Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

Thơ Tranh: Thánh Giá Tình Yêu


Thơ: Lan Cao
Thơ Tranh: Kim Oanh

Những Mùa Noel




Tôi ước thời gian chảy ngược dòng
Cho tôi về lại những mùa đông
Noel ngày cũ khi còn bé
Nao nức vào xem Chúa Hài Đồng

Rồi những mùa đông thấm thoát trôi
Khi vừa chập chững tuổi đôi mươi
Tình yêu hò hẹn bao kỷ niệm
Đêm tối Noel phố đông người

Cứ tưởng dòng đời tươi đẹp mãi
Nào ngờ chinh chiến rẽ chia đôi
Hai mươi năm lẻ đời biệt xứ
Tôi đếm từng đông lặng lẽ trôi

Noel lại đến nữa đây rồi
Phảng phất về theo gió bên đồi
Tiếng em khe khẽ lời yêu cũ
Hay là tiếng nói tự lòng tôi?

DTTN (Biện Công Danh)
17-12-2013

* Ảnh phụ bản của tác giả chụp

Họp Tất Niên - CHS Phan Thanh Giản&Đoàn Thị Điểm - Cái Răng 2013

     8 giờ 30 sáng ngày Rằm tháng 11 âm lịch, năm Quý Tỵ (17/12/2013), nhóm chs PTG-ĐTĐ vùng Cái Răng tổ chức ăn sáng họp mặt tất niên tại nhà bạn VTT.

Hiện diện buổi họp mặt gồm có :
- Gs Mạc kỉnh Trung từ Jackson MI về
- Bạn Nguyễn viết Tân từ Seine – Saint Denis – Fr. về.
- Chs Lương lệ Quỳnh
- Chs Nguyễn văn Tư
- Chs Quách thị Phụng
- Chs Lê thị Thảo
- Chs Nguyễn kim Tiền
- Chs Phạm thị Tư Bé
- Chs Trần huỳnh Mai
- Chs/Gs Nguyễn kim Quang
- Chs Vương thủy Tùng.

      Vì là ngày Rằm, gia chủ đãi các món chay thật ngon gồm : chè kiểm, bánh bao, há cảo và nhiều loại trái cây. Uống trà sữa.
      Mở đầu, thay mặt các bạn nhân dịp tất niên và sắp đón chào Tết Noel 2013, bạn VTT mừng tuổi Thầy Trung, kính chúc Thầy sức khỏe và sống lâu cùng đám học trò già.

      Đang buổi họp mặt chúng tôi nhận được hai tin vui : Sư huynh Nguyễn văn Tỷ đang định cư tại Brisbane Queensland và tiểu muội hiện ở Melbourne gọi về báo sẽ gởi chút quà nhỏ cho anh em TPB quê nhà. Số tiền mà chúng tôi có thể tặng 400.000$VN/1 TPB được 19 người.


      Buổi họp mặt rất vui. Ai cũng muốn chụp riêng với Thầy Trung vài tấm hình lưu niệm với người Thầy cũ. Một người Thầy dạy toán nghiêm khắc nhưng rất đáng kính trọng của chúng tôi – đã dạy dỗ chúng tôi tại trường PTG từ 54 năm về trước.
      Buổi họp mặt ăn sáng kết thúc lúc 10 giờ 30 cùng ngày.
      Sau đây là vài hình ảnh được ghi nhận :

Đứng : Tư – Tân – Thảo – Kim Tiền – Tư Bé - Tùng
Ngồi : Phụng – Lệ Quỳnh – Thầy Trung – Kim Quang – Huỳnh Mai 

Bạn Nguyễn viết Tân & Lệ Quỳnh
Chs/Gs Kim Quang & Thầy Mạc kỉnh Trung 
Từ trái : Phụng - Kim Quang - Tư - Huỳnh Mai - Thầy Trung - 
Tân - Thảo - Tùng - Lệ Quỳnh - Tư Bé. 

Dương Hồng Thủy 

(17/12/2013)



Đóa Mộng Thường



Chiều nay lòng chợt buồn man mác
Xem lại trang thơ phủ bụi mờ
Hoa nắng tình xưa dường sống lại
Chập chờn cánh bướm mộng tình thơ

Xưa là cô gái tròn đôi tám
Như đóa mộng thường vừa chớm mơ
Anh tựa nắng hè màu lãng mạn
Sớm mai rạng rỡ ánh vàng tơ

Áo trắng học trò tình một thuở
Hẹn thề tóc xỏa phủ bờ vai
Yêu thương hoa bướm như thần thoại
Chưa vướng tơ sầu nhỏ lệ cay


Đêm này thưa rụng hoa đông tuyết
Mà ngỡ đoá hoa mơ mộng thường
Mắt nhỏ lệ buồn loang cánh mỏng
Ngỡ sương khuya đọng đóa sầu vương

Yên Dạ Thảo

* Tác giả làm ảnh phụ bản

Paris La Saison Noël - Paris Mùa Giáng Sinh -Quách Vĩnh Thiện


Tiếng hát : Mai Thảo.
Lời : Thanh Vân.
Paris, le 16 Janvier 2010
Nhạc : Quách Vĩnh Thiện

Đón mừng Giáng Sinh, đón mừng Năm Mới,
Tháng mười hai, Paris mở hội giăng đèn,
Mùa Giáng Sinh, Năm Mới Paris.

Champs Elysées đại lộ ngập tràn ánh sáng,
Tháp Eiffel muôn màu kiêu sa khoe sắc đẹp,
Printemps, Lafayette trau chuốt cửa hàng,
Chưng poupée, bày gấu bông màn múa rối.
*
Cả một vùng choáng ngộp ánh sáng mơ,
Cả một vùng rộn rả nối gót người,
Trẻ hân hoan cất tiếng cười thơ ấu,
Chỉ chỏ vui đòi mua món đồ chơi.

Đón mừng Giáng Sinh, đón mừng Năm Mới,
Tháng mười hai, Paris mở hội giăng đèn,
Mùa Giáng Sinh, Năm Mới Paris.

Paris thần tiên, Paris tắm trong ánh sáng,
Đèn giăng giăng lấp lánh khắp phố phường,
Paris lộng lẫy mộng mơ như thần thoại,
Tuyệt vời như ảo mộng, đón Giáng Sinh và Năm Mới xa hoa.
*
Paris thần tiên thu hút khách muôn phương,
Mừng Giáng Sinh, Năm Mới khách đổ về,
Mong hạnh phúc, tình yêu nâng ly rượu,
Paris thần tiên, Paris lộng lẫy.


Paris, le 16 Janvier 2010
Thực Hiện: Quách Vĩnh Thiện

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

Mơ Ước Đêm Giáng Sinh




Giáng Sinh đến Em có cùng ai xem Lễ
Hay mơ màng chỉ nhớ đến Người xưa
Sánh cùng ai giữa mưa phùn lất phất
Tựa vào nhau khi gió bấc tràn về

Trời trở lạnh hay lòng Anh đang lạnh
Mơ cùng Em sóng bước đón Noel
Thật trọn vẹn mừng Đêm Thánh an lành
Niềm vui ấy biết bao giờ có được

Anh vẫn biết tình Anh trong huyền hoặc
Nhưng làm sao kềm chế trái tim yêu
Sóng tình dâng chỉ hướng mỗi một chiều
Anh cứ mặc cho tiếng lòng trôi dạt

Noel đến ước mơ kia cũng đến
Bao năm rồi cũng chỉ một ước mơ
Chúa trên cao ban phước kẻ dại khờ
Cho Con được thấy mơ thành hiện thực.

Quên Đi

Mùa Giáng Sinh Nhớ Mẹ




Lại một mùa đông, Thiên Chúa Giáng sinh
con trang trí nhà, giăng đèn rực rở
Chúa có về ngang cho con hỏi nhỏ
mẹ con về trời,  Chúa đón người chưa?

Hỏa táng mẹ rồi, cát bụi hư không
tất cả cửa về trời đều mở rộng
ý nguyện mẹ, quy y quỳ chân Phật
lỡ lạc qua nước trời, Chúa mở vòng tay

Giáng sinh này, Tuyết sẽ trải thảm êm

vân thạch làm hang, mây thành máng cỏ
mẹ tung kinh Pháp Hoa, xen kinh kính mừng Thiên Chúa
mẹ lần chuổi Bồ đề cùng lần hạt Mân Côi

Một bên vai Chúa, Phật một bên vai
hai vai mẹ mang tâm lành, phước thiện
con chỉ ngước lên trời cao cầu nguyện
thoát khỏi kiếp người,cầu mẹ được bình yên

Chỉ còn mấy tuần là chúa giáng Sinh
phép lạ con mong nhìn mẹ cười nồng ấm
Giáng Sinh tuyết rơi ngập trời hoa trắng
mẹ hiền dịu, nhân từ phổ độ Quan Âm

Con cứ tin là mẹ ngự trên cao
không thắc mắc cõi trời có phân chia giai cấp
nếu có chút đỉnh, mẹ con mình đã từng chịu đựng
kinh tế mới thiên đường chắc chắn nhẹ nhàng hơn

Mẹ hãy yên lòng, dù con có nhố nhăng
tâm con tối, nhưng còn phần tỏa sáng
con vẫn để dành, dăm điều bác ái
tạ ân trên, con báo hiếu mẹ hiền


Vĩnh Trinh

Tản Mạn Về Mỹ Thuật Vĩnh Long

     Hơn hai mươi năm qua, kể từ sau khi đất nước đổi mới, đường lối “DÂN TỘC-HIỆN ĐẠI”(...) vẫn luôn là hướng đi tích cực, sáng suốt, giữ gìn được bản sắc trong xu hướng hội nhập toàn cầu cho đội ngũ Họa sĩ, Điêu khắc gia tỉnh Vĩnh Long. Các đề tài phong phú đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống từ truyền thống đến đương đại đã được triển khai để các nghệ sĩ thể hiện qua các tác phẩm của mình.


