Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

Tục Lệ Ngày Tết Phần Đầu




Trải qua bao thăng trầm lịch sử, dân tộc ta vẫn gìn giữ được sắc thái, nét đẹp của riêng mình trong ngày tết cổ truyền. Mỗi địa phương, tuy có những tạp tục khác nhau, nhưng tất cả đều vẫn giữ những phong tục truyền thống như Tảo Mộ, Đưa Ông Táo, Rước Ông Bà,Cúng Giao Thừa, ...
Các Tục Lệ Tết của dân tộc ta thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp và kết thúc vào ngày Mùng 7 tháng Giêng. Ngoại trừ việc Tảo Mộ.

Tảo Mộ
Thanh minh trong tiết tháng BaLễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Hai câu thơ trong Kiều của Nguyễn Du nói đến khoảng thời gian Tảo Mộ Tổ Tiên của Người Trung Hoa. 
Còn người Việt, việc Tảo Mộ Ông Bà thường thực hiện trước Tết. Công việc chính của tảo mộ là sửa sang sơn phết các ngôi mộ của Ông Bà cho được đẹp, sạch sẽ, người ta mang theo dao, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, dọn hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ, cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất. Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất. Trẻ em cũng được theo người lớn đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của ông bà, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ.

Câu đối
Nực cười thay: nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà tết!
Thôi cũng được: rượu có, nem có, bánh chưng cũng có, thừa chơi!
                                                                              Trần Tế Xương
Người Việt cũng như người Hoa, trong những dịp lễ và nhất là Tết, thường tìm mua hay đặt viết câu đối về chưng dán ở nhà trong dịp xuân về, hoặc mua những chữ như Phước, Lộc, Thọ để dán lên các trái cây trên mâm Ngũ Quả, với mong muốn năm mới mọi sự đều tốt đẹp hơn. Cũng từ tục lệ này Vũ Đình Liên đã có một thơ ngũ ngôn Bất Hủ:

Mỗi năm Hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
bài mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua...


Đưa Ông Táo
Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng những vấn đề tốt xấu của gia chủ. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Lễ cúng gồm có nhang, nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba con cá chép. Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên Đình gặp Ngọc Hoàng
Trong lúc cúng Đưa Ông Táo, thường thêm mâm để cúng tiễn Tổ Tiên, Ông Bà hay những vị khuất mặt trong gia đình có thờ về Thiên Đình. Sau đó bàn thờ được dọn thật sạch sẽ, tất cả những chân nhang đều được đốt hết và cắm lại 3 cây nhang mới, chờ đến trưa ngày cuối năm, 29 hoặc 30 sẽ làm lễ rước Ông Bà.



Cây nêu
Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, trong khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên.
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương)  được coi là để dọa ma quỷ như: tỏi, xương rồng, hình nộm, lá dứa, như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai… Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu…
Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không mạy. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.

Tống cựu nghinh tân
Sau ngày 23 tháng chạp, nhà nhà đều được quét dọn, thật sạch sẽ, bỏ những thứ rác rưởi, cũ hư, từ trong ra ngoài, sơn phết nhà cửa cho mới, đẹp, bàn thờ Ông bà được bày biện thật trang trọng, bộ lư hương được đánh bóng sáng rực, bình hoa, nhang đèn thật mới thật tươi. nhất là mâm ngũ quả được chọn lựa và chưng bày thật bắt mắt. Mái tóc cũng được sữa sang gọn gàng, mua sắm quần áo mới để mặc những ngày Tết...Nói chung, những việc trên mang ý nghĩa mong muốn tống khứ đi những cái cũ không tốt, cái xui, rước về những điều hên, điều tốt trong năm mới.

Mâm ngũ quả


Mâm ngũ quả được chưng trên bàn thờ Ông Bà, là một mâm trái cây có năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Tết  các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Một mâm Ngũ quả ngày Tết ở miền Bắc Việt Nam, gồm cam, quất bưởi, chuối và dứa. Chuối xanh cong lên ôm lấy bưởi mang ý nghĩa đùm bọc.
Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối - chúi nhủi, cam - cam chịu, lê - lê lết, sầu riêng, bom (táo), Lựu - lựu đạn... và không chọn trái có vị đắng, cay.

Hoa tết
Mọi gia đình Việt Nam, không phân biệt sang hèn, từ Bắc chí Nam, Tết đến không nhà nào là không có hoa.
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hoặc cây mai vàng hơn, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa Mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó.
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ…; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet…Còn cây quất (trong Nam gọi là Tắc)thường được trang trí tại phòng khách, cây quất với lộc xanh mơn mởn, hoa trắng lốm đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng trưng cho sự sinh sôi, thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.

