ở một ngôi trường làng hẻo lánh.  Công việc dạy học bề bộn cũng giúp cho tôi phôi pha được một phần nào nỗi nhớ.  Nhưng đêm về, những lúc một mình trong căn nhà trọ là lúc tôi nhớ Ánh thật nhiều.  Tôi muốn cố quên mà không sao quên được.  Hình ảnh Ánh đã sâu đậm trong tâm trí tôi quá nhiều rồi.
       Một hôm tôi nhận được thư Ánh...  Cầm lá thư trên tay, tôi bàng hoàng xúc động.  Những nét chữ nầy thân thương quá.  Trong thư Ánh chỉ viết vỏn vẹn có mấy hàng:“ Anh, Ánh đã khổ quá anh ơi!  Làm thế nào anh cũng phải lên thăm Ánh ngay nhé anh”.
      Ánh ơi, anh cũng đang khổ đây.  Nỗi đau hằng đêm vẫn gặm nhấm tâm hồn anh, vẫn dằn vặt anh.  Anh không biết còn chịu đựng được bao lâu nữa.  Không biết anh sẽ gục xuống vào những ngày tháng bất chợt nào đây, Ánh ơi!  Ánh ơi!    
      Tôi không thể không đến thăm Ánh.  Ánh đang đau khổ và Ánh đang cần đến tôi.  Cuối cùng tôi đã đến với Ánh.  Khi gặp tôi, Ánh chỉ nói được:
            -  Em khổ quá anh ơi!
      Rồi nàng bật khóc nức nở.  Tôi chết lặng và cố giằng lòng để khỏi phải khóc với nàng.  Tôi cố làm ra vẻ bình thảng lau nước mắt cho Ánh và nhìn thật lâu vào đôi mắt ấy.
       -  Nín đi em.  Có gì từ từ kể cho anh nghe.
      Ánh lại càng nức nở hơn.  Lúc ấy mẹ Ánh đi chợ về đến.  Tôi quay lại, đứng lên chào bà:
      -  Thưa bác, con mới đến.
      -  Con ngồi đó chơi.  Má sẽ nói với con điều nầy.
Tôi ngồi xuống ghế và Ánh ngồi kế bên tôi.  Nàng vẫn còn sụt sùi.  Má Ánh trở ra ngồi đối diện với tôi.  Bà nói:       
      -  Thất sự má không biết xử trí ra sao.  Ba má biết hai con thương nhau lắm, nhưng ba má đã lỡ hứa với người ta từ ngày con Ánh còn nhỏ.  Bây giờ ba má làm sao nuốt lời cho được.  Bà tiếp:
            -  Con ạ, con Ánh nó thương con lắm.  Con đừng trách nó.  Má mong rằng sau nầy thỉnh thoảng con đến thăm nó kẻo tội nghiệp nó nhé con.

      “Má ơi, con cám ơn má thật nhiều.  Má thương con, má thương Ánh, nhưng con biết má gặp phải một điều khó xử.  Trong cuộc tình nầy con đã chấp nhận hy sinh và con sẽ hy sinh cho trọn.  Con yêu Ánh và con không bao giờ muốn mất Ánh.  Nhưng sự việc đã an bài rồi phải không má?  Con sẽ không bao giờ gặp Ánh nữa.  Vì gặp lại con chỉ làm cho Ánh đau khổ thêm mà thôi.  Ánh sẽ không bao giờ quên được nhũng kỷ niệm của chúng con.  Ánh sẽ không sống trọn vẹn được cho chồng mình.  Gia đình Ánh sẽ mất hạnh phúc.  Đó là điều con không bao giờ muốn.  Con hy vọng rằng thời gian và bổn phận sẽ làm cho Ánh dần dần quên hẳn con đi.  Má ơi, tha thứ cho con.  Con sẽ không làm theo yêu cầu của má được”.

      Sau nầy, tôi có lần bất chợt gặp lại Ánh.  Lúc ấy nàng đã có con. Vừa thấy nàng tôi đã vội lánh mặt.  Tôi không để cho nàng thấy tôi. Tôi không muốn có một cơn lốc nhỏ nào khuấy động cuộc sống yên vui hiện tại của nàng.  Tôi đã lén nhìn theo nàng.  Cũng mái tóc ấy, cũng bờ vai ấy, cũng dáng đi nhẹ nhàng ấy...  Tất cả những thân thương ngày cũ vẫn còn hiển hiện tại đây.  Tôi nghe lòng mình chùng xuống trong một nỗi đau sâu đậm.
      “Ánh ơi, anh vẫn còn yêu em.  Một tình yêu dạt dào nỗi nhớ. Bây giờ anh đang làm thân lưu lãng, phiêu bạt xứ người.  Dù xa em gần ba mươi năm rồi đó, anh vẫn còn nhớ đến em.  Mảnh xuân xưa vẫn còn đồng vọng trong anh.  Anh viết những dòng chữ nầy cho em.  Em đang ở phương trời nào đó có nghe được những lời nầy không?  Có một người yêu em, yêu em mãi mãi...”.

Hoa Kỳ - Mùa Đông 1987       
Mặc Thái Thủy     

Dáng Ngọc




Em chợt đến như loài chim buổi sáng
Hót trên giàn thiên lý gọi tri âm
Như sương mai lấp lánh đọng trên cành
Gió đồng nội thơm kỳ hoa dị thảo

Sóng chẳng động nhưng lòng sao lảo đảo
Rượu bồ đào không uống thế mà say
Mây trên ngàn bàng bạc áo bay bay
Anh nghe nắng rộn ràng trên dáng ngọc

Gió lay động tơ lòng trên suối tóc
Nhớ hôm nào Lưu Nguyễn lạc đường mê
Mơ hôm nao em đến sẽ quên về
Đêm dìu dịu trăng vàng rơi trên lá

Bởi tôi yêu nên em hồng đôi má
Vì má hồng mà tôi đã thêm yêu
Yêu vóc liễu dịu dàng êm như lụa
Bởi tôi yêu em đậm nét mỹ miều

Lê Kim Thành
1969



Câu Đối: Tục Lệ Mừng Xuân 2014 - Thái Hanh


Câu Đối: Tháí Hanh
Trình Bày: Kim Oanh

Tôi Trở Về Đây



Tôi trở về đây, thăm phố xưa
Một thời mơ mộng kể sao vừa
Có con trăng nhỏ trên cành lá
Soi sáng con đường, gió thổi đưa