Vào năm 1988, chính các họa sĩ Vĩnh Long đã đi tiên phong trong việc mở cuộc Triển lãm Mỹ thuật đầu tiên trên toàn quốc tại Sài Gòn, mở đầu  phong trào Triển lãm Mỹ thuật cho các tỉnh phía Nam. Và trong suốt một thời gian dài, Mỹ thuật Vĩnh Long luôn đứng ở vị trí quán quân với lực lượng Họa sĩ, Điêu khắc gia hùng hậu cùng với những tác phẩm hội họa, tranh, tượng, phù điêu… Thế nhưng, vào thời điểm hiện tại, Mỹ thuật Vĩnh Long đã có dấu hiệu chựng lại. Dường như các nghệ sĩ chỉ dừng chân ở cách trang trí miên man, sơ sài, thể hiện những tình cảm cá nhân vụn vặt và ít có tác phẩm hoành tráng, lớn lao về nội dung, hình tượng.

Nguyên nhân vì sao Mỹ thuật Vĩnh Long bị rơi vào tình trạng lội ngược dòng như vậy? Làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng luẩn quẩn ở ngả ba bế tắc, thiếu định hướng như hiện nay?
Chúng ta đang ở vào thời kỳ mà nghệ thuật đương đại, hay còn gọi là nghệ thuật Hậu Môđéc đang phát triển rộng khắp toàn cầu. Xu hướng Nghệ thuật Không gian, bao gồm Sắp đặt, Biến đổi, Trình diễn, Sáng tạo Không gian bằng mọi phương tiện chất liệu và xu hướng High-tech áp dụng kỹ thuật số, màn hình, đèn chiếu… vào các trò chơi nghệ thuật thị giác mới lạ, đặc trưng của xã hội trí tuệ và khoa học công nghệ trình độ cao hầu như không còn xa lạ với công chúng thưởng ngoạn. Trong khi đó,  đại bộ phận các nghệ sĩ trong ngành Mỹ thuật Vĩnh Long vẫn sáng tác theo cách suy nghĩ cho rằng sự quay về cảm thức dân gian, khai thác bản sắc dân tộc từ nghệ thuật cổ truyền chính là cách thể hiện tinh thần “DÂN TỘC-HIỆN ĐẠI”(!) Lại có một số vị chối từ các công thức và lối vẽ chính xác theo tinh thần khoa học của trường lớp vốn không hợp với mỹ cảm tượng trưng ước lệ của người Việt Nam. Thêm nữa, sự bắt chước, đi tắt vội vàng, tránh né kỹ thuật và lao động, với suy nghĩ, mơ hồ nông cạn cho rằng “DÂN GIAN CHÍNH LÀ HIỆN ĐẠI”; hoặc với hy vọng theo tấm gương của một số họa sĩ trong nước đã thành danh nối nhanh tức thì “CÁI DÂN TỘC VỚI CÁI HIỆN ĐẠI” mà không nghĩ rằng thành quả của các họa sĩ ấy chính là cả một quá trình làm việc, nghiên cứu miệt mài cộng với tài năng và sự hiểu biết sâu sắc về truyền thống!

Vấn đề tiếp theo là sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ kế thừa trong ngành Mỹ thuật. Ở Vĩnh Long, các nghệ sĩ trẻ có năng khiếu về Mỹ thuật, Điêu khắc đa phần có gốc gác xuất thân là giáo viên đã tốt nghiệp từ Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long hoặc Đại học Đồng Tháp ngành Họa. Vì được đào tạo để giảng dạy, nên họ chỉ được học một chút Hội họa, một chút Điêu khắc, một chút Lịch sử Mỹ học… Và kết quả là, có một thầy giáo dạy môn Mỹ thuật tại một trường Phổ thông Cơ sở  đã tuyên bố hùng hồn với các học trò của mình rằng Họa sư nổi tiếng Salvado Dali là họa sĩ vẽ theo lối Cổ điển(!)


Thực tế, NGHỆ THUẬT VÀ CÁI ĐẸP luôn không ổn định mà thay đổi cùng với cuộc sống và nhu cầu tinh thần của con người, thời đại. Các giá trị của nghệ thuật cũng có nhiều cấp độ khác nhau, tùy vào hàm lượng nội dung, ý tưởng và tính đại diện của nó. Nghệ thuật “DÂN TỘC-HIỆN ĐẠI” phải là nghệ thuật nhập cuộc với cuộc sống, mang thông điệp và nội dung hiện thực cao. Làm nghệ thuật là để lên tiếng, bày tỏ tư tưởng, trí tuệ và thái độ cá nhân trước các vấn đề của cuộc sống. Có như thế, các nghệ sĩ trong ngành Mỹ thuật Vĩnh Long mới có cơ hội thoát khỏi sự trì trệ, bế tắc như hiện nay.

Bài viết trên đây chỉ là ý kiến của một cá nhân, được viết ra có tính cách để độc giả cùng tham khảo. Nó không nhằm mục đích chê bai, đả kích bất cứ ai! 

 (Tháng 12-2011)
Tín Đức

Trả Lời Về Một Tỉnh Lẻ



Em ngỡ tôi đi mòn phố tỉnh lẻ
Từng góc đường, từng chiếc áo thư sinh
Ừ thì tôi có vào ngỏ cuộc tình
Vì ngỏ cụt nên chẳng còn lối thoát

Ngôi trường nhỏ với mây bay trắng toát
Buổi đi về người làm nắng cũng say
Mặt trời cao, so sánh thế nào đây
Đành thúc thủ trong nỗi niềm câm nín

Gót giày tôi có mòn trên lộ tỉnh
Nhưng chỉ là con hãn mã, mắt che
Chỉ một phương nào biết được lối về
Đành ngả quỵ trên chiến trường áo trắng

Mộ hồn tôi qua bao mùa mưa nắng
Giữa phố buồn, tỉnh lẻ, đã rêu phong
Có đôi khi về viếng một góc lòng
Thăm bia đá, thăm mái trường quá khứ

Nếu ngưòi xưa, cũng về ngôi mộ cũ
Cứ tự hào, một thuở có cây si
Cuộc nhân sinh nếu còn chút từ bi
Xin đốt nén nhang tình trong tâm tưởng

Vĩnh long đó lắm sông chia nhiều hướng
Thuyền cuộc đời, người đổ bến nơi đâu
Tôi chở theo một di ảnh ban đầu
Chỉ trả lời về mây, nếu em hỏi


Hoài Tử


Một Mình - Nhạc Thanh Tùng - Ca Sĩ Mỹ Linh

      Gia dình đang tràn đầy hạnh phúc, bng người vợ đột ngột ra đi,để lại con nhỏ và khồ đau cho người chồng. Đêm về nhớ vợ cùng những k niệm bình dị nhưng thấm thía cho người chồng ,thật tội và khổ cho cảnh này


Nhạc Sĩ: Thanh Tùng
Ca Sĩ Mỹ Linh
Thực Hiện: Nguyễn Thế Bình

Nắng Đẹp Hồn Em May Áo Mới




Nắng đẹp hồn em may áo mới
Thơm màu lụa mỏng của quê ta
Thấy em mái tóc đùa con bướm
Thơ thẩn như ngày xưa rất xa

Nắng đẹp hồn em may áo mới
Nhả trong quần lảnh Mỹ A trơn
Tôi thương Châu Đốc chiều lưu xứ
Những cụm mây buồn quyện núi Sam

Nắng đẹp hồn em may áo mới
Rất Tây rất Nhật rất Hồng Kông
Chừng đôi năm nữa tôi nào thấy
Chiếc áo dài xinh dạo phố phường

Và cái tình yêu có đổi thay?
Bạo tàn bình thản lúc chia tay
Như tôi mất nước rồi quên nước
Như thể sinh ra tại đất này

Lâm Hảo Dũng

Hỏi Người



Người làm thơ ngắt hoa
Khóc một bài tứ tuyệt
Thơ vàng một khúc ca
Hát nguôi lòng thương tiếc

Người trồng hoa cho thơ
Ngủ theo hồn cỏ dại
Hoa úa tự bao giờ
Tiếc một thời con gái

Hỏi người như hỏi ta
Sầu đời khô mấy nhánh
Hỏi người vai nhỏ ta
Thắp tình bao ngọn nến

Một lần đâu dễ qua
Mắt cười xa ngàn dặm
Một lần chợt hiểu ra
Chút tình sao đằm thắm

Người làm thơ tặng hoa
Gieo mấy mùa hạt nhớ
Nở vàng góc vườn ta
Chim oanh về mấy thuở

Lâm Hảo Khôi

( 29-11-13)

Đón Giáng Sinh Này Nhớ Giáng Sinh Xưa

      Cha Peter Dương Bá Hoạt và cô Cecilia từ Gia Nghĩa, Đài Loan
      CHÚC MỪNG GIÁNG SINH
      Đến Quý Cha, Quý Tu Sĩ, giáo dân.
      Đặc biệt gởi lời chúc đến Quý Bạn cùng lớp Xuân Bích Vĩnh Long  1972
      Một vài tấm thiệp Giáng Sinh hiếm hoi tại Đại Chủng Viện Vĩnh Long cách đây hơn 40 năm. Những tấm thiệp này chắc chắn gây nhiều ngạc nhiên cho các tác giả nghiệp dư thời ấy.
      Các tác giả những tấm thiệp này nay là những "Mundi Pater", tạm dịch là các "Bố đời".