Cúng rước Ông Bà
Thường vào trưa hay chiều ngày 30 tết, các gia đình sửa soạn bữa cơm cuối năm để mời ông Công (trong Nam gọi Ông Địa), ông Táo trở về trần thế tiếp tục cai quản việc bếp núc gia đình. Đây cũng là bữa cơm xum họp,đoàn tụ cả gia đình, để con cháu thể hiện tấm lòng tôn kính, hiếu thảo với những người đã khuất trong gia đình.
Trong quan niệm dân gian, mặc dù ông bà đã chết nhưng linh hồn vẫn còn sống về phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. nên những dịp lễ Tết, người ta hay mời ông bà về chung vui với mình. Bữa cơm chiều 30 Tết có nhiều ý nghĩa tâm linh, vì thế luôn có một cái gì đó hết sức thiêng liêng. Nó trở thành sợi dây vô hình nối giữa người còn sống và người đã chết. Đây đã trở thành một nét đẹp truyền thống, đạo lý sâu xa của dân tộc về việc giáo dục chữ hiếu, nguồn cội cho cháu con, nhắc nhở họ nhớ về những công đức của ông bà.
Ngoài ý nghĩa cúng rước Ông Bà, bữa cơm còn có ý tiễn biệt năm cũ. Đây là bữa cơm cuối cùng của năm để tiễn biệt năm cũ, ăn xong bỏ qua mọi muộn phiền. Nên mâm cơm chiều 30 thịnh soạn hơn hẳn ngày thường, tràn ngập không khí Tết và không thể thiếu bánh tét hay bánh chưng, một loại bánh truyền thống trong ngày tết của dân tộc Việt.



Tục Lệ Ngày Tết phần 2



Cúng Giao Thừa
Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy.Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch.
 Trừ tịch thì trừ: bỏ đi, bớt ra, cuối năm; tịch: đêm. Trừ Tịch là đêm cuối cùng trong năm. Lễ trừ tịch còn là lễ để ” khu trừ ma quỷ”.
Thường khi cúng Giao Thừa, chủ nhà sẽ cúng hai mâm. Một trong nhà dành cho Tổ Tiên  và một ngoài trời để tiễn và rước các Thiên Binh thiên Tướng
Cúng Ngoài Trời
Theo tục lệ cổ truyền thì “giao thừa” được tổ chức nhằm đón các thiên binh.Mâm cỗ cúng Giao thừa ở ngoài trời có chiếc hương án với bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã.
Mâm lễ được sắp bày với lòng thành tiễn đưa vị Hành khiển (行遣) cũ đã cai quản mình trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản mình trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại.
Các thiên tướng đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà.

Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay "Ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay (do Thổ công đánh báo qua hương đèn), và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương, các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.


Cúng Trong Nhà
Lễ cúng giao thừa được cử hành đúng thời khắc giao thừa, kết thúc năm cũ, chuyển sang năm mới. Giao thừa giờ Tý đầu xuân, đón mừng nguyên đán. Cúng giao thừa là một nghi lễ thành kính và trang trọng, toàn thể con cháu trong gia đình đứng trước bàn thờ Tổ Tiên cầu khấn cho một năm mới được khoẻ mạnh, vạn sự may mắn tốt lành.

Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày Tết được chế biến tinh khiết, trang nghiêm, bao gồm:
Cỗ mặn:
Bánh chưng hay bánh tét; Giò - chả; ; Thịt gà; Xôi đậu xanh; Các món ăn mặn khác tùy theo  gia đình.
Cỗ ngọt và chay:
Hương, hoa, đèn nến; Bánh kẹo; Mứt Tết; Rượu, bia và các loại đồ uống khác.
Khi cúng Giao thừa trong nhà, tất cả các thành viên trong gia đình đứng trang nghiêm trước bàn thờ, khấn tổ tiên để xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới, cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết.
Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Dịp này, người ta thường đốt pháo, bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát.
Tóm lại, Cúng Giao Thừa (hay lễ Trừ tịch): là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.
Sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự đã đến với gia đình.

Hết Phần Đầu

Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn

Vĩnh Long Phút Thảnh Thơi - 28 Tết Năm Giáp Ngọ 2014










(Thảnh Thơi)

Trương Văn Phú
28Tết Giáp Ngọ

Quán Báo Bình Minh


“Hỏi xuân có gì vui…xuân làm dáng cho đời…”*.

         Mấy mươi năm qua, xuân xứ người, đến rồi đi. Hỏi cô, rằng xuân có gì vui!?
         Những háo hức mong chờ xuân của thời tuổi trẻ, đã qua. Theo dòng thời gian, xuân vẫn lặng lẽ đến và bây giờ… Hỏi cô, rằng xuân có gì để nhớ?
        Lìa quê hương, xuân trong cô, có chăng chỉ là hồi tưởng. Nhưng lạ sao, những ngày qua, trong đợi chờ xuân đến, cô khoắc khoải nhớ mùa xuân nào của mấy mươi năm trước. Cô nhớ về một nơi chốn. Chốn ấy không còn nữa, nhưng nơi còn vướng víu hình bóng người mình mến thương, nơi ấy sẽ luôn đong đầy kỷ niệm, dẫu tươi vui hay buồn vương mang. Cô muốn nhắc một nơi quá quen thuộc trong suốt thời cắp sách, không cho riêng cô, mà cho rất nhiều người. Đó là Quán báo Bình Minh.