Tôi trở về đây, bước vẩn vơ
Lượm từng con chữ những ngày thơ
Trải dài theo ngõ thân thương cũ
Để gởi về EM một chút mơ

Tôi trở về đây, nhặt nụ cười
Ngày xưa EM giấu khắp nơi nơi
Nâng niu đếm lại từng si dại
Cứ ngỡ xuân hồng đã ghé chơi

Tôi trở về đây, kẻ tội đồ
Nợ EM ngày tháng lạnh môi khô
Hoa Xuân chớm nụ mừng ngày mới
Đan lại tình hồng luôn điểm tô

Hoàng Dũng

Xuân Lỗi Hẹn



(Từ Tôi Trở Về Đây - Hoàng Dũng)

Tô lại môi son đón mùa về
Nghe lòng rung động chút si mê
Xuân không rộn rã xuân héo hắt
Cúi mặt ngậm ngùi tắt nụ tươi

Tưới mát cho hoa nở nụ cười
Gió mùa hương gửi đến người vui
Thấp ngọn lửa tình … nhưng tàn lụi
Xuân xưa lỗi hẹn… Nhớ khôn nguôi

“ Cứ ngỡ xuân hồng đã ghé chơi” *
Xuân không về nữa hết một thời
Nụ tầm xuân chết trong ngày mới
Xoá dấu môi nồng... bởi giọt rơi…..!!!

Kim Oanh

 * Thơ Hoàng Dũng

Thơ Tranh: Giấc Xuân


Thơ: Phạm Tương Như
Thơ Tranh: Kim Oanh

Êm Mộng Tình Xuân



Giấc đêm mơ thật tuyệt vời
Rừng mai rộ nở xuân tươi đang chờ
Nắng xuân dìu dịu nhung tơ
Vẳng trong gió nhẹ em thơ reo cười...!

Hoa hồng nở dấu bước đời
Mây về che kín một thời rong rêu
Khổ đau, buồn tủi ... đã nhiều
May đời đền trả em yêu dịu dàng

Gió xuân nhè nhẹ chuyển sang
Lời em ướp mật đầy tràn men say
Nhìn xuân, thương lắm thương ai?
Trong mơ tơ tưởng nhớ hoài em yêu

Tình xuân rồi sẽ cưng chiều
Trọn duyên chồng vợ thật nhiều thiết tha
Ái ân tình nghĩa đậm đà
Vòng tay thật ấm, thân ngà liêu trai ...

Thy Lan Thảo
( Dấu ái gởi Cọp Gấm)


Sinh Hoạt Của Người Dân Vĩnh Long Năm 2014




















Trương Văn Phú
Vĩnh Long 2014

Xin Đừng Trách Xuân


       (Từ Xuân Lỗi Hẹn của Kim Oanh)

Xin đừng trách năm nầy Xuân lỗi hẹn
Để môi hồng thôi nhoẻn nụ cười tươi
Kẻo chị Hằng tiu nghỉu giữa cung trời
Đang chiếu sáng cho trần gian an lạc

Xin đừng trách năm nầy Xuân đổi khác
Vẫn là Xuân rất mộc mạc chân tình
Với nắng hồng cho mỗi sáng đẹp xinh
Đầy nhựa sống cho từng ngày rạng rỡ

Xuân đang đến, cho muôn hoa rộn nở
Ướp tình người đang rộng mở thân thương
Để cho đời còn đó những tơ vương
Nương cuộc sống quê người nhiều khắc khoải

Xuân còn đó cho người gần nhau mãi
Kiếp lưu đày ta còn lại chút mơ
Để từng ngày dấu ái quyện trong thơ
Hòa nhịp sống ta cùng mừng Xuân mới ...

Hoàng Dũng



Thứ Hai, 3 tháng 2, 2014

Chạm Khắc Ngựa Từ Gỗ Trôi Trên Biển Để Mừng Năm Mới

     Những thanh gỗ trôi dạt trên bãi biển đã biến thành những chú ngựa sống động dưới bàn tay của nghệ nhân người Anh - James Doran Webb.
     Tận dụng những khúc gỗ trôi nổi trên biển, nghệ nhân người Anh - James Doran Webb đã chạm khắc thành những chú ngựa với hình dáng cực kỳ sống động nhằm mục đích mừng Tết âm lịch cho các nước châu Á. 
     Những tác phẩm này được James Doran thực hiện trong vòng 6 tháng. Mỗi chú ngựa đều được làm khung bằng thép, sau đó, được đắp gỗ hoặc các thanh củi trôi nổi trên biển để hoàn thiện phần hình dáng bên ngoài. Được biết, mỗi chú ngựa này trung bình đều nặng 500kg với chiều cao 1,8m. Đây được xem là món quà ý nghĩa cho năm Ngọ sắp tới của các nước châu Á.


Những chú ngựa này được làm từ khung thép, phần "thịt" được đắp bằng những thân gỗ nổi trôi trên biển

       Trông chúng chẳng khác gì những chú ngựa trong đời thực bởi mức độ sống động, chân thực
Những chú ngựa này còn có nhiều tư thế hoạt động y như thật

James Doran Webb
Mặc Thái Thủy - Sưu tầm

Quang Trung Đại Đế

(Mùng 5 Tết quân ta đánh đồn Ngọc Hồi)


      Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám được viết thời vua Tự Đức, liệt anh em Tây Sơn vào loại giặc phản nghịch, Và cho rằng Nguyễn Huệ là kẻ hung tàn, giảo hoạt... ?
      Nhưng là Người Việt, Tất cả chúng ta không ai là không biết chiếu công hiển hách của Quang Trung Nguyễn Huệ. Nhân ngày đầu xuân, chúng ta cùng ôn lại chiến thắng của vua Quang Trung.