       Chúng con cám ơn Cha, cô Cecilia và Quán Ven Đường còn giữ lại chút kỷ niệm ngày xưa. Những tấm ảnh này sẽ đi mãi vào lòng mọi người và không quên những ngày tháng đẹp, êm đềm của một thời đã qua
Đón Giáng Sinh này nhớ Giáng Sinh xưa


Bên máng cỏ tại trại Tỵ nạn Galang, Nam Dương.

Sau 6 ngày lênh đênh, 1 tháng tạm trú tại 1 hòn đảo nhỏ rồi mới đến trại Tỵ Nạn.

4 tháng sau mừng lễ Giáng Sinh.




Mừng Giáng Sinh năm 1 tại Úc Đại Lợi




Bên hang đá tại Đại Chủng Viện Đài Bắc. 
Thời gian này học tiếng Phổ Thông tại trường Đại Học Công Giáo (đối diện ĐCV). 
Cha Peter Dương giúp 1 Cha Việt Nam làm máng cỏ này cho Đại Chủng Viện Đài Bắc.



Học tiếng Phổ thông năm thứ 2 và cũng giúp một Cha làm máng cỏ cho ĐCV


LM Peter Dương Bá Hoạt   
Cô Cecilia Huang (Thư ký của Cha và Thư Ký Tòa Giám Mục Giáo Phận Đài Trung)
Gia Nghĩa, Đài Loan


Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Mùa Yêu Thương Và Thứ Tha


    Có mấy ai trong lứa tuổi tôi còn nhớ những mùa Giáng sinh nơi ngôi Làng nhỏ Trung Ngãi vào những năm 63 trở đi không nhỉ? Riêng tôi thì nhớ lắm, với độ 6,7 tuổi, lòng háo hức và hồn nhiên của tuổi thơ luôn in đậm vào lòng. Trung Ngãi là một ngôi làng nhỏ nằm trên trục lộ giao thông tỉnh Vĩnh Long – tỉnh Vĩnh Bình. Cuối ngôi làng là dòng sông, bên này chợ sinh hoạt ồn ào náo nhiệt, bên kia sông dưới dốc cầu Giồng Ké là ngôi nhà Thờ trang nghiêm yên tĩnh.

Tôi không biết vì sao từ lúc chưa hiểu nhiều nhưng tôi thường nhìn về hướng nhà Thờ, đôi khi thấy các Cha mặc áo dòng, chắp tay thong thả đi trong sân nhà thờ, lòng tôn kính và ngưỡng mộ, nhìn các Sơ hiền hậu nhân từ tôi thương tha thiết, tôi thích nghe tiếng chuông nhà Thờ đổ lòng thanh thản theo từng hồi….vang…vang….vọng xa.. xa và chìm dần trong tĩnh lặng…. rồi tưởng tượng một nơi nào đó đẹp thiệt đẹp và bông hoa nở rộ để tiếng chuông ấy đáp xuống …vui… vui…ghê lắm.
 
      Thời gian sau ở đầu làng đi về hướng Chùa Miên có thêm một nhà Thờ nhỏ, vào những mùa Noel, nửa đêm rước đèn từ nhà Thờ lớn đi theo đường lộ đến nhà thờ nhỏ, kiệu hoa, đèn ngôi sao đủ màu rất đẹp, nhộn nhịp, các giáo dân cất tiếng hát vang, tôi cùng con nít trong làng chạy theo hưởng ứng, cũng được phát cho một lồng đèn ngôi sao. Vui và thích thú vô cùng.
Có một năm vì chen chân đi bị sụp ổ gà lọt vào vũng nước đứt quai dép… niềm vui với ngày Hội Lễ làm tôi quên đi cái chân cà nhắc của mình, và nhất là bên cạnh tôi có nhỏ bạn xách dép giùm…. hi hi… Sáng hôm sao nhỏ lén ba má mang tặng tôi đôi guốc màu, mới “cáo cạnh” món quà Noel đầu tiên trong đời của nhỏ bạn tặng tôi.. Mỗi là tên nhỏ, con gái của chú Năm Sua có tiệm tạp hóa khá lớn trong làng.

Trong đời chỉ có được 3 mùa Giáng Sinh hồn nhiên, vui vẻ, rồi chiến tranh đến. Ngày Chúa ra đời tôi chỉ được đứng bên này dòng sông để nghe Thánh ca, xem rước Lễ trong khuôn viên nhà Thờ mà thôi. Năm Mậu Thân thì tuổi thơ tôi cũng mất, ngôi làng cháy ra tro, tôi theo gia đình ra đi và mang theo cả ký ức rời làng Trung Ngãi từ đó.

Sau biến cố 1975, rời Việt Nam đến Úc, niềm ước mơ tuổi thơ đã đưa tôi về với niềm tin Tôn giáo, tôi đến bên Chúa với tất cả lòng tôn kính sâu xa, qua Cha tôi đã được Chúa nâng đỡ chở che, tôi may mắn có các con cũng chọn Chúa làm niềm tin trong cuộc sống. Khi các con còn nhỏ tôi cũng được sống lại tuổi thơ cùng các con trong những mùa Giáng Sinh. Mỗi năm trước Giáng sinh một tuần hầu như các trường Tiểu Học đều tổ chức Christmas Carol, mặc dù rất bận với công việc nhưng tôi luôn luôn lấy ngày bệnh hay nghỉ phép để cùng tham gia với nhà trường, cùng họp sức may những bộ trang phục cho con để cùng trình diễn đêm Lễ Hội Giáng Sinh.


Tôi đã được hạnh phúc tràn đầy của tuổi thơ, được sự thương yêu ủng hộ của Cha Mẹ, những điều cần thiết ấy tôi nghĩ các con tôi cũng rất mong mỏi thiết tha. Các trẻ con rất vui khi tay trong tay cùng cha mẹ đến công viên để dự Lễ, khi các em trình diễn những bài hát hay vở kịch, ánh mắt ngời sáng, nụ cười tươi đang hướng tìm ba mẹ mình, trong sự tự tin và hãnh diện. Đẹp làm sao kỷ niệm tuổi thơ và quý làm sao trong một quốc gia đầy lòng nhân bản và tự do. May mắn thay quê hương thứ hai các con tôi đang hưởng và hướng tới tương lai. Hy vọng trẻ con được mãi mãi hạnh phúc và toại nguyện ước mơ … mơ những gì mà Ông Già Noel sẽ mang đến, cho vào những đôi vớ treo ở lò sưởi hay cửa phòng ngủ của các em.
Từ khi các con lớn lên rời bậc Tiểu Học, tôi không còn tham dự những ngày Christmas Carol nữa. Một thời tuổi thơ của các con cũng qua mau.

Đêm 15/12/2012, cậu em tôi mời các dì đi xem Lễ hội Noel, vì đêm nay con của cậu em trình diễn Violin, chị em tôi háo hức đi, đến công viên là cả rừng người. Nhìn những phụ huynh lăn xăn trang phục cho con, nhìn niềm vui của vợ chồng cậu em, các cháu, tôi nhớ ngày xưa của tôi và của hai con tôi da diết.
Mọi người trải khăn bày thức ăn, ngồi nghe nhạc do các em học sinh các trường trình diễn, cũng có những ca sĩ giúp vui. Ban tổ chức phát tập nhạc cho từng gia đình để cùng nhau hát chung.Đêm tối dần lấp lánh những ánh nến lung linh ...chuyển động theo điệu nhạc đầy công viên.
Năm nay thời đại tân tiến, ông Già Noel không đi xe ngựa mà Ông lái Mô tô, phóng vèo trên đồi cỏ ngoài hàng rào trật tự. Trong rào các em cùng hát đón chào ông, không khí tưng bừng náo nhiệt.

Cuối cùng là màn bắn pháo bông, ban nhạc vẫn tiếp tục chơi nhạc, đèn vụt tắt, trên nền trời tiếng đì đùng vang vọng, pháo hoa rực rỡ, trên nền trời cao từng vòm pháo hoa chụp xuống và phụp tắt, cứ như thế liên tục đủ màu hoà cùng với tiếng la cổ võ của mọi người. Khi tiếng nổ lớn nhất cả vùng trời hoa từ trên không rơi …rơi…lan tỏa ….và sà xuống người xem có thể đưa tay đón… nhưng rồi vụt tắt.. lòng tôi chợt buồn không biết vì sao…

Vì sao?