        Quán báo nằm trên một diện tích hẹp, đối diện với trường Tống Phước Hiệp, bên cạnh Tiệm Huệ Hòa, đường Gia Long. Quán báo cung cấp khá đầy đủ các học cụ cần thiết, những tạp chí và nhật báo cho người quanh vùng. Đối với học sinh Tống Phước Hiệp của thời đã qua, nào ai xa lạ gì với Quán báo, mỗi khi ra vào cổng trường.  Nơi đây tuy nhỏ, nhưng đủ sức thu hút người đến. “Người đến”, không hẳn là khách đến mua hàng mà còn những vị khách không mua chi cả, chỉ chàng ràng, nhiệt tình đến vì những lý do riêng. Đó là các anh chàng thường đến lúc trống đổ liên hồi, tự chôn chân cạnh Quán báo, tự nguyện làm cây si và tầm mắt thả rong sang tận bên kia cổng trường. Những “vị khách” đã khiến các nữ sinh, tay chân cuống cuồng e thẹn khi bước ra cổng, lòng mong trốn chạy nhanh nhưng không dám đi mau, sợ “chàng chê tướng gian nan không giàu”.   

      Nữ chủ nhân Quán báo, người không xa lạ với gia đình cô. Nhà dì đối diện nơi cô ở và cùng nằm trên con đường lịch sử của đất Long Hồ mang tên Văn Thánh. Dì hiền lành, điềm đạm, từ tốn, dáng người đến lời nói luôn đi đôi. Đặt biệt, đôi môi dì mang nụ cười hiền và tiếng gọi “con” dành cho các anh chị em cô luôn thân mật, trầm ấm. Anh chị em cô, quen gọi là dì Tư Đức. Ngoài dì, còn có anh Tâm phụ một tay và đôi khi có thêm một hai người bạn của anh Tâm đứng tại quầy, khi vắng bóng dì. Những lúc đó, cô rất ngại ngùng đến Quán báo, không phải vì thuận mua vừa bán, mà bởi anh Tâm cũng là học sinh ở khoảng tuổi cô, thì chuyện “mắc cỡ” âu là bản tính đương nhiên của đa số thiếu nữ, nhất là gái Vĩnh Long.
     Quán báo Bình Minh không những là nơi an toàn cho anh chị em cô gửi tạm xe đạp mỗi khi đi chợ và tối quan trọng hơn, bởi nơi đó là “ hộp thư”. Và dì là cánh én luôn mang “mùa xuân” cho cả bốn mùa. Từ những lá thư thường, thư tình hoặc các điện tín khẩn cấp, đều được đưa về đây trước khi đến tay các anh chị em cô.

        Cô thích nhất vào những buổi chiều, lúc dì dừng xe mà tầm mắt lại hướng sang nhà cô và cất tiếng gọi: “ Phượng ơi con có thư nè”. Trời ơi, còn niềm vui nào hơn cho thời con gái, nơi tỉnh lẻ.
        
        Dì là người mang tin lành đến. Vừa nghe gọi, cô chỉ biết nhanh nhẹn chạy đến bên dì chìa tay đón nhận thư, không giấu che nỗi sung sướng. Không vui sao được, cô nhớ như in trong lần nhận thư. Nhìn tuồng chữ của ai đó lạ hoắc, tên người gửi, cô không biết bao giờ và nơi xuất xứ bức thư cô chưa một lần đến. Hai hôm sau, lại một bức thư khác. Cô đem so đo, lạ thật hai tuồng chữ không khác nhau mấy. Lá thư đầu của chàng chiến sĩ từ tiền tuyến xa xôi gửi về cho người em gái hậu phương, xin được làm quen. Bức thứ hai, của chàng thư sinh tỉnh Kiến Hòa. Thư đến với một lý do chính đáng. Anh chàng cho biết báo Văn Nghệ Tiền Phong bất công về kết quả. Những bài dự thi về Chuyện Vui Cười được đăng trên báo, lẽ ra bài của cô được trúng giải. Anh tự giới thiệu, mình là học sinh ban Toán, Trưởng ban Báo Chí của lớp và đang cùng trình độ với cô. Con gái chúa tò mò “ Phải chăng hai chàng, tác giả của hai lá thư chỉ là một!”. Cô tự hỏi.  Bao câu nghi vấn được đặt ra, nhưng không lời giải đáp, cô vương vấn và tiếp tục thắc mắc hoài.