1. NHÀ NGUYỄN TÂY-SƠN DẤY NGHIỆP 
      Những người làm quốc-sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính-thống và ngụy-triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng-tạo ra cơ-nghiệp, hai là được kế truyền phân-minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân, dựng nghiệp ở đất trung-nguyên, thì cho là chính-thống. Nhà nào, một là làm tôi cướp ngôi vua, làm sự thoán-đoạt không thành, hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên-địa, bà là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy-triều.
      Vậy nay lấy những lẽ ấy mà xét xem nên cho nhà Nguyễn Tây-sơn làm chính-thống hay là ngụy-triều, để cho hợp lẽ công-bằng và cho xứng cái danh-hiệu những người anh hùng đã qua.
      Nguyên nước ta là nước quân-chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng hơn cả, thế mà từ khi nhà Lê trung-hưng lên trở về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng chúa miền Bắc ; trên tuy còn tôn vua, nhưng mà quyền về cả nhà chúa. Trong nước ta đã có vua lại có chúa, làm thành ra vua không phải là vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến sau ở trong Nam thì có Trương phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu-binh làm loạn, giết hại quan đại-thần, vua chúa phải nhún mình mà chiều-đãi, đình-thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một lúc đại loạn vậy.

      Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây-sơn, chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Qui-nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu-địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến-loạn đó mà thôi.
Còn như Nguyễn Huệ là vua Thái-tổ nhà Nguyễn Tây-sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào đánh đất Gia-định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Tiêm-la, chỉ còn được mấy trăm người lủi-thủi chạy về nước ; sau lại ra Bắc-hà, dứt họ Trịnh, tôn vua Lê, đem lại mối cương-thường cho rõ-ràng. Ấy là đã có sức-mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.
      Nhưng vì vua nhà Lê nhu-nhược, triều-thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh-luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán-loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám-quốc để giữ tông-miếu tiền triều ; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc.
      Sau vua Chiêu-thống và bà Hoàng-thái-hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân lấy dịp ấy mượn tiếng cứu nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh-tướng sang giữ thành Thăng-long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật-dụ của vua nhà Thanh, thì nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi.
      Vậy nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng-đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường, chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn sĩ Nghị phải bỏ cả ấn-tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp-sợ, tướng-sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ-công nào lẫm-liệt như vậy.
Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo ? Há lại chẳng hơn nhà Lý, nhà Trần nhân lúc ấu-quân, nữ chúa, mà làm sự thoán-đoạt hay sao ? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là ngụy ? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công-nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An-nam quốc-vương theo như lệ các triều trước, như thế thì nhà Nguyễn Tây-sơn mở nước có khác gì nhà Đinh và nhà Lê không ?
      Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây-sơn sinh ra nội loạn, vua Thế-tổ Cao-hoàng nhà Nguyễn lại thu-phục được cơ-nghiệp cũ mà nhất-thống cả nam bắc lại làm một, nhưng việc thành-bại hưng-vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh-hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu-địch. Vậy lấy lẽ tôn bản-triều mà xét thì nhà Nguyễn Tây-sơn là ngụy, mà lấy công-lý mà suy thì vua Quang-trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên-hoàng, vua Lê Thái-tổ, mà nhà Nguyễn Tây-sơn cũng là một nhà chính-thống như nhà Đinh và nhà Lê vậy.


2. VUA QUANG-TRUNG ( 1788 - 1792 ). 
      Ông Nguyễn Huệ 阮 惠 ( sau đổi tên là Nguyễn quang Bình 阮 光 平 ) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu-trí quyền-biến, mẹo-mực như thần, khởi binh ở đất Tây-sơn (thuộc huyện An-khê, Bình-định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc-bình-vương, đóng đô ở đất Phú-xuân.
Năm mậu-thân ( 1788 ) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng-long, có ý muốn lấy đất An-nam, Bắc-bình-vương lên ngôi Hoàng-đế đặt niên-hiệu là Quang-trung 光 中, rồi đem binh đi đánh giặc.

3. TÔN SĨ NGHỊ ĐEM QUÂN SANG AN-NAM. 
      Nguyên vua Chiêu-thống 昭 統 đã mấy lần toan sự khôi-phục, nhưng không được, phải nương-náu ở đất Lạng-giang ; còn bà Hoàng-thái-hậu thì đem hoàng-tử sang Long-châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu-viện. Bấy giờ quan tổng-đốc Lưỡng Quảng là Tôn sĩ Nghị 孫 士 毅 dâng biểu tâu với vua Càn-long nhà Thanh, đại-lược nói rằng : « Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự-quân sang cầu-cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An-nam, thực là lợi cả đôi đường ».
      Vua Càn-Long nghe lời tâu ấy sai Tôn sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây, Quí-châu, Vân-nam, đem sang đánh Tây-sơn. Tôn sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo, sai quan tổng-binh tỉnh Vân-nam và Quí-châu đem một đạo sang mạn Tuyên-quang, sai Sầm nghi Đống 岑 宜 棟 là tri-phủ Điền-châu đem một đạo sang mạn Cao-bằng. Sĩ Nghị cùng với đề-đốc là Hứa thế Hanh 許 世 亨 đem một đạo sang mạn Lạng-sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An-nam.
      Tướng Tây-sơn là Ngô văn Sở ở Thăng-long được tin quân Tàu đã sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thủy-bộ về đóng giữ từ núi Tam-điệp ra đến bờ bể, rồi sai người về Phú-xuân cáo cấp.
Tôn sĩ Nghị kéo quân đến Kinh-bắc ( Bắc-ninh ), vua Chiêu-thống ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng-long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi, về mé nam sông Nhị-hà, bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân ra đóng giữ các mặt.
      Ngày hôm sau, Sĩ Nghị là lễ tuyên-độc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu-thống làm An-nam quốc-vương.
      Vua Chiêu-thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên-hiệu Càn-long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu-chực việc cơ-mật quân-quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo-nghễ tự-đắc, ý-tứ xử với vua rất là khinh-bạc ; có khi vua Chiêu-thống lại hầu, không cho vào yết-kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng : không có việc quân-quốc gì, xin ngài hãy về cung nghỉ.
      Người bấy giờ bàn riêng với nhau rằng : « Nước Nam ta từ khi có đế-vương đến giờ, không thấy vua nào hèn-hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên-hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng-đốc, thế thì có khác gì đã là nội-thuộc rồi không ? ».
Vua và triều-thần bấy giờ việc gì cũng trông-cậy vào Tôn sĩ Nghị ; ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây-sơn. Tôn sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu-ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân-lính ra cướp-phá dân-gian, làm lắm sự nhũng-nhiễu. Vì thế cho nên lòng người mất cả trông cậy.