Vì hình ảnh những pháo hoa rực rỡ, đẹp muôn màu lung linh xinh xắn như 20 em học sinh và 6 cô giáo đã vụt tắt ở bầu trời ở Connecticut hôm qua 14/12/2012. Cùng với hai mẹ con của người gây ra thảm nạn trên. Sao các em không được thưởng thức những tràng pháo hoa bắn ra mà lại những viên đạn oan nghiệt bắn vào các em trong Mùa yêu thương này? Bà Hiệu Trưởng, Phó Hiệu Trưởng các Cô giáo đã hy sinh vì các em, sống cho nghề và chết cũng cho nghề, cao quý thay trách nhiệm và bổn phận của người lương tâm như từ mẫu. Hình ảnh này cứ lẩn quẩn trong tâm trí tôi, nhìn những bậc cha mẹ, các học sinh còn lại, hốt hoảng, kinh hoàng, tuyệt vọng, tôi tự đặt mình vào vị trí họ xót xa và đau đớn.

"Em hãy lắng nghe vạn lời thương tiếc,
Của những người dù mới biết tên em,
Cũng rưng rưng mắt lệ trước ánh đèn,
Lòng héo hắt theo màn đêm trĩu nặng."
(Những Gói Quà Không Được Mở -Trần Văn Lương- Cali)

Biết trách ai đây?
Một tuần trôi qua, sáng nay hình ảnh các em trên trang báo tôi không giấu được giọt nước mắt mình, thực ra tôi không kịp giấu thì đúng hơn, tôi bật khóc..khóc trong nghẹn ngào trước những thực khách ở quán cà phê.

Giờ đây chúng ta phải làm gì?
Tôi chỉ biết nguyện cầu cho thân nhân của các em được tâm an bình, nghị lực vượt qua hoàn cảnh, tinh thần lắng dịụ nỗi thương tâm. Cầu nguyện cho các em ngủ ngon, đừng lo sợ đừng kinh hãi vì bên cạnh các em luôn luôn có 6 người Mẹ nhân từ kề cận, chăm sóc, chở che và ru các em giấc ngủ yên bình, sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Các cô và các em ơi! Đêm nay Chúa sẽ giáng trần, các em hãy thứ tha những tội lỗi cho người đã bắt các em rời xa Cha Mẹ, anh chị em, người thân và bạn bè của các em đi nhé!
Nguyện cầu các cô và các em sẽ không buồn, không cô đơn, không lẻ loi! Đúng vậy, vì có biết bao nhiêu người, hầu như toàn thế giới, đang đồng hành với gia đình các cô và các em, luôn nhớ thương, chờ đón các cô và em về trong đêm Chúa Giáng trần.


      Các cô và các em hãy chấp đôi cánh Thiên Thần trắng trong cùng Chúa Giáng trần, hãy cất tiếng hát thanh thoát, an hòa đến gia đình cùng mọi nhà để Chào Mừng Một Ngày Mới Thương Yêu Thứ Tha Và Vĩnh Cửu.
Xin thắp ngọn nến hồng trong Thánh Lễ đêm nay, ngọn nến ấm áp tình người, tưởng nhớ và nguyện cầu cho những Thiên Thần thương yêu luôn bình an nơi Nước Chúa.
Chúng ta hãy cùng chúc bình an cho nhau!
Amen!

Kim Oanh
Melbourne Mùa Noel 24/12/2012
Nhớ lại vụ thảm sát tại trường Tiểu Học SANDY HOOK ở CONNECTICUT. giết chết 20 Trẻ em và 6 người lớn, ngày 14 Tháng 12 Năm 2012.

Thơ Tranh; Dòng Sông Trăng Đêm Noel


Thơ Bùi Thanh Tiên
Thơ Tranh: Kim Oanh

Những Đêm Giáng - Sinh

1- 
Hay đêm nao ánh sáng ngợp kinh thành
Chân rộn bước trong lòng đời mở hội. (1)


       Tôi hoà vào giòng người đổ xuống khu vực Vương-Cung-Thánh-Đường. Đi để mà đi.Đi một mình. Cô đơn!  Gần triệu con người đi trong đêm Giáng-sinh. Từ khắp ngả Đô-thành tràn về trung tâm thành phố. Người đi như những giòng thác, trên những con đường Hồng-thập-tự, Thống-nhất, Hai-Bà-Trưng, Duy-Tân, Tự-do, Lê-Lợi,Nguyễn-Huệ, và bờ sông...Đến gần 12 giờ đêm, nghe tiếng chuông ngân vang dồn dập đổ hồi, tất cả dồn về khu nhà thờ lớn chuẩn bị lễ nửa đêm. 
      Tôi không phải là giáo dân, nhưng cũng cố chen chân lọt vào, đứng ở một góc tối, xem lễ. Giàn đại phong cầm vang lên nhạc thánh ca, ru hồn tôi vào thế giới thiên thần, nơi ấy tất cả mọi người mọi vật đều thanh khiết, an hoà, thương yêu nhau. Ave Maria, bản nhạc của Schubert mà tôi hằng ưa thích từ lâu và đã có lần thử dạo trên phím vĩ cầm, giéo giắt đưa tôi đến với Đức Bà Maria, như hình ảnh người mẹ hiền của nhân loại. Hồi đó tôi chưa được biết nhiều về Đức Phật Bà Quán-Thế-Âm. Ngày nay, hơn một nửa thế kỷ đã qua, có những 4 hình ảnh bà mẹ đang ngự trong tâm hồn tôi: Mẹ ruột sinh ra tôi, Mẹ hiền Quán-Thế-Âm, Mẹ Maria và Mẹ Việt-Nam.(1). 
      Riêng nói về bà mẹ Việt-Nam, hồi đó tôi đang ở vào cái tuổi vừa ham học vừa ham chơi nên cũng chưa ý thức sâu xa về sự hiện diện của Mẹ. Trong lúc tôi đang mải mê hoà theo giòng người vui hưởng đêm Giáng-sinh, chắc Mẹ Việt-Nam đang vừa vui vừa khóc thầm. Mẹ vui vì khung cảnh yên bình ở những thành phố lớn. Mẹ buồn vì trong cùng thời gian này, ở những vùng hoả tuyến rải rác trên khắp lãnh thổ, thì dân chúng đang phải gánh chịu những tang thương  và đôi cánh mỏng của Nữ-vương Hoà-bình đang âm thầm rỉ máu.


2- 
Rồi tối mai trong Đêm Thánh Vô Cùng
Làm tài xế cho Còm đi dự lễ.
-Anh trở lại hơn hai năm tù ngục
Bọn chúng mình tay đã trắng tay.(2)



       Tôi lái xe cho Nàng đi dự lễ tại nguyện-đường Regina Pacis, trên đường Nguyễn-Thông. Dìu nhau đi trong Đêm Thánh Vô Cùng là một kỷ niệm đẹp tuyệt vời! Hai đứa ngồi vào hàng ghế gần cuối. Cũng nhạc thánh ca ngân vang, cùng tiếng đập nhè nhẹ của tim đã đưa chúng tôi bay trong vòm trời yêu thương, thánh thiện. Chính từ ngôi giáo đường nhỏ bé này và toà nhà trụ sở của một hội-đoàn ở ngay bên kia đường, vào thời gian 3 năm sau biến cố 1975, mà chúng tôi đã có cơ duyên tái ngộ. Trải qua cả một thời gian dài chung dưới mái một ngôi trường cổ kính ở đường Duy-Tân và tại căn phòng khách ở nhà một người bạn trong nhóm học tập, rồi mỗi người một ngả xa nhau gần 3 năm trời_ do cuộc đổi đời khốn khổ_, được gặp nhau trở lại thì giống như 2 kẻ vừa thoát khỏi chết đuối nên đã ước nguyện cùng nhau đi nốt đoạn đường đời gai góc trước mắt. 
      Từ đó, tôi đã có nhiều dịp tháp tùng Nàng đi lễ ở các nhà thờ Kỳ-Đồng, Đồng-Tiến, Bắc-Hà, Ngã Sáu, Huyện-Sĩ, Tân-Định. Khung cảnh Đêm Giáng-sinh ở nơi nào cũng đẹp, nhất là ở Kỳ-Đồng. Những dây đèn giăng mắc từ dưới đất lên đỉnh cao vút của cá giáo đường như đưa chúng tôi bay lên cao mãi tận bàu trời thăm thẳm. Hang đá Bê-lem huyền ảo vô cùng: "Đây hang Bê-lem, nơi Chúa giáng sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá trên máng lừa..." Lời ca ấm áp, ngọt ngào vang lên trong đêm Đông lạnh lẽo như sưởi ấm lòng tôi và người bạn đời trong viễn tượng một gia đình hạnh phúc, dưới sự che chở của đấng Thiêng Liêng.



3- 

Nay còn đâu những Đêm Thánh Vô Cùng
Của một thời đã trôi vào dĩ vãng.(3)


       Tôi và gia đình quây quần trong phòng khách vào nửa đêm lễ Giáng-sinh trên quê hương mới: Hoa-Kỳ. Christmas-tree cao đụng trần nhà lấp lánh hàng trăm ngọn đèn màu. Trên đỉnh ngọn cây, có tượng một thiên thần dương đôi cánh mỏng. Những tấm thiệp sáng bóng treo lủng lẳng trên các nhánh cây. Dưới chân cây xếp đầy những hộp quà bọc trong những giấy hoa sặc sỡ. Ngoài kia tuyết trắng xoá bao chùm ngàn cây nội cỏ. Nhìn qua lớp kính cửa sổ biết bên ngoài chắc trời lạnh lắm, trái với không khí ấm áp của hơi nóng toả ra từ ngọn lửa hồng đang bừng cháy trong lò sưởi và từ hệ thống heat trong nhà. Hình ảnh những đêm Giáng-sinh quá khứ trên quê hương VN dồn dập hiện về. 