        Sự tò mò, ngày một lớn dần, cô băn khoăn, vào ra tự hỏi và rồi trong chọn lựa, cô đã hồi âm cho chủ nhân của lá thư thứ hai. Thư được gửi đi, lòng cô hồi hộp đợi chờ. Thư hồi âm đến rất nhanh, cô biết thêm sự đồng cảm nơi người thư sinh này. Anh tự giới thiệu, mình là một người thích đọc sách báo, là độc giả của Tiền Phong, nhưng bất bình về sự chọn lựa bài trúng tuyển, nên anh muốn chia sẻ ý nghĩ với tác giả là cô. Anh còn cho biết, mình là con một của một tử sĩ, hiện sống với mẹ tại Cư Xá Kiến Thiết Kiến Hòa.


        Nhiều lần thư qua, tin lại, sau những trao đổi về việc học, bỗng một ngày… “Mưa có rơi và nắng có phai trên cuộc tình yêu em ngày nào. Ta đã yêu và ta đã mơ …”,** anh muốn kết nghĩa huynh muội. Cô cười thầm, tự nhủ
-   Sao giống Cải Lương Hồ Quảng quá!
        Cái tính ngang bướng lẫn dè dặt của con gái đất Vĩnh, nên điều kiện cô đưa ra, chỉ bằng lòng kết tình huynh đệ, “không chịu thì thôi”. Con gái muốn là ý trời! Mối tình huynh đệ êm ả, phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Rồi một ngày kia mặt hồ lăn tăn gợn sóng, khi lá thư cô nhận được dầy cộm hơn bởi hai tấm ảnh của “huynh”. Người trong ảnh khá bảnh trai với đồng phục học sinh, nhưng trông chững chạc bởi cặp kính đen, gọng to. Từ lúc có ảnh huynh trong tủ bàn học của đệ, là chồng chất nỗi lo âu cho cô, nhất là những lúc anh cô từ Sài Gòn về. Cô phải loay quay tìm nơi giấu biệt.

        Biết mà! Cũng đến ngày “đệ” phải đáp lễ lại. Tính cố hữu và cẩn trọng của phái nữ nên cô chỉ gửi đi tấm ảnh chụp chung với các bạn.  Được như thế là huynh mừng lắm rồi và huynh đã dài dòng tâm sự…mượn lời thơ đầy ẩn ý, bỏ lửng, chép không trọn vẹn, “Tóc em dài em cài hoa thiên lý…Miệng em cười…”.
        Thời gian cứ trôi…đôi bên chỉ biết nhau qua hình ảnh. Tình huynh đệ trao đổi chỉ là những khích lệ để cố gắng học hành vì sắp đến kỳ thi Tú Tài Hai. Vào một ngày đầu xuân năm ấy, Huynh trao tặng món quà. Đó là một bản nhạc với lời: “ Chợt nhìn xuân sang nghe mình lớn rồi. Tuổi thơ ơi! Thức dậy vui tròn cuộc chơi…”***. Phải chăng anh chàng cố ý nhắc nhở cô phải biết… lớn rồi. Ngoài ra, cô còn được một quyển Bích báo của trường Trung học Kiến Hòa, trong đó đôi lời gửi gắm viết tặng… Tuy nhiên, đất Vĩnh hiền hòa, nơi còn giữ gìn nhiều hủ tục, nên cô biết mình đã… lớn rồi, nhưng chưa biết mặt nhau thì dám nào đáp lại những điều mà huynh mơ ước và muốn nói đến.


        Sau Tú tài, huynh đỗ hạng cao, ước vọng thi vào Sư Phạm Sài Gòn và mơ làm thầy người ta. Có một điều đáng tiếc cho huynh, cho cô hay cả hai là cô không liên lạc với huynh nữa. Lý do thật đơn giản và buồn cười, là sau khi thi đỗ, hai lá thư cuối, huynh viết cho cô với tuồng chữ hơi tháo, không nắn nót, chẳng cẩn trọng như lúc ban đầu. Thế là vắng thư từ đấy, mỗi người một phương, không ai buồn biết ai nơi nao.
        Thời gian sau, đường tình cô đi có đôi. Cô bước vào Đại học, những mùa hè tạm nghỉ học, trở về với gia đình, thì … Quán báo Bình Minh tiếp tục là “hộp thư”. Cánh nhạn dì Tư tiếp tục đưa tin. Những bức thư tình từ miền xa xôi, quân trường Hải Quân Nha Trang. Thư mang đến lời yêu thương, hòa chút mặn của biến, thêm nồng nàn gió của miền thùy dương cát trắng. Mấy năm sau, mùa hè bất tử đến trong đớn đau. Bấy giờ, cô giã từ thơ ngây, an phận bên chồng, tay bồng bế con thơ vừa tròn tháng tuổi. Ngày ngồi võng ù ơ vỗ con ngủ, người hàng xóm mang đến trao cho má cô một phong thư: “Cô hai, cô xem có phải là thư của nhà cô không? Không đúng với địa chỉ mới, nhưng là tên của cháu Phượng.” Đã nhiều năm trôi qua,  nhìn lại tên người gửi và tuồng chữ năm nào, nét chữ quen thuộc, nắn nót như ngày đầu. Đọc lại thư một lần nữa và cô… cất đi dĩ vãng học trò. Lá thư cuối cùng của huynh với một câu hỏi thật dễ thương: “Đệ có chồng hay chưa?”
          “Chợt nhìn xuân sang nghe mình lớn rồi…”, huynh mượn lời nhạc nhắn nhủ vẫn còn đó, nhưng đệ của huynh bây giờ đã lập gia đình, không còn là đệ của ngày tháng cũ, nên đành im lặng và xin lỗi, không hồi âm.