4. VUA QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN NHÀ THANH. 
      Bắc-bình-vương được tin quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng-long, lập tức hội các tướng-sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh.
Bắc-bình-vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn-sơn, ngày 25 tháng mười một năm mậu-thân ( 1788 ), vương làm lễ lên ngôi Hoàng-đế, rồi tự mình thống-lĩnh thủy-bộ đại-binh ra đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ-an nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi.
      Vua Quang-trung điểm duyệt quân-sĩ, truyền dụ nhủ-bảo mọi người phải cố-gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp thì đến núi Tam-điệp. Bọn Ngô văn Sở, Ngô thì Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về giữ chỗ hiểm-yếu.
Vua Quang-trung cười mà nói rằng : « Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu-hổ, lại mưu báo-thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì-Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến-tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú-cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa».

      Vua Quang-trung truyền cho tướng-sĩ ăn tết Nguyên-đán trước, để đến hôm trừ-tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng thì vào thành Thăng-long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều-khiển.
     Đại-tư-mã Sở 楚, Nội-hầu Lân 璘 đem tiền quân đi làm tiên-phong. Hô-hổ-hầu 呼 虎 侯 đem hậu-quân đi đốc chiến.
      Đại-đô-đốc Lộc 祿, Đô-đốc Tuyết 雪 đem hữu-quân cùng thủy-quân, vượt qua bể vào sông Lục-đầu. Rồi Tuyết thì kinh-lược mặt Hải-dương, tiếp-ứng đường mé đông ; Lộc thì kéo về vùng Lạng-giang, Phượng-nhỡn, Yên-thế để chặn đường quân Tàu chạy về.
Đại-đô-đốc Bảo 保, Đô-đốc Mưu 謀 đem tả-quân cùng quân tượng-mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương-đức ( nay là Chương-mỹ ), tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân-mục, huyện Thanh-trì, đánh quân Điền-châu ; Bảo thì thống-suất quân tượng-mã theo đường huyện Sơn-lãng ra làng Đại-áng thuộc huyện Thanh-trì tiếp-ứng cho mặt tả.
      Năm quân được lệnh đều thu-xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản-thủy, cánh nghĩa-quân của nhà Lê tan-vỡ chạy cả. Vua Quang-trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú-xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được ; vì thế cho nên không có tin báo về, những quân Tàu đóng ở làng Hà-hồi 河 洄 và làng Ngọc-hồi 玉 囬 không biết gì cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm kỷ-dậu ( 1789 ) quân vua Quang-trung đến làng Hà-hồi vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ-hãi thất thố, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân-lương và đồ khí-giới. Sáng mờ mờ ngày mồng năm, quân Tây-sơn tiến lên đến làng Ngọc-hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang-trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu-dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí-giới theo sau. Vua Quang-trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An-nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn-xao tán-loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn, giết quân nhà Thanh thây nằm ngổn-ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng. Quan nhà Thanh là đề-đốc Hứa thế Hanh 許 世 亨, tiên-phong Trương sĩ Long 張 士 龍, tả-dực Thượng duy Thăng 尚 維 昇 đều tử trận cả ; quan phủ Điền-châu là Sầm nghi Đống 岑 宜 棟 đóng ở Đống-đa bị quân An-nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết.

      Tôn sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáp, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn-xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị-hà đầy những thây người chết.
Vua Chiêu-thống cũng theo Tôn sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng-thái-hậu và mấy người cận-thần chạy sang Tàu.
      Đạo quân Vân-nam và Quí-châu đóng ở miền Sơn-tây nghe tin quân Tôn sĩ Nghị đã thua, cũng rút quân chạy về.
      Ngày hôm ấy vua Quang-trung đốc quân đánh giặc, áo ngự-bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành Thăng-long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam-quan. Những dân Tàu ở gần Lạng-sơn sợ khiếp, đàn-ông, đàn-bà dắt-díu nhau mà chạy, từ cửa ải về mé bắc hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy tiếng một người nào?


      Vua Quang-trung vào thành Thăng-long, hạ lệnh chiêu-an, phàm những người Tàu trốn-tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn-tín của Tôn sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật-dụ của vua Càn-long nói rằng : « Việc quân nên từ đồ, không nên hấp-tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh-thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước củ-hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui ; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự-quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa-phúc, xem nó đối-đáp làm sao. Đợi khi nào thủy-quân ở Mân, Quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận-hóa và Quảng-nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà làm ơn cho cả hai bên ; tự đất Thuận-hóa Quảng-nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự-quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm-chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau ».
      Vua Quang-trung đem tờ mật-dụ ấy bảo với Ngô thì Nhiệm rằng : « Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu-hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh-đao ; việc ấy nhờ nhà ngươi chủ-trương cho mới được ».
      Ngô thì Nhiệm vâng lệnh làm thư đại-khái nói rằng : « Nước Nam vốn không dám chống-cự với đại-quốc, nhưng chỉ vì Tôn sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng-hòa ».
      Vua Quang-trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương-thực, đợi ngày cho về nước. Xếp-đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô văn Sở 吳 文 楚 và Phan văn Lân 潘 文 璘 ở lại tổng-thống các việc quân-quốc ; còn những việc từ lệnh giao-thiệp với nước Tàu thì ủy-thác cho Ngô thì Nhiệm 吳 時 任 và Phan huy Ích 潘 輝 益 cho được tự tiện mà khu xử, hễ không có việc gì quan-hệ thì bất tất phải đi tâu báo mà làm gì.
......
Trích "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim

Huỳnh Hữu Đức

Câu Đối: Mã Đáo Thành Công 2014 - Đỗ Chiêu Đức


Câu Đối Và Viết Câu Đối: Đỗ Chiêu Đức
Trình Bày: Kim Oanh

Phân Giải Đạo Lý Việt Qua Sự Tích "Bánh Chưng, Bánh Dày"

Dẫn nhập:

      Sự tích “Bánh chưng, Bánh Dày” từ thời vua Hùng Vương thứ 18 cho tới ngày nay, đã là người Việt thì ai ai cũng nhớ vì mỗi dịp xuân về tết đến, nhà nhà đều có bánh chưng làm vật phẩm dâng lên ban thờ Tổ Tiên cúng các Cụ. Và từ xưa cụ đồ VN đã để lại trong nhân gian câu đối tết như sau: 
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, 
Cây Nêu, tràng pháo, Bánh Chưng Xanh”.