      Nơi đây, trên vùng đất mới, nỗi nhớ khôn cùng làm khắc khoải con tim của một kẻ đã phải xa dời Tổ-quốc. Còn đâu khung cảnh những đêm Giáng-sinh cùng hàng triệu người lũ lượt đi trên đường phố Sài-Gòn. Ở đây hiếm có nhà thờ làm lễ đúng nửa đêm, giáo dân thường đi lễ sớm vào buổi tối và trở về nhà dự tiệc Giáng-sinh kéo dài tới quá nửa đêm. Vào thuở vừa vượt qua ngưỡng cửa học sinh/sinh viên,tôi đã cùng nhóm bạn trẻ nam lẫn nữ rong xe chạy trên đường phố trong nửa đêm về sáng, sau khi rời khỏi một bal-party. Thật là thú vị bởi vì khí mát của đêm sắp tàn làm hai vòng tay đan kết nhau hơn để tìm hơi ấm. Về sau, khi đã có gia đình thì người ngồi ghế sau trên xe máy là người bạn trăm năm với một hài nhi bé bỏng xen vào giữa. Có khi chúng tôi đi dự lễ vào nửa đêm, có khi chờ tới xuất lễ buổi sáng. 
      Tôi vẫn luôn luôn đi bên cạnh người bạn đời đển dự thánh lễ tại một trong những nhà thờ quen thuộc. Cuộc sống hàng ngay vô cùng chật vật, nhưng lời ca trầm bổng hay giéo giắt của Silent Night, Ave Maria, Holly Night... vẫn là những sợi dây thiêng liêng giăng ra từ bàn tay của đấng tối cao, ràng buộc một kẻ ngoại đạo, là tôi, với Nàng, vốn là một con chiên sùng tín. Và đêm nay, khung cảnh Đêm Thánh Vô Cùng đã hoàn toàn thay đổi. Kỷ niệm xưa đang ập đển, nhưng rồi cũng phải qua đi. Những hình ảnh đẹp của đêm Giáng-sinh xa xưa hồi sinh trong khoảnh khắc, pha trộn với những hình ảnh tưởng tượng đang diễn ra tại quê nhà. Cả hai, kỷ niệm ngày xưa và hình ảnh quê hương ngày nay, ập đển ngự trị tâm hồn tôi, nhưng rồi cũng phải bay đi để được thay thế bằng hình ảnh đẹp hiện tại đang diễn ra ngay trong căn nhà nho nhỏ, ấm cúng trên đất nước mà tôi đang định cư này. Lòng tôi tràn trề hạnh phúc qua âm hưởng thánh ca phát ra từ máy nhạc và trong khung cảnh nồng nàn, ấm cúng của một mái ấm gia đình: 

           Vòng tay ôm chặt người thân,
           đêm nay là những Thiên Thần trong tôi. 
           Ôi sao hạnh phúc tuyệt vời,
           ước mong ấp ủ cả đời yêu thương ! (3)

 * Chú thích.
Trích từ Thơ/Tuỳ bút của HồngNguyên&NL: 
(1)-Mộng Đẹp Mùa Hoa,58+Chuyện kể về 4 bà mẹ,2012 ,
 (2)-Tuân lệnh,78+Gặp lại Anh,77 ,  (3-)Giáng-sinh hải ngoại, 2012 


ChinhNguyen/H.N.T./H.N.    
GA/USA   Dec/2012-13

Từ Thức, Ngày Về


Sáng nay soi mặt trong dòng nước,
Râu tóc bơ phờ chẳng giống ai,
Có phải ta từ bao năm trước,
Từ Thức trở về từ Thiên Thai !?!

Ba năm lạc lối Đào Nguyên,
Trần gian trở bước không quên đường về.
Phải đây là ngọn tiểu khê,
Phải đây dấu vết cây lê trước nhà ?
Phải đây vườn rau, vườn cà,
Phải đây ao cá sau nhà rửa chân ?
Phải đây bếp lửa ấm nồng,
Phải đây gương lược, chăn giường buồng khuê,
Phải đây xiêm áo ủ ê,
Màn che trướng rũ bốn bề tường loan,
Đâu rồi ngừời ngọc đoan trang,
Đâu rồi cha mẹ, anh em, xa gần,
Bà con lối xóm, người thân,
Sao giờ vắng lạnh, âm thầm nơi nơi !!!

" Rằng thưa : đã trăm năm rồi,
Truyền rằng cụ Tổ mấy đời ngày xưa,
Một hôm lạc bước tình cờ,
Ra đi, đi mãi không về đã lâu,
Cháu con tứ tán còn đâu ?
Hỏi rằng Ông ở nơi đâu đến tìm ???"

Ta là... chẳng lẽ ta là...
Là ai ? ai biết bây giờ là ai
Từ Thức - Đào Nguyên - Thiên Thai
Là mộng ? là thực ? là ai ? ai là !?!

Nam Chi

NY 2013

Vùi Chôn Cuộc Tình



Chạnh buồn đọc lại thơ người
Bao lời dịu ngọt êm đưa thuở nào
Chìm trong sóng cuộn mưa gào
Tình ta vẫn mãi bên nhau trọn đời

Êm trao bằng tiếng ru hời
Vỗ về giấc mộng thắm khơi ân tình
Những mong tình của chúng mình
Đừng bao giờ tắt lịm tình đôi ta

Cuộc đời chìm nổi phong ba
Sắt son nguyện giữ tình ta vẹn toàn
Dù cho cuộc sống mỏi mòn
Thân tàn đời úa mãi hoài trong nhau

Bây giờ tình đã xanh xao
Khi lòng người sớm hư hao đổi dời
Ái ân thuở ấy bây giờ
Chỉ còn lại nỗi hững hờ xót xa

Còn đâu tình lỡ phôi pha
Lặng chìm theo gió trôi xa cuối trời
Đành thôi góp nhặt tình rơi
Gom làm kỷ niệm vùi chôn cuộc tình.
12/2013
Thiên Thu

Giáng Sinh An Lành



Líu lo chim hót trên cành
Giáng Sinh đâu cũng  an lành tình thương
Gái trai muôn thuở yêu đương
Hoan ca hạnh phúc quê hương thanh bình

Giáng Sinh ta chúc muôn phương
Cùng nhau chia sẻ tình thương dắt dìu
Đêm đông bên ánh lửa khêu
Rượu nồng tình ấm thương yêu tràn đầy


Lục Lạc

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

Thơ Tranh: Tháng 12 M Bỗng Dưng Xa Lạ




Thơ: Khiếu Long
Thơ Tranh: Suối Dâu

Giáng Sinh Trung Phần


Năm này nét giống những năm qua
Cả không gian lạnh nắng vàng pha
Trăng già lặng đỉnh đầu non Việt
Quê hương còn khổ miệt Trường Sơn

Nước dâng cao từng cơn sóng dữ
Mây đen trời sấm chớp chữ tang
Dìm dân Nam chôn giấc thiên đàng
Thoi thóp thở mơ màng Chúa chuộc

Giáng Sinh ơi ! Vào cuộc cứu đời
Khua chuông mới động trời Nam cũ
Lũ lượt về hạnh phúc mang theo
Chút hơi Chúa lời xưa gieo mộng

Đêm nay mấy....lang thang trống vắng
Đợi Chúa về nghe đắng tâm cang
Phương trời Tây chắc Chúa rộn ràng
Quên cứu chuộc dân Nam cùn khổ

Còn chỗ nào thay Giáng Sinh sau!

Lê Kim Hiệp
4-12-2010


Đêm Này Nhớ Đêm Xưa


Một chút gió về đêm thật lạnh
Mắt buồn vời vợi hướng trời xa
Sài Gòn ai hiểu lòng cô quạnh
Của một người đi vẫn nhớ nhà..!

Đêm nay đường phố đèn hanh sáng
Xanh đỏ đủ màu trông thật xinh
Dân chúng hân hoan mừng ngày Chúa
Giáng xuống trần gian ướp mộng lành…

Riêng ta lòng vẫn hoài năm cũ
Em của Sài Gòn, em năm xưa
Đêm Noel làm sao không nhớ
Em bên ta- Tình đủ ấm chưa ?!

Honda lạng lách theo đường phố
Lê Lợi đây và Tự Do đây
Khu giáo đường bên nhà bưu điện
Đông đặc người đi khói quyện bay

Ôm sát vòng eo, tay búp măng
Ta nghe máu ngược, nhịp tim tràn
Thoảng hương thơm tóc em ve vuốt
Chúa sáng danh- Tình ta sáng trăng!!

Tay nắm bàn tay mát tuổi xuân
Lưng anh em tựa ấm toàn thân
Phố phường đâu chỉ riêng hai đứa
Những cặp tình nhân đứng rất gần…

Đêm nay cũng lại đêm mừng Chúa
Cảnh cũ, người xưa nhớ buốt lòng
Cô bé mắt nâu thời đi học
Bây giờ đò lỡ đã sang sông…

Đêm đông xứ người trời buốt giá
Phố phường giăng mắc lắm đèn hoa
Ta bước đi- Tâm lòng xa lạ
Em có còn không dáng thướt tha…

Thy Lan Thảo



Vườn Nhãn Xưa


Ta về mắc võng trong vườn nhãn,
Chạnh nhớ những ngày tuổi ấu thơ,
Gần ba mươi năm nơi đất khách,
Nhớ hoài tình đẹp tuổi mong chờ.