         Những mùa xuân xứ người đã trôi qua. Bây giờ mùa xuân mới sắp đến. Những buồn vui thời thơ dại, tuổi học trò, những lời thư trao nhau năm nào như sống lại và kỷ niệm êm đềm xin gửi hết vào đây, một nơi đã mất tích, tên không còn nữa, nhưng vẫn hằn in vết ngày xưa…Quán Báo Bình Minh. Một nơi dấu ái, cho riêng cô và của mọi người đã một thời sống tại Vĩnh Long ...
         Xuân sắp về, lời viễn phương, đệ gửi đến huynh, người hiện bên kia bờ đại dương, nay lưu lạc phương nào, đệ luôn cầu mong huynh được an bình. Mỗi năm biết mình lớn dần…càng lớn dần lại càng nhớ nhiều những chuyện chỉ còn trong ký ức .“Hộp thư”, nay không còn nữa và cánh nhạn đưa tin đã ra người thiên cổ, nhưng dì Tư ơi, con vẫn nhớ dì, nhớ nụ cười ấm áp, đôn hậu mỗi khi “ Phượng ơi con có thư nè”.
        Cổng trường vẫn còn đó, sừng sững, nơi quê nhà. Người Bạn huynh đệ năm xưa chẳng biết phương nào, Quán báo mang tên Bình Minh đã mất, nhưng đang sống lại và tôi, thân viễn xứ, nhưng linh hồn này, mãi mãi chôn chặt trong lòng đất Long Hồ Vĩnh Long.

Kim Phượng
2010
* Lời nhạc Tôi Chưa Có Mùa Xuân của Nhạc sĩ Châu Kỳ
** Lời nhạc Bản Tình Cuối của Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên
***Lời nhạc Mùa Xuân Đi Qua của Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng


Phố Sài Gòn Chiều 28 Tết Giáp Ngọ 2014

      Saigon ngày cận Tết, vài con đường nhỏ vẫn lưu giữ tập tục nấu bánh tét bánh chưng của miền quê ngày xưa. 
      Bày ra đường trước cửa, cả xóm quây quần trọn đêm bên những bếp lửa ‘dã chiến’... chuẩn bị đón Tết.
      Đến hôm nay, thì hầu như đường nào cũng nhộn nhịp mua sắm Tết.
      Dân Saigon vẫn không quên nồi bánh chưng bánh tét,
      Mỗi năm một lần, cứ chiều 28 là bày nồi ra trước nhà, nấu rỉ rả suốt đêm. 

Vài hình ảnh trước nhà hôm nay, ghi lại làm kỷ niệm những ngày cuối năm Qúi Tỵ.


Saigon chiều 28 trước Tết.
nồi bánh tét bánh chưng trước nhà
dân thành thị vẫn lưu luyến ngọn lửa tình quê

cả xóm xôn xao trắng đêm chuẩn bị ăn Tết.

vài nồi vẫn còn chút lửa tàn.
vớt bánh nóng ra, sẵn sàng đón Tết.

Đặng Anh Tuấn

Xuân Ơi


Xuân ơi xuân đã qua rồi
Mãi còn luyến nhớ đứng ngồi ngắm xuân
Hoa niên như tuổi đuổi xuân 
Thềm hoa bờ giậu lục tuần giờ đây

Hoa xuân đến lá xuân bay
Sắc hoa màu thắm phương này lẻ loi
Chim trời nghiêng cánh đưa thoi
Ngân lên mấy khúc hoa ơi đóa vàng

Gió chiều thấp thoáng bóng vang
Xa quê nỗi nhớ lòng càng thấm đau
Đêm về trăng tỏ nhô cao
Làm sao biết được ngày nào có nhau

Tâm tư nguyện vọng ngày sau
Lòng này nguyện mãi đón xuân quê nhà
Giờ đây xa thật là xa
Người còn nơi đó xuân qua đục mờ

Xuân tha hương xuân mong chờ
Còn đâu nhớ lấy bài thơ thuở nào
Xuân xưa tàn tạ bao nhiêu
Xuân nay đất mẹ lắm điều thiết tha

Xuân về thức dậy lòng ta
Quê người đất khách xuân về nơi đâu
Tình xuân tô đậm nỗi sầu
Tha hương mong mỏi ngày về xuân ơi.