      Vì vậy, kẻ hạ không cần thiết phải viết lại truyện tích trong bài viết này, chỉ xin tóm tắt cái đại ý của sự tích “Bánh Chưng, Bánh Dày”, có người còn gọi là “Tiết Liêu truyền kỳ”.


Đại ý truyện như sau: 

      (Thời điểm lịch sử của Tiết Liêu còn gọi là Lang Liêu truyền kỳ có nhiều huyền thuyết khác nhau. Tuy nhiên trong bài phân giải này không chú ý tới thời điểm của lịch sử mà chỉ muốn nêu lên cái “Đạo Lý Vuông Tròn” qua biểu tượng “Bánh Chưng, Bánh Dày”).

      Vua Hùng Vương thứ 17 có năm vị Hoàng tử. Ngài muốn tìm người thừa kế ngôi vị, nhưng phân vân không biết lựa chọn ai cho xứng đáng nên nảy ra ý định thử thách các hoàng tử để tìm người có đủ đức tin mà trao ngôi báu. Vua cha bèn triệu tập các Hoàng tử cùng các quan đương triều, rồi phán rằng: Ta muốn tìm người thừa kế ngôi vị sau này, nhưng trong năm vị Hoàng tử, Ta khó định quyết nên Ta ra một điều kiện cho năm Hoàng tử là:
      Nếu cuối năm tới ai mang tới dâng lên cho Ta những tài vật hiếm qúy nhất trên đời, thì Ta truyền ngôi báu cho người đó.

     Thế là một cuộc chạy đua giữa các Hoàng tử, người thì dẫn lính tráng lên rừng, xuống biển lùng bắt các thú rừng hiếm qúy, kẻ thì đi khắp thiên hạ sang các nước láng giềng lùng mua các trang sức qúy kim vật phẩm cực hiếm mong ngày thi tuyển sẽ được Vua Cha hài lòng lựa chọn. Riêng Hoàng tử Tiết Liêu vì là con trai út lại là con trai của bà thứ Phi, nên hai mẹ con bị trục xuất ra khỏi Kinh thành về làm thứ dân sống tự túc nơi quê mùa, không đuợc hưởng bổng lộc của triều đình. Do cảnh nghèo thế cô nên Tiết Liêu rất lo buồn vì nghĩ mình không thể tranh đua với các anh, tuy không muốn tranh ngôi báu, nhưng lệnh Vua Cha đã ban xuống thì phải thực thi đi tìm vật qúy hiếm dâng lên, nếu không sẽ bị tội khinh quân. Lòng day dứt khôn nguôi không biết xoay sở ra sao. Một đêm nọ, chàng nằm mơ thấy ông Bụt hiện xuống mách bảo cho cách làm hai loại bánh gọi là “Bánh Chưng, Bánh Dày” dùng những nguyên liệu sẵn có như gạo nếp. đậu xanh, thịt heo, cùng với các vật liệu trong vườn như lá chuối, lạt tre và củi đun mà làm thành vật phẩm dâng lên Vua Cha. Hai loại bánh này từ trước đó trong dân gian cũng như ở cung đình chưa hề có, và chưa ai biết làm.

      Được ông Bụt xuất hiện trong giấc mơ mách bảo, Tiết Liêu cũng chẳng còn cách nào lựa chọn trong hoàn cảnh nghèo túng và thiếu phương tiện quyền thế so với các vị hoàng tử đàn anh của mình, nên chàng quyết tâm làm theo lời mách bảo của ông Bụt.
      Thời gian tới hạn mang vật phẩm về Triều dâng Vua Cha. Các hoàng tử đàn anh đem tới dâng lên Vua Cha vô số các vật phẩm vô cùng qúy giá và hiếm có trên đời, Các Quan đương triều thấy Vua hài lòng nên cũng hết sức vui vẻ hy vọng những vị Hoàng tử mà mình phụ tá sẽ được thừa kế ngôi báu. Riêng Hoàng tử Tiết Liêu với cách ăn mặc giản dị bình dân dâng lên Vua Cha một mâm Bánh Chưng, một mâm Bánh Dày trông rất thô lậu, khiến các Quan trong triều nhìn thấy không nín được tiếng cười chê, khinh mạn. Nhưng đối với Vua Cha, Ngài thấy ngạc nhiên với mâm bánh lạ mắt, nên ăn thử, thấy món bánh này quá ngon lạ miệng nên khen hết lời và ban cho mọi người trong ngày hội được ăn thử và ai ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua Cha tuyên bố hai mâm bánh của Hoàng tử Tiết Liêu là vật phẩm xứng đáng được thắng cuộc, rồi tuyên bố người thừa kế ngôi báu là hoàng tử Tiết Liêu, trở thành vị Vua Hùng Vương đời thứ 18.


Phân giải:

      Tại sao Hoàng tử Tiết Liêu được Vua Cha truyền lại ngôi báu cho chàng? 
      Cách giải thích vốn có từ xưa nay: 

      Theo như tích truyện, thì Vua Cha ăn thấy khoái khẩu nên mới truyền ngôi báu. “Bánh Chưng, Bánh Dày” biểu tượng cho tinh thần Tự lực tự cuờng là biết sử dụng nguyên vật liệu nội địa.Hợp với cách trị dân mà Vua Cha đang áp dụng và mong muốn tìm người con nào thấu triệt điều đó. 

      Cách phân giải theo đạo lý Bách Việt: 

      Dâng lên Vua cha hai biểu tượng “Bánh Chưng, Bánh Dày”, thực ra Hoàng tử Tiết Liêu đã dâng lên Vua Cha một kế sách trị quốc an dân. Hiểu được điều này Ta mới thấy vị Vua Hùng Vương thứ 17 là một vị Minh Quân đáng kính, và Hoàng tử Tiết Liêu xứng đáng được Vua Cha tuyển lựa, Ngài trở thành vị Vua đời Hùng Vương thứ 18. Và từ đó dân Việt coi ngài là một giòng Tổ của mình, như hiện có Đền thờ Ngài ở mọi nơi có người Việt sinh sống.
    Vậy Kế sách ấy thể hiện như thế nào?