Có ai sống giữa thời ly loạn
Không có một lần lỗi hẹn nhau?
Ta đi giữa chiến trường bom đạn,
Em trong khung cửa ngẩn ngơ sầu..

Triền miên khói lửa nơi tiền tuyến,
Mang cả nỗi niềm nhớ hậu phương,
Yêu nhau chỉ biết tình sao đẹp,
Nào biết tương lai lắm đoạn trường.

Ta về cưới vội người yêu dấu,
Từ đó em làm chinh phụ buồn,
Em ơi! Ta quyết dâng xương máu,
Xả thân nầy bảo vệ quê hương.

Trăng soi thềm vắng ngày ly biệt,
Cuối tháng Tư buồn chia cách nhau,
Ðâu biết lần đi là vĩnh quyết,
Em giữa trùng vây của khổ đau.

Ta về mắc võng trong vườn nhãn
Nắng ở trên cao soi lá cành,
Trời xanh bát ngát  và mây trắng,
Nhớ quá ! Mà thôi! Dạ cũng đành!

Vĩnh Trinh

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Thơ Diễn Ngâm:Hoài Hương - Thơ Yên Dạ Thảo - Hương Nam Diễn Ngâm




Nhớ cố hương em buồn khắc khoải
Bao lần về lòng mãi còn vương
Nhớ tình ruột thịt yêu thương
Trường xưa bạn cũ năm trường từ ly

Em nhớ quá mùa thi trưa nắng
Tiếng ve sầu xa vắng nhớ nhung
Nhớ người, nhớ cảnh… khôn cùng
Nhớ từng kỷ niệm đã chung vui buồn

Em lại nhớ Sài gòn phố thị
Cảnh về đêm xa xí phù hoa
Người mua kẻ bán trước nhà
Dập dìu xe cộ ngày qua lại ngày

Và em nhớ sớm mai mưa hạ
Về ghé thăm anh cả miệt vườn
Cơm trưa đạm bạc rau tương
Gạo thô, canh ngọt mướp hương … ấm lòng

Giờ chỉ còn hoài thương niệm nhớ
Quê hương nay cách trở ngàn trùng
Chia nhau một mảnh tình chung
Phương trời viễn xứ… cố hương vọng về



Yên Dạ Thảo

Tuổi Thơ Tôi Theo Thời Gian - Phần 1

      Mấy hôm nay trời mát có hơi ngay ngáy lạnh, thói thường tôi hay uống café sáng pha phin tại nhà, ngồi xếp bằng dưới nền, chỉ hút 1 điếu thuốc duy nhất, rồi uống trà, kế châm điếu thuốc duy nhất (thứ hai..v..v..)ôi thôi dặn lòng bỏ thuốc lá, khổ nổi ngón tay cứ nhón điếu thuốc, nên môi phải bập bập…
     Nhà tôi ven sông Long Hồ mặt trước là đường, vì là sông nên ngoài cầu Thiềng Đức, còn có đò sang sông những hai bến, kẻ từ cầu về sông cái (sông Tiền), ngày xưa bến đò gần nhà học sinh sang sông phải trả tiền (5 cắc), còn đò cận sông cái sang chợ học sinh đi không phải trả tiền.


     Tôi ở gần bến đò nhỏ, thuở trước do ông Tư lường chèo, là chiếc tam-bản, ông vốn người khách trú, vợ Việt rặc, từ Tam Bình ,chèo về chợ Vĩnh Long, trọn gia đình sống trên chiếc ghe lường nhỏ, mui là mái lá nẹp tre, đậu tạm nơi đất gia đình bác Sáu Minh, bác Sáu thương tình, cho tạm trú trên đất nhà rồi hành nghề đưa đò ngang nuôi trọn một vợ bảy con. Khách sang sông thường là xóm riềng quen thân, trong số đó có tui, nên khách sang sông cùng ông lái đò chuyện trò rôm rả cho đến khi cập bến bên kia, khách trở về cũng vậy. Ngày trước mùa nước nổi, sông chảy xiết, khách đông, thuyền nhích từng chút một, do vậy trước mũi thuyền có thêm chiếc dầm, ai ngồi phía đầu hoặc kế đó cầm dầm bơi tiếp, nay cũng dòng sông này mùa nước nổi rất cao, mà sông chảy không nhanh, ngẫm nghĩ vỡ lẽ, thì ra lúc xưa không có bờ bao trong vườn ruộng nên khi mùa nước nổi, nước tràn lên ruông đồng, thành thử sông chảy xiết, ngày nay bờ bao cũng là đường giao thông nên nước dù lên vẫn êm ả, tà tà mà trôi không việc gì phài vội!!!

     Hồi bác đưa đò đến mãi sau nầy, tôi chưa lần nào sang sông bằng thuyền mới cả, cứ chiếc cũ kéo lên bờ, thì chiếc cũ khác được đấp vá kéo xuống sông làm nhiệm vụ tiếp, đến cặp chèo cũng vậy, khuyết mòn sâu rồi gãy, bác cưa chấp nối lại, nơi mối nối được gia cố thêm miếng nhôm quấn vòng, đóng đinh chằn chịt, quay chèo bên này là dây, bên kia là mảnh lưới chày rách ai đó quăng bỏ, lây lất nuôi gia đình bốn mùa lênh đênh mãi
     Bác thường nói với tôi, khi tôi đủ lớn, giọng lơ lớ (bác chờ ăn đám cưới của cháu với cháu Mẫn rồi bác mới về Tàu), Mẫn là con lớn của bác Sáu Minh, sau 75 một thời gian, Mẫn định cư ở Úc cùng hai đứa em là, Nguyệt, Bé Năm, Mẫn lập gia đình với người bạn đời Philippine tại Úc, còn tôi sau khi nội tôi mất được 5 năm tôi cũng tự lập gia đình, thành thử bác Tư không thể ăn đám cưới được đứa nào cả, thời gian sau đó bác cũng thôi chèo đò để yên giấc ngàn thu, còn lại trong tôi lời hứa xưa cùng tất cả tình thương mà bác đã bỏ lại.

       Hồi trước, sang sông lên đò, bên phải là những chiếc xe nấu nhựa đường, không biết có từ đời nào nằm im lìm sét đỏ, lở từng mảng, bánh xe sắt lún sâu xuống đất khoảng nửa bánh, bên trái cận đường Tống Phước Hiệp, là cây đa rất to, có lẽ to nhất Vĩnh Long thời đó, chứng kiến biết bao thế hệ nhân tài, nhân đức được đào tạo từ trường Nguyễn Thông, tuy không phải vùng đất của bốn mùa, nhưng cứ cuối thu lá úa rụng từng đám xuống đường, trải thảm cho khách bộ hành cho học sinh đến trường thong thả bước. Đâu khoảng mười tuổi, từ nhà, tôi hay ngắm cây đa bên kia sông trong mưa giông qua khung cửa khép hờ sau nhà, phía tàng cao, có một cành đưa ra xa bên ngoài, trên đó có hai nhánh nhỏ hướng thẳng lên cao, một cao phía trước, một thấp hơn phía sau, nhánh nầy chuyển động lên xuống, tôi cảm nhận cành cao phía trước là bà Nội tôi, còn cành nhỏ phía sau là tôi, hai bà cháu cùng cỡi ngựa, chở tôi ra cuộc đời. Bởi nhà tôi lúc đó chỉ có hai bà cháu, bà nuôi tôi từ ấu thơ đến ngày nay bởi cha mẹ ly cách từ khi tôi khoảng ba tuổi, mà bà lại là bà nội nuôi, bà nội ruột mất hồi tôi chưa sanh ra, thuở nhỏ tôi ương yếu lắm, khoảng bảy tuổi, tôi đau ban bạch (thương hàn), nằm liệt cả năm, hết bác sĩ Long (Vĩnh Long lúc đó dường như chỉ có bác sĩ Long) đến thuốc bắc, không khỏi nội chở tôi sang xã Mỹ Thiện trên đường đi Sài Gòn, từ đường lộ đến nơi trị bệnh là đường đất khá xa, nội dẫn tôi đi bộ được đoạn ngắn, tôi mệt, nội thương cõng tôi trên lưng đi tiếp, nội lúc đó cũng khá lớn tuổi. Cả năm bà cháu ăn ở nhà người trị bệnh cho tôi, mãi cận Tết, bà mới đưa tôi về nhà trị bệnh tiếp, tôi mạnh rồi bệnh trở lại (tiếng xưa gọi là trúng lại), năm đó là đầu năm học lớp tư, nghỉ liên tiếp có hơn ba năm, mới đi học lại, cũng lớp tư.Ôi công ơn dưỡng dục biết bao nhiêu mà kể, tôi thương nội tôi lắm, bà còn hơn có lẽ nội ruột của tôi, vừa là cha, vừa là mẹ chăm, cưng chìu tôi từng chút một, bởi nội tôi không có con, nhận ba tôi là con, ôi nuôi cha, rồi nuôi con của cha, với tình thương bao la, vừa bảo bọc vừa che chở v…v..với bao đau thương buồn bã, nội tôi bỏ tôi lại một mình vào năm 78, bởi lúc nầy tôi chưa lập gia đình