Vĩnh Trinh

Thơ Tranh: Xuân Tự Tình


Thơ Và Thơ Tranh: Kim Oanh

Sắc Xuân


Xanh biếc,xuân xanh, biếc ngời xanh
Đua chen sắc thắm nở trên cành
Dập dìu vờn lượn bao ong bướm
Gót muốn quay đi dạ chẳng đành

Tiết xuân nắng đẹp nét thanh thanh
Gió nhẹ đu đưa áng mây lành
Có phải hơi xuân mời vẩy gọi
Ấm tình em gái lẫn tình anh.

Quên Đi


Xuân Nhớ Ca Dao Mẹ!




Mẹ ơi! Xuân lại đến rồi!
trong con chất ngất một trời nhớ thương
tuy xa mẹ vạn dặm đường,
nhưng lòng con mãi vấn vương quê nhà
tưởng chừng như mới hôm qua
còn nghe mẹ hát lời ca dao buồn
ngủ đi con ! ngủ đi con!
ngủ đi, con ngủ cho tròn tuổi thơ
bao năm lửa khói mịt mờ
lời ru mẹ vẫn ấm bờ tre xanh
lời ru như nước ngọt lành
mát lòng con, bườc độc hành chông gai
lời ru như bóng tỏa dài
chở che con những tháng ngày lao đao
như là ngọn sóng xôn xao ,
ngàn đời lặng lẽ vỗ vào sườn non
đá kia còn có lúc mòn,
lời ru của mẹ theo con suốt đời!

Giáp thân 2004, Xuân thứ mười tha hương!
Dương Thượng Trúc

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Thơ Tranh: Xuân Nhớ


Thơ: Hồng Lan
Thơ Tranh: Kim Oanh


Đón Tết Ở Công Viên Heo May




Em nằm một góc trời riêng
Dưới chân hình tượng nghiêng nghiêng số phần
Và ta – bụi cát phân thân
Nửa theo biển rộng, nửa gần núi cao.

Phạm Hồng Ân 




Chổ Về




Ngày đi
tạ lỗi ơn người
là ơn mưa móc một thời rất xưa
mây đâu hỏi gió bao giờ
chân không đổi sắc bên bờ hồi sinh

Sáu mươi đến tuổi giật mình
vương vai bỏ cuộc với hình bóng kia
một mai là chỗ ta về
là nơi yêu tĩnh dạo kề trăng thanh

Ngày đi
nợ thiếu chưa thành
trả em suốt kiếp chưa đành lòng em
lượng trời tăm cá bóng chim
tìm trong sủi bọt hơi chìm biệt tăm

Mùi hương tiếc chỗ em nằm
thì coi như cõi xa xăm biệt mù
lá đời rụng cánh thiên thu
em ơi hãy khóc, khóc mù trời xanh

Trần Phù Thế

Câu Đối: Khánh Chúc Tân Niên 2014 - Huỳnh Hữu Đức


Câu Đối Và Trình Bày: Huỳnh Hữu Đức

Áng Mây Trôi




Thơ thẩn về đâu một áng mây
Lạc loài theo gió cánh chim bay
Đường xa muôn dậm về quê cũ
Dõi bóng trông tin tháng với ngày
Một thuở quen nhau tình vừa chớm
Bao ngày cách biệt cố nhân ơi
Biết đến khi nào mây ngừng lại
Chẳng lẽ cuộc tình chỉ thế thôi?

Biện Công Danh
26-12-2013

* Ảnh phụ bản tác giả chụp

Chợ Hoa Vĩnh Long Xuân Giáp Ngọ 2014









Trương Văn Phú
Vĩnh Long 27/1/2014


Ngày Tết Nói Chuyện...Ăn !!!

      Không biết nơi nào trên thế giới mà chuyện ăn lại được đề cập đến nhiều như Việt Nam ta không ?
      Hầu như tất cả mọi sinh hoạt thường ngày hay những dịp đặc biệt đều gắn với chuyện ăn! có phải luôn bị cái đói ám ảnh trong suốt thời kỳ dài của dân tộc, hay...quá rảnh rang nên chuyện ăn uống trở thành câu chuyện hàng ngày, hàng giờ trên đầu môi, chót lưỡi của ta :
      Từ ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối, ăn lỡ, ăn dặm, ăn thêm, ăn khuya với những món xôi, phở, bún, cơm, cháo thường nhật, ta còn ăn tết : tết Tây, tết Ta, tết Thanh Minh (3/3), tết Đoan Ngọ (5/5), tết Trung Thu ....đều gắn liền với ...ăn. Ngoài ra cũng không bỏ lỡ những dịp khác để ...ăn : ăn cưới, ăn dạm, ăn hỏi, ăn giỗ, ăn chạp, ăn đám chay, đám ma, ăn thôi nôi, ăn đầy tháng, ăn đầy năm, ăn tất niên, tân niên... gọi chung là ăn cỗ, là dịp được ăn uống no, say, hoặc ăn mừng từ nhà mới, lên lon, lên lương, ăn khao tốt nghiệp, ra trường, nhận nhiệm sở...
      Người ta cũng phân biệt chia thành ăn chay, ăn mặn, ăn lạt, ăn kiêng, ăn khem, ăn chua, ăn ngọt, ăn sống, ăn chín.