Bánh Chưng: 
     - Biểu tượng cho Địa, là hình vuông theo chữ Điền vì con người trong đời sống hàng ngày và tới khi chết đều sử dụng các dạng hình có góc vuông như những mảnh ruộng (bờ vừng, bở thửa) sở hữu điền địa, nhà ở (điền trạch) cũng theo dạng có góc vuông, giường nằm, tấm phản, cái bàn v.v… và khi chết thì quan tài hay hố huyệt đều có dạng góc vuông. 
      Hình Vuông bốn cạnh bằng nhau như chiếc Bánh Chưng thể hiện tính lý công bằng, bình đẳng, nếu phải phân chia thành từng phần (phân bổ quyền lợi cho đại chúng) mà vạch những đường thẳng xuyên qua Tâm điểm của hình (dụng Tâm mà phân xử) thì không bao giờ xảy ra tình trạng bất bình đẳng, có nghĩa là có sự bảo đảm mọi phần đều bằng nhau. Đó là cái lý công bằng và bình đẳng.
    - Dùng bốn cái lạt tre (tượng trưng cho bốn phương trời đông, tây, nam, bắc) buộc ngoài cái Bánh Chưng tạo ra 9 cung vuông:


      Một cung giữa (trung tâm hay trung ương) và 8 cung vòng quanh (8 châu thời đó). Đây là kế sách phân quyền trị dân (chia đơn vị hành chánh để quản trị). Từ đó kiến tạo ra phẩm trật trong triều đình gọi là Cửu Phẩm, từ nhất phẩm triều đình (quan Thượng Thư hay quanTể Tướng), thấp nhất là bậc Cửu Phẩm tức quan địa phương cấp quan Huyện.
      - Chín Cung trên mặt ngoài lá bọc của Bánh Chưng còn thể hiện sự hình thành một quẻ Bát Quái vốn có trên mu Rùa (Thần Quy) gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm của Tộc Việt như ta có tích về Nỏ Thần Kim Quy, Hoàn Kiếm truyền kỳ (di tích Cổ thành An Dương Vương ở Vĩnh Phúc, Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội bây giờ) .
     - Chín cung đó còn thể hiện về hình thái của vũ trụ như : Trời thì có Cửu Thiên, Địa ngục thì có Cửu tuyền, ngôi Vua có cửu trùng, dòng Tộc thì có Cửu Huyền, số học thì tới số chín (cửu) là cao nhất. 
      - Cắt đôi chiếc Bánh Chưng nhìn vào mặt cắt, ta nhìn thấy ba màu khác nhau. Trên cùng (lớp ngoài) màu xanh của lá thể hiện tầng Thiên, ở giữa có nhân thịt (thể hiện là Nhân), tầng dưới màu vàng của đậu xanh nấu chín (thể hiện cho Địa). Như vậy ba lớp trong Bánh Chưng thể hiện ba phần là Thiên-Địa-Nhân hợp lại. Một chiếc Bánh Chưng ngon còn gọi là Bánh Chưng dền thì điều tiên quyết trong kỹ thuật làm và nấu bánh phải đạt tới ba thành phần Thiên-Địa-Nhân phải quyện lại với nhau thì hương vị mới thiệt hấp dẫn, mới là chiếc bánh thơm ngon và đẹp. 


      Cũng như trong cách trị quốc an dân phải có đủ ba điều kiện để thành công đó là: “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa” phải hợp đủ trong cách trị quốc. Đó cũng là Nguyên Lý: “Tề gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ” của những Minh Quân phải áp dụng và thể hiện trong tư cách của mình. 
      Hình vuông nằm trong hình tròn (Trái đất nằm trong bầu trời, đó là biểu tượng: “Thiên bọc Địa”) nên hình vuông biểu hiện cho Quy tắc (Thần Kim Quy) hành xử trong mối quan hệ xã hội giữa người với người hay sự khác biệt các cấp bậc trong thể chế quốc gia. Hình vuông trong quốc gia chính là bên hành pháp, trong tôn giáo, nhà trường, trong gia tộc v.v… thì gọi là Gia có gia quy, tôn giáo có giáo quy v.v…Nên trong dân gian VN thường có câu: “Quốc có Quốc pháp, Gia có gia quy” là vậy.
      Một điểm nữa là khi cắt chia chiếc Bánh Chưng thì không được dùng dao hay vật dụng kim loại khác để cắt bánh, vì nếu sử dụng dao mà cắt bánh chưng thì thất bại vô cùng vì hầu như không đạt được theo ý muốn và bánh sẽ bị nát nhầu. Nhưng nếu ta dùng mấy sợi lạt tre vốn buộc ngoài chiếc bánh chưng mà cắt bánh thì dễ dàng làm sao và theo được ý muốn cắt chia chiếc bánh. Đó là đạo lý cư xử “mềm dẻo” trong mối ăn chia hòa thuận trong tập thể, chứ không có sự tranh chấp cứng rắn giành giật mà làm hỏng mối lợi chung. Đó chính là mối quan hệ bình hòa trong dân gian làng xóm như câu ngạn ngữ: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” mà ta vẫn thường nghe rất thân thương trong ngôn ngữ Việt Tộc. 

      Cái quy trình 3/9 (Tam môn, Cửu cấp) của Đạo Việt (biểu thị trên chiếc Bánh Chưng) qua quẻ Quy (Kinh dịch) được thể hiện trên lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (Cờ Việt Nam Cộng Hòa). Thực ra hàng ngàn năm trước quy trình này đã luôn luôn được thể hiện trong các công trình xây cất từ dân dã làng quê, tới các công trình xây cất đồ sộ như Chùa chiền, Đình Miếu cho tới các cung điện vua chúa. Đâu đâu ta cũng nhận diện được như nhà ở làng quê thì đều có ba cửa (cửa chính và hai cửa sổ) Cổng chào lúc nào cũng có tam môn (cổng lớn với hai cửa nhỏ hai bên). Các bậc thềm khi thấp thì tam cấp (ba bậc) khi cao thì Cửu cấp (chín bậc), hành lang bậc thềm đi lại ở trong các công trình xây cất lớn nhỏ thường thấy đều xây theo thứ bậc “Tam cấp rồi cửu cấp”. Chỗ nơi thờ phượng cũng được gọi như Tam Bảo (Phật Giáo), Ba Ngôi (Thiên chúa Giáo). Các cổng ra vào nơi thờ phượng cũng xây dựng ba cửa gọi là cổng Tam Quan. 