     Thỉnh thoảng tôi vẫn đi học bằng đò lớn (đò phìa chợ ), bến đò nầy còn gọi là đò bến đá, bởi nơi đây có trại hòm, và chứa đá làm bia mộ. Còn nhớ ông thợ đục chữ trên bia già lắm vào lúc đó, tóc bạc trắng, mắt kiếng già được gắn chặt trên mắt nhờ sợi thun khoanh vòng sau đầu, ông ở trần đưa làn da nhăn nhúm bọc không kín những chiếc bẹ sườn nhô cao lên trong mỗi cử động đục của ông, người khom sát với chiếc đục nhọn mũi, to, đầu đục sắt cuốn lại tròn phủ xuống thân tay cầm. Cạnh bên là ông thợ cưa đang xẻ gỗ, chiếc cưa rất to, ông ở trần, mặc chiếc quần đen vải ta cắt lửng, ông đứng trên thân cây súc (gỗ to nguyên thân tròn), kéo lên đẩy xuống với chiếc cưa to hết khổ, ông này cũng ốm, khá tuổi, xả ván theo yêu cầu của chủ trại
     Chiếc đò này to dầy, do ông già câm chèo, nói là chèo, chứ thực ra ông đứng ở mũi đò, lưng hướng ra sông, nại lắc qua lắc lại bằng một chiếc chèo to dài, chân ông lúc đó có lẽ do dị tật, bước lên hoặc xuống đò đều thẳng cứng, ông có một bà vợ làm bạn cũng câm như ông, đôi vợ chồng tật nguyền này vẫn ngày ngày đưa khách sang sông, trong đó có tôi, viết những dòng này, xin nguyện cầu cho ông bà được bình yên nơi cõi thiện lành, nếu có kiếp tái sanh, cầu ông bà cùng những người thiện tâm được an lạc, hạnh phúc.

Trương Văn Phú


Tuổi Thơ Tôi Theo Thời Gian - Phần 2


     Chung quanh Vĩnh Long rất nhiều cầu, kể ra nghen, từ trong nội ô. Cầu Tân Hữu thì đi Cần Thơ, cầu Tân Bình đi Sài Gòn hướng bắc, cầu Vòng, cầu Ông Me đi Trà Vinh, trên Kinh Cụt ranh phường một, chiều dài kinh khoảng năm trăm thước, có đến bốn cầu, từ ngoài mé sông cái trở vô, cầu Cái Cá, cầu Lộ, cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi heo, phía đông nam có cầu Khưu Văn Ba (nay là cầu Phạm Thái Bường), đi đến nữa là cầu Ông Me, để di chuyển qua phà Đình Khao, lại qua cầu Chợ Cua, phường một đến phường bốn qua cầu Lầu, qua phường năm có cầu Thiềng Đức, ngày xưa còn gọi là cầu sắt.

 
     Nghe nội tôi kể lại, khi đó tôi nhỏ xíu nhưng vẫn còn nhớ, (cây cầu sắt yếu dữ lắm, con chó chạy mà cầu rung rinh, phải mời bác vật LANG đến xem xét, ổng cầm baton vừa đi qua cầu vừa dộng baton xuống cầu rồi bảo, mấy ông yên tâm cầu không sập đâu mà sợ ), cầu không sao, cầu già rồi lung lơ chút đỉnh, đâu có mời khách bộ hành tắm táp ngang xương mà phải sợ, sau đó gia cố thêm ống thép, rồi cầu làm nhiệm vụ tiếp, nếu tôi nhớ không lầm, bề ngang khoảng năm thước, không có đường dành cho người đi bộ, ván cầu đóng khá thưa, cách nhau khoảng năm sáu phân, không biết các bạn nhỏ trang lứa của tôi ra sao, chứ tôi ớn qua cầu, đi mà nhìn xuống sông nước chảy hun hút phía dưới, hãi hùng thấy bà. Khà, khà vậy mà vẫn có động lực lớn giục thúc tội sang sông bằng cầu buổi sáng mà không đi đò của bác Tư Lường.
     Qua Tết ta, trước miễu Tống Quốc Công (nay là nhà văn hóa), là khu vực bán dế phục vụ các em thiếu (quần dài) mặc xà lỏn, giành nhau chụm đầu đưa đít ra ngoài đường, lựa dế. Thường thì khoảng năm sáu quầy bán dế, ông, bà bán ngồi chồm hổm, các chiến binh được chứa đựng đủ phương tiện: thùng thiếc cũ (nguyên là thùng chứa dầu lửa hiệu con sò), thùng cây, thau nhôm có nắp đậy, ai mua thì dở ra, việm sành, .v..v..

     Vốn sợ qua cầu, nhưng vì ham dế, bỏ guốc, đi đến bện này cầu, hít hơi (lấy hơi Minh Vương), chạy tốc độ tối đa sang bên kia mua dế, hồi nhỏ đi học mới đi sandal, ở nhà đi guốc, sang chợ đến quầy bán guốc của bà Chín, má vợ của bác Sáu Minh, guốc làm bằng cây vông,vì loại cây này khi khô rất nhẹ, guốc đàn ông con trai thì thuôn dài, đế thấp, guốc các bà, các cô có eo giữa thân, gót cao nhưng cũng vừa vừa, vật dụng đở chân của các bà đa dạng phong phú nhiều, guốc vông, guốc sơn, guốc sơn mài, còn quai thì đủ kiểu.
     Đến quầy lựa cho vừa chân, đóng quay tại đó, bà Chín vốn đầy đặn mặt rất phúc hậu, luôn tươi cười khi khách đến mua, dù quen hay lạ, phải công nhận bà Chín cười rất phúc (không biết hai cô Phượng – Oanh có còn nhớ hay không ), riêng bác Sáu Minh gái mãi sau nầy vẫn đi guốc vông, dù bà Chín mất đã lâu mãi đến khi, bác bị tai nạn gần đây mới không còn đi guốc nữa (đi dép lào, nhưng nằm nhiều hơn đi). 

      Vĩnh long xưa, có hai nơi dành cho các đoàn cải lương, là miều Tống Quốc Công ở phường một và chùa Bà Minh Hương ở phường năm, còn rạp Lê Thanh dùng chiếu phim, tôi nhớ có lần đoàn hát cải lương Hoa Sen, đoàn này là cải lương pha hát bong (chiếu phim), hồi xưa gọi là đoàn cắt bụp, vì có bắn súng. Lần này tôi được tham gia xem nhờ bà nội dẫn theo đi cùng bác Sáu Minh gái. Nội tôi mặc áo dài thâm, còn bác Sáu gái áo dài trắng nhạt, rất lịch sự, đi xe lôi đạp (còn gọi là xe kéo), lên dốc cầu sắt ông tài xế gò lưng kéo lên, đến khi xuống dốc ển lưng ghì lại, ở chợ rất đông xe lôi đạp, nếu tôi nhớ không lầm thì chỉ khoảng hai chiếc xe lôi có gắn máy kéo, đầu kéo là chiếc xe mobilet (mô bi lết)loại bình xăng vuông, đời đầu. Khi có khách tài xế kéo xe chạy lấy trớn, rồi nhảy lên xe rất nhanh gọn, đạp lia lịa, rồ ga máy kêu xẹt xẹt bằng bằng khói xanh um một góc đường.

     Từ cầu sắt (Thiềng Đức) phía phường năm của tôi, tuy đoạn đường ngắn, đường cùn, có ba rạch ba cầu, gồm từ cầu sắt quẹo trái, rạch cầu cây Mít (nơi đầu cầu khi xưa có cây mít bự), rạch cầu Đào, đến là cầu Dài, tiếp tục đi tới nữa là cùng đường, bên trái, đường dẫn sang chợ Vĩnh Long qua đò Bến Đá, bên phải là cầu Dài, cầu này đáng lẽ phải ghi vào tự điễn guiness phường mới được, bởi nó đúng nghĩa, đầy nghĩa (cầu kì), là cầu ván, đủ thứ ván tạp, dài vắn khác nhau, ngang khoảng sáu bảy tấc, nằm trên từng khoảng cọc ngắn, cao độ năm tấc, còn nhà dân thì thấp dưới cầu, chạy ngoằng ngoèo tùy theo nhà cư dân, rất dài cập theo bờ sông cái, giờ thì không còn, bởi bờ sông lở sâu, nay thành bờ kè rất khang trang.