      Người giàu có thì ăn to, nói lớn, ăn trên đầu, trên cổ, trên lưng, gọi chung là ăn người, kẻ có chức có quyền thì ăn chặn, ăn bớt, ăn hết, ăn vô tội vạ, ăn hối lộ, ăn đậm, ăn dày, ăn mỏng, ăn bẩn, ăn kín, ăn hở, ăn lòi họng, ăn ngập mặt, kẻ ăn không hết,người lần chẳng ra... Nhỏ hơn thì ăn chia, ăn theo, ăn hôi, ăn hùa, ăn lẻ, ăn mảnh, mà món chúng thích nhất là ăn vàng, ăn bạc, ăn tiền, cũng như bọn ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm chắc hẳn không thích ăn dao, ăn búa, ăn súng , ăn đạn, ăn kẹo ...Nhưng ngoài những tên ăn trội, ăn trùm thiên hạ, còn quyền, còn thế còn kéo dài thời gian, che mắt được mọi người, chứ tất cả đều do ăn lường, ăn gian, ăn càn, mà thường thì lại ăn tham nên trước sau , lâu mau gì cũng ăn...đất, ăn khói, ăn nhang !

      Chỉ tội những người nghèo hèn thì ăn đói, ăn khát, ăn kham, ăn khổ, ăn độn, nên phải ăn nhín, ăn dè, ăn chừng, ăn chừa, đôi lúc phải ăn lén, ăn vụng, ăn cho có bữa, năm thuở, mười thì có khi ăn may, được bữa ăn chùa, ăn thử, ăn thiệt được bữa nào đỡ bữa đó, nhưng chẳng ăn thua gì với cái bụng luôn lép xẹp, có đâu mà ăn tham, ăn tục, ăn dùm.

      Tuy nhiên cũng còn đỡ hơn những kẻ ăn xin, ăn mày, bữa đói, bữa no, lang thang lếch thếch, nay chỗ này, mai chỗ kia, ăn nhờ, ở đậu, có gì ăn nấy, ăn bốc, ăn vã, ăn vội, ăn vàng .
Đó mới chỉ là những gì liên quan đến việc nhai, nuốt, nghĩa là một hành động sinh học thôi, có những thứ chẳng liên quan gì đến việc "ăn" cả, cũng được người Việt dùng một cách thoải mái tự nhiên như : ăn mặc, ăn diện, ăn nói, ăn học, ăn ở, ...
Và đi cả vào ca dao, tục ngữ, phương ngữ, ngạn ngữ, thành ngữ, văn thơ... nữa chứ :

- Ăn vóc, học hay.
- Ăn xổi, ở thì.
- Ăn coi nồi, ngồi coi hướng.
- Ăn cây nào, rào cây ấy.
- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây .
- Ăn chắc, mặc bền.
- Ăn đàng sóng, nói đàng gió.
- Ăn to, nói lớn.
- Ăn ốc, nói mò.
- Ăn tục, nói phét.
- Ăn nói zô diên !!!
- Ăn ngược, nói ngạo.
- Được ăn cả, ngã về không.
- Chắc ăn như bắp.
- Ăn như tằm ăn dâu.
-  Một miếng giữa làng, bằng một sàng xó bếp.
- Muốn ăn, thì lăn vào bếp.
- Miếng ăn là miếng tồi tàn .
- Cá không ăn muối cá ươn...
- Ông ăn chả, bà ăn nem.
- Thơ, phú : Thi không ăn ớt, thế mà cay ( Tú Xương ).
-  Thoát trông nhờn nhợt màu da.
- Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao ( Kiều )
- Ăn khế trả vàng...( cổ tích )
- Nam thực như hổ, nữ thực như miêu !
- Xôi hỏng, bỏng không ( không có chữ ăn ).
................