      Phát hiện mới gần đây nhất là người kiến trúc sư xây dựng công trình Tử Cấm Thành Bắc Kinh thời đầu triều đại nhà Minh bên Trung Quốc, một công trình đồ sộ nhất thế giới cho tới ngày nay là ông Nguyễn An là người Việt (một nghệ nhân bị cống triều thời đó). Qua sự phân tích lý giải của vị học giả người Đức ta nhận diện ra Kiến trúc sư Nguyễn An đã sử dụng trên căn bản các ô hình vuông theo mô hình quẻ Quy (Bát Quái) trên chiếc Bánh Chưng để thiết kế mô hình Tử cấm Thành theo quy trình 3/9 quy Nhất (Tam Cửu quy Nhất). Một thiết kế rất ư là phức tạp cho tới ngày nay nhiều điểm vẫn chưa thể giải mã được. 
      Là một nô dân bị cùm, bị nhốt trong trại giam chưa hề biết gì về cái đất nước chủ nô, mà bị buộc phải dùng tài nghệ cá nhân vốn có ở Việt Nam để trở thành một kiến trúc sư, một công trình sư bất đắc dĩ hầu giữ lại mạng sống của mình. Ở VN ông Nguyễn An cũng chưa hề có một công trình đầu tay nào cả, ngoài cái tài nghệ nhân (không rõ nguồn gốc về tài nghệ gì) thế mà phải nặn óc ra mà thiết kế một công trình vĩ đại nhất thế giới hồi đó cho tới bây giờ chưa có cái công trình nào sánh bằng. 
      Điều đó nói nên cái vốn kiến thức sẵn có trong ông đã thấm nhuần được văn hoá Việt Tộc khi còn sống và làm việc ở quê nhà. Nay vì sự sống còn của bản thân mà phải vận dụng cái số vốn kiến thức tiềm ẩn đó cộng với óc quan sát (khi nhìn con dế trong lồng và nghe tiếng kêu của dế, đây là một trò chơi rất phổ biến của các trẻ nhỏ ở VN) mà sáng tạo ra những đường nét mới lạ cho đủ đáp ứng với cái diện tích quá khổ của công trình mà ông phải phụ trách xây dựng. Thật đúng như câu châm ngôn của Tộc Việt: “Cái khó nó bó cái khôn”. Cho nên ta có thể tự hào mà nói rằng Công trình Tử Cấm Thành là công trình thể hiện theo đạo lý Việt. Và từ Đạo lý Việt mà hình thành. 

Bánh dày: 


      Bánh dày hình tròn làm bằng gạo nếp nấu chín rồi giã mịn, hai mặt là hai bánh hình tròn, phía ngoài hai mặt được lót lá chuối màu xanh, kẹp giữa hai bánh tròn là nhân thịt chiên vàng (gọi là chả Quế). Nhìn cặp bánh dày ta cũng thấy thể hiện ba thành phần đó là: Thiên-Địa-Nhân như bên chiếc Bánh chưng. 
Bánh dày là hình tượng của mặt Trời, mặt Trăng (ngày và đêm) đó là chữ Minh明 (chữ nôm của nước Việt thời đó) tức đại diện cho Thiên, là hình ảnh của ngôi vị Minh Quân.
      Hình tròn cũng như hình vuông trong hình học nếu cứ vạch một đường thẳng qua tâm điểm thì mọi phần chia đều bằng nhau dẫu chia nó thành hàng vạn phần nhỏ cũng không hề có sự chênh lệch không đều. Đó là Đạo Tâm của Tộc Việt. Trong mọi sinh hoạt đời sống mà “dụng Tâm ứng sử” thì sẽ đạt được cái lý bác ái, thương yêu, bình đẳng, công bằng.


      Bánh dày mềm dẻo, chả Quế thơm ròn vàng ngậy, lá chuối xanh tươi tạo nên cái đẹp hấp dẫn, hương vị quyến rũ ăn thấy ngon bùi. Ba thành phần “Thiên-Địa-Nhân” quyện chặt lấy nhau tạo nên thành phẩm tuyệt vời. Đó cũng là biểu lý của Đạo: “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa” Điều mà bất cứ một vị Minh Quân nào cũng phải thông đạt điều này thì mới có thể “Tề gia, Trị Quốc, Bình thiên hạ” được. 
      Bánh Chưng, Bánh dày khi bày cỗ làm vật phẩm để dâng lễ vật cúng tế Trời Đất, Tổ tiên hay biếu tặng giao tế đều phải đi một cặp “Cặp Bánh chưng, Bánh Dày” đó là biểu tượng một đôi như: Âm-Dương, Vợ- Chồng, Quân-Thần, anh-em, chị-em, thày-trò, cha-con, mẹ-con, bạn-hữu v.v…Tất cả các mối quan hệ song phương này luôn luôn “dụng Tâm ứng sử” sao cho Vuông-Tròn (Bánh Chưng Vuông, Bánh Dày Tròn) thì mọi việc được hạnh thông mỹ mãn. Trong dân gian Việt Nam thường có câu chúc một người Mẹ khi lâm bồn sinh nở thường chúc là: Được “Mẹ Tròn con Vuông” biểu thị cho “Tâm Ý” cầu mong được hạnh thông mỹ mãn. Lời chúc này chỉ có trong ngôn ngữ Việt Tôc mà thôi. Nếu không hiểu được cái Đạo Lý Việt thì không ai có thể hiểu được lời chúc “độc đáo” này. 
(Đồng Điếu cổ Mặt Tiền “Bát Quái”)   ( Mặt Hậu chữ Nôm cổ Việt Nam)