     Để coi, trong khoảng đường Lê Minh Thiệp (là tên ông giáo) nay là đường (Nguyễn Chí Thanh), có hai chùa tàu, chùa Ông và chùa Bà, riêng chùa Bà ,thờ bà Thiên Hậu, chia không gian thờ và hát xướng làm hai khu riêng biệt, (cũng tương tự như miếu Tống Quốc Công), hướng cầu xuống tí, ngày xưa lắm là đình, tọa lạc bên cạnh rạch cầu cây Mít, đình này nằm bên trái cây dương rất to cao, nơi đây dùng làm chổ hội họp của cấp Hương, Bộ làng Thiềng Đức hồi xưa. Sau đó, khoảng thập niên bốn mươi, năm mươi, kèm thêm chức năng giáo dục, lớp nhì và lớp nhất ,trước khi sang tường tỉnh học. Còn lớp năm, tư ,ba thì học trường fostille (còn có tên gọi là trường thủy binh), một cấp mà hai nơi dạy , cách nhau khoảng hai trăm thước trên cùng một đường, kể được hai chùa Tàu, một đình, còn chùa Phật cũng rất cổ kính, tên gọi chùa Long Thiền, (nay đang tân trang lại theo trào lưu, nên cũng nhạt nhòa ít nhiều nét cổ kính xưa), sau năm bảy lăm,thêm chùa Ni, do ni lập, tên Thanh Châu, cạnh chùa Long Thiền, là nhà thờ họ đạoThiềng Đức, do cha Lục hoạt đông mà nên, lúc đầu nhà thờ hơi nhỏ, nay chuẩn bị nới rộng và cất xứng đáng với sinh hoạt trong họ đạo, cùng giáo dân.

     Đề cập đến trường học mà không kể hết các trường thì quả tình có lỗi. Vĩnh Long xưa, có lẽ dân địa phương trọng học vấn lắm, cấp trung học công là trường Nguyễn Thông, cấp tư thục có ba trường, bao gồm trường Lam Sơn, trường Long Hồ, trường Nguyễn Trường Tộ, Lam Sơn rã gánh trước, rồi đến Long Hồ, nay vẫn có tên trường Nguyễn Trường Tộ, đã dời địa điểm khác nghe đâu là trường điểm, là trung học công lập. Nơi ba ngôi trường trung học tư thục đã từng đào tạo, nay thành nơi kinh doanh, dân cư, công cộng. Sau nầy khi trường Nguyễn Thông đổi tên Tống phước Hiệp, thì Nguyễn Thông là tên trường bán công, tọa lạc cạnh di tích cây đa cửa Hữu, cũng trong phường một còn có hai trường tiểu học Nam và Nữ riêng biệt.



     Về hướng đi Cần Thơ, từ khoảng ngã ba Cần Thơ lên cầu Tân Hữu, khi xưa dành chứa rác, thuở này tôi còn lóc cóc, theo mấy bà chị lớn lội bộ đến gần cầu Tân Hữu xuống ruộng khô cùng ngồi túm tụm, mua dưa gang ăn tại chỗ với đường chảy, dưới ngọn đèn dầu lửa bánh ú, được kéo tim đèn cao cả phân, khói đèn mù mịt, bởi có nhiều người bàn, nhiều tốp anh chị lớn kéo nhau lên đây, vui chuyện làm quen nhau giữa trai gái là chánh, ăn là phụ, mấy bà chị trong xóm tôi, cứ chạng vạng tối, mùa dưa gang, rũ nhau trẫy hội mong có anh nào để mắt đến mình, bởi các bà đang độ, mà ngộ chẳng có ai chú ý cả, đi về quân số như y, không dư thiếu, để được mừng. Đâu độ khoảng những năm 56 -57, chính quyền lúc đó thổi sình (xáng thổi) hai bên bờ lộ, mở rộng khu dân cư, cùng lúc nầy có thêm hai trường trên vùng xáng thổi: trường trung học Kỹ Thuật và trường Sư Phạm Vĩnh Long, rồi một sân banh kế bên được thành lập, dân cư tập trung đông đúc, dần dần trở nên khu kinh tế ổn định.

     Nói đến trường lớp, là nhớ liền thầy cộ bạn học, còn nhớ khi sang sông đi học bằng đò, do ông câm chèo đưa qua bến chợ cá ở Vĩnh Long, tôi đi dọc theo con đường có nhà của Tiến ở (ty Ngân khố), trước mặt tôi, hai chị lớp trên đang thong thả ôm cặp bước đều, chị đang đi phía trong bỗng bất chợt nhảy nhanh tới trước vừa  la lớn:
-“Á” với vẻ hốt hoảng hoang mang, chị bạn đi cạnh hỏi
- Gì vậy?
- Tao tưởng c.. ,thì ra hai bà này mải mê chuyện nên quên trên đường đi học rải rác, từng mảng đất sét lớn nhỏ do bánh xe bỏ dọc đường học trò đi.
     Trong năm đệ tứ,Tuấn ngồi dãy đầu bàn thứ ba, còn tên ngồi kế Tuấn tôi quên (có lẽ Tuấn còn nhớ), tôi thì ngồi đầu bàn thứ tư dưới Tuấn, cạnh trong là tên Đô, tên này khỉ khọt thuộc sư phụ tôi, ngồi bàn học, quần hùng khoanh tay trên bàn như nhau, thầy quay lưng để viết bài, Đô với tay khều Tuấn, thầy quay xuống, nó khoanh tay gọn hơ trở lại, thầy vừa xây lưng, thằng Đô khều mạnh hơn, Tuấn làm tỉnh, lần này tên Đô thò tay khỉ xô mạnh tới trước, mắt kiếng của Tuấn trể xuống, tên này tức mình quá, quay ra sau (kênh)một phát,vậy là bình yên trở lại, thằng Đô mới thôi cái trò giởn nhây.

     Cũng thằng Đô nữa, số là khi vào học, các bạn kẹp tóc thường úp nón lá ở đầu bàn (giờ thì không còn thấy hình ảnh nón lá nghiêng nghiêng mái tóc với một tay vịn kèm, tay kia ôm cặp, khi đến trường hay khi tan học), không biết ở đâu mà nó có cọng thun khoanh, ông nội xé giấy tập làm (bì) vói bắn vào vào nón lá kêu cái bụp, kết quả, nón có một lổ thủng, các bạn đang tập trung học có ai chú ý đâu mà biết, nó tiếp tục phát thứ hai, đến lần thứ ba, phía bàn sau có sự tham gia của hai ba đứa nữa, lần này chúng nó bắn hăng quá, tôi nghe, bùm bụp liên tu, tôi vốn nhạy cười đang vén mồm toét ra (vô duyên), thầy quay xuống, miệng tôi trở về vị trí cũ nhanh chóng, các bạn gái chắc là phát giác ra, lục tục mang nón mang vào trong, không biết đợt pháo nầy, hai chị Trân, Huê, hai bạn Điệp, Huỳnh Hoa có dính đạn không nữa, chờ khi gặp lại nhớ hỏi chỉ Trân xem mới được.

     Trên đường tan học về nhà, Độ chung đường chung hẻm với Huỳnh Hoa, tên này thương thầm Huỳnh Hoa, nên lén quăng trái tim mình vào cặp bạn, còn HH thì chứa tim của bạn Bảnh cùng lớp, ngồi sau cách chúng tôi vài bàn, nên khi trái tim Đô quăng vào, nhưng dội ra rồi rớt đâu đó dọc đường hồi nào cũng không rõ. Học được nửa năm đệ tứ Đô nghỉ học, bỏ lớp, bỏ bạn,bỏ trường nhưng không bỏ được thương nhớ mang mãi theo đường phiêu bạt trong chiến tranh.
     Lần nọ tôi gặp lại Đô ở Rạch Giá, hai đứa mừng lắm, rủ nhau đi dạo, rồi nhậu la cà trên những kệ của ai đó dọc đường đi, có cả Tâm đen cũng bạn học cũ nhưng không chơi chung thuở còn học cùng nhậu. Cách khoảng năm tôi cũng gặp lại nó, hai đúa uống rượu nhắc chuyện xưa, toàn chuyện thuở còn đi học, vui có, buồn có,ưu tư cũng có đủ cả, chuyện mãi đến khoảng nửa đêm, tôi về chỗ ở bên trong bưu điện Rạch Giá,nơi uống gần bãi biển khá gần nơi tôi ở, thằng Đô không cho tôi về một mình, nó đưa tôi về, tôi thấy tội khi nó lang thang chập choạng một mình khi trở về, tôi lại đưa nó về, rồi nó cũng cùng tâm trạng như tôi, tiễn tôi, sau đó cùng chia tay nửa đường, con đường khuya mờ ảo với ánh điện vàng vọt hắt từ đèn đường bên kia sông. Sau đó tôi không còn gặp lại nó nữa.

     Sau bảy lăm, cũng rất tình cờ, tôi gặp lại nó ở quê nhà Vĩnh Long, với đôi mắt đã bỏ lại ở An Lộc, thằng này hay quên quá, hết bỏ trái tim, rồi bỏ đôi mắt. Gặp mặt nhau, ngồi trên sạp cây trước nhà má nó, một xị rượu, một dĩa mồi, mà khi ăn uống phải mò, tôi nó ngậm ngùi kể chuyện xưa, rồi nó mất hồi nào tôi cũng chẳng hay biết, tôi mãi bươi tìm sinh kế, lăn lóc hết thành thị đến thôn quê. Nhưng câu hát nối theo lời tôi hát, tôi vẫn không quên, giờ hình hài nó đã tan rã có lẽ lâu lắm rồi.
     Tôi hát nho nhỏ ở buổi uống rượu cuối cùng, (em tan trường về đường mưa nho nhỏ, em tan trường về đường mưa nho nhỏ ) nó ca nối theo, đúng hơn nó đọc …em tan trường về, anh theo tò tò, theo để hửi đ.....sau lời đọc là nụ cười buồn phảng phất nét bao dung cùng đôi mắt mù.

Trương văn Phú