      Nói tóm lại cùng với rất nhiều những món ăn phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc, thì cái ăn có mặt trong hầu hết mọi sinh hoạt của người Việt, làm nên nét văn hóa đặc thù gọi là Văn hóa ẩm thực, hay nôm na gọi là Tâm hồn ăn uống, và với thời gian còn được bổ túc thêm cho hợp với thời đại: Ăn thua đủ, ăn sương, Ăn cơm tay cầm, Ăn cơm trước kẻng, ăn dở ( cấn thai ), ăn nên làm ra, ăn ong (nghề lấy mật ong ), ăn trầu, ăn thuốc, ăn than (xe lửa chạy than), ăn hàng ( trộm ) ăn ảnh, ăn đèn, ăn khách....và còn nhiều nữa mà tác giả ...nhớ không hết, hoặc chưa biết hết.

      Để kết thúc chuyện phiếm này, xin kể lại hai mẫu chuyện vui nhỏ cũng liên quan đến việc ăn :
1. Một nhà tư bản nọ bị ung thư bao tử, phải thay, được dẫn sang Tàu, nơi đây có đủ các món nội tạng cần thay thế, đủ hạng, đủ giá tùy túi tiền của thân chủ , sau khi được giới thiệu các loại bao tử của một thể tháo gia cử tạ, một nhà vô địch ăn hotdog, một nhà ảo thuật chuyên nuốt kiếm, đến một tủ chưng bày một bao tử bình thường nhưng giá đắt hơn gấp bội, nhà tư bản thắc mắc hỏi tại sao cái này có gì đặc biệt mà giá lại cao quá vậy ? Vị Bác sĩ bèn nói nhỏ : cái bao tử này là của một viên cán bộ cao cấp bộ xây dựng , nó nhai luôn được cả bê-tông, sắt thép nên giá mới cao vậy đó.
2. Đi tù "cải tạo" đói triền miên, ngày này qua tháng khác, nên lúc nào cũng bị ám ảnh bởi cái ăn. Nhưng lâu dần cũng tìm ra cách để chống lại : có người thì uống nước thay cơm, có người thì xoay xở bằng mọi cách có thể để thêm chút " vitamine" " con gì nhúc nhích là ăn được", cái gì mà chim chóc ăn không chết, là ăn được, có người cố tình kéo dài bữa ăn bằng cách đếm số hạt bắp trong một chén, hoặc bao nhiêu muỗng cơm mỗi bữa, khổ sở nhất là ban đêm, trằn trọc không ngủ được, bụng thì cứ kêu ùng ục vì uống đầy nước, để quên cái đói đang hành hạ bằng cách thi nhau kể chuyện, và chuyện cuối cùng bao giờ cũng là những món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị , mọi người khác nghe và ráng nuốt nước bọt . Chúng tôi gọi đó là "ăn hàm thụ ", Nhờ thế mà vẫn sống sót được đến hôm nay hầu chuyện phiếm với quý vị!

Nam Chi

NY, Giáp Ngọ 2014.


Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2014

Hát Về Vĩnh Long Nhạc Thanh Sơn,Hương Thủy Ca(Ảnh Long Hồ Vĩnh Long)

      Vĩnh Long và Dòng Sông Long Hồ qua ống kính của anh Trương Văn Phú
      Chân thành cảm ơn anh Phú đã gợi nhớ về Long Hồ Vĩnh Long mà nay đã xa .....
      Kính chúc anh cùng gia đình hưởng một mùa Xuân Giáp Ngọ An Bình, Hạnh Phúc và nhiều Sức khoẻ.
      Tặng anh thay lời cảm ơn nha.
      Kính mến

      Em Kim Oanh    


Quê em một màu xanh tươi lúa bát ngát xa xôi chân trời.
Ai qua đây lần đầu tiên thấy quyến luyến như đang gọi mời.
Gần xa quê một tấm lòng, gọi tên em là Vĩnh Long.
Năm tháng uống nước sông Tiền phù xa đấp thêm mênh mông.

Thương em nhọc nhằn gian lao nắng gió sớm bay trong mưa chiều.
Thương đôi vai gầy nhịp theo những gánh lúa vui trên đường về.
Ngày xưa qua phà Mỹ Thuận, ngày nay qua cầu rất nhanh.
Câu hát ca dao ngọt ngào đua nở thắm trên làng môi.

Em đưa anh về Mang Thít trái cây thơm ngon.
Đêm trăng Long Hồ đẹp như bức tranh Vũng Liêm.
Hàng dừa xanh rủ bóng, ngày nào ai qua sông.
Về rồi thương em Vĩnh Long.

Yêu em riêng tặng cho em chiếc áo mới Vĩnh Long mĩ miều.
Hương quê đây một phù xa với lúa chin trái cây thật nhiều.
Người đi xa còn nhớ về, lời yêu thương nào ước thề.
Đây ch
ín con sông hội về gặp nhau Vĩnh Long trùng dương.

Sáng Tác: Hát Về Vĩnh Long
Nhạc Sĩ: Thanh Sơn
Ca Sĩ: Hương Thủy
Thực Hiện: Kim Oanh