      Bánh Dày hình tròn biểu hiện cho Thiên, hình tròn bao bọc hình vuông, đó là hình ảnh “Bầu Trời bao bọc trái Đất”. Biểu thị cho quyền lực tối thượng của một vị Minh Quân dùng Luật mà trị Quốc, trong luật bao hàm đức tính bao dung để An Dân. Đó là Quốc gia phải có Luật pháp hầu điều hành quốc sự. Trong Tôn giáo, làng xã, nhà trường, đoàn thể thì có luật lệ, trong gia đình thì có tục lệ để điều hành mọi hoạt động của cơ sở. Chính vì thế trong dân gian vẫn có câu châm ngôn: “Nhập gia tùy tục” hầu nhắc nhở nhau cách sống là vậy. Luật tức là phép nước, đồng nghĩa là Luật Pháp. Chính vì thể hiện này mà một quốc gia dân chủ thường phải có hai Viện: Luật pháp và hành pháp. Ta thường gọi là Hạ Viện và Thượng Viện, trong cuộc sống thì có Tòa Án và Cảnh sát là vậy.
      Qua những điều phân tích thể nghiệm trên, ta thấy Tích truyện Bánh Chưng, Bánh Dày không phải là một câu chuyện vui cười trà dư tửu hậu. Mà thực chất Tổ Tiên Tộc Việt Văn Lang đã để lại truyền thừa cho thế hệ mai sau một Đạo Lý Việt thâm hậu rất thực tế trong đời sống con người, trong mối quan hệ tương giao song phương đối lập, Trong Phương sách và tư cách một vị Minh Quân trị quốc an dân.
 
1)Chữ cổ trên trống đồng trưng bày ở Đền Hùng      2)Chữ cổ trên bãi đá Sapa)

      Nhưng thực đáng tiếc cho dân Việt ta, trải qua hơn bốn ngàn năm biết bao nhiêu vật đổi sao rời, hết Triều đại này tới Triều đại khác đều không mang cái Minh Triết của Đạo Lý Vuông-Tròn mà giáo lý cho dân chúng, hay không ít các vị vua chúa đã không thông đạt được cái Đạo lý tiềm ẩn trong sự tích “Bánh Chưng, Bánh Dày”, nên không thực hành theo phương sách “Trị Quốc An Dân”. 
Mà như trong sách giáo khoa, hay trong lời bình phẩm tích truyện thường chỉ nêu bật cái “Tật” tham ăn tục uống, hưởng thụ của ngon vật lạ trên mồ hôi xương máu của con dân, rồi tuyển chọn kẻ xu nịnh tâng bốc với cái “Tâm Nô Bộc” mà truyền ngôi báu. 
      Những mong bài viết này thể hiện được phần nào cái thâm túy Đạo Lý Tộc Việt xuyên qua tích truyện “Bánh chưng, Bánh dày” mà truyền tới những thế hệ mai sau. Qua đó hầu hy vọng nếu được giới lãnh đạo Quốc gia cũng như con dân nước Việt thông đạt được Đạo lý này mà ứng dụng thì vận mệnh Đất nước Việt Nam sẽ được chuyển hóa mang lại nền hạnh phúc, ấm no, an bình, thịnh vượng cho đất nước và cho muôn dân. 
      Mong lắm thay, cũng cầu mong nhận được những ý hay để cùng nhau trao dồi mở rộng sự hiểu biết hơn.

Viết ngày 21 tháng giêng năm 2014. 
Úc Châu - Năm Giáp Ngọ
Nguyên Khang 

* * *

Phần phụ giải âm ngữ "Chưng" và âm ngữ "Dày": 

Âm "Chưng": 

Trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự (1743-1790) có câu:
"Lễ hôn chuông chắn mọi đường
Quế càng hương chắp, gấm càng hoa thêm"
Sau này dùng chữ quốc ngữ thì đổi thành:
"Lễ hôn vuông vắn mọi đường...".
Như vậy: "Chuông chắn" = "Vuông vắn", trong văn học xưa ta cũng thường gặp như: Một chuông lụa, một chuông vải, khăn choàng đầu của phụ nữ Bắc Việt gọi là "chuông khăn" sau đổi cách gọi là "khăn vuông". Âm "chuông" trong tiếng Nôm có nghĩa là bốn cạnh vuông vắn, đầy đủ. (theo Việt Nam từ điển Khai Trí Tiến Đức 1931), âm "chưng": đọc trại từ "chuông" mà ra. "Chưng" có nghĩa là "Vuông", bánh chưng có nghĩa là bánh vuông 

Âm "Dày": 

Theo chữ Nôm "bánh Dày" gọi là Bánh "Bạc Trì" (Bạc Trì bình).
"Bạc" có nghĩa là mỏng, là dẹt nghịch nghĩa với từ "dầy". "Trì" đọc âm Nôm là "giầy" có nghĩa là cầm, giữ chứ không có nghĩa là bề dầy, hay giầy dép. (theo Đại Nam Quốc Âm Tự viện của Huỳnh Tịnh Của, bảng tra chữ Nôm của Viện ngôn ngữ học 1976, cơ sở ngữ văn Hán-Nôm của Lê Trí Viện 1987). Cho nên "bánh Giầy" có hình tròn dẹt và mỏng .
Sau này theo chữ quốc ngữ mà theo cách phát âm từng địa phương mà thành "bánh dày","bánh giày", "bánh dầy", tuy nhiên hình dạng bánh không thay đổi và sự biểu tượng của bánh vẫn đồng chung ý nghĩa là mặt Trời, mặt Trăng, trong tự Nôm ghép hai tự Nhật Nguyệt lại thành tự "Minh" (明).

Thơ Tranh: Mưa Xuân



Trích Thơ: Dương Hồng Thủy
Thơ Tranh: Kim Oanh

Xuân Muộn


Chiều buông tiếng gió ru tình
Đêm thao thức đợi trông bình minh sang
Lòng khắc khoải, giấc mơ màng
Chờ con nhạn trắng theo đàn đưa thư

Anh vần nhớ, em vần ừ
Ừ! Em vẫn nhớ thi từ trong anh
Ngủ đi anh! Đêm mộng lành
Sớm xuân thức dậy ngắm cành sương mai

Em vào tối, anh rạng ngày
Bên kia sang hạ, bên này vào xuân
Tình anh phong kín mây tầng
Tình em tựa nắng, ánh ngần sợi tơ


Ngày xưa ai bảo ngu ngơ
Bao xuân ôm mộng với mơ vào lòng
Lời e ngại, dạ buồn trong
Tâm tình muộn tỏ, úa hồn thi nhân!


Yên Dạ Thảo